Bóng Hình Của Gió
-
Chương 51
JULIÁN CARAX VƯỢT QUA BIÊN GIỚI NƯỚC PHÁP chỉ vài ngày trước khi Nội chiến nổ ra. Ấn bản đầu tiên và duy nhất của Bóng hình của gió, in xong hai tuần trước đó, cũng chịu chung số phận không được biết đến như những cuốn trước. Lúc này, Miquel hầu như không thể làm việc được: tuy anh vẫn ngồi trước máy đánh chữ hai ba tiếng mỗi ngày, song sự ốm yếu và cơn sốt ngăn không cho anh khơi được nhiều nhặn gì hơn một tia yếu ớt những ngôn từ lên trang giấy. Anh đã mất vài chuyên mục thường kỳ do trễ hạn. Những tờ báo khác sợ phải xuất bản các bài vết của anh sau khi nhận được những lời đe dọa nặc danh. Anh chỉ có một mục thường nhật trên tờ Nhật báo Barcelona, mà anh ký dưới tên Adrián Maltés. Bóng ma chiến tranh đã có thể cảm nhận được trong không khí. Cả đất nước sặc mùi lo sợ. Không có gì bận tâm, quá yếu đuối không thể than phiền, Miquel thường hay đi xuống quảng trường hoặc tản bước lên Đại lộ Nhà thờ, luôn mang bên mình một trong các cuốn sách của Julián như thể một lá bùa. Lần cuối cùng bác sĩ cân cho anh, anh chỉ còn năm mươi bảy ký. Chúng tôi đã nghe trên đài tin tức cuộc nổi dậy ở Marốc, và vài tiếng sau một đồng nghiệp làm báo của Miquel đến cho chúng tôi hay là Cansinos, tổng biên tập, đã bị giết do một viên đạn bắn vào cổ, ngay đối diện Canaletas Café, hai giờ trước. Không ai dám dời cái xác đi, nó vẫn nằm ở đấy, máu vấy đầy vỉa hè.
Chẳng mấy chốc diễn ra những ngày ngắn ngủi nhưng căng thẳng khởi đầu cho nỗi kinh hoàng. Quân của tướng Goded tiến về Đại lộ Diagonal và phố Gracia để và trung tâm, nơi vụ đọ súng bắt đầu. Hôm ấy Chủ nhật, nhiều người vẫn ra đường, nghĩ rằng họ sẽ cắm trại cả ngày dọc con đường đến Las Planas. Tuy nhiên, vẫn còn hai năm nữa mới đến những ngày đen tối nhất của cuộc chiến ở Barcelona. Sau khi bùng phát cuộc giao tranh, quân của tướng Goded đầu hàng, do một phép màu hoặc liên lạc yếu kém giữa các chỉ huy. Chính quyền của Lluís Companys dường như giành lại quyền kiểm soát, nhưng vài tuần tiếp đó điều thực sự xảy ra sẽ trở nên rõ ràng.
Barcelona đã rơi vào tay liên minh vô chính phủ. Sau nhiều ngày bạo động và giao tranh trên phố, tin đồn cuối cùng cũng lan ra rằng bốn tướng lĩnh của quân phiến loạn đã bị xử tử trong Nhà tù Montjuïc không lâu sau vụ đầu hàng. Một người bạn của Miquel, một nhà báo Anh có mặt ở vụ xử tử, nói rằng đội hành hình gồm bảy người, nhưng đến phút chót hàng chục dân quân tham gia vào. Khi họ nổ súng, những thây người bị xuyên đạn nhiều đến mức đổ vụn xuống thành từng mảnh không biết phần xác nào của ai và khi bỏ vào quan tài thì hầu như chúng chỉ còn là thể lỏng. Có những kẻ muốn tin rằng thế là cuộc xung đột đã kết thúc, rằng quân phát xít sẽ không bao giờ đến được Barcelona và quân nổi loạn sẽ theo đó mà tiêu tán.
Chúng tôi được biết tin Julián đang ở Barcelona đúng vào ngày quân Goded đầu hàng, khi chúng tôi nhận được thư của Irene Marceau, trong thư bà kể cho chúng tôi rằng Julián đã giết Jorge Aldaya trong một cuộc đấu súng, ở nghĩa trang Père Lachaise. Ngay trước khi Aldaya tắt thở, một kẻ nặc danh báo cho cảnh sát sự việc. Julián buộc phải trốn khỏi Paris ngay lập tức, bị cảnh sát lùng đuổi, họ truy nã anh ấy về tội giết người. Chúng tôi biết chắc ai đã gọi cuộc điện thoại ấy. Chúng tôi lo lắng chờ tin của Julián, để có thể cảnh báo cho anh mối nguy hiểm đang rình rập, và bảo vệ anh trước cái bẫy xấu xa do Fumero giăng ra: khám phá ra sự thật. Ba ngày sau Julián vẫn chưa xuất hiện. Miquel không muốn chia sẻ nỗi lo lắng của anh với tôi, nhưng tôi biết rất rõ anh đang nghĩ gì. Julián quay về vì Penélope, không phải vì chúng tôi.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ấy biết sự thật?” tôi liên tục hỏi.
“Chúng ta phải bảo đảm là cậu ấy sẽ không biết,” Miquel trả lời.
Điều đầu tiên anh ấy sẽ phát hiện ra là gia đình Aldaya đã biến mất. Anh ấy sẽ không biết nhiều nơi có thể tìm thấy Penélope. Chúng tôi đưa ra một danh sách những nơi như vậy và bắt đầu cuộc hành trình. Dinh thự trên Đại lộ Tibidabo là một chốn hoang vắng, đóng kín sau những sợi xích và lớp thường xuân. Một người bán hoa, bán hoa hồng và cẩm chướng buộc thành bó ở góc phố đối diện, bảo ông ớ đã thấy gần đây có gặp một người đến gần căn nhà, nhưng đó là một ông già, chân hơi khập khiễng.
“Nói thực, ông ta có vẻ thô lỗ. Tôi định bán hoa cẩm chướng cho ông ta cài ve áo, thế mà ông ta bảo tôi xéo đi, đang chiến tranh loạn lạc lấy thì giờ đâu mà hoa với hoét.”
Ông ta không thấy ai khác nữa. Miquel mua vài bông hồng héo, và cho ông ta số điện thoại phòng biên tập của Nhật báo Barcelona. Ông ta có thể để lại lời nhắn ở đó nếu tình cờ thấy ai trông giống như người chúng tôi mô tả. Điểm đến tiếp theo của chúng tôi là trường San Gabriel, nơi Miquel đã gặp Fernando Ramos, bạn học cũ của anh ấy.
Fernando giờ là giáo viên dạy tiếng La tinh và Hy Lạp và được phong thầy tu. Ông ta như rụng rời khi thấy Miquel trông quá tiều tụy. Ông ta bảo Julián không đến gặp ông ta, nhưng ông ta hứa sẽ liên lạc với chúng tôi nếu anh ấy có đến, và sẽ cố giữ anh ấy lại. Fumero đã đến đó trước chúng tôi, ông ta thú nhận với vẻ hoảng hốt, hắn đã bảo ông ta rằng, trong thời chiến tranh, ông ta phải đề cao cảnh giác.
“Hắn bảo rất nhiều người sẽ chết, và những người mang đồng phục – như quân lính hay cha đạo – không thể ngăn chặn được súng đạn...”
Fernando Ramos thú nhận rằng không rõ Fumero thuộc đơn vị hay phe nhóm nào, mà ông ta cũng không muốn hỏi hắn. Thật khó mà mô tả cho cậu những ngày đầu tiên ấy của cuộc chiến ở Barcelona, Daniel ạ. Không khí dường như nhiễm độc vì nỗi sợ và căm thù. Người ta nhìn nhau nghi hoặc, và đường phố lặng như tờ khiến lòng người thắt lại. Từng ngày, từng giờ, tin đồn mới lại lan đi. Tôi nhớ, có đêm tôi và Miquel đang dạo bộ dọc Ramblas để về nhà. Phố vắng cùng cực. Miquel nhìn những tòa nhà, những khuôn mặt dòm ngó nấp đằng sau cửa sổ đóng chặt, và lưu ý thấy người ta theo dõi những bóng đen trên phố ra sao. Anh bảo anh có thể cảm thấy những lưỡi dao đang được mài sắc đằng sau những bức tường kia.
Ngày tiếp theo, chúng tôi đến cửa hàng mũ Fortuny, không nhiều hy vọng sẽ tìm được Julián ở đó. Một người sống trong tòa nhà bảo rằng ông bán mũ quá kinh hãi trước diễn biến những ngày qua nên đã khóa trái trong cửa hàng. Dù chúng tôi có gõ cửa đến mấy ông ta cũng không ra mở. Chiều hôm ấy có một vụ nổ súng cách một dãy phố, và những vũng máu vẫn còn tươi trên phố San Antonio. Một con ngựa chết trên mặt đường lát gạch đang bị một đàn chó hoang giằng xé cái dạ dày lỗ chỗ đạn, trong khi đám trẻ con đứng nhìn và ném đá lũ chó. Chúng tôi chỉ thấy được khuôn mặt khiếp đảm của ng bán mũ qua lớp lưới sắt nơi cửa. Chúng tôi bảo rằng đang tìm con trai ông, Julián. Ông bán mũ đáp con trai ông đã chết và dọa báo cảnh sát nếu chúng tôi không cút đi. Chúng tôi rời nơi ấy với cảm giác chán chường.
Trong nhiều ngày, chúng tôi lùng sục các quán cà phê và cửa hàng để hỏi tin Julián. Chúng tôi tìm đến các khách sạn, nhà nghỉ, trạm ga, ngân hàng, nơi anh ấy có thể đến đổi tiền – không ai nhớ đã gặp một người giống với mô tả về Julián. Chúng tôi e sợ anh ấy có lẽ đã rơi vào nanh vuốt của Fumero, và Miquel gặng nhờ một đồng nghiệp ở tòa báo, người có đầu mối liên lạc với trụ sở cảnh sát, để tìm xem Julián có bị vào tù không. Vẫn không có dấu hiệu của anh ấy. Hai tuần trôi qua, cứ như thể Julián đã biến mất vào không khí vậy.
Miquel gần như không ngủ, hy vọng có tin tức về bạn mình. Một buổi tối, anh về nhà sau cuộc đi dạo thường nhật ban chiều, mang theo một chai vang đỏ và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác. Nhân viên tòa báo đã tặng cho anh, vì thư ký tòa soạn cho biết chuyên mục của anh sẽ bị bỏ.
“Họ không muốn rắc rối, và anh có thể hiểu.”
“Thế anh định sẽ làm gì?”
“Say xỉn, bắt đầu thì vậy cái đã...”
Miquel uống chưa được nửa ly rượu, nhưng tôi nốc hết gần như cả chai vào cái dạ dày trống rỗng mà không hay. Chừng nửa đêm, tôi gà gật rồi ngủ gục xuống sofa. Tôi mơ thấy Miquel đang hôn vào trán tôi và lấy khăn đắp cho tôi. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy một cơn đau nhức đâm bổ vào đầu, mà tôi nhận ra ấy là dạo đầu của một cơn đau đầu dữ dội. Khi tìm Miquel để nguyền rủa anh vì đã có ý nghĩ khôn ngoan khiến tôi say mềm, tôi nhận ra tôi ở một mình trong căn nhà. Tôi đến chỗ bàn thì thấy một bức thư trên máy chữ, anh dặn tôi không nên lo lắng, và hãy đợi anh ở nhà. Anh đi tìm Julián và sẽ sớm mang anh ấy về. Cuối thư anh bảo rằng anh yêu tôi. Bức thư rơi khỏi tay tôi. Rồi tôi nhận ra rằng trước khi đi Miquel đã lấy hết đồ đạc của mình trên bàn, như thể anh không định dùng nó nữa. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh.
Chẳng mấy chốc diễn ra những ngày ngắn ngủi nhưng căng thẳng khởi đầu cho nỗi kinh hoàng. Quân của tướng Goded tiến về Đại lộ Diagonal và phố Gracia để và trung tâm, nơi vụ đọ súng bắt đầu. Hôm ấy Chủ nhật, nhiều người vẫn ra đường, nghĩ rằng họ sẽ cắm trại cả ngày dọc con đường đến Las Planas. Tuy nhiên, vẫn còn hai năm nữa mới đến những ngày đen tối nhất của cuộc chiến ở Barcelona. Sau khi bùng phát cuộc giao tranh, quân của tướng Goded đầu hàng, do một phép màu hoặc liên lạc yếu kém giữa các chỉ huy. Chính quyền của Lluís Companys dường như giành lại quyền kiểm soát, nhưng vài tuần tiếp đó điều thực sự xảy ra sẽ trở nên rõ ràng.
Barcelona đã rơi vào tay liên minh vô chính phủ. Sau nhiều ngày bạo động và giao tranh trên phố, tin đồn cuối cùng cũng lan ra rằng bốn tướng lĩnh của quân phiến loạn đã bị xử tử trong Nhà tù Montjuïc không lâu sau vụ đầu hàng. Một người bạn của Miquel, một nhà báo Anh có mặt ở vụ xử tử, nói rằng đội hành hình gồm bảy người, nhưng đến phút chót hàng chục dân quân tham gia vào. Khi họ nổ súng, những thây người bị xuyên đạn nhiều đến mức đổ vụn xuống thành từng mảnh không biết phần xác nào của ai và khi bỏ vào quan tài thì hầu như chúng chỉ còn là thể lỏng. Có những kẻ muốn tin rằng thế là cuộc xung đột đã kết thúc, rằng quân phát xít sẽ không bao giờ đến được Barcelona và quân nổi loạn sẽ theo đó mà tiêu tán.
Chúng tôi được biết tin Julián đang ở Barcelona đúng vào ngày quân Goded đầu hàng, khi chúng tôi nhận được thư của Irene Marceau, trong thư bà kể cho chúng tôi rằng Julián đã giết Jorge Aldaya trong một cuộc đấu súng, ở nghĩa trang Père Lachaise. Ngay trước khi Aldaya tắt thở, một kẻ nặc danh báo cho cảnh sát sự việc. Julián buộc phải trốn khỏi Paris ngay lập tức, bị cảnh sát lùng đuổi, họ truy nã anh ấy về tội giết người. Chúng tôi biết chắc ai đã gọi cuộc điện thoại ấy. Chúng tôi lo lắng chờ tin của Julián, để có thể cảnh báo cho anh mối nguy hiểm đang rình rập, và bảo vệ anh trước cái bẫy xấu xa do Fumero giăng ra: khám phá ra sự thật. Ba ngày sau Julián vẫn chưa xuất hiện. Miquel không muốn chia sẻ nỗi lo lắng của anh với tôi, nhưng tôi biết rất rõ anh đang nghĩ gì. Julián quay về vì Penélope, không phải vì chúng tôi.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ấy biết sự thật?” tôi liên tục hỏi.
“Chúng ta phải bảo đảm là cậu ấy sẽ không biết,” Miquel trả lời.
Điều đầu tiên anh ấy sẽ phát hiện ra là gia đình Aldaya đã biến mất. Anh ấy sẽ không biết nhiều nơi có thể tìm thấy Penélope. Chúng tôi đưa ra một danh sách những nơi như vậy và bắt đầu cuộc hành trình. Dinh thự trên Đại lộ Tibidabo là một chốn hoang vắng, đóng kín sau những sợi xích và lớp thường xuân. Một người bán hoa, bán hoa hồng và cẩm chướng buộc thành bó ở góc phố đối diện, bảo ông ớ đã thấy gần đây có gặp một người đến gần căn nhà, nhưng đó là một ông già, chân hơi khập khiễng.
“Nói thực, ông ta có vẻ thô lỗ. Tôi định bán hoa cẩm chướng cho ông ta cài ve áo, thế mà ông ta bảo tôi xéo đi, đang chiến tranh loạn lạc lấy thì giờ đâu mà hoa với hoét.”
Ông ta không thấy ai khác nữa. Miquel mua vài bông hồng héo, và cho ông ta số điện thoại phòng biên tập của Nhật báo Barcelona. Ông ta có thể để lại lời nhắn ở đó nếu tình cờ thấy ai trông giống như người chúng tôi mô tả. Điểm đến tiếp theo của chúng tôi là trường San Gabriel, nơi Miquel đã gặp Fernando Ramos, bạn học cũ của anh ấy.
Fernando giờ là giáo viên dạy tiếng La tinh và Hy Lạp và được phong thầy tu. Ông ta như rụng rời khi thấy Miquel trông quá tiều tụy. Ông ta bảo Julián không đến gặp ông ta, nhưng ông ta hứa sẽ liên lạc với chúng tôi nếu anh ấy có đến, và sẽ cố giữ anh ấy lại. Fumero đã đến đó trước chúng tôi, ông ta thú nhận với vẻ hoảng hốt, hắn đã bảo ông ta rằng, trong thời chiến tranh, ông ta phải đề cao cảnh giác.
“Hắn bảo rất nhiều người sẽ chết, và những người mang đồng phục – như quân lính hay cha đạo – không thể ngăn chặn được súng đạn...”
Fernando Ramos thú nhận rằng không rõ Fumero thuộc đơn vị hay phe nhóm nào, mà ông ta cũng không muốn hỏi hắn. Thật khó mà mô tả cho cậu những ngày đầu tiên ấy của cuộc chiến ở Barcelona, Daniel ạ. Không khí dường như nhiễm độc vì nỗi sợ và căm thù. Người ta nhìn nhau nghi hoặc, và đường phố lặng như tờ khiến lòng người thắt lại. Từng ngày, từng giờ, tin đồn mới lại lan đi. Tôi nhớ, có đêm tôi và Miquel đang dạo bộ dọc Ramblas để về nhà. Phố vắng cùng cực. Miquel nhìn những tòa nhà, những khuôn mặt dòm ngó nấp đằng sau cửa sổ đóng chặt, và lưu ý thấy người ta theo dõi những bóng đen trên phố ra sao. Anh bảo anh có thể cảm thấy những lưỡi dao đang được mài sắc đằng sau những bức tường kia.
Ngày tiếp theo, chúng tôi đến cửa hàng mũ Fortuny, không nhiều hy vọng sẽ tìm được Julián ở đó. Một người sống trong tòa nhà bảo rằng ông bán mũ quá kinh hãi trước diễn biến những ngày qua nên đã khóa trái trong cửa hàng. Dù chúng tôi có gõ cửa đến mấy ông ta cũng không ra mở. Chiều hôm ấy có một vụ nổ súng cách một dãy phố, và những vũng máu vẫn còn tươi trên phố San Antonio. Một con ngựa chết trên mặt đường lát gạch đang bị một đàn chó hoang giằng xé cái dạ dày lỗ chỗ đạn, trong khi đám trẻ con đứng nhìn và ném đá lũ chó. Chúng tôi chỉ thấy được khuôn mặt khiếp đảm của ng bán mũ qua lớp lưới sắt nơi cửa. Chúng tôi bảo rằng đang tìm con trai ông, Julián. Ông bán mũ đáp con trai ông đã chết và dọa báo cảnh sát nếu chúng tôi không cút đi. Chúng tôi rời nơi ấy với cảm giác chán chường.
Trong nhiều ngày, chúng tôi lùng sục các quán cà phê và cửa hàng để hỏi tin Julián. Chúng tôi tìm đến các khách sạn, nhà nghỉ, trạm ga, ngân hàng, nơi anh ấy có thể đến đổi tiền – không ai nhớ đã gặp một người giống với mô tả về Julián. Chúng tôi e sợ anh ấy có lẽ đã rơi vào nanh vuốt của Fumero, và Miquel gặng nhờ một đồng nghiệp ở tòa báo, người có đầu mối liên lạc với trụ sở cảnh sát, để tìm xem Julián có bị vào tù không. Vẫn không có dấu hiệu của anh ấy. Hai tuần trôi qua, cứ như thể Julián đã biến mất vào không khí vậy.
Miquel gần như không ngủ, hy vọng có tin tức về bạn mình. Một buổi tối, anh về nhà sau cuộc đi dạo thường nhật ban chiều, mang theo một chai vang đỏ và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác. Nhân viên tòa báo đã tặng cho anh, vì thư ký tòa soạn cho biết chuyên mục của anh sẽ bị bỏ.
“Họ không muốn rắc rối, và anh có thể hiểu.”
“Thế anh định sẽ làm gì?”
“Say xỉn, bắt đầu thì vậy cái đã...”
Miquel uống chưa được nửa ly rượu, nhưng tôi nốc hết gần như cả chai vào cái dạ dày trống rỗng mà không hay. Chừng nửa đêm, tôi gà gật rồi ngủ gục xuống sofa. Tôi mơ thấy Miquel đang hôn vào trán tôi và lấy khăn đắp cho tôi. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy một cơn đau nhức đâm bổ vào đầu, mà tôi nhận ra ấy là dạo đầu của một cơn đau đầu dữ dội. Khi tìm Miquel để nguyền rủa anh vì đã có ý nghĩ khôn ngoan khiến tôi say mềm, tôi nhận ra tôi ở một mình trong căn nhà. Tôi đến chỗ bàn thì thấy một bức thư trên máy chữ, anh dặn tôi không nên lo lắng, và hãy đợi anh ở nhà. Anh đi tìm Julián và sẽ sớm mang anh ấy về. Cuối thư anh bảo rằng anh yêu tôi. Bức thư rơi khỏi tay tôi. Rồi tôi nhận ra rằng trước khi đi Miquel đã lấy hết đồ đạc của mình trên bàn, như thể anh không định dùng nó nữa. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook