Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông
-
Quyển 2 - Chương 78
“Hiệu buôn Vĩnh Hòa” đã bắt đầu kinh doanh tại đường Bảo Thuận từ đầu năm nay. Có thể nói, hiệu buôn này đã phải vượt muôn ngàn khó khăn mới được đi vào hoạt động. Sau khi Ngân Xuyên trải qua một loạt các sự kiện như thoát nạn tù tội, giúp hiệu bạc Phú Hưng vượt qua khủng hoảng, chỉnh đốn lại phòng kế toán Hoa của Phổ Huệ, khoản vốn kinh doanh có thể đổ vào hiệu buôn Vĩnh Hòa chỉ còn lại chưa tới hai mươi nghìn hiện kim.
Một hiệu buôn mới dù lớn hay nhỏ cũng đều cần có nền móng vững chắc. Ngân Xuyên dùng khoản tiền lương và hoa hồng cao ngất làm mồi để lặng lẽ thu hút những rường cột trẻ của Phổ Huệ, bổ nhiệm họ làm người phụ trách cho các bộ phận lưu trữ, vận chuyển, vân vân. Người phụ trách phòng kế toán là Vu Tố Hoài, còn Lý Nam Gia chín chắn kiệm lời tiếp tục lưu lại hiệu buôn Tây Phổ Huệ, làm trợ thủ cho Ngân Xuyên tại phòng kế toán Hoa.
Từ thời nhà Thanh đã có tiền lệ mại bản Trung Quốc của hãng buôn Tây vốn nước ngoài sở hữu một hiệu buôn cho riêng mình. Ban đầu khi mới thành lập, “Hiệu buôn Vĩnh Hòa” chẳng khác những ngoại trang tầm thường là bao, nhưng Edmund lại rất đề cao cảnh giác. Thấy Ngân Xuyên bắt đầu thôn tính cổ quyền của phòng kế toán Tây Phổ Huệ, Edmund như ngồi trên đống than, oán hận nghiến răng ken két. Để đuổi Ngân Xuyên đi, ông ta đã sử dụng đủ thủ đoạn, khiến không ít rắc rối nảy sinh, ấy vậy mà Ngân Xuyên lại đổi hẳn cái tính nhã nhặn từ tốn xưa kia, anh chẳng những không sợ giằng co đối chọi với ông ta, mà tác phong hành sự cũng trở nên quyết đoán tàn nhẫn. Hơn nữa anh còn là con người cực kỳ thận trọng, khiến chiêu trò của Edmund gần như không có đất dụng võ.
Mặt hàng chính của hiệu buôn Vĩnh Hòa là dầu trẩu. Khối lượng mỗi lô dầu trẩu xuất khẩu phải đạt tới 300 tấn Mỹ, với nguồn lực hiện tại, hiệu buôn Vĩnh Hòa sẽ rất khó xoay vòng vốn. Vì vậy nên Ngân Xuyên tranh thủ ghé tới những kho dầu trẩu nhỏ đang cần xuất khẩu hàng gấp nhưng không tìm được cửa ngõ tiêu thụ tại Xuyên Tương Ngạc, anh lợi dụng mối quan hệ của mình với hiệu buôn Tây, giật dây bắc cầu làm đại lý tiêu thụ hàng hóa cho các kho hàng nội địa. Anh áp dụng một phương pháp đại lý tiêu thụ với phương thức bảo hiểm hết sức đơn giản: Tìm hiệu buôn nước ngoài có nhu cầu nhập khẩu, để bọn họ tự điền chứng từ tín dụng vốn, ký kết hợp đồng, trong một khoảng thời gian nhất định, hiệu buôn Vĩnh Hòa sẽ chịu trách nhiệm mua hàng tại Trung Quốc rồi vận chuyển ra nước ngoài, sau đó lại kết toán ngoại hối với ngân hàng, trong đó mọi chi phí lưu trữ, vận chuyển, chiết xuất, xuất khẩu, bảo hiểm đều do phía tư sản nước ngoài chịu trách nhiệm, hiệu buôn Vĩnh Hòa chỉ thu tiền hoa hồng. Như vậy có phòng tránh những nguy hiểm do giá cả tăng giảm thất thường đem đến cho hiệu buôn Vĩnh Hòa, đồng thời còn giải quyết được vấn đề thiếu hụt vốn một cách tài tình.
Tháng kinh doanh đầu tiên, hiệu buôn Vĩnh Hòa đã bán được hơn bảy trăm tấn dầu trẩu, tháng thứ hai bán ra hai nghìn tấn, đến tháng thứ ba con số này đã lên tới bảy nghìn năm trăm tấn. Tháng thứ hai sau khi Vĩnh Hòa thành lập, hiệu bạc Phú Hưng được Ngân Xuyên rót vốn đã trở thành Ngân hàng Phú Hưng. Xét địa vị của Ngân Xuyên tại hiệu buôn Tây Phổ Huệ, tình hình đang ngày một tốt đẹp của hiệu buôn Vĩnh Hòa cùng vị cổ đông chủ chốt là nhân vật bang hội như Đồng Xuân Giang, thể theo tập tục chốn thương trường, những ông lớn sừng sỏ giới tài chính kinh doanh đã cùng gửi một lượng tiền giấy và vàng thỏi lớn vào Phú Hưng để chúc mừng.
Chẳng mấy chốc, văn phòng trên đường Bảo Thuận đã trở nên chật hẹp, đầu tháng Năm, Ngân Xuyên thành lập một văn phòng mới trên đường Tam Dân, Hán Khẩu cho hiệu buôn Vĩnh Hòa.
Cuối tháng Năm, Ngân Xuyên bắt gặp Mạnh Tử Chiêu tại Hội Tân Lâu trên đường Tam Dân.
Đây là nhà hàng nổi tiếng nhất đường Tam Dân, tầng một bán đồ ăn vặt, tầng hai bày tiệc rượu, cứ đến giờ ăn cơm là khách khứa lại xếp hàng đông nườm nượp, đến cả phòng bao tầng hai cũng thường có khách phải ghép bàn.
Rõ ràng Mạnh Tử Chiêu chưa đặt bàn trước, sau khi lên tầng, cậu khoanh tay đứng đợi ngoài cầu thang. Ngân Xuyên gọi món xong, vừa khéo nhìn thấy cậu, lâu không gặp, người điều hành Đại Quân lại càng tuấn tú phong độ, đôi mắt cậu vẫn sáng ngời, phấn chấn như xưa, nhưng ánh mắt lại chững chạc hơn nhiều.
“Cậu Mạnh,” Ngân Xuyên vẫy tay với Tử Chiêu, “nếu cậu không chê thì chúng ta có thể ngồi chung bàn.”
Nghe tiếng, Tử Chiêu ngoái lại nhìn, sắc mặt cậu hơi thay đổi nhưng vẫn tiến lại ngồi đối diện với anh.
“Lâu lắm rồi không gặp, nghe nói đợt trước cậu đi Malacca, cậu về từ bao giờ vậy?”
“Cũng được mấy hôm rồi.” Tử Chiêu cầm thực đơn lên.
“Đại Quân đã giành được hợp đồng SS Conte Verde rồi chứ?” Ngân Xuyên nói.
“Vâng,” Tử Chiêu trả lời rất thẳng thắn, “rất xin lỗi đã khiến các anh phải thất vọng.”
“Dù có thế nào đi chăng nữa cũng chúc mừng cậu.”
Tử Chiêu ngẩng đầu, híp mắt: “Cũng chúc mừng hiệu buôn Vĩnh Hòa của anh Trịnh mới mở cửa đã thành công vang dội tại Hán Khẩu.”
“Bánh bao thịt nước tương ở đây vừa miệng lắm.” Ngân Xuyên nói.
“Vâng, đậu hũ hướng dương cũng rất ngon.”
Cứ người nọ tung kẻ kia hứng như vậy, cả hai đều không khỏi mỉm cười.
Tử Chiêu nâng ly trà, muốn nói gì đó nhưng lại ngập ngừng, Ngân Xuyên cất lời: “Con bé vẫn rất ổn, tháng sau là sinh rồi.”
Tử Chiêu biến sắc, như đang vô cùng sửng sốt, Ngân Xuyên ngỡ cậu không biết chuyện Cảnh Ninh mang thai nên cũng không nhiều lời, anh cụng ly với cậu: “Dùng trà thay rượu để chúc con bé bình an suôn sẻ thôi.”
Tử Chiêu ngẩng đầu, uống cạn ly trà.
Dinh thự nhà họ Từ là biệt thự kiểu Tây, Cảnh Ninh trang trí lại phòng khách và phòng trà theo phong cách Trung Quốc, cô tìm được mấy mẫu chữ Hành nhỏ xíu đã được lồng khung gỗ lim trong kho, mang treo lên, mẫu chữ nhiều thì ngay ngắn rõ ràng, tự nhiên phóng khoáng, mẫu chữ ít thì được in giữa lớp giấy viết thư rắc kim sa, trông rất nhẹ nhàng thanh tao, vừa vặn phù hợp. Cô bày hai tấm bình phong cổ để ngăn đôi lối vào phòng khách, trong đó một lối có bày bàn vẽ với bút mực giấy nghiên và đồ trang trí, lối còn lại là bàn trà và ghế bành, các góc có thêm mấy chiếc ghế nhỏ. Tiết Tiểu mãn vừa qua, hoa thược dược nở rộ, đến cửa hàng hoa còn mua được cả mẫu đơn, Cảnh Ninh quyết định phối thược dược đỏ với mẫu đơn trắng, đặt một bình ở cửa, một bình ở phòng trà, một bình ở phòng khách.
Trừ hoa cả ra, phòng ốc gần như đã được trang trí xong xuôi cả.
Bà Từ vốn đã rất tán thành cách bài trí của Cảnh Ninh, Từ Chúc Linh cũng vô cùng hài lòng, ông chắp tay đi mấy vòng trong phòng khách, liên tục gật đầu: “Đẹp, đẹp lắm!”
Sau khi mọi người ngồi xuống ông mới bật mí nguồn cơn của buổi tiệc trà bất ngờ này, nguyên nhân là do một người bạn tri kỷ của ông đột nhiên qua đời vào mấy hôm trước.
Từ Chúc Linh than thở: “Khi ấy cha và Duệ Chi tạm biệt nhau tại ga tàu hỏa Đông Kinh, đến tận khi tàu lăn bánh ông ấy mới nhảy lên như một chú khỉ, vừa bám lấy cửa nói với cha rằng, anh nhớ phải tới Quảng Châu thăm tôi đấy. Đến tận giờ này cha vẫn chưa một lần tới gặp ông ấy, nhoáng cái đã hai mươi năm trôi qua rồi. Hôm nọ con trai ông ấy viết thư, nói ông ấy vừa qua đời tháng trước. Vậy là cha không thể gặp lại Duệ Chi nữa rồi. Nhiều lúc duyên phận giữa con người với nhau là thế đấy, chẳng ai nói từ biệt mà ông trời lại để chúng ta vĩnh viễn không còn cơ hội gặp lại, người ta thường bảo ‘Có duyên ắt sẽ có tâm’, nhưng phải có tâm thì mới có duyên được. Khi Duệ Chi còn sống, nếu cha thật sự quyết tâm muốn gặp ông ấy thì cũng không phải không được, nhưng lại chỉ mong may mắn gặp mặt nhau, lòng vẫn cứ nghĩ sau này sẽ còn cơ hội, nhưng không ngờ sự đời vô thường, cứ thế không hẹn ngày gặp lại. Vậy nên cha muốn nhân mấy ngày nay còn đang rảnh rỗi để mời bạn bè tới hội họp, vớt vát được chừng nào duyên phận thì hay chừng ấy.”
Cảnh Ninh cúi đầu, bà Từ tưởng cô mệt bèn bảo cô về phòng nghỉ. Đức Anh đi theo sau lưng cô, cậu ta khẽ cất lời: “Cha gửi thiệp mời cho cả người nhà họ Mạnh nữa, chắc là muốn cởi bỏ khúc mắc giữa hai nhà, nghe nói Tử Chiêu về Hán Khẩu lâu rồi, có lẽ cũng sẽ tới.”
Ý tại ngôn ngoại, cậu ta ám chỉ mình cũng mong khúc mắc của cô sẽ được gỡ bỏ.
Bước chân Cảnh Ninh không dừng lại: “Anh ấy sẽ không tới.”
Cô nói đúng.
Hôm tổ chức tiệc trà, Mạnh Đạo Quần và bác Trần – quản gia nhà họ Mạnh – tới tham dự một lát. Sức khỏe ông không được tốt, đi chuyến này là đã nể mặt Từ Chúc Linh rồi, ông tới vội, đi cũng nhanh. Cảnh Ninh thậm chí còn không có cơ hội gặp mặt ông. Còn Tử Chiêu thì không tới thật.
Lần này vợ chồng Cảnh Huyên và Ngân Xuyên cũng tham gia tiệc trà. Cảnh Huyên mang theo cả quà đã mua sẵn từ trước, khách nam mỗi người được một bộ áo len cashmere, khách nữ mỗi người nhận một chiếc khăn lụa tơ tằm; Ngân Xuyên đưa theo một nghệ sĩ dương cầm và nghệ sĩ sáo, Cảnh Ninh suy tính rất cẩn thận nhưng vẫn không tránh khỏi sai sót, dù bữa tiệc được trang trí rất tao nhã tinh tế, mang hơi hướng xưa cũ nhưng vẫn thiếu thiếu điều gì đó. Hai nhạc sĩ đến vừa khéo lại đệm thêm chút âm nhạc cho buổi tiệc trà. Khách khứa dự tiệc có lão thần triều Thanh, có chính khách, có doanh nhân lẫy lừng, cũng có cả học giả và họa sĩ, hầu hết đều là người qua lại thân thiết với Từ Chúc Linh, nghệ sĩ dương cầm đàn khúc “Tri âm tri kỷ”, mọi người cùng thưởng trà nghe nhạc, ngâm thơ điền từ, vô cùng thoải mái cởi mở.
Cảnh Ninh là thai phụ, dù chỉ cần xã giao qua loa nhưng như vậy cũng đã hơi quá sức cô. Cô tìm một góc yên tĩnh để ngồi xuống, đầu bếp làm đồ ngọt là người của nhà họ Phan được gọi tới đây, Cảnh Ninh cầm một miếng bánh ga tô, chậm rãi thưởng thức bột hạt dẻ phủ phía trên, như chộp được một khoảnh khắc tự tại ngắn ngủi. Đến khi vợ của Cảnh Huyên là Thiệu Anh Lan tiến lại, cô mới buông đồ ăn trong tay xuống để hàn huyên một cách khách sáo với chị dâu. Anh Lan sinh sống tại ngoài lâu năm, hoàn toàn không biết đến chuyện tày trời trái đạo của cô em chồng trước khi kết hôn, không rõ nỗi đau đớn đổi thay con người cô từng trải qua, Anh Lan chỉ cảm thấy Cảnh Ninh dịu dàng dễ gần, lịch sự lễ độ, lời nói cử chỉ thể hiện rõ sự chu đáo và phong độ của một mợ chủ, hiềm nỗi ánh mắt hơi cứng rắn, thoáng nét ngạo mạn được ẩn giấu kỹ càng. Đây chính là cặp mắt của một kẻ ương bướng không an phận.
Họ chỉ bâng quơ những chuyện tầm phào, Cảnh Ninh mệt mỏi cất lời xã giao, gắng gượng trò chuyện, cứ chốc chốc lông mi lại rũ xuống, khiến gương mặt trắng muốt lại càng tiều tụy. Bà Từ tinh ý, bèn tiến lại dặn cô về phòng nghỉ ngơi, lúc này cô mới thoát thân được. Lúc đi ngoài hành lang cô bị người ta gọi lại. Cảnh Ninh quay người, vẻ khó chịu lóe qua cặp mắt cô, rồi hóa thành nụ cười ấm áp.
“Anh cả.”
Ngân Xuyên liếc ra ngoài đại sảnh: “Để anh gọi Đức Anh tới.”
Cảnh Ninh nói: “Anh ấy là chủ tiệc, còn phải tiếp khách, sao có thể ngồi với vợ được, như vậy thì còn gì là lễ nghĩa.”
Ngân Xuyên mỉm cười, rất chậm rất chậm rãi.
Nụ cười ấy khiến Cảnh Ninh ngượng ngùng, cô cố gắng ép luồng nhiệt trên gò má tan đi, như một đứa trẻ đang vờ tỏ vẻ trưởng thành rồi lại bị người lớn nhìn thấu vẻ ngây ngô ấu trĩ. Cô tự nhận rằng bản thân đã là một bà chủ nhà đúng chuẩn, nhưng không biết vì sao mà cô cứ cảm thấy trước mặt Ngân Xuyên, mình vẫn cứ như một cô bé con, lúng túng mất tự nhiên.
Ánh nắng lúc ba giờ chiều xuyên qua khung cửa sổ kính, đường nét gương mặt và đôi mắt tràn ngập ân cần của anh trở nên dịu dàng tới lạ. Cả ngày hôm nay Cảnh Ninh đã sức cùng lực kiệt, đặc biệt là sau khi Mạnh Đạo Quần vội đến vội đi, cô lại càng khó chịu tới cùng cực, nhưng vẫn cố gồng mình lên, Ngân Xuyên cảm nhận được rõ ràng sự thay đổi phức tạp trong lòng cô, như ngửi rõ thấy hương thược dược cô đặt ngoài cổng.
“Mau đi nghỉ đi…” Anh nháy mắt với cô, hồi nhỏ cứ mỗi lần anh tỏ vẻ như vậy thì hầu như đều đang chuẩn bị cho cô một món đồ thú vị nào đó.
Cô hoài nghi nhìn anh, còn Ngân Xuyên chỉ cười rồi quay người bỏ đi. Về đến phòng, Cảnh Ninh cẩn thận nhìn xung quanh, băn khoăn không biết lát anh có cho người làm mang thứ gì đó vào không, nhưng lại chẳng có gì. Cô nằm xuống, mình mẩy đau nhức, rã rời kiệt sức, nhưng lại càng thấy phiền muộn hơn.
Tiếng sáo văng vẳng bay vào phòng.
Đây là giai điệu đã quá đỗi quen thuộc với cô. Ngay khi nốt nhạc đầu tiên vang lên, cả khúc nhạc đã chảy xuôi trong đầu cô một cách hoàn chỉnh.
“Love’s Sorrow”.
Thời niên thiếu kiêu ngạo tự ý biến khúc violon thành một bản dương cầm, đàn loạn một mạch, cô bé vô ưu vô lo sao có thể thật sự hiểu được nỗi ưu sầu của tình yêu. Mà đến khi cảm nhận được mùi vị của nó rồi, bị mắc trong tơ tình ngổn ngang trăm mối, mừng và tủi đều vượt qua những tưởng tượng khi trước, mọi chua cay ngọt đắng lưu lại trong ký ức lại trằn trọc trong lòng hết lần này tới lần khác như nhịp Valse nhẹ nhàng dứt khoát. Một cây sáo trúc mà cũng có thể khiến điệu nhạc Tây Dương trở nên rung động khác thường tới thế. Dù có những nốt nhạc không được giống lắm, giai điệu cũng hơi khác biệt nhưng tiếng nhạc trong veo thanh sạch, dịu dàng như trăng sáng trải bạc đầy đất, bầu trời trong xán lạn ngoài cửa như được ai lọc thành vầng trời sao tĩnh lặng, sao sáng kết thành tấm mạng, thành màn che dệt bởi hào quang treo trên trời cao, mang theo sự vỗ về nhân từ, nhìn xuống từng linh hồn bé nhỏ.
Cảnh Ninh chìm vào giấc mộng, cô tìm được sự lặng im ngắn ngủi quý giá.
Một hiệu buôn mới dù lớn hay nhỏ cũng đều cần có nền móng vững chắc. Ngân Xuyên dùng khoản tiền lương và hoa hồng cao ngất làm mồi để lặng lẽ thu hút những rường cột trẻ của Phổ Huệ, bổ nhiệm họ làm người phụ trách cho các bộ phận lưu trữ, vận chuyển, vân vân. Người phụ trách phòng kế toán là Vu Tố Hoài, còn Lý Nam Gia chín chắn kiệm lời tiếp tục lưu lại hiệu buôn Tây Phổ Huệ, làm trợ thủ cho Ngân Xuyên tại phòng kế toán Hoa.
Từ thời nhà Thanh đã có tiền lệ mại bản Trung Quốc của hãng buôn Tây vốn nước ngoài sở hữu một hiệu buôn cho riêng mình. Ban đầu khi mới thành lập, “Hiệu buôn Vĩnh Hòa” chẳng khác những ngoại trang tầm thường là bao, nhưng Edmund lại rất đề cao cảnh giác. Thấy Ngân Xuyên bắt đầu thôn tính cổ quyền của phòng kế toán Tây Phổ Huệ, Edmund như ngồi trên đống than, oán hận nghiến răng ken két. Để đuổi Ngân Xuyên đi, ông ta đã sử dụng đủ thủ đoạn, khiến không ít rắc rối nảy sinh, ấy vậy mà Ngân Xuyên lại đổi hẳn cái tính nhã nhặn từ tốn xưa kia, anh chẳng những không sợ giằng co đối chọi với ông ta, mà tác phong hành sự cũng trở nên quyết đoán tàn nhẫn. Hơn nữa anh còn là con người cực kỳ thận trọng, khiến chiêu trò của Edmund gần như không có đất dụng võ.
Mặt hàng chính của hiệu buôn Vĩnh Hòa là dầu trẩu. Khối lượng mỗi lô dầu trẩu xuất khẩu phải đạt tới 300 tấn Mỹ, với nguồn lực hiện tại, hiệu buôn Vĩnh Hòa sẽ rất khó xoay vòng vốn. Vì vậy nên Ngân Xuyên tranh thủ ghé tới những kho dầu trẩu nhỏ đang cần xuất khẩu hàng gấp nhưng không tìm được cửa ngõ tiêu thụ tại Xuyên Tương Ngạc, anh lợi dụng mối quan hệ của mình với hiệu buôn Tây, giật dây bắc cầu làm đại lý tiêu thụ hàng hóa cho các kho hàng nội địa. Anh áp dụng một phương pháp đại lý tiêu thụ với phương thức bảo hiểm hết sức đơn giản: Tìm hiệu buôn nước ngoài có nhu cầu nhập khẩu, để bọn họ tự điền chứng từ tín dụng vốn, ký kết hợp đồng, trong một khoảng thời gian nhất định, hiệu buôn Vĩnh Hòa sẽ chịu trách nhiệm mua hàng tại Trung Quốc rồi vận chuyển ra nước ngoài, sau đó lại kết toán ngoại hối với ngân hàng, trong đó mọi chi phí lưu trữ, vận chuyển, chiết xuất, xuất khẩu, bảo hiểm đều do phía tư sản nước ngoài chịu trách nhiệm, hiệu buôn Vĩnh Hòa chỉ thu tiền hoa hồng. Như vậy có phòng tránh những nguy hiểm do giá cả tăng giảm thất thường đem đến cho hiệu buôn Vĩnh Hòa, đồng thời còn giải quyết được vấn đề thiếu hụt vốn một cách tài tình.
Tháng kinh doanh đầu tiên, hiệu buôn Vĩnh Hòa đã bán được hơn bảy trăm tấn dầu trẩu, tháng thứ hai bán ra hai nghìn tấn, đến tháng thứ ba con số này đã lên tới bảy nghìn năm trăm tấn. Tháng thứ hai sau khi Vĩnh Hòa thành lập, hiệu bạc Phú Hưng được Ngân Xuyên rót vốn đã trở thành Ngân hàng Phú Hưng. Xét địa vị của Ngân Xuyên tại hiệu buôn Tây Phổ Huệ, tình hình đang ngày một tốt đẹp của hiệu buôn Vĩnh Hòa cùng vị cổ đông chủ chốt là nhân vật bang hội như Đồng Xuân Giang, thể theo tập tục chốn thương trường, những ông lớn sừng sỏ giới tài chính kinh doanh đã cùng gửi một lượng tiền giấy và vàng thỏi lớn vào Phú Hưng để chúc mừng.
Chẳng mấy chốc, văn phòng trên đường Bảo Thuận đã trở nên chật hẹp, đầu tháng Năm, Ngân Xuyên thành lập một văn phòng mới trên đường Tam Dân, Hán Khẩu cho hiệu buôn Vĩnh Hòa.
Cuối tháng Năm, Ngân Xuyên bắt gặp Mạnh Tử Chiêu tại Hội Tân Lâu trên đường Tam Dân.
Đây là nhà hàng nổi tiếng nhất đường Tam Dân, tầng một bán đồ ăn vặt, tầng hai bày tiệc rượu, cứ đến giờ ăn cơm là khách khứa lại xếp hàng đông nườm nượp, đến cả phòng bao tầng hai cũng thường có khách phải ghép bàn.
Rõ ràng Mạnh Tử Chiêu chưa đặt bàn trước, sau khi lên tầng, cậu khoanh tay đứng đợi ngoài cầu thang. Ngân Xuyên gọi món xong, vừa khéo nhìn thấy cậu, lâu không gặp, người điều hành Đại Quân lại càng tuấn tú phong độ, đôi mắt cậu vẫn sáng ngời, phấn chấn như xưa, nhưng ánh mắt lại chững chạc hơn nhiều.
“Cậu Mạnh,” Ngân Xuyên vẫy tay với Tử Chiêu, “nếu cậu không chê thì chúng ta có thể ngồi chung bàn.”
Nghe tiếng, Tử Chiêu ngoái lại nhìn, sắc mặt cậu hơi thay đổi nhưng vẫn tiến lại ngồi đối diện với anh.
“Lâu lắm rồi không gặp, nghe nói đợt trước cậu đi Malacca, cậu về từ bao giờ vậy?”
“Cũng được mấy hôm rồi.” Tử Chiêu cầm thực đơn lên.
“Đại Quân đã giành được hợp đồng SS Conte Verde rồi chứ?” Ngân Xuyên nói.
“Vâng,” Tử Chiêu trả lời rất thẳng thắn, “rất xin lỗi đã khiến các anh phải thất vọng.”
“Dù có thế nào đi chăng nữa cũng chúc mừng cậu.”
Tử Chiêu ngẩng đầu, híp mắt: “Cũng chúc mừng hiệu buôn Vĩnh Hòa của anh Trịnh mới mở cửa đã thành công vang dội tại Hán Khẩu.”
“Bánh bao thịt nước tương ở đây vừa miệng lắm.” Ngân Xuyên nói.
“Vâng, đậu hũ hướng dương cũng rất ngon.”
Cứ người nọ tung kẻ kia hứng như vậy, cả hai đều không khỏi mỉm cười.
Tử Chiêu nâng ly trà, muốn nói gì đó nhưng lại ngập ngừng, Ngân Xuyên cất lời: “Con bé vẫn rất ổn, tháng sau là sinh rồi.”
Tử Chiêu biến sắc, như đang vô cùng sửng sốt, Ngân Xuyên ngỡ cậu không biết chuyện Cảnh Ninh mang thai nên cũng không nhiều lời, anh cụng ly với cậu: “Dùng trà thay rượu để chúc con bé bình an suôn sẻ thôi.”
Tử Chiêu ngẩng đầu, uống cạn ly trà.
Dinh thự nhà họ Từ là biệt thự kiểu Tây, Cảnh Ninh trang trí lại phòng khách và phòng trà theo phong cách Trung Quốc, cô tìm được mấy mẫu chữ Hành nhỏ xíu đã được lồng khung gỗ lim trong kho, mang treo lên, mẫu chữ nhiều thì ngay ngắn rõ ràng, tự nhiên phóng khoáng, mẫu chữ ít thì được in giữa lớp giấy viết thư rắc kim sa, trông rất nhẹ nhàng thanh tao, vừa vặn phù hợp. Cô bày hai tấm bình phong cổ để ngăn đôi lối vào phòng khách, trong đó một lối có bày bàn vẽ với bút mực giấy nghiên và đồ trang trí, lối còn lại là bàn trà và ghế bành, các góc có thêm mấy chiếc ghế nhỏ. Tiết Tiểu mãn vừa qua, hoa thược dược nở rộ, đến cửa hàng hoa còn mua được cả mẫu đơn, Cảnh Ninh quyết định phối thược dược đỏ với mẫu đơn trắng, đặt một bình ở cửa, một bình ở phòng trà, một bình ở phòng khách.
Trừ hoa cả ra, phòng ốc gần như đã được trang trí xong xuôi cả.
Bà Từ vốn đã rất tán thành cách bài trí của Cảnh Ninh, Từ Chúc Linh cũng vô cùng hài lòng, ông chắp tay đi mấy vòng trong phòng khách, liên tục gật đầu: “Đẹp, đẹp lắm!”
Sau khi mọi người ngồi xuống ông mới bật mí nguồn cơn của buổi tiệc trà bất ngờ này, nguyên nhân là do một người bạn tri kỷ của ông đột nhiên qua đời vào mấy hôm trước.
Từ Chúc Linh than thở: “Khi ấy cha và Duệ Chi tạm biệt nhau tại ga tàu hỏa Đông Kinh, đến tận khi tàu lăn bánh ông ấy mới nhảy lên như một chú khỉ, vừa bám lấy cửa nói với cha rằng, anh nhớ phải tới Quảng Châu thăm tôi đấy. Đến tận giờ này cha vẫn chưa một lần tới gặp ông ấy, nhoáng cái đã hai mươi năm trôi qua rồi. Hôm nọ con trai ông ấy viết thư, nói ông ấy vừa qua đời tháng trước. Vậy là cha không thể gặp lại Duệ Chi nữa rồi. Nhiều lúc duyên phận giữa con người với nhau là thế đấy, chẳng ai nói từ biệt mà ông trời lại để chúng ta vĩnh viễn không còn cơ hội gặp lại, người ta thường bảo ‘Có duyên ắt sẽ có tâm’, nhưng phải có tâm thì mới có duyên được. Khi Duệ Chi còn sống, nếu cha thật sự quyết tâm muốn gặp ông ấy thì cũng không phải không được, nhưng lại chỉ mong may mắn gặp mặt nhau, lòng vẫn cứ nghĩ sau này sẽ còn cơ hội, nhưng không ngờ sự đời vô thường, cứ thế không hẹn ngày gặp lại. Vậy nên cha muốn nhân mấy ngày nay còn đang rảnh rỗi để mời bạn bè tới hội họp, vớt vát được chừng nào duyên phận thì hay chừng ấy.”
Cảnh Ninh cúi đầu, bà Từ tưởng cô mệt bèn bảo cô về phòng nghỉ. Đức Anh đi theo sau lưng cô, cậu ta khẽ cất lời: “Cha gửi thiệp mời cho cả người nhà họ Mạnh nữa, chắc là muốn cởi bỏ khúc mắc giữa hai nhà, nghe nói Tử Chiêu về Hán Khẩu lâu rồi, có lẽ cũng sẽ tới.”
Ý tại ngôn ngoại, cậu ta ám chỉ mình cũng mong khúc mắc của cô sẽ được gỡ bỏ.
Bước chân Cảnh Ninh không dừng lại: “Anh ấy sẽ không tới.”
Cô nói đúng.
Hôm tổ chức tiệc trà, Mạnh Đạo Quần và bác Trần – quản gia nhà họ Mạnh – tới tham dự một lát. Sức khỏe ông không được tốt, đi chuyến này là đã nể mặt Từ Chúc Linh rồi, ông tới vội, đi cũng nhanh. Cảnh Ninh thậm chí còn không có cơ hội gặp mặt ông. Còn Tử Chiêu thì không tới thật.
Lần này vợ chồng Cảnh Huyên và Ngân Xuyên cũng tham gia tiệc trà. Cảnh Huyên mang theo cả quà đã mua sẵn từ trước, khách nam mỗi người được một bộ áo len cashmere, khách nữ mỗi người nhận một chiếc khăn lụa tơ tằm; Ngân Xuyên đưa theo một nghệ sĩ dương cầm và nghệ sĩ sáo, Cảnh Ninh suy tính rất cẩn thận nhưng vẫn không tránh khỏi sai sót, dù bữa tiệc được trang trí rất tao nhã tinh tế, mang hơi hướng xưa cũ nhưng vẫn thiếu thiếu điều gì đó. Hai nhạc sĩ đến vừa khéo lại đệm thêm chút âm nhạc cho buổi tiệc trà. Khách khứa dự tiệc có lão thần triều Thanh, có chính khách, có doanh nhân lẫy lừng, cũng có cả học giả và họa sĩ, hầu hết đều là người qua lại thân thiết với Từ Chúc Linh, nghệ sĩ dương cầm đàn khúc “Tri âm tri kỷ”, mọi người cùng thưởng trà nghe nhạc, ngâm thơ điền từ, vô cùng thoải mái cởi mở.
Cảnh Ninh là thai phụ, dù chỉ cần xã giao qua loa nhưng như vậy cũng đã hơi quá sức cô. Cô tìm một góc yên tĩnh để ngồi xuống, đầu bếp làm đồ ngọt là người của nhà họ Phan được gọi tới đây, Cảnh Ninh cầm một miếng bánh ga tô, chậm rãi thưởng thức bột hạt dẻ phủ phía trên, như chộp được một khoảnh khắc tự tại ngắn ngủi. Đến khi vợ của Cảnh Huyên là Thiệu Anh Lan tiến lại, cô mới buông đồ ăn trong tay xuống để hàn huyên một cách khách sáo với chị dâu. Anh Lan sinh sống tại ngoài lâu năm, hoàn toàn không biết đến chuyện tày trời trái đạo của cô em chồng trước khi kết hôn, không rõ nỗi đau đớn đổi thay con người cô từng trải qua, Anh Lan chỉ cảm thấy Cảnh Ninh dịu dàng dễ gần, lịch sự lễ độ, lời nói cử chỉ thể hiện rõ sự chu đáo và phong độ của một mợ chủ, hiềm nỗi ánh mắt hơi cứng rắn, thoáng nét ngạo mạn được ẩn giấu kỹ càng. Đây chính là cặp mắt của một kẻ ương bướng không an phận.
Họ chỉ bâng quơ những chuyện tầm phào, Cảnh Ninh mệt mỏi cất lời xã giao, gắng gượng trò chuyện, cứ chốc chốc lông mi lại rũ xuống, khiến gương mặt trắng muốt lại càng tiều tụy. Bà Từ tinh ý, bèn tiến lại dặn cô về phòng nghỉ ngơi, lúc này cô mới thoát thân được. Lúc đi ngoài hành lang cô bị người ta gọi lại. Cảnh Ninh quay người, vẻ khó chịu lóe qua cặp mắt cô, rồi hóa thành nụ cười ấm áp.
“Anh cả.”
Ngân Xuyên liếc ra ngoài đại sảnh: “Để anh gọi Đức Anh tới.”
Cảnh Ninh nói: “Anh ấy là chủ tiệc, còn phải tiếp khách, sao có thể ngồi với vợ được, như vậy thì còn gì là lễ nghĩa.”
Ngân Xuyên mỉm cười, rất chậm rất chậm rãi.
Nụ cười ấy khiến Cảnh Ninh ngượng ngùng, cô cố gắng ép luồng nhiệt trên gò má tan đi, như một đứa trẻ đang vờ tỏ vẻ trưởng thành rồi lại bị người lớn nhìn thấu vẻ ngây ngô ấu trĩ. Cô tự nhận rằng bản thân đã là một bà chủ nhà đúng chuẩn, nhưng không biết vì sao mà cô cứ cảm thấy trước mặt Ngân Xuyên, mình vẫn cứ như một cô bé con, lúng túng mất tự nhiên.
Ánh nắng lúc ba giờ chiều xuyên qua khung cửa sổ kính, đường nét gương mặt và đôi mắt tràn ngập ân cần của anh trở nên dịu dàng tới lạ. Cả ngày hôm nay Cảnh Ninh đã sức cùng lực kiệt, đặc biệt là sau khi Mạnh Đạo Quần vội đến vội đi, cô lại càng khó chịu tới cùng cực, nhưng vẫn cố gồng mình lên, Ngân Xuyên cảm nhận được rõ ràng sự thay đổi phức tạp trong lòng cô, như ngửi rõ thấy hương thược dược cô đặt ngoài cổng.
“Mau đi nghỉ đi…” Anh nháy mắt với cô, hồi nhỏ cứ mỗi lần anh tỏ vẻ như vậy thì hầu như đều đang chuẩn bị cho cô một món đồ thú vị nào đó.
Cô hoài nghi nhìn anh, còn Ngân Xuyên chỉ cười rồi quay người bỏ đi. Về đến phòng, Cảnh Ninh cẩn thận nhìn xung quanh, băn khoăn không biết lát anh có cho người làm mang thứ gì đó vào không, nhưng lại chẳng có gì. Cô nằm xuống, mình mẩy đau nhức, rã rời kiệt sức, nhưng lại càng thấy phiền muộn hơn.
Tiếng sáo văng vẳng bay vào phòng.
Đây là giai điệu đã quá đỗi quen thuộc với cô. Ngay khi nốt nhạc đầu tiên vang lên, cả khúc nhạc đã chảy xuôi trong đầu cô một cách hoàn chỉnh.
“Love’s Sorrow”.
Thời niên thiếu kiêu ngạo tự ý biến khúc violon thành một bản dương cầm, đàn loạn một mạch, cô bé vô ưu vô lo sao có thể thật sự hiểu được nỗi ưu sầu của tình yêu. Mà đến khi cảm nhận được mùi vị của nó rồi, bị mắc trong tơ tình ngổn ngang trăm mối, mừng và tủi đều vượt qua những tưởng tượng khi trước, mọi chua cay ngọt đắng lưu lại trong ký ức lại trằn trọc trong lòng hết lần này tới lần khác như nhịp Valse nhẹ nhàng dứt khoát. Một cây sáo trúc mà cũng có thể khiến điệu nhạc Tây Dương trở nên rung động khác thường tới thế. Dù có những nốt nhạc không được giống lắm, giai điệu cũng hơi khác biệt nhưng tiếng nhạc trong veo thanh sạch, dịu dàng như trăng sáng trải bạc đầy đất, bầu trời trong xán lạn ngoài cửa như được ai lọc thành vầng trời sao tĩnh lặng, sao sáng kết thành tấm mạng, thành màn che dệt bởi hào quang treo trên trời cao, mang theo sự vỗ về nhân từ, nhìn xuống từng linh hồn bé nhỏ.
Cảnh Ninh chìm vào giấc mộng, cô tìm được sự lặng im ngắn ngủi quý giá.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook