Chai Thời Gian
-
Chương 22
Tôi nhớ chúng tôi đã đến Hart Yai vào một ngày mưa tầm tã. Từ bến xe buýt, chúng tôi đi trên một chiếc xe ba bánh giữa cơn mưa như trút nước đến khách sạn đặt trước. Bầu trời sầm sì, gió thổi mạnh. Những tấm ni lông trong suốt mà người lái xe kéo xuống che mưa mờ đi vì hơi thở và hơi ấm mà hai mẹ con phả ra khi chúng tôi ngồi khom lưng mình phía sau xe. Lúc lúc, gió thổi bạt tấm ni lông lên, hắt mưa ướt đẫm người. Chúng tôi không nhìn thấy gì ngoài kia. Chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng mưa rơi, gió giật từng cơn, xen vào đó là tiếng chuông leng keng của chiếc xe ba bánh. Xe không đi nhanh được, và cảnh ngộ ấy càng khiến chúng tôi bất an hơn.
Khách sạn thuộc hạng xoàng, đã khá xuống cấp và chật chội, nhưng nó là một thiên đường tuyệt vời đối với hai mẹ con khi chúng tôi đến nơi. Người hầu phòng vừa ra khỏi cửa, tôi lập tức lao vào phòng tắm để tắm rửa và gội đầu, để mặc mẹ lầm bầm một mình phía sau. Khi tôi bước ra, bà đang nói chuyện điện thoại. Dựa vào giọng điệu thận trọng và xã giao của bà, tôi đoán người bà đang nói chuyện hẳn phải là vợ của bác Amorn.
Quá chán ngán và bực mình không muốn dính líu sâu hơn vào việc này, tôi lẻn ra khỏi phòng, đi xuống cầu thang rồi vào quán cà phê ở tầng trệt. Mưa vẫn rơi, nhưng khi tôi nhìn xuyên qua màn mưa ra con phố bên ngoài, khung cảnh ấy lại trở nên đẹp đẽ lạ kỳ làm sao! Mọi người đứng trú mưa dưới mái che, người sốt ruột vì thời gian trôi đi mà mưa vẫn không hề có dấu hiệu ngớt, người thì im lặng thu mình. Nhũng cánh cửa gỗ của dãy nhà kiểu cổ phía bên kia con phố đóng chặt, và tôi lờ mờ thấy một mảnh giấy màu đỏ ghi chi chít chữ Hán được dán trên mỗi cánh cửa. một ông già người Tàu đội nón lá rộng bước ra từ màn mưa để thông ống cống bị rác bịt kín trước cửa nhà. Nom ông xông xáo và làm việc một cách sốt sắng như thể đó là việc quan trọng nhất đời vật.
Khi tôi trở về phòng, mẹ đang chải tóc trước một cái gương mờ.
“Đi với tao, Nat,” mẹ nói mà không quay ra nhìn tôi.
“Đi đâu ạ?” tôi vừa hỏi vừa ngồi xuống mép giường.
“Nhà bác Amorn.”
“Mẹ,” tôi mất hết kiên nhẫn kêu lên. “Giờ chúng ta đã không còn biết trốn vào đâu nữa rồi, đừng để họ tát vào mặt chúng ta thêm nữa!”
“Cái gì đến sẽ phải đến.” Mẹ đập mạnh cái lược xuống bàn trang điểm. “Nếu tao không giành lại được ông ấy, tao sẽ không về Bangkok.”
“Sao mẹ lại phải làm tất cả những việc này chú?” tôi cao giọng mà không hề hay biết. “Để làm cái gì?”
Bà im lặng. Một lúc lâu sau, bà quay ra nhìn thẳng vào tôi. Ánh mắt bà chứa đựng tất cả những gì bà muốn nói.
“Thôi được rồi.” Tôi giơ hai tay lên thở dài. “Mẹ muốn làm gì thì làm, mẹ ạ, nếu mẹ nghĩ bác Amorn quan trọng đến thế.”
Cơn mưa vừa tạnh thì chúng tôi lại rời khách sạn trên chiếc xe ba bánh. Tôi không ngừng nhìn trộm mẹ. Bà ngồi cắn môi trong yên lặng, lúc thì ngắm ngợi ủ ê như thể bà đang chật vật cố gắng đối phó với rối loạn nào đó trong nội tâm, lúc làm ra vẻ chực bỏ cuộc, nhưng rồi bà lại rướn cằm, thẳng lưng lên và để chiếc xe ba bánh đưa chúng tôi tới điểm đến cuối cùng.
Nhà bác Amorn ở Hart Yai là một cửa hàng kiêm nhà ở hai tầng, tầng dưới là tiệm vàng, nằm đối diện một chợ bán đồ tươi sống. Tên cửa hàng được viết bằng tiếng Trung, tôi không nhớ lắm. Cái tôi nhớ là một tủ kính lớn nằm song song với con phố, chứa đầy các món trang sức vàng thi nhau tỏa sáng dưới ánh đèn nê ông của tiệm. Nó khiến nơi đây trông giống kho chứa hay bảo tàng hơn là cửa hàng. Vợ bác Amorn ngồi đằng sau kho báu đấy. Bà ta trương lên như một tảng thịt lợn trên thớt ở chợ. Trông bà ta có cái vẻ của một người Trung Quốc đã sống trọn đời giữa những người Trung Quốc. Bà ta đánh phấn trắng toát, kẻ lông mày, tô son đậm, nom giống cái mặt nạ kịch Kabuki.
Tôi cũng nhớ cả chiếc áo ren màu xanh nõn chuối và những món vàng, trang sức lấp lánh bắt mắt khắp người bà ta.
Vợ bác Amorn miễn cưỡng đáp lại cái cúi chào lịch sự của mẹ tôi trong khi những người làm thuê ngồi cạnh bà ta trừng trừng nhìn chúng tôi với con mắt độc địa, không thèm giấu giếm sự khinh bỉ.
“Tôi đến để gặp ông Amorn,” mẹ nói sau một thoáng đứng đó chịu đựng ánh nhìn của họ.
“Ông ấy không có ở đây,” vợ bác Amorn nhấm nhẳng.
“Nóng lòng quá, đến mức phải lao xuống dưới này, hả?” một người làm thuê ngồi cạnh vợ bác Amorn châm biếm và lắc lư đầu.
“Tôi nghĩ chúng ta đã trao đổi rõ ràng qua điện thoại,” mẹ lạnh lẽo tiếp tục, thây kệ đám hỗn tạp kia.
“Nhưng ông ấy không ở đây,” bà kia né đòn, cao giọng lên.
“Nhanh! Nhanh lên! Đến xem con mụ mất nết đòi cướp chồng người khác kìa.”
“Mẹ…” Tôi chạm vào tay bà.
“Cái thứ đàn bà mặt dày không biết xấu hổ!” Những lời nhận xét cay độc cùng với những tiếng la ó, giễu cợt bắt đầu thu hút sự chú ý của người qua đường, họ dừng lại nhìn vẻ tò mò.
Tôi lùi lại một bước. Những giọt mưa đọng lại trên mái hiên rơi xuống vỉa hè bắn lên gấu quần tôi.
Tôi không hiểu điều gì đã khiến mẹ dần hết lòng kiêu hãnh để tìm đến đây và làm thế nào bà lại chịu đựng được cách đối xử như vậy. Nếu bà đã xử sự như thế trong quá khứ, biết đâu chúng tôi đã chẳng phải mất bố.
“Tốt thôi.” Giọng bà đanh lại. “Nếu chúng ta không thể có một cuộc đối thoại nghiêm túc, tôi sẽ gọi cảnh sát.”
Hai tiếng “cảnh sát” như có phép màu: đám người kia lập tức im miệng.
“Để làm gì?” Bà Kabuki hỏi sau một khoảng im lặng choáng váng. “Tôi chả làm điều gì sai cả.”
“Ông Amorn là chồng của tôi,” mẹ nhấn mạnh. “Chúng tôi đã kết hôn hợp pháp.”
“Tôi cũng là vợ ông ấy,” vợ bác Amorn run run đáp. “Chúng tôi đã sống cùng nhau hơn mười năm. Hỏi bất kỳ ai mà xem. Tất cả mọi người đều biết.”
“Nhưng, căn cứ theo pháp luật, tôi là vợ duy nhất của ông ấy.”
“y dà! Bà nói thứ rác rưởi gì thế!”
“Tôi sẽ về khách sạn chờ ông ấy ở đó.” Mẹ ném ra tối hậu thư của mình. “Bà phải bảo ông Amorn đến gặp tôi hôm nay, không thì đừng hòng gặp lại ông ấy nữa.”
Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường trở về khách sạn trên chiếc xe ba bánh. Tôi không đoán được mẹ đang nghĩ gì. Quá nhiều thứ đã xảy ra trong khoảng thời gian quá ngắn, và tất cả những thứ ấy đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý chúng tôi. Suốt quãng đường, tôi cố gắng nhớ lại một người phụ nữ khác tôi từng biết trong thời thơ ấu – người phụ nự dịu dàng, điềm tĩnh, người đã mòn mỏi đợi chờ một người đàn ông; người phụ nữ mỗi buổi chiều tà đã đưa tôi và Ning ra ngồi ngoài hiên nhà và cứ chậm rãi, trìu mến chải tóc mãi cho Ning, nhưng ánh mắt không một khắc nào rời bến đò ngoài kia. Có những hôm, chúng tôi ngồi cùng nhau như vậy đến khi những con đom đóm xung quanh cây lamphu ở mé nước bắt đầu lập lòe và bầy muỗi vo ve bên tai. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết người phụ nữ đó chờ đợi gì những hôm ấy. Có thể chỉ là đợi một người đàn ông – bất kỳ người đàn ông nào – mà bà có thể cảm thấy mình thuộc về.
Mẹ và tôi chia tay nhau ở chân cầu thang. Bà lên trên gác đi thẳng vào phòng còn tôi ra ngoài đi dạo. Cả thị trấn lại thức dậy sau mấy tiếng đồng hồ say ngủ trong màn mưa. Người xe qua lại tấp nập. Tiếng rao hàng huyên náo hòa lẫn cùng những tiếng la hét nóng nảy và tiếng nhạc uỳnh uỳnh phát ra từ cửa hàng băng đĩa phía bên kia đường.
Tôi đi bộ đến một quán cà phê nhỏ bên đường lọt thỏm giữa một dãy cửa hàng hiện đại. Tôi khẽ thả mình xuống một chiếc ghế gỗ ba chân rồi bảo bà lão người Hoa đang tập tễnh đến gần cho tôi cốc cà phê đá. Chiếc bàn đá hoa khập khiêng với những vệt nứt ố màu cà phê gợi nhắc tôi đến nhà hàng của người đầu bếp già ở Bang Rak – một chỗ cho người già với không khí xưa cũ. Chiếc quạt trần than vãn và rên rỉ như muốn gợi cầu lòng thương cảm cho những năm tháng lao động dài dằng dặc và quần quật của nó. Tôi đứng dậy hỏi xin bà lão một chiếc túi giấy, rồi bắt đầu dùng bút bi vẽ phác quán hàng trên phần giấy còn trống. Tôi khá vừa lòng với bức ký họa ấy, sau này tôi đã vẽ lại ở khổ lớn hơn thành bức tranh sơn dầu đầu tiên của mình và đặt tên là “Mưa rơi ở Hart Yai”, phỏng theo “Mưa không bao giờ rơi ở Nam California”, một bài hát nổi tiếng thời bấy giờ.
Chiều dần trôi khi tôi quay về khách sạn. Tôi thong thả lên phòng chực gõ cửa thì tiếng ồn ào vọng ra từ phòng ngăn tôi lại.
“Anh biết em đã chờ anh… em đã chờ anh suốt bấy lâu nay mà.”
“Anh biết…” Giọng người đàn ông có vẻ không thoải mái. “Nhưng em muốn anh phải làm gì? Chẳng lẽ một vợ ở đây, một vợ ở kia?”
“Sao anh không quyết một lần cho xong hẳn đi?”
“Anh không thể làm gì được bây giờ… còn bọn trẻ, còn những người quanh anh nữa.”
“Em đã nói với anh rằng em không ghét bỏ con anh. Anh yêu Nat và Ning như thể chúng là con anh vậy. thế thì sao em không thể yêu con anh như thể chúng là con em?... Và nếu anh đã tự tin với lựa chọn của mình thì sao anh lại phải quan tâm đến những gì người khác nói?... Amorn, cuộc đời ngắn ngủi lắm. Sao anh lại phải đặt số phận của anh vào tay kẻ khác và để mình chết đi mà vẫn không có được thứ mình muốn?... Em đã chịu đựng cảnh ngộ của em ngay từ đầu, nhưng sau khi gặp lại người đàn bà đó, em biết em không thể chịu đựng hơn nữa. Em hiểu anh hơn người đàn bà đó. Em biết anh muốn gì. Em biết phải làm làm gì để anh vui và thoải mái… anh có thể muốn có mọi thứ trong đời, và có thể một ngày nào đó anh sẽ có mọi thứ, nhưng anh không thể chia sẻ mọi thứ với tất cả mọi người. Không có nhiều người anh có thể cười hay khóc cùng đến thế đâu. Vậy khi, sao không thể để em làm người đó?”
“Anh yêu em… anh yêu em nhiều lắm.”
“Em cũng yêu anh. Em chưa bao giờ yêu ai nhiều như thế bao giờ.”
“Cho anh thời gian, được không?”
“…”
“Em có hiểu anh nói gì không?”
“…”
Tôi im lặng rời khỏi cửa quay lại xuống cầu thang, cảm thấy quá đỗi cô đơn. Ngoài kia, bầu trời tối đen, vậy mà dường như, vẫn không thể u tối bằng tâm trạng tôi lúc này.
Khách sạn thuộc hạng xoàng, đã khá xuống cấp và chật chội, nhưng nó là một thiên đường tuyệt vời đối với hai mẹ con khi chúng tôi đến nơi. Người hầu phòng vừa ra khỏi cửa, tôi lập tức lao vào phòng tắm để tắm rửa và gội đầu, để mặc mẹ lầm bầm một mình phía sau. Khi tôi bước ra, bà đang nói chuyện điện thoại. Dựa vào giọng điệu thận trọng và xã giao của bà, tôi đoán người bà đang nói chuyện hẳn phải là vợ của bác Amorn.
Quá chán ngán và bực mình không muốn dính líu sâu hơn vào việc này, tôi lẻn ra khỏi phòng, đi xuống cầu thang rồi vào quán cà phê ở tầng trệt. Mưa vẫn rơi, nhưng khi tôi nhìn xuyên qua màn mưa ra con phố bên ngoài, khung cảnh ấy lại trở nên đẹp đẽ lạ kỳ làm sao! Mọi người đứng trú mưa dưới mái che, người sốt ruột vì thời gian trôi đi mà mưa vẫn không hề có dấu hiệu ngớt, người thì im lặng thu mình. Nhũng cánh cửa gỗ của dãy nhà kiểu cổ phía bên kia con phố đóng chặt, và tôi lờ mờ thấy một mảnh giấy màu đỏ ghi chi chít chữ Hán được dán trên mỗi cánh cửa. một ông già người Tàu đội nón lá rộng bước ra từ màn mưa để thông ống cống bị rác bịt kín trước cửa nhà. Nom ông xông xáo và làm việc một cách sốt sắng như thể đó là việc quan trọng nhất đời vật.
Khi tôi trở về phòng, mẹ đang chải tóc trước một cái gương mờ.
“Đi với tao, Nat,” mẹ nói mà không quay ra nhìn tôi.
“Đi đâu ạ?” tôi vừa hỏi vừa ngồi xuống mép giường.
“Nhà bác Amorn.”
“Mẹ,” tôi mất hết kiên nhẫn kêu lên. “Giờ chúng ta đã không còn biết trốn vào đâu nữa rồi, đừng để họ tát vào mặt chúng ta thêm nữa!”
“Cái gì đến sẽ phải đến.” Mẹ đập mạnh cái lược xuống bàn trang điểm. “Nếu tao không giành lại được ông ấy, tao sẽ không về Bangkok.”
“Sao mẹ lại phải làm tất cả những việc này chú?” tôi cao giọng mà không hề hay biết. “Để làm cái gì?”
Bà im lặng. Một lúc lâu sau, bà quay ra nhìn thẳng vào tôi. Ánh mắt bà chứa đựng tất cả những gì bà muốn nói.
“Thôi được rồi.” Tôi giơ hai tay lên thở dài. “Mẹ muốn làm gì thì làm, mẹ ạ, nếu mẹ nghĩ bác Amorn quan trọng đến thế.”
Cơn mưa vừa tạnh thì chúng tôi lại rời khách sạn trên chiếc xe ba bánh. Tôi không ngừng nhìn trộm mẹ. Bà ngồi cắn môi trong yên lặng, lúc thì ngắm ngợi ủ ê như thể bà đang chật vật cố gắng đối phó với rối loạn nào đó trong nội tâm, lúc làm ra vẻ chực bỏ cuộc, nhưng rồi bà lại rướn cằm, thẳng lưng lên và để chiếc xe ba bánh đưa chúng tôi tới điểm đến cuối cùng.
Nhà bác Amorn ở Hart Yai là một cửa hàng kiêm nhà ở hai tầng, tầng dưới là tiệm vàng, nằm đối diện một chợ bán đồ tươi sống. Tên cửa hàng được viết bằng tiếng Trung, tôi không nhớ lắm. Cái tôi nhớ là một tủ kính lớn nằm song song với con phố, chứa đầy các món trang sức vàng thi nhau tỏa sáng dưới ánh đèn nê ông của tiệm. Nó khiến nơi đây trông giống kho chứa hay bảo tàng hơn là cửa hàng. Vợ bác Amorn ngồi đằng sau kho báu đấy. Bà ta trương lên như một tảng thịt lợn trên thớt ở chợ. Trông bà ta có cái vẻ của một người Trung Quốc đã sống trọn đời giữa những người Trung Quốc. Bà ta đánh phấn trắng toát, kẻ lông mày, tô son đậm, nom giống cái mặt nạ kịch Kabuki.
Tôi cũng nhớ cả chiếc áo ren màu xanh nõn chuối và những món vàng, trang sức lấp lánh bắt mắt khắp người bà ta.
Vợ bác Amorn miễn cưỡng đáp lại cái cúi chào lịch sự của mẹ tôi trong khi những người làm thuê ngồi cạnh bà ta trừng trừng nhìn chúng tôi với con mắt độc địa, không thèm giấu giếm sự khinh bỉ.
“Tôi đến để gặp ông Amorn,” mẹ nói sau một thoáng đứng đó chịu đựng ánh nhìn của họ.
“Ông ấy không có ở đây,” vợ bác Amorn nhấm nhẳng.
“Nóng lòng quá, đến mức phải lao xuống dưới này, hả?” một người làm thuê ngồi cạnh vợ bác Amorn châm biếm và lắc lư đầu.
“Tôi nghĩ chúng ta đã trao đổi rõ ràng qua điện thoại,” mẹ lạnh lẽo tiếp tục, thây kệ đám hỗn tạp kia.
“Nhưng ông ấy không ở đây,” bà kia né đòn, cao giọng lên.
“Nhanh! Nhanh lên! Đến xem con mụ mất nết đòi cướp chồng người khác kìa.”
“Mẹ…” Tôi chạm vào tay bà.
“Cái thứ đàn bà mặt dày không biết xấu hổ!” Những lời nhận xét cay độc cùng với những tiếng la ó, giễu cợt bắt đầu thu hút sự chú ý của người qua đường, họ dừng lại nhìn vẻ tò mò.
Tôi lùi lại một bước. Những giọt mưa đọng lại trên mái hiên rơi xuống vỉa hè bắn lên gấu quần tôi.
Tôi không hiểu điều gì đã khiến mẹ dần hết lòng kiêu hãnh để tìm đến đây và làm thế nào bà lại chịu đựng được cách đối xử như vậy. Nếu bà đã xử sự như thế trong quá khứ, biết đâu chúng tôi đã chẳng phải mất bố.
“Tốt thôi.” Giọng bà đanh lại. “Nếu chúng ta không thể có một cuộc đối thoại nghiêm túc, tôi sẽ gọi cảnh sát.”
Hai tiếng “cảnh sát” như có phép màu: đám người kia lập tức im miệng.
“Để làm gì?” Bà Kabuki hỏi sau một khoảng im lặng choáng váng. “Tôi chả làm điều gì sai cả.”
“Ông Amorn là chồng của tôi,” mẹ nhấn mạnh. “Chúng tôi đã kết hôn hợp pháp.”
“Tôi cũng là vợ ông ấy,” vợ bác Amorn run run đáp. “Chúng tôi đã sống cùng nhau hơn mười năm. Hỏi bất kỳ ai mà xem. Tất cả mọi người đều biết.”
“Nhưng, căn cứ theo pháp luật, tôi là vợ duy nhất của ông ấy.”
“y dà! Bà nói thứ rác rưởi gì thế!”
“Tôi sẽ về khách sạn chờ ông ấy ở đó.” Mẹ ném ra tối hậu thư của mình. “Bà phải bảo ông Amorn đến gặp tôi hôm nay, không thì đừng hòng gặp lại ông ấy nữa.”
Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường trở về khách sạn trên chiếc xe ba bánh. Tôi không đoán được mẹ đang nghĩ gì. Quá nhiều thứ đã xảy ra trong khoảng thời gian quá ngắn, và tất cả những thứ ấy đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý chúng tôi. Suốt quãng đường, tôi cố gắng nhớ lại một người phụ nữ khác tôi từng biết trong thời thơ ấu – người phụ nự dịu dàng, điềm tĩnh, người đã mòn mỏi đợi chờ một người đàn ông; người phụ nữ mỗi buổi chiều tà đã đưa tôi và Ning ra ngồi ngoài hiên nhà và cứ chậm rãi, trìu mến chải tóc mãi cho Ning, nhưng ánh mắt không một khắc nào rời bến đò ngoài kia. Có những hôm, chúng tôi ngồi cùng nhau như vậy đến khi những con đom đóm xung quanh cây lamphu ở mé nước bắt đầu lập lòe và bầy muỗi vo ve bên tai. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết người phụ nữ đó chờ đợi gì những hôm ấy. Có thể chỉ là đợi một người đàn ông – bất kỳ người đàn ông nào – mà bà có thể cảm thấy mình thuộc về.
Mẹ và tôi chia tay nhau ở chân cầu thang. Bà lên trên gác đi thẳng vào phòng còn tôi ra ngoài đi dạo. Cả thị trấn lại thức dậy sau mấy tiếng đồng hồ say ngủ trong màn mưa. Người xe qua lại tấp nập. Tiếng rao hàng huyên náo hòa lẫn cùng những tiếng la hét nóng nảy và tiếng nhạc uỳnh uỳnh phát ra từ cửa hàng băng đĩa phía bên kia đường.
Tôi đi bộ đến một quán cà phê nhỏ bên đường lọt thỏm giữa một dãy cửa hàng hiện đại. Tôi khẽ thả mình xuống một chiếc ghế gỗ ba chân rồi bảo bà lão người Hoa đang tập tễnh đến gần cho tôi cốc cà phê đá. Chiếc bàn đá hoa khập khiêng với những vệt nứt ố màu cà phê gợi nhắc tôi đến nhà hàng của người đầu bếp già ở Bang Rak – một chỗ cho người già với không khí xưa cũ. Chiếc quạt trần than vãn và rên rỉ như muốn gợi cầu lòng thương cảm cho những năm tháng lao động dài dằng dặc và quần quật của nó. Tôi đứng dậy hỏi xin bà lão một chiếc túi giấy, rồi bắt đầu dùng bút bi vẽ phác quán hàng trên phần giấy còn trống. Tôi khá vừa lòng với bức ký họa ấy, sau này tôi đã vẽ lại ở khổ lớn hơn thành bức tranh sơn dầu đầu tiên của mình và đặt tên là “Mưa rơi ở Hart Yai”, phỏng theo “Mưa không bao giờ rơi ở Nam California”, một bài hát nổi tiếng thời bấy giờ.
Chiều dần trôi khi tôi quay về khách sạn. Tôi thong thả lên phòng chực gõ cửa thì tiếng ồn ào vọng ra từ phòng ngăn tôi lại.
“Anh biết em đã chờ anh… em đã chờ anh suốt bấy lâu nay mà.”
“Anh biết…” Giọng người đàn ông có vẻ không thoải mái. “Nhưng em muốn anh phải làm gì? Chẳng lẽ một vợ ở đây, một vợ ở kia?”
“Sao anh không quyết một lần cho xong hẳn đi?”
“Anh không thể làm gì được bây giờ… còn bọn trẻ, còn những người quanh anh nữa.”
“Em đã nói với anh rằng em không ghét bỏ con anh. Anh yêu Nat và Ning như thể chúng là con anh vậy. thế thì sao em không thể yêu con anh như thể chúng là con em?... Và nếu anh đã tự tin với lựa chọn của mình thì sao anh lại phải quan tâm đến những gì người khác nói?... Amorn, cuộc đời ngắn ngủi lắm. Sao anh lại phải đặt số phận của anh vào tay kẻ khác và để mình chết đi mà vẫn không có được thứ mình muốn?... Em đã chịu đựng cảnh ngộ của em ngay từ đầu, nhưng sau khi gặp lại người đàn bà đó, em biết em không thể chịu đựng hơn nữa. Em hiểu anh hơn người đàn bà đó. Em biết anh muốn gì. Em biết phải làm làm gì để anh vui và thoải mái… anh có thể muốn có mọi thứ trong đời, và có thể một ngày nào đó anh sẽ có mọi thứ, nhưng anh không thể chia sẻ mọi thứ với tất cả mọi người. Không có nhiều người anh có thể cười hay khóc cùng đến thế đâu. Vậy khi, sao không thể để em làm người đó?”
“Anh yêu em… anh yêu em nhiều lắm.”
“Em cũng yêu anh. Em chưa bao giờ yêu ai nhiều như thế bao giờ.”
“Cho anh thời gian, được không?”
“…”
“Em có hiểu anh nói gì không?”
“…”
Tôi im lặng rời khỏi cửa quay lại xuống cầu thang, cảm thấy quá đỗi cô đơn. Ngoài kia, bầu trời tối đen, vậy mà dường như, vẫn không thể u tối bằng tâm trạng tôi lúc này.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook