All You Need Is Kill
-
Chương 3-2: Full Metal Bitch (2)
Dịch giả: Maththunder
Rita từng thường xuyên tự hỏi thế giới này sẽ ra sao nếu có cỗ máy có thể đo đạc tuyệt đối tiềm năng của một người.
Nếu DNA quyết định chiều cao hay hình thù khuôn mặt của một người, tại sao nó không quy định nốt những đặc điểm ít hiển nhiên hơn? Cha và mẹ của chúng ta, cả ông và bà nữa –– sau cùng mỗi cá thể đều là sản phẩm của máu chảy trong huyết mạch của những người chui ra trước. Một cỗ máy công bằng có khả năng đọc được thông tin đó và đánh giá giá trị của nó, đơn giản như đo tầm cao, cân nặng, đo huyết áp, thử sức kéo.
Chẳng may ai đó có tiềm năng khám phá ra một công thức để mở khóa những điều huyền bí trong vũ trụ mà lại trở thành tác giả truyện viễn tưởng thì sao? Chẳng may người có tiềm năng tạo ra những hương vị tinh tế vô song trong ngành ẩm thực mà lại đặt tâm huyết vào kĩ sư dân sự thì thế nào? Có cái mà chúng ta muốn làm, và có cái mà chúng ta có thể làm. Khi hai thứ đó không trùng nhau, liệu ta nên theo đuổi con đường nào để tìm lấy hạnh phúc đây?
***
Khi Rita còn bé, cô được tặng quà nếu làm hai việc: chơi trò ném móng ngựa và giả vờ khóc. Cái suy nghĩ rằng DNA của cô chứa đựng tiềm năng trở thành một chiến binh vĩ đại còn chưa xuất hiện trong tâm trí cô.
Trước khi cô ấy mất cha mẹ vào tuổi mười lăm, cô chỉ là một đứa trẻ bình thường ghét cay ghét đắng mái tóc như củ cà rốt của mình. Cô không giỏi thể thao cho lắm, và điểm số tại trường cấp hai cũng chỉ tàng tàng. Cô không hề bị cô lập vì ghét ớt ngọt hay cần tây. Chỉ có kĩ năng giả vờ khóc của cô là thật sự khác thường. Cô không thể lừa mẹ mình, người có đôi mắt chim ưng nhìn thấu mọi mưu mẹo của cô, nhưng bất kì ai khác cũng đều bị cô gạt chỉ sau hai ba giây rỉ nước. Một điều khiến Rita khó chịu khác là mái tóc đỏ cô thừa hưởng từ người bà. Những điểm khác về cô đều giống hệt bất kỳ người nào trong ba triệu người Mỹ.
Gia đình của cô sống tại Pittsfield, một thị trấn nhỏ ở phía đông của Sông Mississippi. Không phải là Pittsfield ở Florida, cũng không phải là Pittsfield ở Massachusetts, mà là Pittsfield ở Illinois. Cha của cô là con út trong một gia đình võ đạo –– chủ yếu là Nhu thuật. Nhưng Rita không muốn tới trường quân sự hay chơi thể thao. Cô chỉ muốn ở nhà và nuôi lợn.
Ngoại trừ việc thanh niên trai tráng đăng ký vào UDF, cuộc sống của những người tại Pittsfield khá yên bình. Đây là một nơi khiến bạn dễ dàng quên đi chuyện loài người đang chiến đấu chống lại những kẻ thù kỳ lạ và kinh khủng.
Rita không ngại sống tại một thị trấn nhỏ và chẳng nhìn thấy ai ngoài bốn ngàn người mãi. Lắng nghe tiếng lợn kêu éc éc ngày qua ngày có lẽ sẽ hơi buồn chán, nhưng không khí rất trong lành, và bầu trời thì rộng mở. Cô có một nơi bí mật mà cô chuyên dùng để ngủ ngày và tìm cỏ bốn lá.
Một nhà buôn già đã nghỉ hưu có một tiệm tạp hóa bên trong thị trấn. Ông ấy bán mọi thứ từ đồ ăn thức uống tới đồ kim khí như những chiếc thánh giá bạc nho nhỏ dùng để đuổi lũ Mimic đi. Ông ấy có bán loại hạt cà phê hoàn toàn tự nhiên mà bạn không thể tìm tại nơi nào khác.
Những đợt tấn công của Mimic đã biến phần lớn đất nông nghiệp tại những nước đang phát triển thành hoang mạc, khiến cho những đồ ăn thức uống xa xỉ như cà phê tự nhiên, trà và thuốc lá trở nên cực kỳ khó tìm. Chúng đã được thay bằng những hương liệu nhân tạo có vị na ná mà thông thường thì thất bại thảm hại.
Thị trấn của Rita là một trong nhiều thị trấn liệt vào mục cung cấp sản phẩm và gia súc cần thiết cho một quốc gia nghèo đói và quân đội của nó.
Những nạn nhân đầu tiên của Mimic cũng là những người yếu đuối nhất: những dân tộc nghèo nhất tại Châu Phi và Nam Mỹ. Những quần đảo tại Nam Á. Những nước thiếu năng lực bảo vệ bản thân phải trơ mắt nhìn sa mạc xâm thực vào đất lành của họ. Người ta bỏ hết những cây công nghiệp –– cà phê, trà, thuốc lá và tiêu, những thứ mà các nước giàu thèm thuồng –– và bắt đầu trồng cây bông, đậu và lúa mì, bất cứ thứ gì chống lại được nạn đói. Những quốc gia phát triển về cơ bản đã có thể ngăn chặn được Mimic tại bờ biển, nhưng phần lớn sản phẩm họ lấy ra để trợ cấp đã biết mất khỏi những khu chợ và trên kệ những cửa hàng vào ban đêm.
Cha của Rita, người đã lớn lên trong một thế giới mà cả những người phương tây cũng được thưởng thức hương vị sushi tươi mỗi ngày, là kiểu người, không có phóng đại đâu nhé, nghiện cà phê nặng. Ông ấy không hút thuốc hay uống rượu –– chỉ có cà phê là thói xấu khó bỏ. Thường thường ông ấy sẽ ôm Rita và lén lút tới chỗ cửa hiệu của ông cụ khi mẹ Rita không để ý.
Ông cụ có làn da màu đồng và bộ râu trắng rậm rạp.
Khi ông không kể chuyện, ông ngậm chặt lấy tẩu thuốc và phả ra những vòng tròn khói. Cả ngày ông ấy chỉ ngồi với đống hàng hóa vây quanh, những hàng nhập khẩu từ những quốc gia mà người ta chả mấy ai biết. Ở đó có những con vật chạm trổ bạc. Những con búp bê lố bịch. Những cột Totem khắc những khuôn mặt của chim chóc hay những con thú lạ. Không khí bên trong tiệm là một hỗn hợp của khói thuốc của ông già, mùi hạt tiêu và những hạt cà phê hoàn toàn tự nhiên vẫn còn nghe mùi đất nơi chúng được trồng.
“Những hạt này lấy từ Chile. Còn chỗ này là từ Malawi, ở Châu Phi. Và chỗ này thì vận chuyển dọc con đường tơ lụa từ Vietnam tới Châu Âu,” ông ta kể cho Rita. Với cô, những hạt này trông chả khác gì nhau, nhưng cô vẫn chỉ, và ông cụ vẫn cứ kể rành mạch nguồn gốc.
“Hôm nay có loại từ Ranzania không?” Cha của cô rất hiểu biết về cà phê.
“Sao, anh uống hết mẻ trước rồi à?”
“Ông bắt đầu nói chuyện y hệt vợ tôi rồi đấy. Tôi biết nói gì đây? Chúng là món khoái khẩu của tôi.”
“Cái này thì sao –– chỗ này không tầm thường đâu. Cà phê Thượng hạng Kona trồng từ Hòn đảo Lớn của Hawaii. Ở New York hay Washington cũng chẳng mấy khi tìm thấy chúng đâu. Cứ ngửi mùi thì biết!”
Những nếp nhăn trên đầu ông cụ gấp sâu lại khi ông cười. Cha của Rita khoanh tay, hoàn toàn bị ấn tượng. Ông ấy đang tận hưởng khoảnh khắc tiến thoái lưỡng nan khó khăn này. Quầy thu tiền cao hơn một tẹo so với đầu Rita, nên cô ấy nhón chân lên để nhìn rõ hơn.
“Có Hawaii này. Cháu đã thấy cái này trên TV.”
“Cháu cũng biết nhiều nhỉ, cô bé.”
“Ông không nên đùa như thế. Bọn trẻ con xem tin tức nhiều hơn người trưởng thành nhiều. Mấy gã trưởng thành không xem bóng chày thì cũng chỉ xem bóng bầu dục.”
“Cái này thì cậu nói đúng.” Ông cụ gật đầu. “Ừ, đây là chỗ cuối cùng rồi. Những hạt cà phê Kona cuối cùng trên bề mặt quả đất. Một khi chỗ này hết thì nó cũng hết.”
“Sao ông kiếm được thứ như vậy?”
“Chà, đó là bí mật.”
Cái túi vải chất đầy những hạt màu kem. Chúng tròn hơn một tí so với hạt cà phê thông thường, nhưng các mặt khác thì trông rất phổ thông.
Rita cầm một hạt lên và quan sát. Mẫu vật chưa được nướng chín này sờ trông hay hay. Cô tưởng tượng về những hạt được phơi khô dưới ánh mặt trời trên khoảng trời trong xanh, trải rộng tới tận xích đạo. Cha của cô đã từng kể cho cô nghe về bầu trời bên ngoài những hòn đảo. Rita không bận tâm chuyện khung trời tại Pittsfield có màu xanh thật nhạt và trong như nước, nhưng có một lần cô từng muốn được nhìn thấy những khoảng trời chất đầu những tia nắng vàng ấm áp sưởi ấm từng hạt cà phê.
“Cháu có thích cà phê không, cô bé?”
“Không hẳn. Nó chẳng ngọt chút nào. Cháu thích sô cô la hơn.”
“Phí thế.”
“Mặc dù vậy nó có mùi rất thơm. Và chỗ này thật sự là thơm nhất,” Rita nói.
“Ah, vậy là cháu vẫn còn hy vọng. Cháu có muốn trông coi cửa tiệm hộ ông khi ông nghỉ hưu không?”
Cha của Rita, cho tới lúc đó vẫn chưa rời mắt khỏi chỗ hạt cà phê ngắt lời. “Đừng có nhét những ý tưởng đó vào đầu con bé. Chúng tôi cần người làm việc trên đồng, và con bé là tất cả những gì bọn tôi có.”
“Vậy có lẽ con bé có thể tìm một thằng bé hay một cô bé hứa hẹn để tôi trao lại cửa tiệm, nhỉ?”
“Cháu không biết, cháu sẽ suy nghĩ về chuyện đó,” Rita hờ hững đáp.
Cha của cô đặt túi cà phê mà ông ngưỡng mộ xuống và quỳ xuống nhìn vào mắt Rita.
“Cha tưởng con muốn giúp chuyện đồng áng?”
Ông cụ vội vàng xen vào, “Để con bé tự suy nghĩ đi. Đây vẫn là đất nước tự do mà.”
Một tia sáng lóe lên trong đôi mắt non nớt của Rita. “Đúng vậy, Cha. Con phải chọn, đúng không? Chà, chỉ cần họ không bắt con vào quân đội.”
“Cháu cũng không thích quân đội à? UDF cũng không đến nỗi nào đâu mà.”
Cha của Rita gắt lên. “Ông đang nói chuyện với con gái tôi đấy nhé.”
“Nhưng bất kỳ ai cũng có thể đăng ký nhập ngũ khi đủ mười tám tuổi. Chúng ta đều có quyền bảo vệ đất nước mình, con trai hay con gái đều vậy cả. Đấy là một cơ hội không tồi đâu.”
“Chỉ là tôi cũng không chắc tôi có muốn cho con vào quân đội hay không.”
“Cha, ngay từ đầu con đã không muốn nhập ngũ rồi mà.”
“Ồ, tại sao vậy?” Vẻ tò mò hiện rõ trên khuôn mặt ông cụ.
“Mimic không ăn được. Cháu có đọc trong sách là vậy. Và chúng ta không nên giết động vật mà chúng ta không thể ăn chỉ vì mục đích là giết chúng. Cô giáo và mục sư của bọn cháu, bất kỳ ai cũng đều nói vậy.”
“Lớn lên cháu sẽ trở thành một đứa bé bướng bỉnh đây.”
“Cháu chỉ muốn được giống mọi người khác thôi.”
Cha của Rita và ông cụ nhìn nhau rồi khúc khích cười đầy thấu hiểu. Rita không hiểu có gì buồn cười ở đây.
Bốn năm sau, lũ Mimic tấn công Pittsfield. Cuộc đột kích đến giữa một mùa đông khắc nghiệt đã lâu rồi không có. Trên đường, tuyết rơi nhanh đến mức người ta dọn không xuể. Thành phố lạnh tới mức bị đình trệ mọi hoạt động.
Lúc đó chẳng ai biết cả, nhưng Mimic đã gửi một vài con kiểu kiểu như đội trinh sát trước cuộc tập kích, một nhóm nhỏ và cơ động với mục đích tiến xa hết mức có thể rồi đem thông tin chiến lược trở về. Tháng một ấy, ba con Mimic đã lén vượt qua phòng tuyến của UDF và tiến thẳng tới Sông Mississippi mà không bị phát hiện.
Nếu người trong thị trấn không để ý thấy có gì đó đáng ngờ đang di chuyển trong bóng tối, rất có thể đội trinh sát sẽ đặc biệt chú ý tới Pittsfield, với gia súc và nhiều mẫu ruộng đất. Nhưng họ đã để ý, và ngọn lửa khạc ra từ khẩu súng săn giữa màn đêm dẫn tới một cuộc thảm sát.
Hệ thống phòng vệ bị tê liệt do tuyết. Phải mất nhiều giờ thì UDF mới được trực thăng chở tới. Đến lúc đó, một nửa những tòa nhà trong thị trấn đã bị đốt thành tro và một phần ba trong tổng số mười lăm nghìn người trong thị trấn đã bị giết. Thị trưởng, người truyền giáo, cả ông cụ ở tiệm tạp hóa cũng chết.
Những người đàn ông chọn việc trồng ngũ cốc thay vì nhập ngũ đã chết khi chiến đấu để bảo vệ gia đình họ. Những cánh tay nhỏ bé chẳng thể làm gì lũ Mimic. Đạn cũng chỉ sượt qua người nó. Những ngọn giáo của lũ Mimic xé toang những bức tường gỗ và kể cả tường gạch ngọt như xé giấy.
Cuối cùng, một đám người trong trấn, người ngợm tả tơi, đã hạ gục ba con Mimic bằng tay không. Họ đợi cho tới lúc Mimic chuẩn bị bắn thì lao tới chỗ chúng, đẩy mũi giáo của chúng hướng về phía nhau. Họ giết hai con theo cách ấy, và đuổi con thứ ba đi.
Mẹ của Rita quàng tay che chở cho Rita, bà đang hấp hối. Rita nhìn từng bông tuyết rơi khi cha cô chiến đấu và ngã xống. Từng cột khói bay lên từ ngọn lửa. Tro tàn tung bay giữa bầu trởi đêm, tạo ra một khung cảnh tuyệt mỹ. Khung trời rực đỏ màu máu.
Dưới xác chết đã lạnh dần của mẹ cô, Rita suy nghĩ. Mẹ của cô, một con Chiên sùng đạo, đã bảo cô rằng giả vờ khóc là một lời nói dối, và nếu cô nói dối, khi Chúa thử thách linh hồn bất tử của cô thì cô sẽ không được lên thiên đường. Khi mẹ Rita bảo với cô rằng nếu Mimic không chết thì chúng sẽ không được lên thiên đường, cô bé tỏ ra giận dữ. Mimic còn không phải là sinh vật từ Trái đất. Chúng không có linh hồn, đúng không? Nếu chúng có linh hồn, và chúng thật sự có lên thiên đường, Rita tự hỏi con người và Mimic có đánh nhau ở trên đấy không. Có lẽ đó là cái đang chờ đợi cha mẹ cô.
Chính phủ đưa Rita tới sống cùng vài người bà con xa. Cô ăn trộm hộ chiếu từ một người tị nạn lớn hơn cô ba tuổi, sống trong một căn hộ xập xệ nhà bên cạnh và tới văn phòng tuyển dụng UDF.
Xuyên suốt mọi miền tổ quốc, người ta phát chán với chiến tranh rồi. UDF cần càng nhiều lính càng tốt để đẩy ra tiền tuyến.
Đưa mẫu đơn đăng kí ghi rõ không phạm phải tội ác đặc biệt nghiêm trọng nào, và quân đội sẽ không loại bạn ra đâu. Theo luật, Rita vẫn chưa đủ tuổi để đăng kí, nhưng phòng tuyển dụng còn chả thèm liếc tới hộ chiếu ăn cắp của cô trước khi đưa cô hợp đồng.
Quân đội cho người ta một ngày để rút lại đơn nếu họ suy nghĩ lại. Rita, giờ họ là Vrataski, dùng cả ngày cuối cùng để nằm dài trên cái ghế đá đặt bên ngoài văn phòng UDF.
Rita không cần cơ hội suy nghĩ lại. Cô chỉ muốn một việc: giết đến con Mimic cuối cùng đã xâm lược hành tinh cô. Cô biết cô có thể làm được. Cô là con gái của cha cô.
Rita từng thường xuyên tự hỏi thế giới này sẽ ra sao nếu có cỗ máy có thể đo đạc tuyệt đối tiềm năng của một người.
Nếu DNA quyết định chiều cao hay hình thù khuôn mặt của một người, tại sao nó không quy định nốt những đặc điểm ít hiển nhiên hơn? Cha và mẹ của chúng ta, cả ông và bà nữa –– sau cùng mỗi cá thể đều là sản phẩm của máu chảy trong huyết mạch của những người chui ra trước. Một cỗ máy công bằng có khả năng đọc được thông tin đó và đánh giá giá trị của nó, đơn giản như đo tầm cao, cân nặng, đo huyết áp, thử sức kéo.
Chẳng may ai đó có tiềm năng khám phá ra một công thức để mở khóa những điều huyền bí trong vũ trụ mà lại trở thành tác giả truyện viễn tưởng thì sao? Chẳng may người có tiềm năng tạo ra những hương vị tinh tế vô song trong ngành ẩm thực mà lại đặt tâm huyết vào kĩ sư dân sự thì thế nào? Có cái mà chúng ta muốn làm, và có cái mà chúng ta có thể làm. Khi hai thứ đó không trùng nhau, liệu ta nên theo đuổi con đường nào để tìm lấy hạnh phúc đây?
***
Khi Rita còn bé, cô được tặng quà nếu làm hai việc: chơi trò ném móng ngựa và giả vờ khóc. Cái suy nghĩ rằng DNA của cô chứa đựng tiềm năng trở thành một chiến binh vĩ đại còn chưa xuất hiện trong tâm trí cô.
Trước khi cô ấy mất cha mẹ vào tuổi mười lăm, cô chỉ là một đứa trẻ bình thường ghét cay ghét đắng mái tóc như củ cà rốt của mình. Cô không giỏi thể thao cho lắm, và điểm số tại trường cấp hai cũng chỉ tàng tàng. Cô không hề bị cô lập vì ghét ớt ngọt hay cần tây. Chỉ có kĩ năng giả vờ khóc của cô là thật sự khác thường. Cô không thể lừa mẹ mình, người có đôi mắt chim ưng nhìn thấu mọi mưu mẹo của cô, nhưng bất kì ai khác cũng đều bị cô gạt chỉ sau hai ba giây rỉ nước. Một điều khiến Rita khó chịu khác là mái tóc đỏ cô thừa hưởng từ người bà. Những điểm khác về cô đều giống hệt bất kỳ người nào trong ba triệu người Mỹ.
Gia đình của cô sống tại Pittsfield, một thị trấn nhỏ ở phía đông của Sông Mississippi. Không phải là Pittsfield ở Florida, cũng không phải là Pittsfield ở Massachusetts, mà là Pittsfield ở Illinois. Cha của cô là con út trong một gia đình võ đạo –– chủ yếu là Nhu thuật. Nhưng Rita không muốn tới trường quân sự hay chơi thể thao. Cô chỉ muốn ở nhà và nuôi lợn.
Ngoại trừ việc thanh niên trai tráng đăng ký vào UDF, cuộc sống của những người tại Pittsfield khá yên bình. Đây là một nơi khiến bạn dễ dàng quên đi chuyện loài người đang chiến đấu chống lại những kẻ thù kỳ lạ và kinh khủng.
Rita không ngại sống tại một thị trấn nhỏ và chẳng nhìn thấy ai ngoài bốn ngàn người mãi. Lắng nghe tiếng lợn kêu éc éc ngày qua ngày có lẽ sẽ hơi buồn chán, nhưng không khí rất trong lành, và bầu trời thì rộng mở. Cô có một nơi bí mật mà cô chuyên dùng để ngủ ngày và tìm cỏ bốn lá.
Một nhà buôn già đã nghỉ hưu có một tiệm tạp hóa bên trong thị trấn. Ông ấy bán mọi thứ từ đồ ăn thức uống tới đồ kim khí như những chiếc thánh giá bạc nho nhỏ dùng để đuổi lũ Mimic đi. Ông ấy có bán loại hạt cà phê hoàn toàn tự nhiên mà bạn không thể tìm tại nơi nào khác.
Những đợt tấn công của Mimic đã biến phần lớn đất nông nghiệp tại những nước đang phát triển thành hoang mạc, khiến cho những đồ ăn thức uống xa xỉ như cà phê tự nhiên, trà và thuốc lá trở nên cực kỳ khó tìm. Chúng đã được thay bằng những hương liệu nhân tạo có vị na ná mà thông thường thì thất bại thảm hại.
Thị trấn của Rita là một trong nhiều thị trấn liệt vào mục cung cấp sản phẩm và gia súc cần thiết cho một quốc gia nghèo đói và quân đội của nó.
Những nạn nhân đầu tiên của Mimic cũng là những người yếu đuối nhất: những dân tộc nghèo nhất tại Châu Phi và Nam Mỹ. Những quần đảo tại Nam Á. Những nước thiếu năng lực bảo vệ bản thân phải trơ mắt nhìn sa mạc xâm thực vào đất lành của họ. Người ta bỏ hết những cây công nghiệp –– cà phê, trà, thuốc lá và tiêu, những thứ mà các nước giàu thèm thuồng –– và bắt đầu trồng cây bông, đậu và lúa mì, bất cứ thứ gì chống lại được nạn đói. Những quốc gia phát triển về cơ bản đã có thể ngăn chặn được Mimic tại bờ biển, nhưng phần lớn sản phẩm họ lấy ra để trợ cấp đã biết mất khỏi những khu chợ và trên kệ những cửa hàng vào ban đêm.
Cha của Rita, người đã lớn lên trong một thế giới mà cả những người phương tây cũng được thưởng thức hương vị sushi tươi mỗi ngày, là kiểu người, không có phóng đại đâu nhé, nghiện cà phê nặng. Ông ấy không hút thuốc hay uống rượu –– chỉ có cà phê là thói xấu khó bỏ. Thường thường ông ấy sẽ ôm Rita và lén lút tới chỗ cửa hiệu của ông cụ khi mẹ Rita không để ý.
Ông cụ có làn da màu đồng và bộ râu trắng rậm rạp.
Khi ông không kể chuyện, ông ngậm chặt lấy tẩu thuốc và phả ra những vòng tròn khói. Cả ngày ông ấy chỉ ngồi với đống hàng hóa vây quanh, những hàng nhập khẩu từ những quốc gia mà người ta chả mấy ai biết. Ở đó có những con vật chạm trổ bạc. Những con búp bê lố bịch. Những cột Totem khắc những khuôn mặt của chim chóc hay những con thú lạ. Không khí bên trong tiệm là một hỗn hợp của khói thuốc của ông già, mùi hạt tiêu và những hạt cà phê hoàn toàn tự nhiên vẫn còn nghe mùi đất nơi chúng được trồng.
“Những hạt này lấy từ Chile. Còn chỗ này là từ Malawi, ở Châu Phi. Và chỗ này thì vận chuyển dọc con đường tơ lụa từ Vietnam tới Châu Âu,” ông ta kể cho Rita. Với cô, những hạt này trông chả khác gì nhau, nhưng cô vẫn chỉ, và ông cụ vẫn cứ kể rành mạch nguồn gốc.
“Hôm nay có loại từ Ranzania không?” Cha của cô rất hiểu biết về cà phê.
“Sao, anh uống hết mẻ trước rồi à?”
“Ông bắt đầu nói chuyện y hệt vợ tôi rồi đấy. Tôi biết nói gì đây? Chúng là món khoái khẩu của tôi.”
“Cái này thì sao –– chỗ này không tầm thường đâu. Cà phê Thượng hạng Kona trồng từ Hòn đảo Lớn của Hawaii. Ở New York hay Washington cũng chẳng mấy khi tìm thấy chúng đâu. Cứ ngửi mùi thì biết!”
Những nếp nhăn trên đầu ông cụ gấp sâu lại khi ông cười. Cha của Rita khoanh tay, hoàn toàn bị ấn tượng. Ông ấy đang tận hưởng khoảnh khắc tiến thoái lưỡng nan khó khăn này. Quầy thu tiền cao hơn một tẹo so với đầu Rita, nên cô ấy nhón chân lên để nhìn rõ hơn.
“Có Hawaii này. Cháu đã thấy cái này trên TV.”
“Cháu cũng biết nhiều nhỉ, cô bé.”
“Ông không nên đùa như thế. Bọn trẻ con xem tin tức nhiều hơn người trưởng thành nhiều. Mấy gã trưởng thành không xem bóng chày thì cũng chỉ xem bóng bầu dục.”
“Cái này thì cậu nói đúng.” Ông cụ gật đầu. “Ừ, đây là chỗ cuối cùng rồi. Những hạt cà phê Kona cuối cùng trên bề mặt quả đất. Một khi chỗ này hết thì nó cũng hết.”
“Sao ông kiếm được thứ như vậy?”
“Chà, đó là bí mật.”
Cái túi vải chất đầy những hạt màu kem. Chúng tròn hơn một tí so với hạt cà phê thông thường, nhưng các mặt khác thì trông rất phổ thông.
Rita cầm một hạt lên và quan sát. Mẫu vật chưa được nướng chín này sờ trông hay hay. Cô tưởng tượng về những hạt được phơi khô dưới ánh mặt trời trên khoảng trời trong xanh, trải rộng tới tận xích đạo. Cha của cô đã từng kể cho cô nghe về bầu trời bên ngoài những hòn đảo. Rita không bận tâm chuyện khung trời tại Pittsfield có màu xanh thật nhạt và trong như nước, nhưng có một lần cô từng muốn được nhìn thấy những khoảng trời chất đầu những tia nắng vàng ấm áp sưởi ấm từng hạt cà phê.
“Cháu có thích cà phê không, cô bé?”
“Không hẳn. Nó chẳng ngọt chút nào. Cháu thích sô cô la hơn.”
“Phí thế.”
“Mặc dù vậy nó có mùi rất thơm. Và chỗ này thật sự là thơm nhất,” Rita nói.
“Ah, vậy là cháu vẫn còn hy vọng. Cháu có muốn trông coi cửa tiệm hộ ông khi ông nghỉ hưu không?”
Cha của Rita, cho tới lúc đó vẫn chưa rời mắt khỏi chỗ hạt cà phê ngắt lời. “Đừng có nhét những ý tưởng đó vào đầu con bé. Chúng tôi cần người làm việc trên đồng, và con bé là tất cả những gì bọn tôi có.”
“Vậy có lẽ con bé có thể tìm một thằng bé hay một cô bé hứa hẹn để tôi trao lại cửa tiệm, nhỉ?”
“Cháu không biết, cháu sẽ suy nghĩ về chuyện đó,” Rita hờ hững đáp.
Cha của cô đặt túi cà phê mà ông ngưỡng mộ xuống và quỳ xuống nhìn vào mắt Rita.
“Cha tưởng con muốn giúp chuyện đồng áng?”
Ông cụ vội vàng xen vào, “Để con bé tự suy nghĩ đi. Đây vẫn là đất nước tự do mà.”
Một tia sáng lóe lên trong đôi mắt non nớt của Rita. “Đúng vậy, Cha. Con phải chọn, đúng không? Chà, chỉ cần họ không bắt con vào quân đội.”
“Cháu cũng không thích quân đội à? UDF cũng không đến nỗi nào đâu mà.”
Cha của Rita gắt lên. “Ông đang nói chuyện với con gái tôi đấy nhé.”
“Nhưng bất kỳ ai cũng có thể đăng ký nhập ngũ khi đủ mười tám tuổi. Chúng ta đều có quyền bảo vệ đất nước mình, con trai hay con gái đều vậy cả. Đấy là một cơ hội không tồi đâu.”
“Chỉ là tôi cũng không chắc tôi có muốn cho con vào quân đội hay không.”
“Cha, ngay từ đầu con đã không muốn nhập ngũ rồi mà.”
“Ồ, tại sao vậy?” Vẻ tò mò hiện rõ trên khuôn mặt ông cụ.
“Mimic không ăn được. Cháu có đọc trong sách là vậy. Và chúng ta không nên giết động vật mà chúng ta không thể ăn chỉ vì mục đích là giết chúng. Cô giáo và mục sư của bọn cháu, bất kỳ ai cũng đều nói vậy.”
“Lớn lên cháu sẽ trở thành một đứa bé bướng bỉnh đây.”
“Cháu chỉ muốn được giống mọi người khác thôi.”
Cha của Rita và ông cụ nhìn nhau rồi khúc khích cười đầy thấu hiểu. Rita không hiểu có gì buồn cười ở đây.
Bốn năm sau, lũ Mimic tấn công Pittsfield. Cuộc đột kích đến giữa một mùa đông khắc nghiệt đã lâu rồi không có. Trên đường, tuyết rơi nhanh đến mức người ta dọn không xuể. Thành phố lạnh tới mức bị đình trệ mọi hoạt động.
Lúc đó chẳng ai biết cả, nhưng Mimic đã gửi một vài con kiểu kiểu như đội trinh sát trước cuộc tập kích, một nhóm nhỏ và cơ động với mục đích tiến xa hết mức có thể rồi đem thông tin chiến lược trở về. Tháng một ấy, ba con Mimic đã lén vượt qua phòng tuyến của UDF và tiến thẳng tới Sông Mississippi mà không bị phát hiện.
Nếu người trong thị trấn không để ý thấy có gì đó đáng ngờ đang di chuyển trong bóng tối, rất có thể đội trinh sát sẽ đặc biệt chú ý tới Pittsfield, với gia súc và nhiều mẫu ruộng đất. Nhưng họ đã để ý, và ngọn lửa khạc ra từ khẩu súng săn giữa màn đêm dẫn tới một cuộc thảm sát.
Hệ thống phòng vệ bị tê liệt do tuyết. Phải mất nhiều giờ thì UDF mới được trực thăng chở tới. Đến lúc đó, một nửa những tòa nhà trong thị trấn đã bị đốt thành tro và một phần ba trong tổng số mười lăm nghìn người trong thị trấn đã bị giết. Thị trưởng, người truyền giáo, cả ông cụ ở tiệm tạp hóa cũng chết.
Những người đàn ông chọn việc trồng ngũ cốc thay vì nhập ngũ đã chết khi chiến đấu để bảo vệ gia đình họ. Những cánh tay nhỏ bé chẳng thể làm gì lũ Mimic. Đạn cũng chỉ sượt qua người nó. Những ngọn giáo của lũ Mimic xé toang những bức tường gỗ và kể cả tường gạch ngọt như xé giấy.
Cuối cùng, một đám người trong trấn, người ngợm tả tơi, đã hạ gục ba con Mimic bằng tay không. Họ đợi cho tới lúc Mimic chuẩn bị bắn thì lao tới chỗ chúng, đẩy mũi giáo của chúng hướng về phía nhau. Họ giết hai con theo cách ấy, và đuổi con thứ ba đi.
Mẹ của Rita quàng tay che chở cho Rita, bà đang hấp hối. Rita nhìn từng bông tuyết rơi khi cha cô chiến đấu và ngã xống. Từng cột khói bay lên từ ngọn lửa. Tro tàn tung bay giữa bầu trởi đêm, tạo ra một khung cảnh tuyệt mỹ. Khung trời rực đỏ màu máu.
Dưới xác chết đã lạnh dần của mẹ cô, Rita suy nghĩ. Mẹ của cô, một con Chiên sùng đạo, đã bảo cô rằng giả vờ khóc là một lời nói dối, và nếu cô nói dối, khi Chúa thử thách linh hồn bất tử của cô thì cô sẽ không được lên thiên đường. Khi mẹ Rita bảo với cô rằng nếu Mimic không chết thì chúng sẽ không được lên thiên đường, cô bé tỏ ra giận dữ. Mimic còn không phải là sinh vật từ Trái đất. Chúng không có linh hồn, đúng không? Nếu chúng có linh hồn, và chúng thật sự có lên thiên đường, Rita tự hỏi con người và Mimic có đánh nhau ở trên đấy không. Có lẽ đó là cái đang chờ đợi cha mẹ cô.
Chính phủ đưa Rita tới sống cùng vài người bà con xa. Cô ăn trộm hộ chiếu từ một người tị nạn lớn hơn cô ba tuổi, sống trong một căn hộ xập xệ nhà bên cạnh và tới văn phòng tuyển dụng UDF.
Xuyên suốt mọi miền tổ quốc, người ta phát chán với chiến tranh rồi. UDF cần càng nhiều lính càng tốt để đẩy ra tiền tuyến.
Đưa mẫu đơn đăng kí ghi rõ không phạm phải tội ác đặc biệt nghiêm trọng nào, và quân đội sẽ không loại bạn ra đâu. Theo luật, Rita vẫn chưa đủ tuổi để đăng kí, nhưng phòng tuyển dụng còn chả thèm liếc tới hộ chiếu ăn cắp của cô trước khi đưa cô hợp đồng.
Quân đội cho người ta một ngày để rút lại đơn nếu họ suy nghĩ lại. Rita, giờ họ là Vrataski, dùng cả ngày cuối cùng để nằm dài trên cái ghế đá đặt bên ngoài văn phòng UDF.
Rita không cần cơ hội suy nghĩ lại. Cô chỉ muốn một việc: giết đến con Mimic cuối cùng đã xâm lược hành tinh cô. Cô biết cô có thể làm được. Cô là con gái của cha cô.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook