Có lẽ không có típ người nào khiến tôi thích cả khi nghĩ lại mối quan hệ trước đây tôi không có một hình dung tổng thể nào của những mối quan hệ ấy. Nói như vậy không phải cứ lấy một ví dụ thì ví dụ đó là điển hình cho số đông – ngoài Brandon hồi trung học thì tôi chỉ có đúng ba người bạn trai mà thôi.

Lịch sử những lần hẹn hò thật sự của tôi bắt đầu vào học kỳ đầu tiên của năm thứ nhất đại học Duke. Tôi sống ở khu ký túc xá có cả nam lẫn nữ, và tối nào tất cả chúng tôi cũng điều tụ tập nhau lại, ngồi ở phòng chung để học bài (hay giả vờ học), chơi bời và xem những chương trình như Beverly Hills, 90210, và Melrose Place. Chính ở trong căn phòng chung này, tôi đã dần có tình cảm nghiêm túc với Hunter Bretz, cậu bạn quê ở Mississippi. Hunter gầy tong teo, rất mê máy vi tính, nhưng tôi thích cậu ta điên lên được. Tôi thích trí thông minh, kiểu nói rề rà dễ nghe, thích cái cách đôi mắt nâu của cậu ta nhìn bạn chăm chăm khi bạn nói chuyện, như thể cậu ta thật sự quan tâm đến những gì bạn nói. Pam, cô bạn cùng phòng với tôi, một cô gái vùng Jersey với mái tóc dày sụ, từng tuyên bố rằng tình cảm của tôi là " một điều khó hiểu điên khùng hết chổ nói " nhưng vẫn khích lệ tôi mời Hunter đi chơi. Tôi không mời, nhưng đã cố gắng hết mình để gây dựng một tình bạn, phá vỡ vẻ ngoài hay e dè ngượng nghị của cậu ta để nói chuyện thơ văn. Đúng lúc tôi thật sự tin rằng mình đang có tiến triển với Hunter thì Joey Merola, phá hỏng tất cả.

Joey trái ngược hẳn với Hunter – một anh chàng chơi thể thao, ưa ồn ào náo nhiệt với điệu cười ầm ỹ hết cỡ. Cậu ta chơi tất cả những môn thể thao nói đến trong sách, lúc nào cũng thong dong bước vào phòng chung, người đẫm mồ hôi và kể chuyện đội của cậu ta đã lội ngược dòng vào giây cuối ra sao để dành được chiến thắng. Cậu ta là kiểu con trai lấy làm tự hào về việc mình ăn được nhiều đến cỡ nào, tự hào về việc mình có thể xoay sở qua các tiết văn mà chẳng bao giờ phải đọc đến một cuốn sách.

Vào một buổi tối thứ Năm, Joey, Hunter và tôi là ba đứa cuối cùng còn ngồi trong phòng, chúng tôi nói chuyện về tôn giáo, về hình phạt tử hình, và về ý nghĩa của cuộc sống, những chuyện trước kia tôi đã tưởng tượng ra lên đại học mình sẽ thảo luận, xa rời đề tài Dracy và những thú vui nông cạn của cô ấy. Joey là người không tin vào thần thánh và cậu ta ủng hộ hình phạt tử hình. Cũng giống tôi, Hunter là người theo hội Giáo lý, phản đối hình phạt tử hình. Cả ba đứa bọn tôi điều không hiểu rõ về ý nghĩa của cuộc sống này. Chúng tôi nói, nói mãi, và tôi quyết định tranh cãi với Joey đến cùng, về phe với Hunter. Nhưng đến lúc hơn hai giờ, Hunter vẫy cờ trắng đầu hàng, " Thôi được rồi, sáng mai tôi phải lên lớp sớm." "Thôi nào. Cứ bỏ lớp đó đi. Tôi chẳng bao giờ lên lớp lúc tám giờ cả." Joey nói một cách tự hào.

Hunter bật cười. "Tôi thì phải trả tiền, vậy nên tôi về đây."

Đó là một điểm nữa tôi thích ở Hunter. Cậu ta tự trả tiền học phí, không giống với phần đông những đứa con nhà giàu ở Duke. Thế là cậu ta chào tạm biệt, và tôi nuối tiếc nhìn cậu ta lững thững bước ra khỏi phòng. Joey không để lỡ một giây nào, cứ tiếp tục nói linh tinh, xào xáo lại cái chuyện cả hai chúng tôi đều quê ở Bang Indiana - chỉ cách nhau có hai thị trấn – và bố của cả hai đều học ở Đại Học Indiana (Bố cậu ta đóng một vai trò mờ nhạt trong đội bóng rổ). Chúng tôi chơi trò nói tên và ghi được hai bàn. Joey biết Blaine, bạn trai cũ của Darcy, nhờ đọc trang thể thao trên báo địa phương. Và cả hai chúng tôi đều biết Tracy Purlington, đứa con gái lăng nhăng sống ở thị trấn giữa hai nhà bọn tôi.

Cuối cùng, đến lúc tôi nói mình thật sự phải đi ngủ, Joey theo tôi đi lên tầng trên, và hôn tôi chỗ cầu thang. Tôi nghĩ đến Hunter, nhưng vẫn hôn đáp lại Joey, hào hứng đón nhận một trải nghiệm thực sự ở trường Đại Học. đã gặp được Greg, người bây giờ là chồng cô ấy (và trao cho anh ta đời con gái của mình), còn Darcy thì đã cặp với bốn tên con trai, theo lần gần nhất tôi tính.

Sáng hôm sau, tôi lấy làm hối hận vì đã hôn Joey. Thậm chí còn hơn thế nữa, khi tôi trông thấy Hunter đang ngồi xổm cạnh kho sách trong thư viện, đầu cuối xuống một cuốn sách. Nhưng vẫn chưa đủ để ngăn tôi không hôn Joey một lần nữa vào cuối tuần đó, lần này ở trong phòng giặt trong khi bọn tôi chờ quần áo khô. Và chuyện cứ tiếp tục cho đến lúc ai ai trong ký túc xá, kể cả Hunter, cũng biết Joey và tôi là một cặp. Pam hết sức mừng rỡ cho tôi – cô ấy nói rằng Joey cho Hunter chạy dài, cậu ta là người có cặp mông đẹp nhất trong ký túc xá. Tôi viết thư cho Darcy và Annalise, kể cho họ nghe về anh bạn trai mới và tôi đã bỏ qua Hunter ra sao (chỉ phần nào trong số đó là sự thật), tôi hạnh phúc đến thế nào (cũng tạm được). Cả hai đều hỏi chung chung một câu : tôi có định đi đến cùng với Joey hay không ?

Tôi thấy mâu thuẫn đối với chủ đề liên quan đến tình dục. Một phần trong tôi muốn đợi cho đến khi tình yêu thật sự sâu sắc, thậm chí đến khi cưới. Nhưng tôi cũng hết sức tò mò muốn tìm hiểu chuyện đó như thế nào mà mọi người cứ phải ầm ĩ, và khao khát muốn trở thành một người già dặn, lõi đời. Vậy là, sau khi tôi và Joey đến với nhau được sáu tuần mà không có gì phàn nàn, tôi đến trung tâm chăm sóc sức khỏe của trường rồi quay về ký túc xá với một tờ kê đơn thuốc Lo/Ovral, viên tránh thai mà Darcy đã đảm bảo không làm người uống bị lên cân. Một tháng sau, với một cái bao cao su sử dụng thêm, Joey và tôi làm chuyện trọng đại. Đó là lần đầu tiên của cậu ta. Trong suốt hai phút rưỡi ấy, thế giới này chẳng hề rung động như Darcy tuyên bố lúc cô ấy quan hệ lần đầu với Carlos. Nhưng cũng không đau đến mức như Annalise đã cảnh báo. Tôi thấy nhẹ cả người khi cuối cùng cũng xong, và sung sướng góp chung niềm tự hào hãnh diện được làm phụ nữ cùng hai đứa bạn gái ở quê nhà. Joey và tôi ôm nhau nằm ở cái giường tầng dưới của tôi, nói rằng chúng tôi yêu nhau. Lần đầu tiên của chúng tôi còn tốt so với phần đông mọi người.

Nhưng vào mùa xuân năm đó, có hai dấu hiệu cảnh báo xuất hiện cho thấy Joey không phải là người đàn ông trong mơ của tôi. Thứ nhất, cậu ta gia nhập câu lạc bộ nam sinh ở trường đại học, coi nó nghiêm túc quá mức. Một buổi tối, lúc tôi giễu cậu ta về cái bắt tay bí mật ở phòng ăn, cậu ta bảo tôi là nếu tôi không tôn trọng hội anh em của cậu ta thì tôi cũng không tôn trọng cậu ta. Cho tôi xin đi. Thứ hai, Joey trở nên bị ám ảnh với đội bóng rổ Duke, dựng lều ngủ ngoài trời để mua được vé xem những trận đấu lớn, tô mặt màu xanh dương, nhảy lên nhảy xuống ngoài sân đấu với những kẻ "Cameron Điên " khác. Chuyện này hơi bị quá đà, nhưng tôi nghĩ chắc là mình cũ sẽ thông cảm với sự hào hứng của cậu ta nếu như cậu ta quê ở New Hampshire hay một bang khác không thích bóng rổ đến cuồng nhiệt. Nhưng cậu ta xuất thân từ Indiana cơ mà. Một trong mười bang siêu giỏi thể thao. Bố cậu ta chơi cho đội tuyển Hoosiers, trời ạ ! Thế mà cậu ta thì thế này đây, một kiểu người hâm mộ cứng đầu đột xuất. "Anh thích đội Duke ngay từ hồi đầu, anh chơi thân với Bobby Hurley vì anh ta từng uống rượu ở nhà của câu lạc bộ nam sinh bọn anh." Nhưng tôi cho qua những điểm thiếu hoàn hảo đó, và chúng tôi cùng học lên năm thứ hai, rồi thứ ba.

Thế rồi, một đêm, sau khi đội Wake Forest đánh bại Duke bằng những cú đập rổ, Joey đến phòng tôi với thái độ hết sức khó chịu. Bọn tôi bắt đầu cãi nhau chẳng vì chuyện gì, và cũng vì tất cả mọi chuyện. Lúc đầu chỉ là những chuyện nhỏ nhặt : cậu ta bảo tôi ngáy và chiếm cả cái giường (làm sao bạn có thể không lấn một chiếc giường dành cho một người cơ chứ?); tôi thì kêu ca rằng cậu ta cứ làm lẫn lộn bàn chải đánh răng của hai đứa (có ai lại nhầm lẫn thế không ?). Cuộc tranh cãi dần liên quan đến những vấn đề nghiêm túc hơn. Và đến lúc chẳng thể cứu vãn được nữa khi cậu ta gọi tôi là kẻ trí thức nhàm chán, tôi gọi cậu ta là kẻ thích đàn đúm không biết xấu hổ, kẻ thật sẽ tin rằng cái mặt vẽ xanh lè đó góp phần làm nên những chiến thắng của đội Duke. Cậu ta bảo tôi hãy vui vẻ lên, kiếm lấy vài điều để mà tự hào về trường học trước khi khăn gói biến khỏi nơi đó.

Ngày hôm sau, cậu ta quay lại với một vẻ mặt nghiêm trọng, câu mào đầu " chúng ta cần nói chuyện ", sau đó là câu kết " chúng ta sẽ mãi mãi thân nhau.". Tôi thấy sửng sốt hơn là buồn, nhưng tôi đồng ý rằng có lẽ chúng tôi nên trải nghiệm cuộc sống ở trường đại học theo những cách khác biệt hơn, điều đó thật sự có nghĩa là hẹn hò với những người khác. Chúng tôi nói cả hai sẽ luôn là bạn, cho dù tôi biết hai đứa còn không có đủ điểm chung để làm bạn nữa kìa.

Tôi không hề nhỏ một giọt nước mắt nào, cho đến khi trông thấy cậu ta ở một bữa tiệc, tay trong tay với Betsy Wingate, đứa cũng sống ở khu ký túc xá dành cho sinh viên năm thứ nhất. Tôi không muốn tay trong tay với cậu ta, thế nên tôi biết phản ứng của mình chỉ là sự pha trộn giữa cảm giác tiếc nuối và lòng tự trọng bị tổn thương mà thôi. Và tôi hối hận, nghĩ rằng trước kia tôi nên theo đuổi Hunter, cậu bạn đã từ lâu bị một sinh viên sáng suốt khác cướp mất.

Tôi gọi điện cho Darcy trong một trường hợp hiếm hoi khi vai trò hai đứa đổi chỗ cho nhau, tìm kiếm sự an ủi từ một cô nàng chuyên nghiệp trong các mối quan hệ. Cô ấy nó tôi đừng nhìn lại quá khứ, tôi đã có vài kỷ niệm thời sinh viên đẹp đẽ ngắn ngủi với Joey, một đều tôi sẽ không thể có được nếu đến với Hunter, người sẽ khiến cho cuộc sống xã hội của tôi đi xuống. "Vả lại," cô ấy nói một cách nghiêm chỉnh, "Joey đã dạy cho cậu biết những điểm cơ bản của kiểu ‘quan hệ’ anh trên tôi dưới ai cũng đoán được còn gì. Điều đó cũng đáng đấy chứ, phải không ?" Ý tưởng về lời động viên của cô ấy là như vậy đấy. Tôi nghĩ chắc nó cũng giúp được chút ít.

Tôi cứ hi vọng Hunter và bạn gái cậu ta sẽ chia tay, nhưng đều đó không xảy ra. Tôi không hẹn hò ở Duke thêm nữa và phần lớn thời gian học ở trường luật cũng không. Quãng thời gian dài không tình yêu đó rồi cuối cùng cũng chấm dứt với sự xuất hiện của anh chàng Nate Menke.

Tôi gặp Nate trong một bữa tiệc vào năm thứ nhất ở trường luật, nhưng trong suốt ba năm tiếp theo đó, chúng tôi hầu như không nói chuyện, chỉ đi qua thì chào nhau một câu. Thế rồi cả hai tình cờ học chung trong một lớp nhỏ - Quyền lực trong tay mỗi cá nhân: Luật pháp và xã hội trong thời đại của tự do cá nhân. Nate thường xuyên đứng lên trình bày trước lớp, nhưng không phải chỉ là mình nói mình nghe giống như một nửa số sinh viên trường luật. Cậu ta thật sự cũng có những điểm thú vị để mà trao đổi. Một hôm, sau khi tôi trình bày một luận điểm cũng chấp nhận được, cậu ta bèn hỏi tôi có muốn đi uống một tách cà phê và cùng bàn luận thêm không. Cậu ta gọi một tách cà phê đen, và tôi nhớ là mình cũng bắt chước, vì như thế có vẻ già dặn hơn là gọi cà phê sữa đường. Uống cà phê xong, chúng tôi đi dạo một lúc lâu, qua khu Village, và dừng lại ở những cửa hàng bàn đĩa CD và hàng sách cũ. Sau đó, chúng tôi đi ăn, và đến cuối buổi tối hôm đó, có một điều rõ ràng là chúng tôi sẽ trở thành một cặp.

Tôi vui sướng vì lại có bạn trai và nhanh chóng bị hút vào hầu hết những thứ liên quan đến Nate. Thứ nhất là tôi thích gương mặt cậu ta. Nate có đôi mắt tuyệt nhất, hơi xếch lên một chút theo kiểu khiến cho cậu ta trông như người Châu Á nhưng với màu mắt nhạt. Tôi cũng thích tính cách của cậu ta nữa. Cậu ta nói nhỏ nhẹ nhưng cứng cỏi, giống như một chính khách với kiểu ương ngạnh nóng nảy. Tìm hiểu hết lí do của những việc cậu ta làm thì khó lắm, nhưng tôi cũng đã cố gắng, thậm chí còn thuyết phục bản thân mình là tôi cũng cảm thấy như vậy. So với Joey, một kẻ chỉ biết dốc hết đam mê cho môn bóng rổ, thì Nate có vẻ là một người hoàn toàn có thực. Cậu ta cũng thích thú với chuyện chăn gối. Dù trước tôi cậu ta mới chỉ có vài người yêu, nhưng cậu ta có vẻ rất có kinh nghiệm, lúc nào cũng giục tôi thử làm gì đó mới mẻ. Cậu ta sẽ hỏi " Thế này được không?" " Thế kia được không?", rồi sẽ nhớ tư thế của mình để lần sau làm đúng y như vậy.

Nate và tôi tốt nghiệp trường luật, dành cả mùa hè ở thành phố để ôn luyện cho kỳ thi vào ngành luật. Ngày ngày chúng tôi cùng nhau đến thư viện, chỉ nghỉ ngơi để ăn uống và ngủ. Giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, chúng tôi nhồi vào đầu óc đã chật cứng hàng nghìn quy định, sự kiện, điều luật và giả thuyết. Chúng tôi lấy động lực để học vì khao khát đạt được thành công thì ít mà vì nỗi sợ thất bại đã lấn át, đã thôi thúc thì nhiều, Nate nghĩ đó là vì cả hai chúng tôi đều còn trẻ con. Thử thách không ngừng ấy đã mang chúng tôi lại gần nhau hơn. Cả hai chúng tôi đều khốn khó, nhưng lại thấy hạnh phúc trong nỗi khốn khó ấy khi được ở cùng nhau.

Nhưng đến mùa thu năm đó, trong hai người, chỉ còn lại một người chỉ khốn khổ mà thôi. Nate làm trợ lý luật sư cấp quận ở Queens, và tôi bắt đầu công việc trong một công ty luật ở khu Midtown. Anh ta yêu công việc, còn tôi thì lại ghét. Trong khi Nate được thẩm vấn nhân chứng và chuẩn bị cho phiên xét xử thì tôi lại bị hạ cấp phải lo việc giấy tờ - loại công việc thấp kém nhất trong ngành luật. Tối nào tôi cũng phải ngồi trong các phòng họp, xem xét hàng đống giấy tờ chất trong những hộp bìa cứng nhiều vô cùng tận. Tôi xem những ngày tháng viết trên tài liệu ấy và nghĩ : Lúc người ta đánh máy là thư này thì mình vừa mới lấy được bằng lái xe, và bây giờ thì nó nằm đây, vẫn mắc kẹt trong vòng kiện tụng không bao giờ chấm dứt. Tất cả dường như đều vô nghĩa.

Vậy là cuộc sống của tôi thật ảm đạm vô vọng – trừ mối quan hệ với Nate. Tôi bắt đầu dựa dẫm anh ta ngày càng nhiều, coi anh ta là nguồn hạnh phúc duy nhất của mình. Tôi thường nói yêu anh ta, rồi khi anh ta đáp lại thì tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn là vui. Tôi bắt đầu nghĩ đến hôn nhân, thậm chí nói về những đứa con tương lai, và chuyện tất cả chúng tôi sẽ sống ở đâu.

Thế rồi một tối, Nate và tôi đến một quán Bar ở khu Village để nghe một ca sĩ hát dân ca là Carly Weinstein sống ở Brooklyn. Sau màn trình diễn, Nate, tôi và vài người khác nữa nói chuyện phiếm với cô ta khi cô ta đặt chiếc đàn Guitar qua một bên với động tác nhẹ nhàng như một bà mẹ mới sinh con.

"Lời bài hát cô viết hay quá …điều gì đã gợi cảm hứng cho cô vậy?" Nate mắt mở to hỏi cô ta.

Ngay lập tức tôi cảm thấy lo lắng ; tôi còn nhớ cái nhìn đó xuất hiện từ lần đầu tiên chúng tôi hẹn uống cà phê. Thậm chí tôi càng cảm thấy buồn hơn khi anh ta mua một đĩa CD của cô ấy. Cô ta đâu có giỏi giang đến thế. Tôi nghĩ là Nate và Carly đã hẹn hò một tuần sau đó, vì có một buổi tối anh ta đi đâu đó không rõ, không nghe điện thoại cho đến tận nửa đêm. Tôi quá sợ nên không dám hỏi anh ta đã ở đâu. Vả lại, tôi cũng biết rồi. Anh ta đã thay đổi. Anh ta đã nhìn tôi theo một cách khác, gương mặt u tối còn đầu óc thì để tận đâu đâu.

Đúng như tôi đoán, chẳng bao lâu sau, chúng tôi nói chuyện nghiêm túc. Anh ta rất thẳng thắn. " Anh có tình cảm với người khác rồi," anh ta nói. " Anh luôn hứa là sẽ nói cho em biết."

Tôi nhớ rõ những cuộc nói chuyện đó, nhớ là tôi đã thích cái cách mình nói thật mạnh mẽ, tự tin khi bảo rằng nếu anh ta có hẹn hò với người khác thì chỉ cần nói thẳng với tôi, tôi sẽ tự lo liệu được. Dĩ nhiên khi ấy tôi không hề nghĩ rằng điều đó sẽ có lúc không còn là giả định nữa. Tôi muốn rút lại tất cả những lời nói thờ ơ lạnh nhạt, thay vào đó nói rằng tôi muốn nghe một lời nói dối nhe nhàng hơn, rằng chúng ta cần có không gian riêng, hay cần xa nhau một thời gian chẳng hạn.

" Có phải là Carly không?" tôi hỏi, cổ họng nghẹn lại.

Anh ta có vẻ bị sốc. " Sao em biết ?"

"Em chỉ đoán," tôi nói, không ghìm được những tiếng nức nở.

"Anh thực sự xin lỗi," anh ta nói rồi ôm lấy tôi. " Làm em đau lòng thế này anh cũng khổ sở lắm. Nhưng anh phải thành thật. Anh nợ em điều đó."

Vậy là anh ta có người mới, và lại còn ra vẻ đàng hoàng nữa chứ. Tôi cố ra vẻ tức giận, nhưng làm sao bạn có thể giận một người vì anh ta không muốn ở bên bạn ? Thay vào đó, tôi chỉ hờn dỗi, lên vài cân, thề là sẽ tránh xa bọn đàn ông.

Nate vẫn tiếp tục gọi điện thoại trong vài tháng sau khi bọn tôi chia tay. Tôi biết anh ta chỉ tỏ ra tử tế thôi nhưng những cuộc gọi ấy mang lại cho tôi một hi vọng giả tạo. Tôi không bao giờ có thể cưỡng lại việc nói đến bạn gái anh ta, " Carly vẫn bình thường," Nate ngượng ngùng nói. Rồi một lần anh ta đáp, "Bọn anh sắp chuyển đến sống cùng nhau.. và chắc là bọn anh sẽ sẽ đính hôn …" giọng anh ta nhỏ dần.

"Xin c. Thế thì tuyệt quá. Em thật sự lấy làm mừng cho hai người," tôi nói.

"Cảm ơn em, Rachel. Em nói như vậy thật có ý nghĩa thật lớn với anh."

"Vâng… Xin chúc hai người những đều tốt đẹp nhất, nhưng em nghĩ là em không muốn anh gọi điện thoại cho em thêm nữa, được không ?"

"Anh hiểu," anh ta nói, có lẽ nhẹ cả người vì thoát nợ.

Từ sau cuộc nói chuyện đó, tôi không còn nghe tin tức gì của Nate nữa. Tôi không biết liệu họ có cưới nhau không và khi nào họ cưới, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn tìm kiếm Carly Weinstein khi đi mua đĩa CD. Cho đến giờ thì cô ta chưa tạo được danh tiếng gì.

Nhìn lại quá khứ, tôi thắc mắc liệu mình có thực sự yêu Nate hay chỉ là tôi thấy yên tâm với mối quan hệ, của chúng tôi. Tôi tự hỏi không biết tình cảm của tôi dành cho anh ta có liên quan gì đến chuyện tôi ghét công việc của mình hay không. Từ kỳ thi vào ngành luật cho đến năm đầu tiên, cái năm khủng khiếp khi phải làm công việc đó, Nate là lối thoát của tôi. Và thỉnh thoảng, tôi có cảm giác điều đó giống với tình yêu lắm.

Một thời gian tạm yên ổn trôi đi sau chuyện với Nate. Tôi giảm được những cân nặng bị tăng hồi chia tay, nhuộm tóc Highlight sáng màu, đồng ý với một loạt cuộc hẹn hò mà chưa biết mặt đối tác. Lúc tệ nhất thì đúng là không còn gì để nói. Còn lúc vui nhất thì đơn giản cũng chỉ là thiếu thoải mái và dễ quên mau. Thế rồi tôi gặp Alec Kaplan trong quán bar Spy ở khu Soho. Tôi đi cùng với Darcy và vài người bạn cùng chỗ làm với cô ấy, Alec cùng với những người bạn thời-thượng-lắm-đó của anh ta đến nói chuyện với bọn tôi. Lúc đầu Alec tất nhiên là tán Darcy rồi, nhưng cô ấy đẩy anh ta về phía tôi – theo đúng nghĩa đen đấy nhé, cô ấy đặt tay lên chổ thắt lưng của anh ta – với những lời chỉ dẫn chứng rằng "nói chuyện với bạn em đi". Đối với cô ấy, đó hoàn toàn chỉ là do rộng lượng mà thôi.Dù đã có Dex rồi nhưng cô ấy chưa bao giờ bỏ qua khi được đàn ông chú ý."Anh ta dễ thương lắm đấy", Darcy cứ thì thầm mãi," tiến tới đi."

Cô ấy đúng, Alec dễ thương. Nhưng anh ta cũng thích thể diện. Anh ta là loại người vứt đi những bộ đồng phục hay ho thời sinh viên chỉ vì dơ bẩn: những chiếc mũ bóng chày bị phá hỏng một cách cố ý, những chiếc áo phông của hội nam sinh, những chiếc thắt lưng da bện, thay bằng bộ đồng phục hay ho của dân thành thị hai mươi mấy tuổi, áo phông cốt tông co dãn bó chặt, quần đen hơi bóng ôm sát, và hàng đống gel vuốt tóc. Anh ta kể quá nhiều trò cười kiểu "một anh chàng đi vào quán bar" (chẳng có gì đáng cười), và những câu chuyện thời chiến tranh "tôi là một tay lái buôn dở tệ" (chẳng có gì ấn tượng). Vào buổi tối đầu tiên đó, khi mua cho tôi một ly đồ uống, anh ta ném tờ tiền một trăm đô la xuống và nói to, bảo bartender là anh xin lỗi nhưng không còn tờ tiền nào mệnh giá thấp hơn. Nói tóm lại, Alec là một ví dụ hoàn hảo cho cái mà Darcy và tôi gọi là KMQM – nghĩa là Khoe Mẽ Quá Mức.

Nhưng Alec cũng thông minh, vui tính, tốt nết, tất cả ở mức tạm ổn. Vậy nên lúc anh ta xin số điện thoại của tôi, tôi cho anh ta. Khi anh ta gọi điện mời tôi đi chơi, tôi đã đồng ý. Và sau bốn lần hẹn hò, khi anh ta trực tiếp đề nghị "quan hệ " với tôi, trên tay cầm cái bao cao su có gân, thì mặc dù bên trong rùng mình nhưng tôi vẫn đồng ý. Anh ta sở hữu một cơ thể tuyệt đẹp, nhưng "chuyện ấy " cũng chỉ ở mức trung bình. Đầu óc tôi thường quanh quẩn nghĩ đến công việc, và có một lần khi nghe thấy tiếng nhạc chương trình thể thao SportsCenter, thậm chí tôi còn giả vờ như anh ta là tay vợt Pete Sampras. Nhiều lần tôi sắp chia tay anh ta đến nơi, nhưng Darcy cứ bảo tôi cho anh ta một cơ hội, rằng anh ta giàu có và dễ thương. Giàu hơn nhiều, dễ thương hơn nhiều so với Nate, cô ấy bảo thế. Cứ làm như tất cả chỉ cần có vậy không bằng.

Thế rồi một tối, Claire chứng kiến Alec hôn một đứa con gái tóc vàng hoe, nhỏ nhắn, trông có vẻ rẻ rúng ở quán Merchants. Khi đứa con gái đó đi vào nhà vệ sinh, Claire ra mặt đối mặt với Alec, cảnh cáo anh ta rằng nếu anh ta không chịu thú nhận tội phản bội thì cô ấy sẽ nói với tôi. Thế là ngày hôm sau Alec gọi điện thoại, tuôn ra một câu xin lỗi, nói rằng anh ta sẽ quay lại với cô bạn gái cũ, tôi đoán đó là đứa con gái ở Merchants. Tôi suýt nữa thì bảo anh ta rằng tôi cũng muốn chia tay-đúng là như vậy đấy. Nhưng tôi ít quan tâm đến mức không thèm nói thẳng ra điều đó. Tôi chỉ nói một cách đơn giản là không sao, chúc mọi điều may mắn. Chuyện là thế đấy.

Thỉnh thoảng tôi cũng tình cờ gặp Alec ở câu lạc bộ thể thao NewYork, gần chổ làm. Chúng tôi rất thân thiết – một lần tôi thậm chí còn tập thể dục với máy StairMaster bên cạnh anh ta, không quan tâm đến chuyện mất thể diện hay là mình đang mặc bộ quần áo vải cốt tông màu xám luộm thuộm nhất (Darcy bảo không bao giờ nên mặc bộ ấy đến nơi công cộng). Trong lần gặp đó, chúng tôi đã nói chuyện với nhau, tôi hỏi han chuyện bạn gái anh ta, để cho anh ta nói thao thao về chuyến du lịch Jamaica sắp tới của họ. Chẳng cần phải nhọc công cố gắng để ra vẻ tốt đẹp, đó lại là một điều cho thấy tôi không có ý thực sự để tâm vào mối quan hệ giữa chúng tôi. Thực ra, theo mức độ nào đó, tôi thậm chí không nên xếp Alec vào danh mục ban trai nghiêm túc. Nhưng vì đã ngủ với anh ta (và tôi thấy bản thân mình là loại phụ nữ chỉ ngủ với người mà mình có quan hệ đàng hoàng), tôi đành xếp anh ta vào chung một nhóm mà không may vốn chỉ dành riêng cho những thành viên hết sức đặc biệt đó

Tôi hồi tưởng về ba người bạn trai của mình, ba người đàn ông tôi đã ngủ cùng khi ở tuổi đôi mươi, tìm kiếm một điểm chung giữa họ. Không có gì cả. Không có những đặc trưng nhất định về nét mặt, màu tóc và da, vóc dáng hay tính cách. Nhưng có một điểm chung nổi bật: tất cả bọn họ điều chọn tôi. Rồi sau đó lại đá tôi. Tôi chỉ đóng vai trò bị động. Chờ đợi Hunter nhưng lại đến với Joey. Chờ đợi có tình cảm sâu đậm hơn nữa với Nate. Rồi lại chờ đợi tình cảm nhạt phai. Chờ Alec bỏ đi, để cho tôi được yên bình.

Và giờ là Dex. Người số bốn. Và tôi vẫn đang chờ đợi.

Chờ cho tất cả chuyện này qua đi.

Chờ đến đám cưới của anh ta vào tháng Chín.

Chờ một ai đó đem lại cho mình cảm giác nhoi nhói khi nhìn anh ta ngủ trên chiếc giường của mình vào một buổi sáng chủ nhật. Một ai đó không đính hôn với người bạn thân nhất của tôi.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương