Buổi sáng Lục Cẩm Dao ra ngoài dẫn theo Hoài Hề và Nguyệt Vân, cụ thể làm gì thì Bạch Vi chỉ đoán là có liên quan đến cửa tiệm mới, còn những chuyện khác thì không biết.
Khương Đường: “Được.”
Có lẽ Lục Cẩm Dao cũng sắp tìm nàng, vừa mới thương lượng với Cố Kiến Sơn chuyện mở cửa hàng mới, Lục Cẩm Dao đã làm việc như cát chạy đá bay, chắc hẳn là đi xem cửa tiệm.
Chuyện cụ thể đoán không sai, sáng hôm nay Lục Cẩm Dao đúng là vì chút chuyện này. Chọn được vị trí của cửa hàng, ở khu phố sầm uất của Thành Bắc, vị trí tốt hơn nhiều so với Cẩm Đường Cư bây giờ. Tổng cộng có hai tầng, tầng một ở dưới làm mặt tiền cửa hàng, bên trên làm nhã gian. Thêm một cái hậu viện. Hậu viện có hai gian phòng chính, ba gian sương phòng nhỏ, một gian phòng chính là phòng bếp, một phòng khác để lại ở. Các sương phòng khác để lò nướng bánh làm phòng kho.
Chỉ nhìn ngang mặt tiền tầng một là đã to hơn Cẩm Đường Cư bây giờ, nhìn từ trên xuống dưới cũng dài hơn một ít, nếu làm tủ hàng thì sẽ rộng hơn nhiều. Hậu viện có một cái giếng, phòng bếp còn to hơn phòng ở, trong phòng kê hai cái giường, để cho hai bà lão canh cổng thì cũng vừa đủ ở.
Tốt thì tốt, chỉ hơi đắt.
Tiền thuê mỗi tháng là một trăm mười lượng bạc, một năm là một nghìn ba trăm hai mươi lượng.
Đó là giá tiền sau khi Lục Cẩm Dao bàn bạc, vốn đòi một trăm hai mươi lượng bạc nhưng dây dưa năn nỉ mãi mới bớt cho mười lượng bạc.
Chuyện trang hoàng cửa tiệm tiếp theo phải thay đổi lớn, không khác mấy với Cẩm Đường Cư bây giờ nên giao cho thợ thủ công ban đầu.
Tầm hơn nửa tháng là có thể chuẩn bị xong xuôi, vừa hay nửa tháng này có thể đào tạo ra mấy thợ làm điểm tâm. Vào đầu tháng sau, chọn một ngày thích hợp là cửa hàng có thể khai trương.
Một ngày của cửa hàng bằng tiền thuê một ngày, Lục Cẩm Dao chỉ mong sớm khai trương một chút.
Muốn khai trương thì nàng ấy phải mua đồ từ chỗ Khương Đường, các loại điểm tâm, cộng thêm bài trúc mạt chược, tính ra thì có mấy loại. Khương Đường đoán hai ngày nay Lục Cẩm Dao sẽ tìm nàng, nàng do dự có cần nói với Lục Cẩm Dao chuyện nấm hay không. Nàng không cách nào làm chuyện buôn bán này được, vì nấm là từ Điền Nam gửi đến, Khương Đường chẳng biết tới Điền Nam như thế nào, chớ nhắc đến việc mua đồ từ đó.
Bản thân nàng cũng không có cách nào mở cửa tiệm, cách tốt nhất là bán công thức cho Lục Cẩm Dao, chỉ nóng lòng muốn bán công thức mà để lộ ra thì không hay.
Khương Đường quyết định giữ bình tĩnh trước, đợi Lục Cẩm Dao tìm nàng rồi quan sát cẩn thận, nếu hỏi đến rồi nói kỹ sau.
Buổi tối, Bạch Vi đến truyền lời: “Đại nương tử gọi ngươi đến thư phòng nói chuyện, trông dáng vẻ của đại nương tử thì có lẽ là chuyện tốt.”
Khương Đường: “Giờ ta đi.”
Nàng không cầm gì đi cả, sau khi gõ cửa đi vào, trông thấy trong phòng thắp mấy chén nến, Lục Cẩm Dao đang ngồi dưới đèn nhìn thứ gì đó.
Khương Đường nhún người hành lễ: “Đại nương tử.”
Lục Cẩm Dao ra hiệu cho Khương Đường đi đến: “Ngươi lại xem bản vẽ trang hoàng này đi, nên làm thế nào bên trên?”
Mặt tiền cửa hiệu còn dễ, cứ dựa theo cái ban đầu là được, nhưng phía trên thì sao.
Lục Cẩm Dao suy đi nghĩ lại cũng không biết nơi nào thích hợp để chơi mạt chược và bài trúc, tĩnh mịch như quán trà ư? Hay là cái kiểu tao nhã như nhã gian của tửu lâu. Thật ra Lục Cẩm Dao thích cảnh trong phòng tí tẹo tối đen như mực, vừa chơi là chơi hết hơn nửa ngày, thế thì sướng biết bao.
Hình vẽ trên bản thiết kế lộn xộn, Khương Đường phân biệt một lúc rồi đáp: “Đại nương tử, nô tỳ cảm thấy thoải mái là tốt nhất, trang trí thoải mái, màu sắc cũng dễ chịu, ghế dựa ngồi bên trong cũng thoải mái. Chơi mạt chược và bài trúc sẽ có thắng thua, thứ có thắng có thua sẽ dễ dàng mang ra để đặt cược. Chúng ta không giống với sòng bạc, chỉ cùng nhau tụ họp hàn huyên giết thời gian mà thôi. Trang trí lấy việc thoải mái làm chủ, để khách cảm thấy thoải mái hơn so với nhà mình. Một gian phòng không cần quá rộng, to hơn cái bàn một chút, tìm ít vải che nắng làm rèm, bày thêm ít hoa cỏ. Ngoài điểm tâm còn có thể bán ít hạt dưa, hạt lạc, sau đó tìm hai nha hoàn biết bóp vai đứng sau.”
Lục Cẩm Dao thấy khó hiểu, tìm nha hoàn biết bóp vai làm gì, nhưng vừa nghĩ đến việc ngồi lâu dễ bị mệt, có người ấn bóp cũng tốt.
Lục Cẩm Dao đáp: “Lúc trang trí cửa hàng ngươi đến ngó qua. Phải rồi, ta muốn mua mạt chược, bài trúc với cả công thức bánh Đại Phúc từ chỗ ngươi.”
Cửa hàng mới phải có thứ gì đó mới mẻ hấp dẫn, ngoài điểm tâm thạch băng thì chính là những thứ này.
Vị của bánh Đại Phúc có rất nhiều loại, các món điểm tâm cũng thế, tùy vào hoa quả theo mùa khác nhau thì nhân bánh bên trong cũng khác nhau.
Bây giờ có đào, khi tháng tư tháng năm là mùa dâu tây, Lục Cẩm Dao còn phải nhớ thừa dịp bây giờ đào nhiều, làm nhiều mứt một chút để dành, kẻo đến thu lại không có gì.
Những hoa quả khác cũng thử qua, nhưng điểm tâm làm ra không hề ngon nên Lục Cẩm Dao đành thôi.
Lục Cẩm Dao: “Giá bánh Đại Phúc là ba mươi lượng, nhiều hơn điểm tâm khác mười lượng bạc, cũng do bây giờ làm ăn tốt. Mạt chược và bài trúc… ta phải nói rõ với ngươi.”
Hai thứ này không phải là đồ ăn, thế nên Lục Cẩm Dao không biết ra giá thế nào, hôm qua còn có người hỏi thứ này chơi thế nào, làm từ đâu ra.
Lục Cẩm Dao sẽ không mang không thứ này đi để làm chuyện thuận nước đẩy thuyền, hơn nữa giá thành của một bộ mạt chược quá cao, cửa hàng dùng nhiều lắm là mấy bộ.
Nếu bán cho người khác, có lẽ sẽ đắt hơn một chút. Bài trúc lại có thẻ bán rẻ hơn, thứ này có thể bán được rất nhiều. Không giống với cái để ăn, giá thành của bài trúc rất thấp, Lục Cẩm Dao nghĩ chi bằng chia phần cho Khương Đường.
Bán được càng nhiều thì càng lấy được nhiều, nhưng khi bắt đầu có thể không trực tiếp nhận được nhiều tiền như ba năm gần đây, cái này là cùng gánh rủi ro, không bán được một bộ bài thì đến một văn tiền cũng không thu được.
Thế nên Lục Cẩm Dao mới hỏi ý Khương Đường: “Nếu như ngươi cảm thấy bán phứt luôn như ba năm trước là tốt thì bài trúc ta trả ngươi mười lăm lượng bạc, mạt chược hai mươi lượng. Nếu cảm thấy chia phần tốt thì chia cho ngươi hai phần lợi nhuận.”
Giả dụ một bộ bài trúc bán hơn chục văn, hai phần lợi nhuận cũng là mấy văn tiền, vậy thì phải bán mấy nghìn bộ mới được, Lục Cẩm Dao cũng không dám cam đoan có thể bán được nhiều như thế.
Giống như Cố Kiến Sơn đã nói, Lục Cẩm Dao cũng nói chuyện không bảo đảm được lời lãi với Khương Đường, nhưng cũng có điểm khác biệt, ký cái này thì quá lắm là không kiếm được tiền chứ chắc chắn sẽ không phải đền tiền.
Thật ra Khương Đường cần bạc hơn, bây giờ nàng tính cả gia sản thì cũng có hơn năm trăm, nếu hôm nay ký văn thư thì sáu mươi lăm lượng bạc, gần với việc chuộc thân một bước.
Chỉ cần bán được nhiều thì sẽ được chia không ít.
Khương Đường muốn đánh cược một phen: “Đại nương tử, nô tì chọn chia phần.”
Lục Cẩm Dao thở phào một hơi: “Vậy cũng được.”
Bây giờ nàng ấy mở cửa hàng mới, cũng không có nhiều tiền bạc như vậy, trang trí, mời đầu bếp chỗ nào cũng phải dùng đến tiền, có thể tiết kiệm một chút thì cũng là một chút.
Ký văn thư xong, Lục Cẩm Dao lại nói: “Nấm gửi về còn dư lại bao nhiêu?”
Khương Đường: “Còn như lại khá nhiều, những thứ này giống như mộc nhĩ với mấy loại hoa quả khô, ngâm một lát là có không ít.”
Lục Cẩm Dao có ý buôn bán thứ này, nhưng bạc đều đã đổ vào cửa hàng mới, nàng ấy cũng không có sức lực dồi dào nữa.
Có điều có thể lấy ít tiền hơn, rồi bảo Cố Kiến Châu lại gửi về thêm chút nữa, ai cũng thích ăn thứ này.
Lục Cẩm Dao không nói chuyện gì khác nên Khương Đường cũng không hỏi: “Nếu không còn chuyện gì khác, nô tỳ xin cáo lui trước.”
Lục Cẩm Dao: “Ừ, hôm nay hoa tai đeo đẹp lắm.”
Trân châu sáng bóng óng ánh dưới ánh nến, cộng thêm Khương Đường xinh đẹp làm nổi bật lẫn nhau.
Khương Đường thoáng mỉm cười: “Cảm ơn đại nương tử.”
Đây là cái Lục Cẩm Dao cho nàng, chưa từng đeo bao giờ.
Đến tối quay về phòng hạ nhân, Khương Đường lại thu dọn đồ trong chiếc hộp một phen, nàng cộng lại có một trăm bảy mươi lăm lượng bạc, hơn hai lượng vàng, tính cả những thứ khác đang giữ thì có chừng năm trăm bảy mươi lượng.
Nếu dược liệu có thể bán được nhiều tiền hơn đôi chút thì có nhiều hơn.
Khương Đường nhìn hộp tiền cười vui sướng, chỉ nhìn tiền bên trong thôi đã có hy vọng.
Ngồi lên trên giường, Khương Đường cảm giác bên dưới hơi cộm, lật chăn ra nhìn thì thấy là một chiếc hộp be bé, mở ra thì thấy bên trong là một tờ giấy.
Bên trên viết một câu.
Bất kể người khác nói gì cũng chớ tin, có nghi ngờ gì thì cứ hỏi, ta sẽ nói.
Là chữ của Cố Kiến Sơn.
Đây là lần đầu Khương Đường nhìn thấy chữ viết của Cố Kiến Sơn.
Không hề đẹp, thậm chí có thể nói là hơi xấu, chữ của Lục Cẩm Dao mượt mà ngay ngắn như mây bay nước chảy, chữ của Cố Kiến Sơn thì giống y như chữ của người mới tập viết.
Con người hắn như tùng như bách, không kém phần cương nghị, nên có thể thấy việc nét chữ nết người là không đúng.
Tuy chữ này không đẹp nhưng lại viết rất nghiêm túc, Khương Đường nhìn thêm mấy lần rồi mới đem đốt tờ giấy đi.
Giữ cái này lại chỉ thêm nhiều chuyện, hộp là hộp bình thường, chỉ chế tác khéo léo hơn.
Thứ này không cần phải giữ lại, Khương Đường cũng đốt đi.
Cố Kiến Sơn nói bất kể người khác nói gì cũng chớ tin, có nghi ngờ gì cứ hỏi, ta sẽ nói.
Có phải trong phủ sắp xảy ra chuyện gì không?
Nếu trong phủ sắp có chuyện thì đáng lẽ Cố Kiến Sơn sẽ không nói với nàng, vậy thì là chuyện có liên quan đến hắn, nàng biết chuyện Cố Kiến Sơn bị thương, có lẽ là chuyện hôn sự.
Cụ thể là gì thì Khương Đường cũng không đoán ra được, nàng mở cửa sổ trong phòng ra để mùi khói đốt giấy tan bớt, Cố Kiến Sơn đã nói như vậy thì nàng tin hắn.
Nhưng Khương Đường không hề nghe thấy bất kỳ động tĩnh nào cả.
Ngày mười chín tháng bảy, Cố Thuấn Hoa bái biệt phụ mẫu, trưởng bối, quay về Túc Trung, hai nơi cách nhau xa xôi, không biết bao giờ gặp lại.
Lúc tiễn biệt, mắt Trịnh thị đỏ hoe, Cố Thuấn Hoa nói thẳng: “Qua mấy ngày nữa, nữ nhi lại về thăm người.”
Cố lão gia và lão phu nhân không có tình cảm sâu nặng với chất nữ này nên chỉ dặn dò mấy câu, bảo nàng ấy giúp chồng dạy con, hiếu thuận cha mẹ chồng, hòa ái với huynh đệ. Cố Thuấn Hoa vừa đi, Thọ An Đường cũng chuẩn bị thu dọn hành lý quay về, Cố lão gia định ngày mai đi.
Mười một tháng bảy đến, ở một thời gian cũng đủ rồi.
Thịnh Kinh phồn hoa, đến đây mười ngày, nơi nào cũng đã đi hết, Cố lão phu nhân tuổi đã cao càng thích sự yên ổn của Nhữ Lâm hơn, năm nay bà lão đã sáu mươi bảy tuổi, coi như đã sống thọ, thêm hai năm nữa, dù muốn đến Thịnh Kinh thì e là cũng không đi được.
Là trưởng bối, hy vọng con cháu đầy nhà, cháu con cung phụng, Cố lão phu nhân nói chuyện với Trịnh thị nửa giờ rồi lại gọi Cố Kiến Hiên, Cố Tương Quân vào, dặn dò cẩn thận một phen.
“Ở nhà thúc phụ con, phải an phận thủ thường, hành sự ổn thỏa, chớ gây thêm phiền phức cho thúc mẫu con. Kiến Hiên sang năm thi xuân, cha mẹ con không ở đây, phải tự quản chính mình, lấy các huynh trưởng của con làm gương. Phải nhớ, con đến Thịnh Kinh là vì điều gì, tuyệt đối không được phép ra ngoài làm xằng làm bậy, ăn chơi đàng điếm.”
Con cháu ở Thịnh Kinh cầu tiến như Cố Kiến Châu, Cố Kiến Sơn, lúc Cố lão phu nhân ra ngoài cũng trông thấy cưỡi ngựa trên phố vào sòng bạc, vào thanh lâu, áo quần là lượt.
Cố Kiến Hiên đến Thịnh Kinh sẽ tới thư viện Tùng Sơn học, gặp gỡ người tốt xấu lẫn lộn. Bà lão sợ Cố Kiến Hiên ở cùng với loại người hỗn tạp ấy, không học cái tốt mà lại học cái xấu, sách hay không học mà lại học thói xấu.
Cố Kiến Hiên hành lễ đáp: “Cháu trai xin ghi nhớ lời dạy của tổ mẫu.”
Cố lão phu nhân nói: “Có chuyện thì hỏi các huynh trưởng con, không được chỉ biết mỗi thiện lành.”
Cố Kiến Hiên: “Không được buông thả làm liều, không được gây họa, có chuyện gì thì hỏi thúc phụ, các huynh trưởng trước rồi nói. Tổ mẫu, mấy lời này con nghe đến độ tai sắp đóng kén rồi.”
Cố Tương Quân không nén được tiếng cười, thấy Cố lão phu nhân bất lực nhìn sang thì vội bảo: “Cháu gái cũng nhớ rồi, phải hiểu để phòng tránh, có lễ có độ, nếu các huynh trưởng gặp khách thì phải biết tránh hiềm nghi, tai cháu gái cũng sắp đóng kén rồi.”
Cố lão phu nhân nói: “Thôi vậy thôi vậy, ghét điều phiền hà thì ta không nói nữa, tự các con ghi nhớ là được rồi.”
Cố lão phu nhân đã nói mấy lời này nên Ninh thị không nói nữa.
Bà đưa cho Cố Kiến Hiên, Cố Tương Quân mỗi người năm trăm lượng bạc, Cố gia không giàu có như phủ Vĩnh Ninh Hầu, cầm được nhiều thế này cũng không dễ dàng gì. Vốn dĩ bà định đưa cho Trịnh thị, hai hài tử cầm nhiều tiền như thế này không an toàn.
Nhưng Trịnh thị không lấy, hai đứa Cố Kiến Hiên là cháu trai cháu gái của bà, nếu cầm số tiền này thì Vĩnh Ninh Hầu chắc chắn sẽ không vui. Thêm nữa, họ hàng đến ở ít hôm nào có thể lấy tiền được.
Ninh thị hết cách, chỉ có thể đưa cho Cố Kiến Hiên và Cố Tương Quân.
Lúc ra ngoài mà trên người không có tiền thì sao được.
Ninh thị không bảo hai người họ tiêu pha tiết kiệm: “Nếu cảm thấy ở chỗ này không vui thì viết thư về, mọi chuyện có nương.”
Có lẽ Trịnh thị sẽ không để cho hai hài tử chịu tủi thân, mấy ngày nữa Cố Kiến Hiên tới thư viện, chỉ có Cố Tương Quân ở lại nơi này. Lục Cẩm Dao là người tốt tính, đối xử cũng tốt với Cố Tương Quân
Khương Đường: “Được.”
Có lẽ Lục Cẩm Dao cũng sắp tìm nàng, vừa mới thương lượng với Cố Kiến Sơn chuyện mở cửa hàng mới, Lục Cẩm Dao đã làm việc như cát chạy đá bay, chắc hẳn là đi xem cửa tiệm.
Chuyện cụ thể đoán không sai, sáng hôm nay Lục Cẩm Dao đúng là vì chút chuyện này. Chọn được vị trí của cửa hàng, ở khu phố sầm uất của Thành Bắc, vị trí tốt hơn nhiều so với Cẩm Đường Cư bây giờ. Tổng cộng có hai tầng, tầng một ở dưới làm mặt tiền cửa hàng, bên trên làm nhã gian. Thêm một cái hậu viện. Hậu viện có hai gian phòng chính, ba gian sương phòng nhỏ, một gian phòng chính là phòng bếp, một phòng khác để lại ở. Các sương phòng khác để lò nướng bánh làm phòng kho.
Chỉ nhìn ngang mặt tiền tầng một là đã to hơn Cẩm Đường Cư bây giờ, nhìn từ trên xuống dưới cũng dài hơn một ít, nếu làm tủ hàng thì sẽ rộng hơn nhiều. Hậu viện có một cái giếng, phòng bếp còn to hơn phòng ở, trong phòng kê hai cái giường, để cho hai bà lão canh cổng thì cũng vừa đủ ở.
Tốt thì tốt, chỉ hơi đắt.
Tiền thuê mỗi tháng là một trăm mười lượng bạc, một năm là một nghìn ba trăm hai mươi lượng.
Đó là giá tiền sau khi Lục Cẩm Dao bàn bạc, vốn đòi một trăm hai mươi lượng bạc nhưng dây dưa năn nỉ mãi mới bớt cho mười lượng bạc.
Chuyện trang hoàng cửa tiệm tiếp theo phải thay đổi lớn, không khác mấy với Cẩm Đường Cư bây giờ nên giao cho thợ thủ công ban đầu.
Tầm hơn nửa tháng là có thể chuẩn bị xong xuôi, vừa hay nửa tháng này có thể đào tạo ra mấy thợ làm điểm tâm. Vào đầu tháng sau, chọn một ngày thích hợp là cửa hàng có thể khai trương.
Một ngày của cửa hàng bằng tiền thuê một ngày, Lục Cẩm Dao chỉ mong sớm khai trương một chút.
Muốn khai trương thì nàng ấy phải mua đồ từ chỗ Khương Đường, các loại điểm tâm, cộng thêm bài trúc mạt chược, tính ra thì có mấy loại. Khương Đường đoán hai ngày nay Lục Cẩm Dao sẽ tìm nàng, nàng do dự có cần nói với Lục Cẩm Dao chuyện nấm hay không. Nàng không cách nào làm chuyện buôn bán này được, vì nấm là từ Điền Nam gửi đến, Khương Đường chẳng biết tới Điền Nam như thế nào, chớ nhắc đến việc mua đồ từ đó.
Bản thân nàng cũng không có cách nào mở cửa tiệm, cách tốt nhất là bán công thức cho Lục Cẩm Dao, chỉ nóng lòng muốn bán công thức mà để lộ ra thì không hay.
Khương Đường quyết định giữ bình tĩnh trước, đợi Lục Cẩm Dao tìm nàng rồi quan sát cẩn thận, nếu hỏi đến rồi nói kỹ sau.
Buổi tối, Bạch Vi đến truyền lời: “Đại nương tử gọi ngươi đến thư phòng nói chuyện, trông dáng vẻ của đại nương tử thì có lẽ là chuyện tốt.”
Khương Đường: “Giờ ta đi.”
Nàng không cầm gì đi cả, sau khi gõ cửa đi vào, trông thấy trong phòng thắp mấy chén nến, Lục Cẩm Dao đang ngồi dưới đèn nhìn thứ gì đó.
Khương Đường nhún người hành lễ: “Đại nương tử.”
Lục Cẩm Dao ra hiệu cho Khương Đường đi đến: “Ngươi lại xem bản vẽ trang hoàng này đi, nên làm thế nào bên trên?”
Mặt tiền cửa hiệu còn dễ, cứ dựa theo cái ban đầu là được, nhưng phía trên thì sao.
Lục Cẩm Dao suy đi nghĩ lại cũng không biết nơi nào thích hợp để chơi mạt chược và bài trúc, tĩnh mịch như quán trà ư? Hay là cái kiểu tao nhã như nhã gian của tửu lâu. Thật ra Lục Cẩm Dao thích cảnh trong phòng tí tẹo tối đen như mực, vừa chơi là chơi hết hơn nửa ngày, thế thì sướng biết bao.
Hình vẽ trên bản thiết kế lộn xộn, Khương Đường phân biệt một lúc rồi đáp: “Đại nương tử, nô tỳ cảm thấy thoải mái là tốt nhất, trang trí thoải mái, màu sắc cũng dễ chịu, ghế dựa ngồi bên trong cũng thoải mái. Chơi mạt chược và bài trúc sẽ có thắng thua, thứ có thắng có thua sẽ dễ dàng mang ra để đặt cược. Chúng ta không giống với sòng bạc, chỉ cùng nhau tụ họp hàn huyên giết thời gian mà thôi. Trang trí lấy việc thoải mái làm chủ, để khách cảm thấy thoải mái hơn so với nhà mình. Một gian phòng không cần quá rộng, to hơn cái bàn một chút, tìm ít vải che nắng làm rèm, bày thêm ít hoa cỏ. Ngoài điểm tâm còn có thể bán ít hạt dưa, hạt lạc, sau đó tìm hai nha hoàn biết bóp vai đứng sau.”
Lục Cẩm Dao thấy khó hiểu, tìm nha hoàn biết bóp vai làm gì, nhưng vừa nghĩ đến việc ngồi lâu dễ bị mệt, có người ấn bóp cũng tốt.
Lục Cẩm Dao đáp: “Lúc trang trí cửa hàng ngươi đến ngó qua. Phải rồi, ta muốn mua mạt chược, bài trúc với cả công thức bánh Đại Phúc từ chỗ ngươi.”
Cửa hàng mới phải có thứ gì đó mới mẻ hấp dẫn, ngoài điểm tâm thạch băng thì chính là những thứ này.
Vị của bánh Đại Phúc có rất nhiều loại, các món điểm tâm cũng thế, tùy vào hoa quả theo mùa khác nhau thì nhân bánh bên trong cũng khác nhau.
Bây giờ có đào, khi tháng tư tháng năm là mùa dâu tây, Lục Cẩm Dao còn phải nhớ thừa dịp bây giờ đào nhiều, làm nhiều mứt một chút để dành, kẻo đến thu lại không có gì.
Những hoa quả khác cũng thử qua, nhưng điểm tâm làm ra không hề ngon nên Lục Cẩm Dao đành thôi.
Lục Cẩm Dao: “Giá bánh Đại Phúc là ba mươi lượng, nhiều hơn điểm tâm khác mười lượng bạc, cũng do bây giờ làm ăn tốt. Mạt chược và bài trúc… ta phải nói rõ với ngươi.”
Hai thứ này không phải là đồ ăn, thế nên Lục Cẩm Dao không biết ra giá thế nào, hôm qua còn có người hỏi thứ này chơi thế nào, làm từ đâu ra.
Lục Cẩm Dao sẽ không mang không thứ này đi để làm chuyện thuận nước đẩy thuyền, hơn nữa giá thành của một bộ mạt chược quá cao, cửa hàng dùng nhiều lắm là mấy bộ.
Nếu bán cho người khác, có lẽ sẽ đắt hơn một chút. Bài trúc lại có thẻ bán rẻ hơn, thứ này có thể bán được rất nhiều. Không giống với cái để ăn, giá thành của bài trúc rất thấp, Lục Cẩm Dao nghĩ chi bằng chia phần cho Khương Đường.
Bán được càng nhiều thì càng lấy được nhiều, nhưng khi bắt đầu có thể không trực tiếp nhận được nhiều tiền như ba năm gần đây, cái này là cùng gánh rủi ro, không bán được một bộ bài thì đến một văn tiền cũng không thu được.
Thế nên Lục Cẩm Dao mới hỏi ý Khương Đường: “Nếu như ngươi cảm thấy bán phứt luôn như ba năm trước là tốt thì bài trúc ta trả ngươi mười lăm lượng bạc, mạt chược hai mươi lượng. Nếu cảm thấy chia phần tốt thì chia cho ngươi hai phần lợi nhuận.”
Giả dụ một bộ bài trúc bán hơn chục văn, hai phần lợi nhuận cũng là mấy văn tiền, vậy thì phải bán mấy nghìn bộ mới được, Lục Cẩm Dao cũng không dám cam đoan có thể bán được nhiều như thế.
Giống như Cố Kiến Sơn đã nói, Lục Cẩm Dao cũng nói chuyện không bảo đảm được lời lãi với Khương Đường, nhưng cũng có điểm khác biệt, ký cái này thì quá lắm là không kiếm được tiền chứ chắc chắn sẽ không phải đền tiền.
Thật ra Khương Đường cần bạc hơn, bây giờ nàng tính cả gia sản thì cũng có hơn năm trăm, nếu hôm nay ký văn thư thì sáu mươi lăm lượng bạc, gần với việc chuộc thân một bước.
Chỉ cần bán được nhiều thì sẽ được chia không ít.
Khương Đường muốn đánh cược một phen: “Đại nương tử, nô tì chọn chia phần.”
Lục Cẩm Dao thở phào một hơi: “Vậy cũng được.”
Bây giờ nàng ấy mở cửa hàng mới, cũng không có nhiều tiền bạc như vậy, trang trí, mời đầu bếp chỗ nào cũng phải dùng đến tiền, có thể tiết kiệm một chút thì cũng là một chút.
Ký văn thư xong, Lục Cẩm Dao lại nói: “Nấm gửi về còn dư lại bao nhiêu?”
Khương Đường: “Còn như lại khá nhiều, những thứ này giống như mộc nhĩ với mấy loại hoa quả khô, ngâm một lát là có không ít.”
Lục Cẩm Dao có ý buôn bán thứ này, nhưng bạc đều đã đổ vào cửa hàng mới, nàng ấy cũng không có sức lực dồi dào nữa.
Có điều có thể lấy ít tiền hơn, rồi bảo Cố Kiến Châu lại gửi về thêm chút nữa, ai cũng thích ăn thứ này.
Lục Cẩm Dao không nói chuyện gì khác nên Khương Đường cũng không hỏi: “Nếu không còn chuyện gì khác, nô tỳ xin cáo lui trước.”
Lục Cẩm Dao: “Ừ, hôm nay hoa tai đeo đẹp lắm.”
Trân châu sáng bóng óng ánh dưới ánh nến, cộng thêm Khương Đường xinh đẹp làm nổi bật lẫn nhau.
Khương Đường thoáng mỉm cười: “Cảm ơn đại nương tử.”
Đây là cái Lục Cẩm Dao cho nàng, chưa từng đeo bao giờ.
Đến tối quay về phòng hạ nhân, Khương Đường lại thu dọn đồ trong chiếc hộp một phen, nàng cộng lại có một trăm bảy mươi lăm lượng bạc, hơn hai lượng vàng, tính cả những thứ khác đang giữ thì có chừng năm trăm bảy mươi lượng.
Nếu dược liệu có thể bán được nhiều tiền hơn đôi chút thì có nhiều hơn.
Khương Đường nhìn hộp tiền cười vui sướng, chỉ nhìn tiền bên trong thôi đã có hy vọng.
Ngồi lên trên giường, Khương Đường cảm giác bên dưới hơi cộm, lật chăn ra nhìn thì thấy là một chiếc hộp be bé, mở ra thì thấy bên trong là một tờ giấy.
Bên trên viết một câu.
Bất kể người khác nói gì cũng chớ tin, có nghi ngờ gì thì cứ hỏi, ta sẽ nói.
Là chữ của Cố Kiến Sơn.
Đây là lần đầu Khương Đường nhìn thấy chữ viết của Cố Kiến Sơn.
Không hề đẹp, thậm chí có thể nói là hơi xấu, chữ của Lục Cẩm Dao mượt mà ngay ngắn như mây bay nước chảy, chữ của Cố Kiến Sơn thì giống y như chữ của người mới tập viết.
Con người hắn như tùng như bách, không kém phần cương nghị, nên có thể thấy việc nét chữ nết người là không đúng.
Tuy chữ này không đẹp nhưng lại viết rất nghiêm túc, Khương Đường nhìn thêm mấy lần rồi mới đem đốt tờ giấy đi.
Giữ cái này lại chỉ thêm nhiều chuyện, hộp là hộp bình thường, chỉ chế tác khéo léo hơn.
Thứ này không cần phải giữ lại, Khương Đường cũng đốt đi.
Cố Kiến Sơn nói bất kể người khác nói gì cũng chớ tin, có nghi ngờ gì cứ hỏi, ta sẽ nói.
Có phải trong phủ sắp xảy ra chuyện gì không?
Nếu trong phủ sắp có chuyện thì đáng lẽ Cố Kiến Sơn sẽ không nói với nàng, vậy thì là chuyện có liên quan đến hắn, nàng biết chuyện Cố Kiến Sơn bị thương, có lẽ là chuyện hôn sự.
Cụ thể là gì thì Khương Đường cũng không đoán ra được, nàng mở cửa sổ trong phòng ra để mùi khói đốt giấy tan bớt, Cố Kiến Sơn đã nói như vậy thì nàng tin hắn.
Nhưng Khương Đường không hề nghe thấy bất kỳ động tĩnh nào cả.
Ngày mười chín tháng bảy, Cố Thuấn Hoa bái biệt phụ mẫu, trưởng bối, quay về Túc Trung, hai nơi cách nhau xa xôi, không biết bao giờ gặp lại.
Lúc tiễn biệt, mắt Trịnh thị đỏ hoe, Cố Thuấn Hoa nói thẳng: “Qua mấy ngày nữa, nữ nhi lại về thăm người.”
Cố lão gia và lão phu nhân không có tình cảm sâu nặng với chất nữ này nên chỉ dặn dò mấy câu, bảo nàng ấy giúp chồng dạy con, hiếu thuận cha mẹ chồng, hòa ái với huynh đệ. Cố Thuấn Hoa vừa đi, Thọ An Đường cũng chuẩn bị thu dọn hành lý quay về, Cố lão gia định ngày mai đi.
Mười một tháng bảy đến, ở một thời gian cũng đủ rồi.
Thịnh Kinh phồn hoa, đến đây mười ngày, nơi nào cũng đã đi hết, Cố lão phu nhân tuổi đã cao càng thích sự yên ổn của Nhữ Lâm hơn, năm nay bà lão đã sáu mươi bảy tuổi, coi như đã sống thọ, thêm hai năm nữa, dù muốn đến Thịnh Kinh thì e là cũng không đi được.
Là trưởng bối, hy vọng con cháu đầy nhà, cháu con cung phụng, Cố lão phu nhân nói chuyện với Trịnh thị nửa giờ rồi lại gọi Cố Kiến Hiên, Cố Tương Quân vào, dặn dò cẩn thận một phen.
“Ở nhà thúc phụ con, phải an phận thủ thường, hành sự ổn thỏa, chớ gây thêm phiền phức cho thúc mẫu con. Kiến Hiên sang năm thi xuân, cha mẹ con không ở đây, phải tự quản chính mình, lấy các huynh trưởng của con làm gương. Phải nhớ, con đến Thịnh Kinh là vì điều gì, tuyệt đối không được phép ra ngoài làm xằng làm bậy, ăn chơi đàng điếm.”
Con cháu ở Thịnh Kinh cầu tiến như Cố Kiến Châu, Cố Kiến Sơn, lúc Cố lão phu nhân ra ngoài cũng trông thấy cưỡi ngựa trên phố vào sòng bạc, vào thanh lâu, áo quần là lượt.
Cố Kiến Hiên đến Thịnh Kinh sẽ tới thư viện Tùng Sơn học, gặp gỡ người tốt xấu lẫn lộn. Bà lão sợ Cố Kiến Hiên ở cùng với loại người hỗn tạp ấy, không học cái tốt mà lại học cái xấu, sách hay không học mà lại học thói xấu.
Cố Kiến Hiên hành lễ đáp: “Cháu trai xin ghi nhớ lời dạy của tổ mẫu.”
Cố lão phu nhân nói: “Có chuyện thì hỏi các huynh trưởng con, không được chỉ biết mỗi thiện lành.”
Cố Kiến Hiên: “Không được buông thả làm liều, không được gây họa, có chuyện gì thì hỏi thúc phụ, các huynh trưởng trước rồi nói. Tổ mẫu, mấy lời này con nghe đến độ tai sắp đóng kén rồi.”
Cố Tương Quân không nén được tiếng cười, thấy Cố lão phu nhân bất lực nhìn sang thì vội bảo: “Cháu gái cũng nhớ rồi, phải hiểu để phòng tránh, có lễ có độ, nếu các huynh trưởng gặp khách thì phải biết tránh hiềm nghi, tai cháu gái cũng sắp đóng kén rồi.”
Cố lão phu nhân nói: “Thôi vậy thôi vậy, ghét điều phiền hà thì ta không nói nữa, tự các con ghi nhớ là được rồi.”
Cố lão phu nhân đã nói mấy lời này nên Ninh thị không nói nữa.
Bà đưa cho Cố Kiến Hiên, Cố Tương Quân mỗi người năm trăm lượng bạc, Cố gia không giàu có như phủ Vĩnh Ninh Hầu, cầm được nhiều thế này cũng không dễ dàng gì. Vốn dĩ bà định đưa cho Trịnh thị, hai hài tử cầm nhiều tiền như thế này không an toàn.
Nhưng Trịnh thị không lấy, hai đứa Cố Kiến Hiên là cháu trai cháu gái của bà, nếu cầm số tiền này thì Vĩnh Ninh Hầu chắc chắn sẽ không vui. Thêm nữa, họ hàng đến ở ít hôm nào có thể lấy tiền được.
Ninh thị hết cách, chỉ có thể đưa cho Cố Kiến Hiên và Cố Tương Quân.
Lúc ra ngoài mà trên người không có tiền thì sao được.
Ninh thị không bảo hai người họ tiêu pha tiết kiệm: “Nếu cảm thấy ở chỗ này không vui thì viết thư về, mọi chuyện có nương.”
Có lẽ Trịnh thị sẽ không để cho hai hài tử chịu tủi thân, mấy ngày nữa Cố Kiến Hiên tới thư viện, chỉ có Cố Tương Quân ở lại nơi này. Lục Cẩm Dao là người tốt tính, đối xử cũng tốt với Cố Tương Quân
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook