Xương Rồng Đốt Rương
-
Quyển 4 - Chương 4
Rốt cuộc Thần Côn cũng thôi xoắn xuýt với con chim đẹp hơn giải phóng nước nhà kia, lão mơ mơ màng màng ngẩng đầu nhìn trời, tựa như có thể xuyên qua đỉnh lều nhìn thấy cái gì: “Sương bốc lên rồi, sương dày quá.”
Cũng không sai, trong núi Tương Tây thường có sương mù: núi rừng đầm lầy, hơi nước quá dồi dào, khó tránh.
Vậy nhưng những câu lẩm bẩm kế tiếp của Thần Côn lại khiến Giang Luyện không hiểu nổi: “Từng cụm từng cụm, như sóng bụi cuộn lên, che lại một góc trời…”
Nói tới đây, lão đánh một cái giật mình, ánh mắt tan rã rốt cuộc cũng hồi thần, con ngươi còn sáng lấp lánh sáng: “Nhớ ra rồi, tôi nhớ ra rồi!”
Rốt cuộc cũng nhớ ra vì sao lão lại cảm thấy cái rương này là bị trộm.
Bởi vì khi sương mù bao trùm khắp bầu trời, những người đứng bên đống lửa hoặc đống rương trở nên rối loạn, họ lớn tiếng quát mắng, có người chạy qua bên này, có người trèo lên chóp đống rương chất đống, muốn xem cho rõ.
Sau đó, từ trong sương mù dày đặc thò ra một đôi tay, chỉ có tay, hiển nhiên là tay người, gầy trơ xương, bỗng bám lấy cạnh một chiếc rương nằm ở rìa ngoài, rầm rầm kéo thẳng cái rương đó vào trong sương mù.
Lén la lén lút như vậy, không phải trộm thì là gì?
Giang Luyện cảm thấy Thần Côn miêu tả có hơi phóng đại và không thật, Tương Tây thì nhiều sương thật, có điều nói là “từng cụm từng cụm, như sóng bụi cuộn lên” thì hơi hoang đường xằng bậy quá rồi, cảnh trong mơ mà, sẽ có phần méo mó và quái dị so với thực tế.
Một đám người vs. một đám thổ phỉ.
Một đống rương vs. đống rương nhà họ Huống mang theo khi chạy nạn.
Khá là tương đồng, mười phần chắc đến tám chín là hai người họ tìm cùng một chiếc rương rồi, nói chính xác hơn là thứ hai người muốn tìm đều xuất thân từ đống rương của nhà họ Huống kia.
Thần Côn nuốt nước miếng, tiếp tục miêu tả cảnh trong mơ cho Giang Luyện nghe: “Sau đó thì đuổi theo. Bên tai chỉ toàn là tiếng thở hổn hển lúc chạy đuổi, cảm giác rất kỳ quặc, tầm nhìn của tôi cũng rất kỳ quặc, trong mơ, tôi cũng không phải người đứng xem, dường như nằm trong những người chạy đuổi, ra sức đuổi, nhưng mà…”
Nói tới đây, Thần Côn hơi hoang mang.
Đuổi đuổi một hồn, sương mù tan đi, tan rất quang đãng, lộ ra một cánh đồng hoang như bình địa, ngẩng đầu lên nhìn, mặt trăng rất to, rất trắng, rất sáng, rất khoan dung, cũng rất dịu dàng, bóng núi to lớn đứng lặng nơi chân trời, vừa yên tĩnh vừa nặng nề.
Đó chính là toàn bộ giấc mộng, kỳ thực so ra, cũng không thêm được bao nhiêu tin tức hữu dụng: cái rương vẫn chưa rõ kiểu dáng, chỉ biết đại khái kích cỡ, hơn nữa kỳ thực là chất chồng thành đống, không chỉ có một cái; có rất nhiều người nhưng chỉ thấy bóng người, ăn mặc, thậm chí đến giới tính ra sao cũng hoàn toàn không có khái niệm; có một bóng chim khổng lồ mà méo mó, nhưng đó là hiệu quả do ánh lửa chiếu rọi, chân thân thế nào, không sao biết được, có khi chỉ là một con chim bện bằng lá trúc; còn trông thấy một bàn tay hiện ra từ trong sương mù dày đặc, bám lấy cái rương, nhưng điều này cũng chỉ tiến thêm một bước chứng thực rằng chiếc rương kia bị trộm đi mà thôi.
Giang Luyện không bỏ sót từ mấu chốt nhất kia: “Đồng hoang?”
Thần Côn đáp: “Phải.”
Giang Luyện cảm thấy từ này rất đáng để nghiền ngẫm: Với địa hình địa thế chín non nửa nước nửa phần ruộng của Tương Tây, còn có thể có đồng hoang sao?
Hắn dò xét hỏi: “Chú cảm thấy…nơi trong mộng có phải Tương Tây không?”
Thần Côn quả quyết bác bỏ: “Không phải, tất nhiên là không phải rồi.”
Lão ra dấu minh họa những gì nhìn thấy trong mơ: “Dù là ban đêm nhưng cậu cũng có thể cảm giác được kiểu xa xôi và thông thấu của trời, mà kiểu diện tích không bến bờ đó, núi thì phải sừng sững trập trùng liên miên mới đúng… Không phải tôi nói núi phương Nam không sừng sững, nhưng là hai phong cách hoàn toàn khác nhau.”
Sau cùng, lão kết luận: “Tây Bắc! Trăm phần trăm là núi Tây Bắc, tôi có kinh nghiệm, cảm giác tổ tiên muôn núi, trụ cột chống trời này…”
Nói tới đây, lão như nhớ ra điều gì đó, không khỏi lẩm bẩm: “Tổ tiên muôn núi… Chẳng lẽ là Côn Lôn Sơn? Ơ, cậu đừng nói, tôi từng đi Côn Lôn rồi, khí chất nơi đó đúng là hơi giống…”
Côn Lôn Sơn ư, trái tim Giang Luyện trở lại mặt đất: Tuy đều là rương, nhưng một cái ở Tây Bắc, một cái ở Tương Tây, cách nhau đâu chỉ vạn dặm, xem ra không phải cùng một chuyện rồi.
Vậy ai tìm rương người đó bằng bản lĩnh của mình đi.
…
Hắn bưng cái khay đã trống không lên, tìm thẳng tới nơi bắc bếp. Bữa này ăn vốn đã muộn, hơn nữa còn bị Thần Côn quẩn chân một lúc lâu, đến giờ, đêm đã khuya, không ít lều đã lên đèn, phòng bếp cũng đã giải tán, trong bóng tối chỉ có nồi bát muôi chậu đã được rửa sạch bày ngăn nắp.
Giang Luyện đặt khay xuống, lại cảm thấy cứ để đó bỏ đi như vậy không ổn, do dự một lúc rồi tự tìm nước và giẻ rửa bát, múc chút nước, ngồi xổm xuống chỗ trũng rửa khay ăn.
Quỷ non trực đêm rất cảnh giác, trông thấy chỗ bếp có bóng người lắc lư, lập tức tới kiểm tra rõ ràng, đến khi trông thấy là Giang Luyện đang rửa bát thì thở phào nhẹ nhõm, đồng thời lại cảm thấy khó hiểu, còn sợ hắn làm gì phá hoại, dứt khoát không đi, đứng cách đó không xa theo dõi hắn rửa.
Giang Luyện nảy ý muốn trêu chọc, cố ý rửa thật chậm thật chậm, sau cùng còn cầm khăn lau lau bàn đến khô róc rồi mới rời đi.
Đi được một đoạn, bỗng dừng chân lại, nhìn về phía căn lều chính giữa được rất nhiều lều nhỏ quây lấy cách đó không xa.
Người trực đêm phía đó rõ ràng nhiều hơn hẳn, không cần đoán cũng biết là lều của Mạnh Thiên Tư. Nhiều lều nhỏ xung quanh đã tắt đèn, đèn lều lớn lại vẫn sáng, Giang Luyện trực giác, đèn sẽ không thể tắt sớm được.
Đã đứng ở vị trí quỷ non, bất kể có bằng lòng hay không thì cũng phải lo toan mọi chuyện. Mấy ngày nay xảy ra nhiều biến cố như vậy, Mạnh Kình Tùng chỉ là trợ lý, có năng lực nữa cũng không thể vượt mặt qua cô, chuyện lớn chuyện nhỏ đại khái đều phải do cô quyết định cuối cùng.
Cũng thật…quá mệt mỏi.
***
Mấy hôm nay Mạnh Thiên Tư đúng thật là mệt muốn chết, cộng thêm trên người bị thương, rất muốn nằm vật xuống ngủ luôn cho rồi.
Nhưng không được, vẫn còn cả đống chuyện phải bàn bạc quyết định, cũng may Mạnh Kình Tùng là người nhà, không cần phải giữ giá, cô chui vào túi ngủ, lót ba cái gối hơi ra sau eo, chỉ mở mắt, dỏng tai, tỉnh óc, tất cả những bộ phận cơ thể khác đều đã vào trạng thái nghỉ ngơi.
Nhưng những lời về “thần động” của Mạnh Kình Tùng đã làm cô lên tinh thần: “Thần? Người đứng sau cô ta là ‘thần’?
Mạnh Kình Tùng bật cười: “Cô đừng kích động, đây chỉ là cách nói dân gian ở Tương Tây thôi, Thần Côn nói ở Tương Tây không phân biệt quỷ thần – tôi thấy, có thể là một thế lực có khả năng ảnh hưởng lên tâm trí và ngôn hành của con người.”
Trong lòng Mạnh Thiên Tư bật ra một ý nghĩ: “Giống…bài vị ông tổ nhà ma nước?”
Mấy tháng trước, hai đời chưởng quản một già một trẻ nhà ma nước tới cửa xin giúp đỡ, đã kể cho cô nghe một chuyện vừa phức tạp vừa khó biết đầu đuôi, trong đó đề cập gia tộc ma nước có ba bài vị tổ tiên, gọi tắt là bài vị, sau khi ma nước xuống nước, áp bài vị lên trán, cả người sẽ như bị nhập hồn, y hệt con rối, bơi đông bơi tây bận rộn không ngừng dưới nước, nhưng sau khi xong xuôi tỉnh lại thì hoàn toàn không nhớ được chuyện đã xảy ra – người nhà ma nước đã nghĩ cách thử cho người xuống nước bám theo, định dùng camera dưới nước quay lại, nhưng đều thất bại.
Mạnh Kình Tùng lắc đầu: “Tôi cũng nghĩ đến bài vị ông tổ, có phần giống, nhưng thực chất cũng không quá giống: tình trạng của nhà ma nước giống như bị chiếm đoạt tâm trí trong một thời gian ngắn, hay nói thẳng ra là bị nhập hồn; Bạch Thủy Tiêu thì lại giống bị tẩy não hơn – không chỉ Bạch Thủy Tiêu, tôi đã nghe Thần Côn nói về tình trạng của các lạc hoa động nữ.”
So với nói là bị điên thì giống loạn trí do bị tẩy não hơn: lạc hoa động nữ cũng không điên, họ đối nhân xử thế đều rất bình thường, chỉ có điều là tin tưởng quá mức vào sự tồn tại của thần động, cũng tin chắc rằng mình có thề ước ái tình với thần động.
Lại là Thần Côn, Mạnh Thiên Tư nhíu mày: “Tay này là chuyên gia thật à? Lời ông ta có tin được không?”
Mạnh Kình Tùng đã sớm có chuẩn bị: “Hai ngày nay tôi cũng không nhàn rỗi, sai người tra xét gốc rễ của Thần Côn, hộ núi Trùng Khánh còn đặc biệt tới thăm Vạn Phong Hỏa, họ Vạn đã vỗ ngực đảm bảo cho Thần Côn.”
“Nói rằng người này, không nhà không người thân, không môn không phái, không cầu danh cũng chẳng cầu lợi, cả đời lăn lộn từ lúc còn phong nhã hào hoa cho đến khi tuổi đã năm mươi, phiêu bạt nửa đời thật sự là vì nghiên cứu của mình.”
Nhìn Thần Côn bây giờ thật không sao tưởng tượng ra được dáng vẻ “phong nhã hào hoa” của lão, Mạnh Thiên Tư phì cười: “Anh dùng từ thật là, còn hết cụm này sang cụm khác nữa chứ.”
Mạnh Kình Tùng cải chính: “Thuật lại thôi, đều là lời giải thích của Vạn Phong Hỏa, có thể thấy ông ta thật sự tán thưởng Thần Côn: Tôi đã liên lạc với cô bảy, cô bảy cũng không phải người nghe gì cũng coi là thật, cô ấy đã sớm bảo hộ núi dãy Vân Lĩnh thăm dò trấn Hữu Vụ rồi.”
“Trong trấn quả thực có một tòa đại trạch Minh Thanh, trước kia là nơi ở của một bà cụ ngồi xe lăn, về sau trở thành nơi ở của Thần Côn. Nghe nói trong phòng không phải sách thì cũng là tài liệu in ấn, có vô số những quyển sổ ghi chép đánh số thứ tự theo năm, dựa vào độ vàng ố của trang giấy và so sánh nét chữ, đúng là đã được tích lũy trong hai,ba mươi năm. Ông ta còn có một người ở chung, hình như là một người dị dạng, khuôn mặt rất đáng sợ, gần như không bao giờ ra khỏi cửa, cũng không có gì đặc biệt.”
“Nói tóm lại, người này căn cơ sạch sẽ, có thể yên tâm, trong bụng cũng quả thật có hàng, cho nên tôi dẫn cả ông ta theo.”
Mạnh Thiên Tư ừ một tiếng: “Nếu ông ta quả thực có ích thì chúng ta cũng chẳng ngại kết giao, nhiều người tài nhiều đường đi, đừng để như nhà ma nước…”
Cô hơi chướng mắt ma nước, tên đầy đủ của nhà ma nước là “ba họ ma nước”, nghe nói thời xưa có ba họ, qua hơn ngàn năm tới nay, vậy nhưng lại vẫn chỉ có ba họ, giữ khư khư bí mật của mình, nhìn những người khác họ như mãnh thú hồng thủy, đủ thấy lòng phòng người sâu đến mức nào, quá nhỏ mọn – trên đời không giao lưu đối ngoại sao được chứ, nhìn quỷ non xem, đã sớm phát triển thành bách gia tính rồi.
Mạnh Kình Tùng cười gật đầu, chợt lại nghĩ đến điều gì: “Cô biết không, Thần Côn có bạn gái đấy.”
Đại khái là bản tính con người, nói đến chuyện yêu đương, Mạnh Thiên Tư cũng không ngoại lệ, trở nên hưng phấn khó hiểu, dứt khoát ngồi dậy, trong đầu tỉ mỉ nhớ lại tướng mạo của Thần Côn một lượt, lại “eo” một tiếng như ghét bỏ: “Ông ta…còn có bạn gái? Phụ nữ bây giờ tiêu chuẩn thấp thế à?”
Mạnh Kình Tùng cũng hiểu là buồn cười: “Còn chưa nói hết đâu, cô đừng phát biểu ý kiến vội thế, hai chữ ‘bạn gái’ nằm trong ngoặc kép đó. Người phụ nữ ấy…chết còn trước cả khi ông ấy sinh ra nữa kìa.”
Câu này thật sự trúc trắc, đầu óc Mạnh Thiên Tư nhất thời không theo kịp: “Chết còn trước cả khi ông ấy sinh ra… Ý là đính hôn từ trong bụng mẹ đó hả? Nhà gái sinh ra trước, vừa sinh ra đã chết?”
Cơ mà không đúng, không phải Thần Côn bị vứt lại trước cửa thôn cái thôn Thôn Nhỏ gì đó sao?
Mạnh Kình Tùng cũng không úp mở: “Nghe nói có một lần ông ta đi hỏi thăm chuyện kỳ bí, tới cái thôn Phong Môn gì đó hình như là ở Hà Nam, trông thấy một bức hình cũ thời Dân quốc ở nhà một nông dân, trong hình có một người phụ nữ ôm con, đẹp thì đẹp, nhưng đã chết từ trước giải phóng rồi.”
“Vậy mà ông ta lại có thể vừa gặp đã yêu người phụ nữ trong bức ảnh đó, lúc hộ núi tới nhà ông ta thăm dò, còn trong thấy bức ảnh đó, nói là được lồng trong khung ảnh, vô cùng trân trọng đặt trên bàn sách, người không biết còn tưởng là cụ kỵ ba đời gì của ông ta ấy chứ.”
Ban đầu Mạnh Thiên Tư cảm thấy thật hoang đường, cười mấy lần, nghe hết rồi lại không cảm thấy buồn cười nữa.
Cô chậm rãi ngả người lại xuống: “Thực ra, đổi một góc độ khác suy nghĩ thì người này cũng rất chí tình chí nghĩa.”
Mạnh Kình Tùng dở khóc dở cười: “Chí tình chí nghĩa mà cũng dùng để miêu tả ông ta được à?”
Mạnh Thiên Tư cụp mắt xuống, không nói gì nữa: Trên đời này có mấy ai đi ngược lại giá trị quan thông thường, không truy danh trục lợi, không mua đất xây nhà, chỉ vì những chuyện “cảm thấy hứng thú” mà bữa đói bữa no, ngược xuôi vạn dặm, bôn tẩu nửa đời chứ? Có mấy ai có thể không pha tạp đủ loại suy tính trong chuyện “tình yêu”, không để ý người khác chê cười, thậm chí ngay cả người kia sống hay chết cũng không để ý, thật lòng thật dạ, dám nói yêu với một bức ảnh chứ?
Tuy mối tình này tới rất khinh suất, khiến người ta cảm thấy nực cười, nhưng ai dám nói là không chân thành chứ?
Tay Thần Côn này cũng thật thú vị.
Ngoài cửa như có động tĩnh, thấy Mạnh Thiên Tư vẫn đang xuất thần, Mạnh Kình Tùng cũng không quấy rối cô ngay mà ra cửa nói chuyện với người tới trước.
Mạnh Thiên Tư đang bần thần thì chợt nghe thấy hai chữ “Giang Luyện”, bèn ngẩng lên, là Mạnh Kình Tùng đang thì thầm với người khác ngoài cửa. Cô thấy lạ, nghiêng người qua, lại không nghe thấy gì.
Cũng may, Mạnh Kình Tùng nhanh chóng đi tới, sắc mặt hơi khó coi, không đợi cô lên tiếng hỏi đã nói ra trước: “Thiên Tư, cậu Giang Luyện kia… Hay là sáng mai điều một xe đưa cậu ta đi đi.”
Mạnh Thiên Tư không đáp, chờ y nói nốt: y sẽ không không đầu không đuôi nói như vậy.
“Người này không rõ lai lịch, để ở doanh trại khiến người ta không yên tâm. Vừa nãy người trực đêm tới báo lại, nói Giang Luyện hơn nửa đêm lén lút trong phòng bếp…”
Phản ứng đầu tiên của Mạnh Thiên Tư là: Có lẽ Giang Luyện còn chưa ăn no.
“Sợ hắn giở trò gì trong bếp, người trực đêm bèn chạy qua xem, vậy mà lại ngồi xổm rửa bát. Cô nói xem, sao có thể chứ? Trò tuồng cố làm ra vẻ này diễn quá tệ rồi. Nhưng lại không bắt được nhược điểm gì, tôi thấy hay là đưa cậu ta đi…”
Còn chưa nói xong, Mạnh Thiên Tư đã phì cười.
Mạnh Kình Tùng lấy làm khó hiểu.
Mạnh Thiên Tư cũng ý thức được rằng cười vậy có hơi quá, ho khan hai tiếng ngồi dậy: “Anh đừng để ý chuyện này, anh ta thích rửa bát, kệ anh ta đi.”
Mạnh Kình Tùng còn định nói gì, Mạnh Thiên Tư bảo y cứ nghe là được: “Bây giờ Giang Luyện đang có điều nhờ vả tôi, chỉ ước chúng ta thuận lợi xong việc, lưu lại đây sẽ chỉ hỗ trợ chứ không thêm phiền. Hơn nữa, anh ta là nhân vật quan trọng gì mà anh phải điều riêng một xe đưa anh ta đi vậy chứ? Lúc nhổ trại coi anh ta như cái sọt mà xách lên xe không được sao.”
Cô ngáp một cái, kết thúc cuộc trò chuyện tối khuya này: “Được rồi, bất kể sau lưng Bạch Thủy Tiêu là thần hay phật thì giờ cũng đã đến rừng đá treo túi mật núi, chuyện sẽ nhanh chóng được phơi bày thôi; con ả đó mất dấu từ tối qua, đến giờ vẫn chưa có động tĩnh gì, không giống phong cách cô ta lắm, nói không chừng đang mưu tính gì ở nơi bí mật nào đó gần đây, chúng ta ở ngoài sáng, ba doanh trại thượng trung hạ đều phải cảnh giác đề phòng; còn nữa, đưa nhật ký của cụ Đoàn cho tôi, trước khi đi ngủ tôi lật xem lại chút.”
***
Rốt cuộc cũng có thể ở một mình.
Mạnh Thiên Tư chui vào làm ổ giữa đống gối hơi, thuận tay giở quyển nhật ký ra, bức ảnh kinh điển của Đoàn Văn Hi lại rơi ra, Mạnh Thiên Tư nhặt lên nhìn một lúc, cảm thấy tay phi công người Anh gặp tai nạn chết kia thật có phúc, cũng thật không có phúc.
Nếu ông ta không chết, cụ Đoàn cũng sẽ không cô độc trọn đời như vậy, tình cảm thời đó luôn có phần kiên trinh chỉ một đến gần như mộng ảo, không giống như thời nay, ầm ĩ ồn ào, hợp tan tùy tính, không ai là chốn về của ai, về rồi chưa biết chừng cũng tan – người hiện đại không có chốn về, chỉ có chân trời, chốn về mờ mịt, chân trời vĩnh cửu.
Cô trả lại bức ảnh về chỗ cũ, lật qua các trang rồi dừng lại ở một trang có hình vẽ bằng bút mực, dựng thẳng quyển nhật kí lên.
Đây là sơ đồ bên dưới vách núi Đoàn Văn Hi vẽ, một trang giấy quá nhỏ nên ghép hai trang lại thành một trang lớn, phải xoay hướng để xem.
Khả năng vẽ của Đoàn Văn Hi rất tốt, mực nước đen vì đã cũ nên hơi nhòe, trang giấy cũng ố vàng cũ kĩ, lại tăng thêm phần xa xăm mờ ảo cho bức vẽ, xuyên qua trang giấy màu bánh quế này, vách núi vạn trượng dần trở nên rõ nét dễ nhìn.
…
Chuyện Đoàn Văn Hi xuống vách năm đó rất được quỷ non ca tụng, bởi bà gần như không sử dụng nhân lực hộ núi Tương Tây mà chủ yếu dựa vào ba bảo bối: ách trâu, một bầy khỉ, một túi tiền đồng.
Cũng không sai, trong núi Tương Tây thường có sương mù: núi rừng đầm lầy, hơi nước quá dồi dào, khó tránh.
Vậy nhưng những câu lẩm bẩm kế tiếp của Thần Côn lại khiến Giang Luyện không hiểu nổi: “Từng cụm từng cụm, như sóng bụi cuộn lên, che lại một góc trời…”
Nói tới đây, lão đánh một cái giật mình, ánh mắt tan rã rốt cuộc cũng hồi thần, con ngươi còn sáng lấp lánh sáng: “Nhớ ra rồi, tôi nhớ ra rồi!”
Rốt cuộc cũng nhớ ra vì sao lão lại cảm thấy cái rương này là bị trộm.
Bởi vì khi sương mù bao trùm khắp bầu trời, những người đứng bên đống lửa hoặc đống rương trở nên rối loạn, họ lớn tiếng quát mắng, có người chạy qua bên này, có người trèo lên chóp đống rương chất đống, muốn xem cho rõ.
Sau đó, từ trong sương mù dày đặc thò ra một đôi tay, chỉ có tay, hiển nhiên là tay người, gầy trơ xương, bỗng bám lấy cạnh một chiếc rương nằm ở rìa ngoài, rầm rầm kéo thẳng cái rương đó vào trong sương mù.
Lén la lén lút như vậy, không phải trộm thì là gì?
Giang Luyện cảm thấy Thần Côn miêu tả có hơi phóng đại và không thật, Tương Tây thì nhiều sương thật, có điều nói là “từng cụm từng cụm, như sóng bụi cuộn lên” thì hơi hoang đường xằng bậy quá rồi, cảnh trong mơ mà, sẽ có phần méo mó và quái dị so với thực tế.
Một đám người vs. một đám thổ phỉ.
Một đống rương vs. đống rương nhà họ Huống mang theo khi chạy nạn.
Khá là tương đồng, mười phần chắc đến tám chín là hai người họ tìm cùng một chiếc rương rồi, nói chính xác hơn là thứ hai người muốn tìm đều xuất thân từ đống rương của nhà họ Huống kia.
Thần Côn nuốt nước miếng, tiếp tục miêu tả cảnh trong mơ cho Giang Luyện nghe: “Sau đó thì đuổi theo. Bên tai chỉ toàn là tiếng thở hổn hển lúc chạy đuổi, cảm giác rất kỳ quặc, tầm nhìn của tôi cũng rất kỳ quặc, trong mơ, tôi cũng không phải người đứng xem, dường như nằm trong những người chạy đuổi, ra sức đuổi, nhưng mà…”
Nói tới đây, Thần Côn hơi hoang mang.
Đuổi đuổi một hồn, sương mù tan đi, tan rất quang đãng, lộ ra một cánh đồng hoang như bình địa, ngẩng đầu lên nhìn, mặt trăng rất to, rất trắng, rất sáng, rất khoan dung, cũng rất dịu dàng, bóng núi to lớn đứng lặng nơi chân trời, vừa yên tĩnh vừa nặng nề.
Đó chính là toàn bộ giấc mộng, kỳ thực so ra, cũng không thêm được bao nhiêu tin tức hữu dụng: cái rương vẫn chưa rõ kiểu dáng, chỉ biết đại khái kích cỡ, hơn nữa kỳ thực là chất chồng thành đống, không chỉ có một cái; có rất nhiều người nhưng chỉ thấy bóng người, ăn mặc, thậm chí đến giới tính ra sao cũng hoàn toàn không có khái niệm; có một bóng chim khổng lồ mà méo mó, nhưng đó là hiệu quả do ánh lửa chiếu rọi, chân thân thế nào, không sao biết được, có khi chỉ là một con chim bện bằng lá trúc; còn trông thấy một bàn tay hiện ra từ trong sương mù dày đặc, bám lấy cái rương, nhưng điều này cũng chỉ tiến thêm một bước chứng thực rằng chiếc rương kia bị trộm đi mà thôi.
Giang Luyện không bỏ sót từ mấu chốt nhất kia: “Đồng hoang?”
Thần Côn đáp: “Phải.”
Giang Luyện cảm thấy từ này rất đáng để nghiền ngẫm: Với địa hình địa thế chín non nửa nước nửa phần ruộng của Tương Tây, còn có thể có đồng hoang sao?
Hắn dò xét hỏi: “Chú cảm thấy…nơi trong mộng có phải Tương Tây không?”
Thần Côn quả quyết bác bỏ: “Không phải, tất nhiên là không phải rồi.”
Lão ra dấu minh họa những gì nhìn thấy trong mơ: “Dù là ban đêm nhưng cậu cũng có thể cảm giác được kiểu xa xôi và thông thấu của trời, mà kiểu diện tích không bến bờ đó, núi thì phải sừng sững trập trùng liên miên mới đúng… Không phải tôi nói núi phương Nam không sừng sững, nhưng là hai phong cách hoàn toàn khác nhau.”
Sau cùng, lão kết luận: “Tây Bắc! Trăm phần trăm là núi Tây Bắc, tôi có kinh nghiệm, cảm giác tổ tiên muôn núi, trụ cột chống trời này…”
Nói tới đây, lão như nhớ ra điều gì đó, không khỏi lẩm bẩm: “Tổ tiên muôn núi… Chẳng lẽ là Côn Lôn Sơn? Ơ, cậu đừng nói, tôi từng đi Côn Lôn rồi, khí chất nơi đó đúng là hơi giống…”
Côn Lôn Sơn ư, trái tim Giang Luyện trở lại mặt đất: Tuy đều là rương, nhưng một cái ở Tây Bắc, một cái ở Tương Tây, cách nhau đâu chỉ vạn dặm, xem ra không phải cùng một chuyện rồi.
Vậy ai tìm rương người đó bằng bản lĩnh của mình đi.
…
Hắn bưng cái khay đã trống không lên, tìm thẳng tới nơi bắc bếp. Bữa này ăn vốn đã muộn, hơn nữa còn bị Thần Côn quẩn chân một lúc lâu, đến giờ, đêm đã khuya, không ít lều đã lên đèn, phòng bếp cũng đã giải tán, trong bóng tối chỉ có nồi bát muôi chậu đã được rửa sạch bày ngăn nắp.
Giang Luyện đặt khay xuống, lại cảm thấy cứ để đó bỏ đi như vậy không ổn, do dự một lúc rồi tự tìm nước và giẻ rửa bát, múc chút nước, ngồi xổm xuống chỗ trũng rửa khay ăn.
Quỷ non trực đêm rất cảnh giác, trông thấy chỗ bếp có bóng người lắc lư, lập tức tới kiểm tra rõ ràng, đến khi trông thấy là Giang Luyện đang rửa bát thì thở phào nhẹ nhõm, đồng thời lại cảm thấy khó hiểu, còn sợ hắn làm gì phá hoại, dứt khoát không đi, đứng cách đó không xa theo dõi hắn rửa.
Giang Luyện nảy ý muốn trêu chọc, cố ý rửa thật chậm thật chậm, sau cùng còn cầm khăn lau lau bàn đến khô róc rồi mới rời đi.
Đi được một đoạn, bỗng dừng chân lại, nhìn về phía căn lều chính giữa được rất nhiều lều nhỏ quây lấy cách đó không xa.
Người trực đêm phía đó rõ ràng nhiều hơn hẳn, không cần đoán cũng biết là lều của Mạnh Thiên Tư. Nhiều lều nhỏ xung quanh đã tắt đèn, đèn lều lớn lại vẫn sáng, Giang Luyện trực giác, đèn sẽ không thể tắt sớm được.
Đã đứng ở vị trí quỷ non, bất kể có bằng lòng hay không thì cũng phải lo toan mọi chuyện. Mấy ngày nay xảy ra nhiều biến cố như vậy, Mạnh Kình Tùng chỉ là trợ lý, có năng lực nữa cũng không thể vượt mặt qua cô, chuyện lớn chuyện nhỏ đại khái đều phải do cô quyết định cuối cùng.
Cũng thật…quá mệt mỏi.
***
Mấy hôm nay Mạnh Thiên Tư đúng thật là mệt muốn chết, cộng thêm trên người bị thương, rất muốn nằm vật xuống ngủ luôn cho rồi.
Nhưng không được, vẫn còn cả đống chuyện phải bàn bạc quyết định, cũng may Mạnh Kình Tùng là người nhà, không cần phải giữ giá, cô chui vào túi ngủ, lót ba cái gối hơi ra sau eo, chỉ mở mắt, dỏng tai, tỉnh óc, tất cả những bộ phận cơ thể khác đều đã vào trạng thái nghỉ ngơi.
Nhưng những lời về “thần động” của Mạnh Kình Tùng đã làm cô lên tinh thần: “Thần? Người đứng sau cô ta là ‘thần’?
Mạnh Kình Tùng bật cười: “Cô đừng kích động, đây chỉ là cách nói dân gian ở Tương Tây thôi, Thần Côn nói ở Tương Tây không phân biệt quỷ thần – tôi thấy, có thể là một thế lực có khả năng ảnh hưởng lên tâm trí và ngôn hành của con người.”
Trong lòng Mạnh Thiên Tư bật ra một ý nghĩ: “Giống…bài vị ông tổ nhà ma nước?”
Mấy tháng trước, hai đời chưởng quản một già một trẻ nhà ma nước tới cửa xin giúp đỡ, đã kể cho cô nghe một chuyện vừa phức tạp vừa khó biết đầu đuôi, trong đó đề cập gia tộc ma nước có ba bài vị tổ tiên, gọi tắt là bài vị, sau khi ma nước xuống nước, áp bài vị lên trán, cả người sẽ như bị nhập hồn, y hệt con rối, bơi đông bơi tây bận rộn không ngừng dưới nước, nhưng sau khi xong xuôi tỉnh lại thì hoàn toàn không nhớ được chuyện đã xảy ra – người nhà ma nước đã nghĩ cách thử cho người xuống nước bám theo, định dùng camera dưới nước quay lại, nhưng đều thất bại.
Mạnh Kình Tùng lắc đầu: “Tôi cũng nghĩ đến bài vị ông tổ, có phần giống, nhưng thực chất cũng không quá giống: tình trạng của nhà ma nước giống như bị chiếm đoạt tâm trí trong một thời gian ngắn, hay nói thẳng ra là bị nhập hồn; Bạch Thủy Tiêu thì lại giống bị tẩy não hơn – không chỉ Bạch Thủy Tiêu, tôi đã nghe Thần Côn nói về tình trạng của các lạc hoa động nữ.”
So với nói là bị điên thì giống loạn trí do bị tẩy não hơn: lạc hoa động nữ cũng không điên, họ đối nhân xử thế đều rất bình thường, chỉ có điều là tin tưởng quá mức vào sự tồn tại của thần động, cũng tin chắc rằng mình có thề ước ái tình với thần động.
Lại là Thần Côn, Mạnh Thiên Tư nhíu mày: “Tay này là chuyên gia thật à? Lời ông ta có tin được không?”
Mạnh Kình Tùng đã sớm có chuẩn bị: “Hai ngày nay tôi cũng không nhàn rỗi, sai người tra xét gốc rễ của Thần Côn, hộ núi Trùng Khánh còn đặc biệt tới thăm Vạn Phong Hỏa, họ Vạn đã vỗ ngực đảm bảo cho Thần Côn.”
“Nói rằng người này, không nhà không người thân, không môn không phái, không cầu danh cũng chẳng cầu lợi, cả đời lăn lộn từ lúc còn phong nhã hào hoa cho đến khi tuổi đã năm mươi, phiêu bạt nửa đời thật sự là vì nghiên cứu của mình.”
Nhìn Thần Côn bây giờ thật không sao tưởng tượng ra được dáng vẻ “phong nhã hào hoa” của lão, Mạnh Thiên Tư phì cười: “Anh dùng từ thật là, còn hết cụm này sang cụm khác nữa chứ.”
Mạnh Kình Tùng cải chính: “Thuật lại thôi, đều là lời giải thích của Vạn Phong Hỏa, có thể thấy ông ta thật sự tán thưởng Thần Côn: Tôi đã liên lạc với cô bảy, cô bảy cũng không phải người nghe gì cũng coi là thật, cô ấy đã sớm bảo hộ núi dãy Vân Lĩnh thăm dò trấn Hữu Vụ rồi.”
“Trong trấn quả thực có một tòa đại trạch Minh Thanh, trước kia là nơi ở của một bà cụ ngồi xe lăn, về sau trở thành nơi ở của Thần Côn. Nghe nói trong phòng không phải sách thì cũng là tài liệu in ấn, có vô số những quyển sổ ghi chép đánh số thứ tự theo năm, dựa vào độ vàng ố của trang giấy và so sánh nét chữ, đúng là đã được tích lũy trong hai,ba mươi năm. Ông ta còn có một người ở chung, hình như là một người dị dạng, khuôn mặt rất đáng sợ, gần như không bao giờ ra khỏi cửa, cũng không có gì đặc biệt.”
“Nói tóm lại, người này căn cơ sạch sẽ, có thể yên tâm, trong bụng cũng quả thật có hàng, cho nên tôi dẫn cả ông ta theo.”
Mạnh Thiên Tư ừ một tiếng: “Nếu ông ta quả thực có ích thì chúng ta cũng chẳng ngại kết giao, nhiều người tài nhiều đường đi, đừng để như nhà ma nước…”
Cô hơi chướng mắt ma nước, tên đầy đủ của nhà ma nước là “ba họ ma nước”, nghe nói thời xưa có ba họ, qua hơn ngàn năm tới nay, vậy nhưng lại vẫn chỉ có ba họ, giữ khư khư bí mật của mình, nhìn những người khác họ như mãnh thú hồng thủy, đủ thấy lòng phòng người sâu đến mức nào, quá nhỏ mọn – trên đời không giao lưu đối ngoại sao được chứ, nhìn quỷ non xem, đã sớm phát triển thành bách gia tính rồi.
Mạnh Kình Tùng cười gật đầu, chợt lại nghĩ đến điều gì: “Cô biết không, Thần Côn có bạn gái đấy.”
Đại khái là bản tính con người, nói đến chuyện yêu đương, Mạnh Thiên Tư cũng không ngoại lệ, trở nên hưng phấn khó hiểu, dứt khoát ngồi dậy, trong đầu tỉ mỉ nhớ lại tướng mạo của Thần Côn một lượt, lại “eo” một tiếng như ghét bỏ: “Ông ta…còn có bạn gái? Phụ nữ bây giờ tiêu chuẩn thấp thế à?”
Mạnh Kình Tùng cũng hiểu là buồn cười: “Còn chưa nói hết đâu, cô đừng phát biểu ý kiến vội thế, hai chữ ‘bạn gái’ nằm trong ngoặc kép đó. Người phụ nữ ấy…chết còn trước cả khi ông ấy sinh ra nữa kìa.”
Câu này thật sự trúc trắc, đầu óc Mạnh Thiên Tư nhất thời không theo kịp: “Chết còn trước cả khi ông ấy sinh ra… Ý là đính hôn từ trong bụng mẹ đó hả? Nhà gái sinh ra trước, vừa sinh ra đã chết?”
Cơ mà không đúng, không phải Thần Côn bị vứt lại trước cửa thôn cái thôn Thôn Nhỏ gì đó sao?
Mạnh Kình Tùng cũng không úp mở: “Nghe nói có một lần ông ta đi hỏi thăm chuyện kỳ bí, tới cái thôn Phong Môn gì đó hình như là ở Hà Nam, trông thấy một bức hình cũ thời Dân quốc ở nhà một nông dân, trong hình có một người phụ nữ ôm con, đẹp thì đẹp, nhưng đã chết từ trước giải phóng rồi.”
“Vậy mà ông ta lại có thể vừa gặp đã yêu người phụ nữ trong bức ảnh đó, lúc hộ núi tới nhà ông ta thăm dò, còn trong thấy bức ảnh đó, nói là được lồng trong khung ảnh, vô cùng trân trọng đặt trên bàn sách, người không biết còn tưởng là cụ kỵ ba đời gì của ông ta ấy chứ.”
Ban đầu Mạnh Thiên Tư cảm thấy thật hoang đường, cười mấy lần, nghe hết rồi lại không cảm thấy buồn cười nữa.
Cô chậm rãi ngả người lại xuống: “Thực ra, đổi một góc độ khác suy nghĩ thì người này cũng rất chí tình chí nghĩa.”
Mạnh Kình Tùng dở khóc dở cười: “Chí tình chí nghĩa mà cũng dùng để miêu tả ông ta được à?”
Mạnh Thiên Tư cụp mắt xuống, không nói gì nữa: Trên đời này có mấy ai đi ngược lại giá trị quan thông thường, không truy danh trục lợi, không mua đất xây nhà, chỉ vì những chuyện “cảm thấy hứng thú” mà bữa đói bữa no, ngược xuôi vạn dặm, bôn tẩu nửa đời chứ? Có mấy ai có thể không pha tạp đủ loại suy tính trong chuyện “tình yêu”, không để ý người khác chê cười, thậm chí ngay cả người kia sống hay chết cũng không để ý, thật lòng thật dạ, dám nói yêu với một bức ảnh chứ?
Tuy mối tình này tới rất khinh suất, khiến người ta cảm thấy nực cười, nhưng ai dám nói là không chân thành chứ?
Tay Thần Côn này cũng thật thú vị.
Ngoài cửa như có động tĩnh, thấy Mạnh Thiên Tư vẫn đang xuất thần, Mạnh Kình Tùng cũng không quấy rối cô ngay mà ra cửa nói chuyện với người tới trước.
Mạnh Thiên Tư đang bần thần thì chợt nghe thấy hai chữ “Giang Luyện”, bèn ngẩng lên, là Mạnh Kình Tùng đang thì thầm với người khác ngoài cửa. Cô thấy lạ, nghiêng người qua, lại không nghe thấy gì.
Cũng may, Mạnh Kình Tùng nhanh chóng đi tới, sắc mặt hơi khó coi, không đợi cô lên tiếng hỏi đã nói ra trước: “Thiên Tư, cậu Giang Luyện kia… Hay là sáng mai điều một xe đưa cậu ta đi đi.”
Mạnh Thiên Tư không đáp, chờ y nói nốt: y sẽ không không đầu không đuôi nói như vậy.
“Người này không rõ lai lịch, để ở doanh trại khiến người ta không yên tâm. Vừa nãy người trực đêm tới báo lại, nói Giang Luyện hơn nửa đêm lén lút trong phòng bếp…”
Phản ứng đầu tiên của Mạnh Thiên Tư là: Có lẽ Giang Luyện còn chưa ăn no.
“Sợ hắn giở trò gì trong bếp, người trực đêm bèn chạy qua xem, vậy mà lại ngồi xổm rửa bát. Cô nói xem, sao có thể chứ? Trò tuồng cố làm ra vẻ này diễn quá tệ rồi. Nhưng lại không bắt được nhược điểm gì, tôi thấy hay là đưa cậu ta đi…”
Còn chưa nói xong, Mạnh Thiên Tư đã phì cười.
Mạnh Kình Tùng lấy làm khó hiểu.
Mạnh Thiên Tư cũng ý thức được rằng cười vậy có hơi quá, ho khan hai tiếng ngồi dậy: “Anh đừng để ý chuyện này, anh ta thích rửa bát, kệ anh ta đi.”
Mạnh Kình Tùng còn định nói gì, Mạnh Thiên Tư bảo y cứ nghe là được: “Bây giờ Giang Luyện đang có điều nhờ vả tôi, chỉ ước chúng ta thuận lợi xong việc, lưu lại đây sẽ chỉ hỗ trợ chứ không thêm phiền. Hơn nữa, anh ta là nhân vật quan trọng gì mà anh phải điều riêng một xe đưa anh ta đi vậy chứ? Lúc nhổ trại coi anh ta như cái sọt mà xách lên xe không được sao.”
Cô ngáp một cái, kết thúc cuộc trò chuyện tối khuya này: “Được rồi, bất kể sau lưng Bạch Thủy Tiêu là thần hay phật thì giờ cũng đã đến rừng đá treo túi mật núi, chuyện sẽ nhanh chóng được phơi bày thôi; con ả đó mất dấu từ tối qua, đến giờ vẫn chưa có động tĩnh gì, không giống phong cách cô ta lắm, nói không chừng đang mưu tính gì ở nơi bí mật nào đó gần đây, chúng ta ở ngoài sáng, ba doanh trại thượng trung hạ đều phải cảnh giác đề phòng; còn nữa, đưa nhật ký của cụ Đoàn cho tôi, trước khi đi ngủ tôi lật xem lại chút.”
***
Rốt cuộc cũng có thể ở một mình.
Mạnh Thiên Tư chui vào làm ổ giữa đống gối hơi, thuận tay giở quyển nhật ký ra, bức ảnh kinh điển của Đoàn Văn Hi lại rơi ra, Mạnh Thiên Tư nhặt lên nhìn một lúc, cảm thấy tay phi công người Anh gặp tai nạn chết kia thật có phúc, cũng thật không có phúc.
Nếu ông ta không chết, cụ Đoàn cũng sẽ không cô độc trọn đời như vậy, tình cảm thời đó luôn có phần kiên trinh chỉ một đến gần như mộng ảo, không giống như thời nay, ầm ĩ ồn ào, hợp tan tùy tính, không ai là chốn về của ai, về rồi chưa biết chừng cũng tan – người hiện đại không có chốn về, chỉ có chân trời, chốn về mờ mịt, chân trời vĩnh cửu.
Cô trả lại bức ảnh về chỗ cũ, lật qua các trang rồi dừng lại ở một trang có hình vẽ bằng bút mực, dựng thẳng quyển nhật kí lên.
Đây là sơ đồ bên dưới vách núi Đoàn Văn Hi vẽ, một trang giấy quá nhỏ nên ghép hai trang lại thành một trang lớn, phải xoay hướng để xem.
Khả năng vẽ của Đoàn Văn Hi rất tốt, mực nước đen vì đã cũ nên hơi nhòe, trang giấy cũng ố vàng cũ kĩ, lại tăng thêm phần xa xăm mờ ảo cho bức vẽ, xuyên qua trang giấy màu bánh quế này, vách núi vạn trượng dần trở nên rõ nét dễ nhìn.
…
Chuyện Đoàn Văn Hi xuống vách năm đó rất được quỷ non ca tụng, bởi bà gần như không sử dụng nhân lực hộ núi Tương Tây mà chủ yếu dựa vào ba bảo bối: ách trâu, một bầy khỉ, một túi tiền đồng.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook