Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Lạ: Vạn Kiếp Yêu Em
-
Chương 41: Đêm khuya đột nhập mộ cổ
Bì Bì tự thừa nhận mình học lịch sử dở tệ. Cô chưa bao giờ nghe nhắc đến mộ của Yên Chiêu Vương, cũng chưa từng nghe đến cái tên Yên Chiêu Vương. Thế nên, nghe Tu Nhàn nói xong, chỉ biết dùng vẻ mặt ngốc nghếch nhìn Tu Nhàn, chờ anh ta giải thích.
Thấy cô không có phản ứng, Tu Nhàn thở dài một hơi, rồi nói tiếp:
- Vậy chí ít thì cô cũng đã từng nghe nói về bài thơ này chứ:
Ngưòi trước chẳng thấy ai
Người sau thì chưa thấy
Gẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy.
[Bản dịch Tương Như]
Dĩ nhiên là nghe rồi! Bì Bì suýt nữa đã vui mừng nhảy cẩng lên
- Đây chẳng phải là bài “Bài ca lúc lên U Châu đài” của Trần Tử Ngang sao? Học sinh tiểu học đứa nào chẳng biết.
- U Châu Đài còn được gọi là Hoàng Kim đài. Yên Chiêu Vương vì chiêu nạp hiền sĩ mà dựng lên đài Hoàng Kim, nhờ thế mới thu hút được những bậc hiền tài và tướng lĩnh như Tô Tần và Nhạc Nghị, khiến cho nước Yến chuyển yếu thành mạnh. - Tu Nhàn nói, - Tục ngữ có câu, “no ấm nhớ dâm dục, giàu sang muốn trường sinh”. Yên Chiêu Vương[1] cũng giống Tề Uy Vương[2] và Tề Tuyên Vương[3], đều là những bậc quốc vương sùng đạo bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Mộ của Yên Chiêu Vương là cấm địa của tộc Hồ chúng tôi.
[1]Yên Chiêu Vương là vị vua thứ 39 hay 40 của nước Yên, chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc
[2]Tề Uy Vương: tên thật là Điền Nhân Tề, là vị vua thứ 3 hay thứ 4 của Điền Tề, chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
[3] Tề Tuyên Vương: tên thật là Điền Tích Cương, là vị vua thứ 5 của Điền Tề, chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
- Cấm địa ư? Tại sao thế?
- Năm tại vị thứ hai của Yên Chiêu Vương, có một Hải nhân cưỡi thuyền Hà[4] đến bái kiến ông ấy, tiến cống rất nhiều báu vậy: Yên Chiêu Vương rất yêu thích chúng, khi từ trần đã đem những báu vật này chôn chung trong mộ của mình. Bên ngoài lăng mộ có lập một trụ hoa biểu[5], chỉ dùng gỗ Hằng Xuân để chế nên. Hằng Xuân là một loại cây kỳ lạ ở hải ngoại, lá như hoa sen, hương thơm như quế, hoa nở không tàn, bốn mùa thay sắc. Loài cây này sống được cả nghìn năm, nhưng gặp lửa lập tức bén cháy, dùng lửa đó có thể soi ra yêu hình.
[4] Hải nhân: người sống trên biển hoặc sống ngoài đảo. Thuyền Hà: thuyền được trang trí lộng lẫy.
[5] Hoa biểu: trụ đá chạm khắc hoa văn của Trung Quốc – nhưng ở đây dùng gỗ.
- Tôi hiểu rồi! - Bì Bì nói: Chỉ cần tôi có thể tìm được loại cây thần này, mang nó về đây, thì sẽ tiêu diệt được Triệu Tùng, đúng không?
- Cô đừng quên, Hạ Lan và tôi cũng là Hồ ly, đều sợ loại cây thần này.
- Ồ! Thế nhưng, trên mặt đất có biết bao nhiêu là trụ gỗ như vậy, sao tôi biết được trụ nào là hoa biểu chứ?
- Đó là một câu hỏi hay, cách giải quyết vô cùng đơn giản. - Anh ta nói, - Tôi biết nó, tôi sẽ cùng đi với cô.
Bì Bì gật đầu:
- Nhưng Hạ Lan phải làm sao? Chỉ còn lại một mình, cơ thể anh ấy vẫn còn yếu, lại không có ai chăm sóc…
- Nếu vết thương của cậu ấy không nặng như thế thì việc ẩn náu rất dễ dàng, vì cậu ấy có thể tự che giấu mùi của mình. Nhưng giờ, máu cậu ấy vẫn không ngừng chảy, mùi máu nồng nặc trong không khí, Triệu Tùng sẽ ngửi thấy được. - Vẻ mặt Tu Nhàn vô cùng kỳ quái,
- Nếu Hạ Lan xảy ra chuyện gì, chẳng những tính mệnh của chính cậu ấy khó giữ nỗi, mà toàn bộ tộc Hồ đều có thể bị diệt theo. Bởi Triệu Tùng, vốn vẫn luôn tức giận vì các hồ tiên chỉ lo tu tiên không lo sinh sản, tạo thành tấm gương xấu cho đàn Hồ ly, đồng thời cũng khiến cho số lượng Hồ ly trong tự nhiên suy giảm trầm trọng. Ông ta không chịu tin một sự thật như thế này: tỷ lệ số Hồ ly tu tiên so với tổng số lượng đàn Hồ ly bao năm qua vẫn luôn không thay đổi. Chẳng qua là khoảng trăm năm gần đây, vì chất lượng môi trường suy giảm, sinh tồn được trong hoang dã là một chuyện vô cùng gian nan, nên tỷ lệ đó mới nhanh chóng bị chênh lệch như vậy. Hiện giờ, gần như Hồ ly nào vừa mới ra đời, cũng đều xem việc tu tiên là mục tiêu hướng tới của mình. Vì thế, Triệu Tùng mới ban lệnh cấm tu tiên. Nhưng bên này, các Hồ ly muốn tu tiên đều được Hạ Lan đồng ý. Vì vậy, ông ta bắt đầu tiến hành một cuộc tước đoạt niên hạn của những Hồ ly tu hành chưa đến một trăm năm trên quy mô lớn, buộc họ phải quay về sống cuộc sống trong tự nhiên. Mâu thuẫn giữa ông ta và Hạ Lan càng lúc càng cao trào, thế nên quyết đấu chỉ là điều sớm muộn.
Bì Bì nghĩ nghĩ rồi đáp:
- Vậy nhóm hồ tiên các anh không thể liên thủ lại để đối phó với ông ấy sao?
Tu Nhàn lắc đầu:
- Tộc Hồ là cộng đồng cực kì phân tán, chúng tôi sống rải rác khắp các nơi, từ các vùng rừng rậm đến các thành phố, sống riêng lẻ hoặc tự tập hợp thành những nhóm riêng, bình thường rất ít liên lạc với nhau. Nếu có chiến tranh hay tranh chấp gì xảy ra thì cũng chẳng liên quan đến chúng tôi. Trước giờ đó luôn là chuyện giữa các thủ lĩnh.
Bì Bì định hỏi thêm, bất ngờ một tia sáng tím lóe lên, hạt châu đang lơ lửng giữa không trung kia bất thình lình bay xuống, biến mất trong miệng Hạ Lan Tĩnh Đình. Cô vẫn đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra, Hạ Lan Tĩnh Đình đột nhiên tỉnh dậy.
Anh hơi nghiêng đầu, nói với Tu Nhàn:
- Có người gõ cửa.
- Phải Triệu Tùng không?
- Hai người ở lại đây đi. - Anh không trả lời câu hỏi của cô, trực tiếp nói, - Để tôi đi xem.
Nói xong, anh bước nhanh về phía chân núi, chớp mắt một cái đã không còn thấy bóng dáng đâu.
Có lẽ là bởi vì “Tắm trăng” đã tiếp cho anh lượng nguyên khí tạm thời, hành động của anh lúc này rất nhanh nhẹn. Bì Bì nhặt cây gậy trên mặt đất lên, nói với về phía còn đường lên núi chìm trong bóng đêm tối mù, u ám trước mặt:
- Hạ Lan, gậy của anh!
Cô vội vàng đuổi theo, bị Tu Nhàn ngăn lại:
- Đừng đi. Nếu cậu ấy đi gặp Triệu Tùng thì không cần gậy dẫn đường, chỉ cần truy lùng theo mùi là được.
Tim Bì Bì đập thình thịch, lo lắng và sốt ruột loạn cả lên:
- Anh ấy có thể có chuyện gì không? Sao anh không đi giúp anh ấy?
Tu Nhàn thản nhiên, nhìn cô đáp:
- Cậu ấy bảo tôi ở lại quan tâm cô.
- Tôi không cần ai quan tâm, nếu anh thực sự lo lắng thì đưa tôi xuống đáy giếng, chỗ đó tuyệt đối an toàn.
- Đến giờ, Triệu Tùng vẫn chưa biết đến sự tồn tại của một người như cô. Nếu không thì cô sẽ gặp phiền phức to đấy.
- Có khi nào hiện giờ họ đang đánh nhau không?
- Không đâu. - Anh ta nói, - Tôi tin là ông ta tới để đàm phán, Tế ti có quy tắc giao tiếp của Tế ti.
Cô ngồi đợi trên đỉnh núi trong tâm trạng bất ổn và lo lắng. Tai vễnh lên nghe ngóng động tĩnh dưới chân núi. Nếu có đánh nhau thật, không thể không có tiếng động nào phát ra.
Lặng lẽ đợi một lúc lâu, cô đưa tay xem đồng hồ, thời gian trôi qua chưa đến mười phút. Thế nhưng, một dự cảm chẳng lành đang khuấy đảo trong lòng cô khiến cô đứng ngồi không yên. Cô đứng lên, đi quanh thành giếng một vòng. Ánh trăng trong trẻo lẳng lặng rơi xuống, gió lành lạnh lùa vào, khung cảnh lần đầu tiên họ ở đáy giếng hiện ra rõ ràng trước mắt.
Khi ấy, trên đầu chỉ có khoảnh trời hình tròn, thưa thớt một vài vì sao lấp lánh. Nhưng ánh trăng cũng êm dịu và nhẹ nhàng như đêm nay.
Xa xa là bóng núi nhạt nhòa hơi hơi tỏa sáng trên nền đèn đêm lung linh của thành phố.
Phía chân trời rực lên môt quầng sáng tím, không phân biệt rõ ranh giới giữa trời và đất, tựa như thời kỳ hỗn độn của thuở Bàn cổ khai thiên lập địa..
Một lát sau, Tu Nhàn cuối cùng cũng nói:
- Chúng ta xuống dưới xem sao, Triệu Tùng đã đi rồi.
Bước chân của Tu Nhàn rất dài, Bì Bì sốt ruột, chạy lúp xúp theo sau.
Họ tìm thấy Hạ Lan Tĩnh Đình trong phòng khách.
Anh vẫn mặc chiếc áo choàng ngủ màu đen bằng lụa trơn loáng, có điều anh đang hút một điếu thuốc.
Trong phòng không bật đèn, nhưng có đốt mấy cây nến cổ xưa rất lớn, khiến cả căn phòng tỏa ra một mùi hương quái dị.
Từ ngày đầu tiên quen anh đến nay, Bì Bì chưa bao giờ trông thấy Hạ Lan Tĩnh Đình hút thuốc. Chỉ là, chiếc áo choàng tơ tằm kia rất hợp với dáng người anh. Mới nhìn, trông anh tựa như một vị hậu duệ cuối cùng của giới quý tộc, vừa ung dung lại vừa chán chường. Điếu thuốc kẹp giữa hai ngón tay anh vẫn đang cháy, nhưng anh thì cúi đầu chìm đắm trong suy tư.
Bì Bì nhẹ nhành bước đến, hỏi:
- Triệu Tùng đã đến?
Anh gật đầu.
- Anh... hai người... không có chuyện gì chứ?
Anh lắc đầu.
Sau đó anh nhìn Tu Nhàn, chỉ về một cái gói vải nhỏ đặt trên sô pha:
- Tôi đã đặt vé máy bay cho hai người. Trong thời gian này, tôi hy vọng cậu đưa Bì Bì đi thật xa, ngao du thăm thú. Đợi sau khi tôi giải quyết xong mọi chuyện với Triệu Tùng, hai người hãy quay về.
Tu Nhàn không nhúc nhích, hỏi:
- Hai người định khi nào kết thúc?
- Ba ngày nữa.
- Ông ta muốn lợi dụng lúc cậu chưa bình phục để ra tay. Cậu không nên đáp ứng yêu cầu của ông ta! - Tu Nhàn nói, - Không bằng để tôi đi gặp ông ta thay cậu, cậu đưa Bì Bì rời khỏi đây.
- Cậu không phải đối thủ của ông ta. Hơn nữa, ai nói tôi bị thương thì không thể giết được ông ta? - Hạ Lan Tĩnh Đình khẩy khẩy tàn thuốc, cười nói, - Tôi tự có cách. Quan trọng là, hai người nhất định phải rời khỏi đây, để tôi không phải vướng bận."
Sắc mặt Tu Nhàn sầm xuống:
- Tôi…
- Hay là tôi nên nói, tôi ra lệnh cho cậu đưa Bì Bì đi khỏi đây. - Hạ Lan Tĩnh Đình cắt đứt lời anh ta, - Tôi đã mua vé máy bay đi Tân Cương vào ngày mai cho hai người, hai người phải đến đó đợi một tháng. Đừng liên lạc với tôi, nếu tôi có chuyện sẽ tự liên lạc với hai người.
Nói xong những lời này, anh đứng lên, đưa tay kéo tay cô:
- Bì Bì.
Anh dẫn cô vào phòng ngủ, ôm cô vào lòng thật sít sao.
Nước mắt cô lặng lẽ rơi, thấm ướt ngực áo anh. Anh vuốt ve gương mặt cô, dịu dàng trêu:
- Cô bé ngốc này, cuối cùng em cũng đã lo lắng cho anh, không còn muốn mưu sát chồng nữa.
Cô không nói gì, chỉ ào vào lòng anh thổn thức.
- Đừng khóc, có phải là sinh ly tử biệt đâu. - Anh nói, - Nhưng mà, có một chuyện quan trọng hơn muốn nhờ cậy em.
Cô ngẩng lên, kinh ngạc nhìn anh.
- Còn nhớ mật mã thẻ ngân hàng không?
Cô gật đầu.
- Đảo ngược nó lại, là một mật mã khác. - Anh lấy trong ngăn tủ trước giường ra một cái chìa khóa nhỏ, - Trong kho ngân hàng của anh có một cái két an toàn, trong đó có một vài thứ quan trọng, có một phần là để lại cho em, phần còn lại thuộc về tộc Hồ.
Anh đặt chiếc chìa khóa vào tay cô:
- Ngộ nhỡ anh có chuyện, tộc Hồ sẽ bầu ra một Hữu tế ti mới. Đến lúc đó, người này sẽ đến tìm em, em phải tự tay giao chiếc chìa khóa này cho người đó, em có thể hứa với anh không?
Người Bì Bì hơi run lên. Nhận lấy chiếc chìa khóa, thận trọng gật đầu:
- Nếu vị Tế ti mới này là Triệu Tùng, em cũng phải đưa cho ông ta sao?
Anh thấp giọng nói:
- Anh vừa biết tin Triệu Tùng đã giết cha anh. Thảo nào mấy trăm năm nay không hề có tin tức gì của ông ấy. Triệu Tùng đã đoạt chân nguyên của ông ấy. Có người đã tiết lộ chuyện này cho các trưởng lão, thế nên Tế ti mới tuyệt đối không thể là Triệu Tùng.
Nói xong, anh ngồi xuống giường, dịu dàng nói:
- Đêm đã khuya, em vẫn chưa buồn ngủ sao?
Cô cũng leo lên giường, rúc vào trong lòng anh:
- Không buồn ngủ, em không ngủ được, anh ôm em được không?
Anh vòng tay ôm cô thật chặt.
- Tất cả sẽ chấm dứt ư? - Cô thì thầm trong ngực anh.
- Cái gì chấm dứt?
- Anh và em.
- Sẽ không. - Anh hôn lên trán cô, - Anh và em, tất cả vĩnh viễn không có cuối cùng.
Trong bóng tối, cô cố hít thở thật sâu, như muốn thở ra hết những muộn phiền trĩu nặng trong lòng.
Vết thương vẫn còn chảy máu. Cô ôm trọn lấy eo anh, bàn tay nhanh chóng bị thấm ướt. Cô quệt máu lên ngực mình, rồi đưa tay lên miệng, mút sạch những vết máu còn dinh dính giữa kẽ tay.
Đây là máu của anh, cô phải quen thuộc với nó, nhớ kỹ nó.
- Sao còn chưa ngủ? - Một tiếng sau, nghe hơi thở của cô lúc nhanh lúc chậm, kèm theo cả tiếng nức nở, trong bóng tối anh hỏi.
- Một, hai, ba, chúng ta cùng nhắm mắt lại. - Bì Bì nói.
Đây có lẽ là giấc ngủ cuối cùng họ được ngủ bên nhau, Bì Bì chưa nói lời từ biệt, thế nhưng cô lại có thể ngủ thiếp đi.
Vé máy bay đặt là tám giờ sáng. Sáu giờ Bì Bì đã dậy, phát hiện Hạ Lan Tĩnh Đình đang chuẩn bị hành lý giúp cô. Cô vào phòng tắm tắm rửa, sau đó vào thư phòng tìm một quyển bản đồ giao thông các tỉnh trong nước, cất vào trong va ly.
Sắp xếp xong mọi thứ, cô ra cửa, trông thấy Tu Nhàn đang cầm một chiếc chìa khóa ô tô ngồi trong phòng khách đợi cô. Cô ôm Hạ Lan Tĩnh Đình một cái thật chặt, tham lam nhìn anh, nói:
- Đợi em, nhé.
Anh gật đầu, tiễn họ ra cửa.
Trước nhà là một sườn dốc, ô tô men theo con đường nhỏ nhanh chóng xuống núi. Bóng hình anh dần dần mờ nhạt, gương mặt vẫn không có biểu tình gì, nhưng vào khoảnh khắc khi chiếc xe sắp biến mất sau khúc quanh, anh đột nhiên giơ tay lên khẽ vẫy, Bì Bì lập tức bật khóc, nước mắt rơi như mưa.
Cứ nức nở như thế suốt cả chặng đường, cho đến khi đến sân bay.
Xe ngừng lại, Bì Bì lau sạch nước mắt, cầm vé máy bay lên xé đi, quay sang nói với Tu Nhàn:
- Tôi muốn đi tìm mộ của Yên Chiêu Vương, anh có đồng ý đi cùng tôi không?
Anh ta vẫn mang đôi dép lê, sau lưng chiếc sơ mi màu tự nhiên, vẫn là hình một con chim. Cánh của con chim màu đen, hình dáng giống con quạ, trông thần thái thản nhiên, nhưng đôi mắt ưu buồn.
- Anh ăn sáng chưa? - Bì Bì hỏi.
- Chưa.
- Tôi đi mua cho anh.
Anh ta gật đầu, đi thẳng về phía bàn bán vé. Bì Bì phát hiện dạo này anh ta không chăm sóc vẻ ngoài lắm. Râu ria không cạo, tóc cũng lộn xộn. Nhưng ngoại hình Tu Nhàn rất đẹp, khuyết điểm cũng trở thành phong cách. Anh ta như một làn gió thơm nồng và quyến rũ, vừa lướt qua là khiến cho bao người xung quanh, dù là nam hay nữ đều phải ngoái đầu nhìn theo.
Cô mua bữa sáng gồm có bánh bao và lạp xưởng. Khi quay lại thì Tu Nhàn đã ngồi ở dãy ghế chờ kiểm tra an ninh rồi.
Cô đưa bữa sáng cho anh ta, đi kèm với một đôi đũa và một chiếc khay dùng một lần.
Anh ta ngẩng lên nhìn cô, ánh mắt như gai nhọn. Sau đó cầm đũa, chậm rãi ăn. Cô ngồi xuống, uống hết ly sữa đậu nành, mở lời bắt chuyện:
- Khoan Vĩnh là người Thiên Thủy à? Sao tôi nghe Hạ Lan nói anh ấy là người Anh?
- Miễn nhắc đến cậu ấy được không? - Anh ta tỏ vẻ không kiên nhẫn đáp.
- Tôi xin lỗi.
Khoảng thời gian còn lại cho đến khi lên máy bay, xuống máy bay rồi lên xe buýt đi về huyện Kế, rong ruổi trên đường cao tốc hai giờ đồng hồ, Tu Nhàn vẫn không nói câu nào.
Họ trọ trong khách sạn Ngư Dương ở huyện Kế. Khách sạn nằm gần núi Phủ Quân[6], cất hành lý xong, lại đón xe đi đến núi Phủ Quân, Tu Nhàn nói:
- Tôi đưa cô lên núi một lát.
[6] Núi Phủ Quân: núi Không Động. (Ai đọc kiếm hiệp chắc biết phái Không Động ^^)
Bì Bì nhìn anh ta, hỏi:
- Anh... đã từng đến đây?
Anh ta gật đầu.
- Hạ Lan cũng đã tới đây?
- Đúng.
- Các anh biết hoa biểu ở đâu?
- Đây là chuyện cơ mật của tộc, dù là Triệu Tùng cũng chưa chắc đã biết gì nhiều. Hạ Lan đã từng mất rất nhiều thời gian nghiên cứu, cậu ấy đã tìm được hoa biểu, giấu nó trong mộ của Yên Chiêu Vương.
Bì Bì chớp chớp mắt:
- Cho nên, Hạ Lan cũng đã từng đến mộ Yên Chiêu Vương?
- Đúng, muốn làm những chuyện như thế này cần rất nhiều can đảm. Núi Phủ Quân còn có tên là núi Tuấn Đồng, nó là cấm địa của tộc Hồ không chỉ bởi vì nó có Hằng Xuân mộc có thể kiềm hãm tộc, mà còn vì nó có những thứ khác có thể đưa chúng tôi vào chỗ chết. Sở thích của Yên Chiêu Vương rất phong phú, sưu tập rất nhiều báu vật, trong lăng mộ của ông ấy bố trí cơ quan khắp nơi.
Bì Bì hơi dợm bước, nhìn về phía trước.
Cô cảm thấy núi Phủ Quân trông rất bình thường, không cao lắm, không có những vách núi cheo leo hùng vĩ như trong tưởng tượng của cô. Nói đây là thánh địa đạo giáo, là nơi hoàng đế nghe Nghiễm Thành Tử[7] giảng đạo, nhưng cô cảm thấy nơi đây chẳng có chút tiên khí nào. Cô chờ Tu Nhàn kể tiếp.
[7] Một trong mươi hai vị tiên trong bảng Phong Thần.
- Năm tại vị thứ hai của Yên Chiêu Vương, trong số những kỳ vật mà Hải nhân đã dâng cho chiêu vương, ngoài cây Hằng Xuân, còn có mỡ Rồng.
- Mỡ Rồng?
- Trong truyền thuyết của Hải ngoại có núi Phương Trượng, phía đông dãy núi có một trường đấu rồng. Cự long thường chiến đấu với nhau ở đây, mỡ và máu như nước chảy. Hải nhân kia dùng bình chạm trổ đựng mỡ Rồng tiến cống Chiêu Vương. Chiêu Vương ngồi trên Thông Vân đài, lấy mỡ Rồng đốt đèn, ánh sáng tỏa ra trăm dặm, khói có màu tím đỏ.
Bì Bì tiếp lời nói:
- Anh nói mỡ Rồng cũng có thể tiêu diệt các anh?
- Không phải. - Tu Nhàn giải thích, phía tây núi Phương Trượng có một loại “Thạch chiếu”, là những mảnh đá vụn trong như mặt gương, đốt mỡ Rồng để chiếu lên, trăm vật đều hiện nguyên hình, yêu quái sẽ mất mạng. Khi Chiêu Vương qua đời, thợ thủ công lấy đá này trộn vào bùn, làm nên đồ bảo vệ quan tài. Thế nên năm đó, Hạ Lan một mình đột nhập vào mộ, chỉ mang theo một chiếc đèn pin. Bất cứ thứ gì bốc cháy với cậu ấy cũng đều sẽ là trí mạng.
Thấy cô không có phản ứng, Tu Nhàn thở dài một hơi, rồi nói tiếp:
- Vậy chí ít thì cô cũng đã từng nghe nói về bài thơ này chứ:
Ngưòi trước chẳng thấy ai
Người sau thì chưa thấy
Gẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy.
[Bản dịch Tương Như]
Dĩ nhiên là nghe rồi! Bì Bì suýt nữa đã vui mừng nhảy cẩng lên
- Đây chẳng phải là bài “Bài ca lúc lên U Châu đài” của Trần Tử Ngang sao? Học sinh tiểu học đứa nào chẳng biết.
- U Châu Đài còn được gọi là Hoàng Kim đài. Yên Chiêu Vương vì chiêu nạp hiền sĩ mà dựng lên đài Hoàng Kim, nhờ thế mới thu hút được những bậc hiền tài và tướng lĩnh như Tô Tần và Nhạc Nghị, khiến cho nước Yến chuyển yếu thành mạnh. - Tu Nhàn nói, - Tục ngữ có câu, “no ấm nhớ dâm dục, giàu sang muốn trường sinh”. Yên Chiêu Vương[1] cũng giống Tề Uy Vương[2] và Tề Tuyên Vương[3], đều là những bậc quốc vương sùng đạo bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Mộ của Yên Chiêu Vương là cấm địa của tộc Hồ chúng tôi.
[1]Yên Chiêu Vương là vị vua thứ 39 hay 40 của nước Yên, chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc
[2]Tề Uy Vương: tên thật là Điền Nhân Tề, là vị vua thứ 3 hay thứ 4 của Điền Tề, chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
[3] Tề Tuyên Vương: tên thật là Điền Tích Cương, là vị vua thứ 5 của Điền Tề, chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
- Cấm địa ư? Tại sao thế?
- Năm tại vị thứ hai của Yên Chiêu Vương, có một Hải nhân cưỡi thuyền Hà[4] đến bái kiến ông ấy, tiến cống rất nhiều báu vậy: Yên Chiêu Vương rất yêu thích chúng, khi từ trần đã đem những báu vật này chôn chung trong mộ của mình. Bên ngoài lăng mộ có lập một trụ hoa biểu[5], chỉ dùng gỗ Hằng Xuân để chế nên. Hằng Xuân là một loại cây kỳ lạ ở hải ngoại, lá như hoa sen, hương thơm như quế, hoa nở không tàn, bốn mùa thay sắc. Loài cây này sống được cả nghìn năm, nhưng gặp lửa lập tức bén cháy, dùng lửa đó có thể soi ra yêu hình.
[4] Hải nhân: người sống trên biển hoặc sống ngoài đảo. Thuyền Hà: thuyền được trang trí lộng lẫy.
[5] Hoa biểu: trụ đá chạm khắc hoa văn của Trung Quốc – nhưng ở đây dùng gỗ.
- Tôi hiểu rồi! - Bì Bì nói: Chỉ cần tôi có thể tìm được loại cây thần này, mang nó về đây, thì sẽ tiêu diệt được Triệu Tùng, đúng không?
- Cô đừng quên, Hạ Lan và tôi cũng là Hồ ly, đều sợ loại cây thần này.
- Ồ! Thế nhưng, trên mặt đất có biết bao nhiêu là trụ gỗ như vậy, sao tôi biết được trụ nào là hoa biểu chứ?
- Đó là một câu hỏi hay, cách giải quyết vô cùng đơn giản. - Anh ta nói, - Tôi biết nó, tôi sẽ cùng đi với cô.
Bì Bì gật đầu:
- Nhưng Hạ Lan phải làm sao? Chỉ còn lại một mình, cơ thể anh ấy vẫn còn yếu, lại không có ai chăm sóc…
- Nếu vết thương của cậu ấy không nặng như thế thì việc ẩn náu rất dễ dàng, vì cậu ấy có thể tự che giấu mùi của mình. Nhưng giờ, máu cậu ấy vẫn không ngừng chảy, mùi máu nồng nặc trong không khí, Triệu Tùng sẽ ngửi thấy được. - Vẻ mặt Tu Nhàn vô cùng kỳ quái,
- Nếu Hạ Lan xảy ra chuyện gì, chẳng những tính mệnh của chính cậu ấy khó giữ nỗi, mà toàn bộ tộc Hồ đều có thể bị diệt theo. Bởi Triệu Tùng, vốn vẫn luôn tức giận vì các hồ tiên chỉ lo tu tiên không lo sinh sản, tạo thành tấm gương xấu cho đàn Hồ ly, đồng thời cũng khiến cho số lượng Hồ ly trong tự nhiên suy giảm trầm trọng. Ông ta không chịu tin một sự thật như thế này: tỷ lệ số Hồ ly tu tiên so với tổng số lượng đàn Hồ ly bao năm qua vẫn luôn không thay đổi. Chẳng qua là khoảng trăm năm gần đây, vì chất lượng môi trường suy giảm, sinh tồn được trong hoang dã là một chuyện vô cùng gian nan, nên tỷ lệ đó mới nhanh chóng bị chênh lệch như vậy. Hiện giờ, gần như Hồ ly nào vừa mới ra đời, cũng đều xem việc tu tiên là mục tiêu hướng tới của mình. Vì thế, Triệu Tùng mới ban lệnh cấm tu tiên. Nhưng bên này, các Hồ ly muốn tu tiên đều được Hạ Lan đồng ý. Vì vậy, ông ta bắt đầu tiến hành một cuộc tước đoạt niên hạn của những Hồ ly tu hành chưa đến một trăm năm trên quy mô lớn, buộc họ phải quay về sống cuộc sống trong tự nhiên. Mâu thuẫn giữa ông ta và Hạ Lan càng lúc càng cao trào, thế nên quyết đấu chỉ là điều sớm muộn.
Bì Bì nghĩ nghĩ rồi đáp:
- Vậy nhóm hồ tiên các anh không thể liên thủ lại để đối phó với ông ấy sao?
Tu Nhàn lắc đầu:
- Tộc Hồ là cộng đồng cực kì phân tán, chúng tôi sống rải rác khắp các nơi, từ các vùng rừng rậm đến các thành phố, sống riêng lẻ hoặc tự tập hợp thành những nhóm riêng, bình thường rất ít liên lạc với nhau. Nếu có chiến tranh hay tranh chấp gì xảy ra thì cũng chẳng liên quan đến chúng tôi. Trước giờ đó luôn là chuyện giữa các thủ lĩnh.
Bì Bì định hỏi thêm, bất ngờ một tia sáng tím lóe lên, hạt châu đang lơ lửng giữa không trung kia bất thình lình bay xuống, biến mất trong miệng Hạ Lan Tĩnh Đình. Cô vẫn đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra, Hạ Lan Tĩnh Đình đột nhiên tỉnh dậy.
Anh hơi nghiêng đầu, nói với Tu Nhàn:
- Có người gõ cửa.
- Phải Triệu Tùng không?
- Hai người ở lại đây đi. - Anh không trả lời câu hỏi của cô, trực tiếp nói, - Để tôi đi xem.
Nói xong, anh bước nhanh về phía chân núi, chớp mắt một cái đã không còn thấy bóng dáng đâu.
Có lẽ là bởi vì “Tắm trăng” đã tiếp cho anh lượng nguyên khí tạm thời, hành động của anh lúc này rất nhanh nhẹn. Bì Bì nhặt cây gậy trên mặt đất lên, nói với về phía còn đường lên núi chìm trong bóng đêm tối mù, u ám trước mặt:
- Hạ Lan, gậy của anh!
Cô vội vàng đuổi theo, bị Tu Nhàn ngăn lại:
- Đừng đi. Nếu cậu ấy đi gặp Triệu Tùng thì không cần gậy dẫn đường, chỉ cần truy lùng theo mùi là được.
Tim Bì Bì đập thình thịch, lo lắng và sốt ruột loạn cả lên:
- Anh ấy có thể có chuyện gì không? Sao anh không đi giúp anh ấy?
Tu Nhàn thản nhiên, nhìn cô đáp:
- Cậu ấy bảo tôi ở lại quan tâm cô.
- Tôi không cần ai quan tâm, nếu anh thực sự lo lắng thì đưa tôi xuống đáy giếng, chỗ đó tuyệt đối an toàn.
- Đến giờ, Triệu Tùng vẫn chưa biết đến sự tồn tại của một người như cô. Nếu không thì cô sẽ gặp phiền phức to đấy.
- Có khi nào hiện giờ họ đang đánh nhau không?
- Không đâu. - Anh ta nói, - Tôi tin là ông ta tới để đàm phán, Tế ti có quy tắc giao tiếp của Tế ti.
Cô ngồi đợi trên đỉnh núi trong tâm trạng bất ổn và lo lắng. Tai vễnh lên nghe ngóng động tĩnh dưới chân núi. Nếu có đánh nhau thật, không thể không có tiếng động nào phát ra.
Lặng lẽ đợi một lúc lâu, cô đưa tay xem đồng hồ, thời gian trôi qua chưa đến mười phút. Thế nhưng, một dự cảm chẳng lành đang khuấy đảo trong lòng cô khiến cô đứng ngồi không yên. Cô đứng lên, đi quanh thành giếng một vòng. Ánh trăng trong trẻo lẳng lặng rơi xuống, gió lành lạnh lùa vào, khung cảnh lần đầu tiên họ ở đáy giếng hiện ra rõ ràng trước mắt.
Khi ấy, trên đầu chỉ có khoảnh trời hình tròn, thưa thớt một vài vì sao lấp lánh. Nhưng ánh trăng cũng êm dịu và nhẹ nhàng như đêm nay.
Xa xa là bóng núi nhạt nhòa hơi hơi tỏa sáng trên nền đèn đêm lung linh của thành phố.
Phía chân trời rực lên môt quầng sáng tím, không phân biệt rõ ranh giới giữa trời và đất, tựa như thời kỳ hỗn độn của thuở Bàn cổ khai thiên lập địa..
Một lát sau, Tu Nhàn cuối cùng cũng nói:
- Chúng ta xuống dưới xem sao, Triệu Tùng đã đi rồi.
Bước chân của Tu Nhàn rất dài, Bì Bì sốt ruột, chạy lúp xúp theo sau.
Họ tìm thấy Hạ Lan Tĩnh Đình trong phòng khách.
Anh vẫn mặc chiếc áo choàng ngủ màu đen bằng lụa trơn loáng, có điều anh đang hút một điếu thuốc.
Trong phòng không bật đèn, nhưng có đốt mấy cây nến cổ xưa rất lớn, khiến cả căn phòng tỏa ra một mùi hương quái dị.
Từ ngày đầu tiên quen anh đến nay, Bì Bì chưa bao giờ trông thấy Hạ Lan Tĩnh Đình hút thuốc. Chỉ là, chiếc áo choàng tơ tằm kia rất hợp với dáng người anh. Mới nhìn, trông anh tựa như một vị hậu duệ cuối cùng của giới quý tộc, vừa ung dung lại vừa chán chường. Điếu thuốc kẹp giữa hai ngón tay anh vẫn đang cháy, nhưng anh thì cúi đầu chìm đắm trong suy tư.
Bì Bì nhẹ nhành bước đến, hỏi:
- Triệu Tùng đã đến?
Anh gật đầu.
- Anh... hai người... không có chuyện gì chứ?
Anh lắc đầu.
Sau đó anh nhìn Tu Nhàn, chỉ về một cái gói vải nhỏ đặt trên sô pha:
- Tôi đã đặt vé máy bay cho hai người. Trong thời gian này, tôi hy vọng cậu đưa Bì Bì đi thật xa, ngao du thăm thú. Đợi sau khi tôi giải quyết xong mọi chuyện với Triệu Tùng, hai người hãy quay về.
Tu Nhàn không nhúc nhích, hỏi:
- Hai người định khi nào kết thúc?
- Ba ngày nữa.
- Ông ta muốn lợi dụng lúc cậu chưa bình phục để ra tay. Cậu không nên đáp ứng yêu cầu của ông ta! - Tu Nhàn nói, - Không bằng để tôi đi gặp ông ta thay cậu, cậu đưa Bì Bì rời khỏi đây.
- Cậu không phải đối thủ của ông ta. Hơn nữa, ai nói tôi bị thương thì không thể giết được ông ta? - Hạ Lan Tĩnh Đình khẩy khẩy tàn thuốc, cười nói, - Tôi tự có cách. Quan trọng là, hai người nhất định phải rời khỏi đây, để tôi không phải vướng bận."
Sắc mặt Tu Nhàn sầm xuống:
- Tôi…
- Hay là tôi nên nói, tôi ra lệnh cho cậu đưa Bì Bì đi khỏi đây. - Hạ Lan Tĩnh Đình cắt đứt lời anh ta, - Tôi đã mua vé máy bay đi Tân Cương vào ngày mai cho hai người, hai người phải đến đó đợi một tháng. Đừng liên lạc với tôi, nếu tôi có chuyện sẽ tự liên lạc với hai người.
Nói xong những lời này, anh đứng lên, đưa tay kéo tay cô:
- Bì Bì.
Anh dẫn cô vào phòng ngủ, ôm cô vào lòng thật sít sao.
Nước mắt cô lặng lẽ rơi, thấm ướt ngực áo anh. Anh vuốt ve gương mặt cô, dịu dàng trêu:
- Cô bé ngốc này, cuối cùng em cũng đã lo lắng cho anh, không còn muốn mưu sát chồng nữa.
Cô không nói gì, chỉ ào vào lòng anh thổn thức.
- Đừng khóc, có phải là sinh ly tử biệt đâu. - Anh nói, - Nhưng mà, có một chuyện quan trọng hơn muốn nhờ cậy em.
Cô ngẩng lên, kinh ngạc nhìn anh.
- Còn nhớ mật mã thẻ ngân hàng không?
Cô gật đầu.
- Đảo ngược nó lại, là một mật mã khác. - Anh lấy trong ngăn tủ trước giường ra một cái chìa khóa nhỏ, - Trong kho ngân hàng của anh có một cái két an toàn, trong đó có một vài thứ quan trọng, có một phần là để lại cho em, phần còn lại thuộc về tộc Hồ.
Anh đặt chiếc chìa khóa vào tay cô:
- Ngộ nhỡ anh có chuyện, tộc Hồ sẽ bầu ra một Hữu tế ti mới. Đến lúc đó, người này sẽ đến tìm em, em phải tự tay giao chiếc chìa khóa này cho người đó, em có thể hứa với anh không?
Người Bì Bì hơi run lên. Nhận lấy chiếc chìa khóa, thận trọng gật đầu:
- Nếu vị Tế ti mới này là Triệu Tùng, em cũng phải đưa cho ông ta sao?
Anh thấp giọng nói:
- Anh vừa biết tin Triệu Tùng đã giết cha anh. Thảo nào mấy trăm năm nay không hề có tin tức gì của ông ấy. Triệu Tùng đã đoạt chân nguyên của ông ấy. Có người đã tiết lộ chuyện này cho các trưởng lão, thế nên Tế ti mới tuyệt đối không thể là Triệu Tùng.
Nói xong, anh ngồi xuống giường, dịu dàng nói:
- Đêm đã khuya, em vẫn chưa buồn ngủ sao?
Cô cũng leo lên giường, rúc vào trong lòng anh:
- Không buồn ngủ, em không ngủ được, anh ôm em được không?
Anh vòng tay ôm cô thật chặt.
- Tất cả sẽ chấm dứt ư? - Cô thì thầm trong ngực anh.
- Cái gì chấm dứt?
- Anh và em.
- Sẽ không. - Anh hôn lên trán cô, - Anh và em, tất cả vĩnh viễn không có cuối cùng.
Trong bóng tối, cô cố hít thở thật sâu, như muốn thở ra hết những muộn phiền trĩu nặng trong lòng.
Vết thương vẫn còn chảy máu. Cô ôm trọn lấy eo anh, bàn tay nhanh chóng bị thấm ướt. Cô quệt máu lên ngực mình, rồi đưa tay lên miệng, mút sạch những vết máu còn dinh dính giữa kẽ tay.
Đây là máu của anh, cô phải quen thuộc với nó, nhớ kỹ nó.
- Sao còn chưa ngủ? - Một tiếng sau, nghe hơi thở của cô lúc nhanh lúc chậm, kèm theo cả tiếng nức nở, trong bóng tối anh hỏi.
- Một, hai, ba, chúng ta cùng nhắm mắt lại. - Bì Bì nói.
Đây có lẽ là giấc ngủ cuối cùng họ được ngủ bên nhau, Bì Bì chưa nói lời từ biệt, thế nhưng cô lại có thể ngủ thiếp đi.
Vé máy bay đặt là tám giờ sáng. Sáu giờ Bì Bì đã dậy, phát hiện Hạ Lan Tĩnh Đình đang chuẩn bị hành lý giúp cô. Cô vào phòng tắm tắm rửa, sau đó vào thư phòng tìm một quyển bản đồ giao thông các tỉnh trong nước, cất vào trong va ly.
Sắp xếp xong mọi thứ, cô ra cửa, trông thấy Tu Nhàn đang cầm một chiếc chìa khóa ô tô ngồi trong phòng khách đợi cô. Cô ôm Hạ Lan Tĩnh Đình một cái thật chặt, tham lam nhìn anh, nói:
- Đợi em, nhé.
Anh gật đầu, tiễn họ ra cửa.
Trước nhà là một sườn dốc, ô tô men theo con đường nhỏ nhanh chóng xuống núi. Bóng hình anh dần dần mờ nhạt, gương mặt vẫn không có biểu tình gì, nhưng vào khoảnh khắc khi chiếc xe sắp biến mất sau khúc quanh, anh đột nhiên giơ tay lên khẽ vẫy, Bì Bì lập tức bật khóc, nước mắt rơi như mưa.
Cứ nức nở như thế suốt cả chặng đường, cho đến khi đến sân bay.
Xe ngừng lại, Bì Bì lau sạch nước mắt, cầm vé máy bay lên xé đi, quay sang nói với Tu Nhàn:
- Tôi muốn đi tìm mộ của Yên Chiêu Vương, anh có đồng ý đi cùng tôi không?
Anh ta vẫn mang đôi dép lê, sau lưng chiếc sơ mi màu tự nhiên, vẫn là hình một con chim. Cánh của con chim màu đen, hình dáng giống con quạ, trông thần thái thản nhiên, nhưng đôi mắt ưu buồn.
- Anh ăn sáng chưa? - Bì Bì hỏi.
- Chưa.
- Tôi đi mua cho anh.
Anh ta gật đầu, đi thẳng về phía bàn bán vé. Bì Bì phát hiện dạo này anh ta không chăm sóc vẻ ngoài lắm. Râu ria không cạo, tóc cũng lộn xộn. Nhưng ngoại hình Tu Nhàn rất đẹp, khuyết điểm cũng trở thành phong cách. Anh ta như một làn gió thơm nồng và quyến rũ, vừa lướt qua là khiến cho bao người xung quanh, dù là nam hay nữ đều phải ngoái đầu nhìn theo.
Cô mua bữa sáng gồm có bánh bao và lạp xưởng. Khi quay lại thì Tu Nhàn đã ngồi ở dãy ghế chờ kiểm tra an ninh rồi.
Cô đưa bữa sáng cho anh ta, đi kèm với một đôi đũa và một chiếc khay dùng một lần.
Anh ta ngẩng lên nhìn cô, ánh mắt như gai nhọn. Sau đó cầm đũa, chậm rãi ăn. Cô ngồi xuống, uống hết ly sữa đậu nành, mở lời bắt chuyện:
- Khoan Vĩnh là người Thiên Thủy à? Sao tôi nghe Hạ Lan nói anh ấy là người Anh?
- Miễn nhắc đến cậu ấy được không? - Anh ta tỏ vẻ không kiên nhẫn đáp.
- Tôi xin lỗi.
Khoảng thời gian còn lại cho đến khi lên máy bay, xuống máy bay rồi lên xe buýt đi về huyện Kế, rong ruổi trên đường cao tốc hai giờ đồng hồ, Tu Nhàn vẫn không nói câu nào.
Họ trọ trong khách sạn Ngư Dương ở huyện Kế. Khách sạn nằm gần núi Phủ Quân[6], cất hành lý xong, lại đón xe đi đến núi Phủ Quân, Tu Nhàn nói:
- Tôi đưa cô lên núi một lát.
[6] Núi Phủ Quân: núi Không Động. (Ai đọc kiếm hiệp chắc biết phái Không Động ^^)
Bì Bì nhìn anh ta, hỏi:
- Anh... đã từng đến đây?
Anh ta gật đầu.
- Hạ Lan cũng đã tới đây?
- Đúng.
- Các anh biết hoa biểu ở đâu?
- Đây là chuyện cơ mật của tộc, dù là Triệu Tùng cũng chưa chắc đã biết gì nhiều. Hạ Lan đã từng mất rất nhiều thời gian nghiên cứu, cậu ấy đã tìm được hoa biểu, giấu nó trong mộ của Yên Chiêu Vương.
Bì Bì chớp chớp mắt:
- Cho nên, Hạ Lan cũng đã từng đến mộ Yên Chiêu Vương?
- Đúng, muốn làm những chuyện như thế này cần rất nhiều can đảm. Núi Phủ Quân còn có tên là núi Tuấn Đồng, nó là cấm địa của tộc Hồ không chỉ bởi vì nó có Hằng Xuân mộc có thể kiềm hãm tộc, mà còn vì nó có những thứ khác có thể đưa chúng tôi vào chỗ chết. Sở thích của Yên Chiêu Vương rất phong phú, sưu tập rất nhiều báu vật, trong lăng mộ của ông ấy bố trí cơ quan khắp nơi.
Bì Bì hơi dợm bước, nhìn về phía trước.
Cô cảm thấy núi Phủ Quân trông rất bình thường, không cao lắm, không có những vách núi cheo leo hùng vĩ như trong tưởng tượng của cô. Nói đây là thánh địa đạo giáo, là nơi hoàng đế nghe Nghiễm Thành Tử[7] giảng đạo, nhưng cô cảm thấy nơi đây chẳng có chút tiên khí nào. Cô chờ Tu Nhàn kể tiếp.
[7] Một trong mươi hai vị tiên trong bảng Phong Thần.
- Năm tại vị thứ hai của Yên Chiêu Vương, trong số những kỳ vật mà Hải nhân đã dâng cho chiêu vương, ngoài cây Hằng Xuân, còn có mỡ Rồng.
- Mỡ Rồng?
- Trong truyền thuyết của Hải ngoại có núi Phương Trượng, phía đông dãy núi có một trường đấu rồng. Cự long thường chiến đấu với nhau ở đây, mỡ và máu như nước chảy. Hải nhân kia dùng bình chạm trổ đựng mỡ Rồng tiến cống Chiêu Vương. Chiêu Vương ngồi trên Thông Vân đài, lấy mỡ Rồng đốt đèn, ánh sáng tỏa ra trăm dặm, khói có màu tím đỏ.
Bì Bì tiếp lời nói:
- Anh nói mỡ Rồng cũng có thể tiêu diệt các anh?
- Không phải. - Tu Nhàn giải thích, phía tây núi Phương Trượng có một loại “Thạch chiếu”, là những mảnh đá vụn trong như mặt gương, đốt mỡ Rồng để chiếu lên, trăm vật đều hiện nguyên hình, yêu quái sẽ mất mạng. Khi Chiêu Vương qua đời, thợ thủ công lấy đá này trộn vào bùn, làm nên đồ bảo vệ quan tài. Thế nên năm đó, Hạ Lan một mình đột nhập vào mộ, chỉ mang theo một chiếc đèn pin. Bất cứ thứ gì bốc cháy với cậu ấy cũng đều sẽ là trí mạng.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook