5

HỘI CLAVE VÀ HIỆP ĐỊNH

“Anh nghĩ cô ta có khi nào tỉnh dậy không? Đã ba ngày rồi đấy.”

“Em phải cho cô ấy chút thơi gian chứ. Quỷ độc rất mạnh, trong khi cô ấy chỉ là người thường. Cô ấy không có các chữ rune giúp cô ấy mạnh như chúng ta.”

“Không phải người thường rất dễ chết sao?”

“Isabelle, em thừa biết nói về chết chóc trong phòng bệnh là xúi quẩy mà.”

Ba ngày, Clary mụ mị nghĩ. Tất cả suy nghĩ của cô đều trôi đi chậm chạp và đặc quánh như máu hay mật ong. Mình phải dậy.

Nhưng cô không thể.

Những giấc mơ níu kéo cô, giấc mơ này nói tiếp giấc mơ khác, một dòng sông hình ảnh cuốn mang cô đi như thể cô là một chiếc lá trôi giữa dòng. Cô thấy mẹ nằm trên giường bệnh, đôi mắt thâm quầng nổi bật trên nước da trắng. Cô thấy chú Luke, đứng trên những bộ xương chất thành đống. Jace với đôi cánh lông trắng mọc ra từ lưng, Isabelle ngồi đó trần truồng cùng chiếc roi quấn quanh mình như một lưới nhẫn vàng, Simon với những chữ thập đốt hằn vào lòng bàn tay. Những thiên thần, rơi xuống và bốc cháy. Rơi xuống khỏi bầu trời.

“Em đã bảo vẫn là một người mà.”

“Anh biết. Nhỏ bé quá, nhỉ? Jace bảo là cô ta đã giết một chết một con quỷ Ravener.”

“Phải. Lần đầu tiên gặp em còn tưởng cô gái này là yêu tinh. Nhưng lại không xinh bằng yêu tinh.”

“Ừ thì, chẳng ai xinh đẹp khi dính quỷ độc trong người cả. Bác Hodge sẽ cho gọi các Tu Huynh chứ?”

“Em mong là không. Họ làm em thấy ghê cả người. Bất cứ ai tự hành xác như họ...”

“Chúng ta cũng tự hành xác đó thôi.”

“Em biết mà, Alec, nhưng khi chúng ta làm vậy, đó không phải vĩnh viễn. Và không phải lúc nào cũng đau...”

“Nếu em đủ lớn. Mà nói về chuyện đó, Jace đâu rồi nhỉ? Jace cứu cô gái nhỏ, đúng không? Anh cứ tưởng cậu ta sẽ quan tâm đến sự hồi phục của cô này chứ.”

“Bác Hodge nói anh ấy không hề tới thăm từ khi mang cô này về đây. Em nghĩ anh ấy không quan tâm.”

“Đôi lúc anh tự hỏi liệu Jace có... Nhìn kìa! Cô ta cử động rồi!”

“Chắc vậy là rốt cuộc cô ta sống nổi rồi.” Một tiếng thở dài. “Em sẽ đi nói với bác Hodge.”

Mí mắt Clary có cảm giác như bị khâu chặt lại. Cô tưởng tượng mình có thể cảm nhận được da đang toạc ra khi cô từ từ mở mắt và chớp chớp lần đầu tiên trong ba ngày.

Cô thấy bầu trời trong xanh trên đầu, những đám mây trắng bồng bềnh và những thiên thần mũm mĩm trên cổ tay đeo ruy băng mạ vàng. Mình chết chưa vậy? Cô tự hỏi. Thiên đường thực sự trông như thế này sao? Cô nhắm chặt mắt và mở ra lần nữa: Lần này cô nhận ra mình đang nhìn lên một mái vòm gỗ, được vẽ theo phong cách Rococo với những đám mây và các tiểu thiên sứ.

Cô đau đớn cố ngồi dậy. Mỗi phần cơ thể cô đều đau nhức, đặc biệt là phần gáy, cô liếc nhìn quanh. Cô được đặt nằm trên chiếc giường trải ga vải lanh, một trong một dãy giường tương tự với đầu giường bằng kim loại. Giường cô có chiếc tủ đầu giường nho nhỏ đặt cạnh với bên trên là một chiếc cốc và bình nước. Những tấm rèm ren che kín những ô cửa sổ, chắn đi ánh sáng, dù cô vẫn nghe được những âm thanh văng vẳng, thường trực của dòng xe cộ đi lại trong thành phố New York từ bên ngoài.

“Thế cuối cùng cô cũng tỉnh dậy nhỉ,” một giọng nói khô khốc vang lên. “Bác Hodge sẽ rất vui. Bọn tôi đều nghĩ cô sẽ chết trong khi hôn mê mất thôi.”

Clary quay lại. Isabelle đang ngồi trên giường bên cạnh, suối tóc đen bện gọn gàng thành hai bím tóc dày thả xuống thắt lưng. Chiếc váy trắng đã được thay thế bằng chiếc quần bò và chiếc áo thun ôm sát cánh màu xanh, nhưng mặt dây chuyền đỏ vẫn nhấp nháy trên cổ. Những hình xăm xoắn ốc màu đen đã biến mất; chỉ trừ Ấn Ký Minh Mẫn màu đen trên mu bàn tay phải.

“Xin lỗi đã làm cô thất vọng vậy,” giọng Clary xô xảm như giấy nhám. “Đây là Học Viện sao?”

Isabelle đảo tròng mắt. “Có gì Jace không nói với cô không nhỉ?”

Clary ho. “Đây là Học Viện, đúng không?”

“Đúng. Cô đang ở trong bệnh xá, nhưng chắc cô cũng đoán ra rồi.”

Một cơn đau đột ngột nhói lên khiến Clary ôm chặt bụng. Cô thở dốc.

Isabelle hoảng hốt nhìn cô. “Cô ổn không đấy?”

Cơn đau đã dịu đi, nhưng Clary cảm nhận được dịch vị đang dâng lên trong cổ họng và một cơn váng vất là lạ. “Bụng tôi.”

“À, đúng rồi. Tôi suýt quên mất. Bác Hodge nói đưa cho cô cái này khi cô tỉnh dậy.” Isabelle vơ lấy cái bình sứ rồi rót thứ trong đấy vào chiếc cốc cùng bộ, sau đó đưa cho Clary. Cốc chứa đầy thứ chất lỏng trắng đục đang khẽ bốc khói. Có mùi thảo dược và thứ gì đấy khác, một thứ gì đấy đượm mùi và huyển hoặc. “Cô đã không ăn gì suốt ba ngày nay,” Isabelle nhận định. “Có thể vì thế mà cô mệt.”

Clary thận trọng nhấp một ngụm. Cũng khá ngon, đậm đà và dễ chịu, để lại dư vị như bơ. “Cái gì đây?”

Isabelle nhún vai. “Một trong những món thuốc nước của bác Hodge. Chúng luôn có tác dụng.” Cô nàng chuồi khỏi giường, lưng hơi cong như lưng mèo khi đặt chân xuống nền nhà. “Mà thôi, mình là Isabelle Lidghtwood. Mình sống ở đây.”

“Mình biết tên cậu. Mình là Clary. Clary Fray. Jace mang mình tới đây à?”

Isabelle gật đầu. “Chưa khi nào anh ấy dám. Cậu để lại vết máu và dịch vàng dây khắp thảm trải ở lối vào. Nếu anh ấy mang cậu về lúc bố mẹ mình có nhà, đảm bảo anh ấy sẽ bị cấm túc cho mà xem.” Cô nheo mắt nhìn Clary kỹ hơn. “Jace nói cậu đã tự mình giết chết con quỷ Ravener đó.”

Hình ảnh chớp nhoáng của thứ sinh vật giống bọ cạp với khuôn mặt kinh khủng xấu xí loáng qua óc Clary; cô rùng mình và nắm chặt cái cốc hơn. “Mình đoán là vậy,”

“Nhưng cậu là người thường mà.”

“Ngạc nhiên, đúng không?” Clary nói, thưởng thức vẻ mặt ngạc nhiên của Isabelle đang cố giấu mà không được. “Jace đâu rồi? Anh ấy có ở đây không?”

Isabelle nhún vai. “Ở đâu đó,” cô nàng nói. “Mình phải đi nói với mọi người là cậu đã tỉnh. Bác Hodge sẽ muốn nói chuyện với cậu.”

“Bác Hodge là gia sư của Jace, đúng không?”

“Bác Hodge là gia sư của tất cả bọn tớ.” Cô chỉ chỏ. “Phòng tắm ở đằng kia, và mình có treo ít quần áo cũ của mình trên mắc treo khăn nếu cậu muốn thay đồ.”

Clary uống thêm một ngụm nữa và thấy cốc đã trống không. Cô không còn cảm thấy đói hay choáng gì nữa, thật nhẹ cả người. Cô đặt cốc xuống và ôm chăn quanh mình. “Điều gì xảy ra cho quần áo của mình vậy?”

“Chúng dính toàn máu và nọc độc. Jace đốt hết rồi.”

“Thật sao?” Clary hỏi. “Nói cho mình nghe xem, anh ta luôn luôn thô lỗ như vậy, hay chỉ là với người thường mới thế?”

“Ồ, với ai anh ấy cũng thế,” Isabelle đáp tỉnh rụi. “Chính vì thế mới làm cho anh ấy quyến rũ vậy chứ. Vì thế, và vì anh ấy đã giết được nhiều quỷ hơn bất cứ ai bằng tuổi.”

Clary nhìn cô nàng mà bối rối. “Anh ta không phải anh trai cậu sao?”

Câu nói đó khiến Isabelle chú ý ngay. Cô ta cười lớn. “Jace? Anh trai mình? Không. Sao cậu nghĩ vậy?”

“Vì anh ấy sống ở đây cùng cậu,” Clary nhận định. “Không phải sao?”

Isabelle gật đầu. “Ừ, phải, nhưng...”

“Vì sao anh ấy không sống cùng bố mẹ ruột?”

Trong tích tắc Isabelle trông thoáng khó chịu. “Vì họ chết rồi.”

Miệng Clary há hốc vì ngạc nhiên. “Họ chết trong tai nạn à?”

“Không.” Isabelle bồn chồn, vén lọn tóc đen ra sau tai trái. “Mẹ anh ấy chết khi anh ấy vừa chào đời. Bố bị giết khi anh ấy lên mười. Jace chứng kiến tất cả.”

“Ôi,” Clary lí nhí nói. “Do... quỷ à?”

Isabelle đứng dậy. “Nghe này, mình nên đi báo cho mọi người biết là cậu đã dậy. Họ đã đợi cậu mở mắt suốt ba ngày nay rồi. À, trong phòng tắm có xà bông đấy,” cô nàng nói thêm. “Cậu nên tắm rửa qua qua đi. Người cậu bốc mùi rồi đấy.”

Clary trừng mắt nhìn cô nàng. “Cám ơn nhiều.”

“Không có chi.”

Quần áo Isabelle thật kỳ quặc. Clary phải xắn ống quần vài lần mới không dẫm phải, còn phần cỗ trễ nải trên chiếc áo sát cánh màu đỏ thì nhấn mạnh thêm sự thiếu hụt của Clary cái thứ mà hẳn Eric sẽ gọi là “điện đóm.”

Cô tắm rửa trong phòng tắm nhỏ, sử dụng miếng xà bông cứng ngắc mùi hoa oải hương. Phải lau khô người bằng chiếc khăn chùi tay màu trắng khiến cho mái tóc ướt nhẹp phải xổ tung thành từng nùi thơm ngằn ngặt quanh mặt. Cô nheo mắt nhìn mình trong gương. Trên má trái có một vết bầm khá rõ, còn đôi môi thì khô cong sưng vều.

Mình phải gọi cho chú Luke, cô nghĩ. Chắc chắn quanh đây phải có điện thoại. Có thể họ sẽ cho phép cô dùng sau khi nói chuyện với bác Hodge.

Cô tìm thấy đôi giày Skechers đặt gọn gàng dưới giường trong bệnh xá, chùm chìa khóa buộc chặt ở dây giày. Cô xỏ chân vào giày rồi hít một hơi sâu trước khi đi tìm Isabelle.

Hành lang bên ngoài bệnh xá chẳng có lấy một bóng người. Clary nhìn suốt hành lang, lòng hoang mang. Nơi đây trông giống kiểu hành lang cô thi thoảng thấy mình đang hớt hơ hớt hải chạy trong những cơn ác mộng, tối tăm và dài vô tận. Những bóng đèn thủy tinh hình hoa hồng treo cách khoảng trên tường, và không khí phảng phấtt mùi bụi và sáp nến.

Cô nghe loáng thoáng đâu đó một thứ âm thanh thật tinh tế, giống như tiếng các chuông gió lanh canh trong cơn giông. Cô chậm rãi đi xuống hành lang, lần tay dọc theo bức tường. Giấy dán tường phong cách Victoria giờ đã bạc màu theo thời gian, mang sắc màu đỏ tía và xám nhạt. Hai bên hành lang là hai dọc những cánh cửa đóng kín.

Âm thanh cô đang lần theo đấy càng lúc càng lớn. Giờ cô đã nhận ra âm thanh đó là tiếng đàn dương cầm được đánh lên bởi một người dù nghiệp dư nhưng có khiếu không thể chối cãi được, dù cô không thể nhận ra khúc nhạc này.

Quành qua góc tường, Clary bước tới cánh cửa đang mở rộng. Nhìn qua cô biết đó là phòng nhạc. Một chiếc dương cầm lớn đặt trong góc, những hàng ghế được xếp tựa vào bức tường đối diện. Một chiếc đàn hạc được phủ khăn đặt nơi giữa phòng.

Jace đang ngồi bên chiếc dương cầm, đôi bàn tay thon dài di chuyển nhanh nhẹn trên những phím đàn. Anh đi chân trần, mặc quần bò và áo phông xám, mái tóc nâu vàng có phần bù xù như thể anh vừa ngủ dậy. Quan sát những cử động nhanh gọn của bàn tay anh lướt trên phím đàn, Clary nhớ lại cái cảm giác khi được đôi bàn tay đó nâng lên, hai cánh tay đã giữ cô đứng vững và những vì sao bay xung quanh đầu cô như một cơn mưa kim tuyến bạc.

Chắc chắn cô đã gây ra tiếng động gì đó, vì anh quay mình trên ghế, chớp chớp mắt nhìn vào bóng tôi.”Alec à?” anh nói. “Cậu phải không?”

“Không phải Alec. Là tôi.” Cô bước thêm vài bước vào phòng. “Clary.”

Những phím đàn dương cầm kêu lên chói tai khi anh đứng dậy. “À, người đẹp ngủ trong rừng của chúng ta đây mà. Cuối cùng là ai đặt lên môi em nụ hôn để đánh thức em dậy vậy?”

“Chẳng ai cả. Tự tôi dậy thôi.”

“Có ai ở đó cùng em không?”

“Isabelle, nhưng cô ấy đi tìm ai đó – hình như tìm bác Hodge thì phải. Cô ấy bảo em đợi, nhưng...”

“Đáng ra anh nên bảo con bé trước là em không thích làm theo những gì được bảo.” Jace nheo mắt nhìn cô. “Quần áo Isabelle phải không? Em mặc trông buồn cười thật.”

“Đó là do anh đã đốt quần áo của tôi.”

“Chỉ là để đề phòng ấy mà.” Anh đóng nắp đàn màu đen bóng lại. “Nào, anh sẽ dẫn em đi gặp bác Hodge.”

Học Việnrất rộng với các lối đi quanh co tựa mê cung, không giống như được thiết kế vì cái sàn nhà phẳng mà có vẻ như nhờ tới sức nước bào mòn nhiều năm trời. Qua những cánh cửa khép hờ, Clary thoáng thấy vô số những căn phòng nhỏ giống hệt nhau, trong mỗi phòng đều bố trí một chiếc giường trải ra kẻ sọc, những chiếc tủ đầu giường, và một chiếc tủ gỗ lớn mở toang. Những mái vòm bằng đá trắng nhạt đỡ lấy trần nhà cao cao, một số trong đó có tạc khắc tinh vi những bức tượng nho nhỏ. cô nhận thấy một vài mô típ nhất định được lặp đi lặp lại: thiên thần và kiếm, mặt trời và hoa hồng.

“Sao nơi này có nhiều phòng ngủ vậy?” Clary hỏi. “Tôi tưởng đây la viện nghiên cứu chứ.”

“Đây là phía chái nhà ở. Bọn anh nguyện cung cấp nơi trú ẩn lẫn sự an toàn cho bất cứ Thợ Săn Bóng Tối nào cần đến. Bọn anh có thể chứa được đến hai trăm người.”

“Nhưng hầu hết những căn phòng này đều trống không.”

“Người ta đến rồi đi. Không ai ở lại đâu. Thường thì chỉ có bọn anh – Alec, Isabelle, Max, bố mẹ họ - cùng anh và bác Hodge.”

“Max?”

“Em đã gặp Isabelle mỹ miều rồi chứ gì? Alec là anh trai. Max là em út, nhưng giờ thằng nhỏ ra nước ngoài cùng bố mẹ rồi.”

“Đi nghỉ ạ?”

“Không hẳn.” Jace lưỡng lự. “Em có thể coi họ như... các đại sứ ngoại giao, và nơi đây kiểu kiểu như đại sứ quán. Giờ họ đang tại quê nhà của Thợ Săn Bóng Tối, đang giải quyết một số hiệp định hòa bình khá nhạy cảm. Họ đưa Max đi cùng vì thằng bé ấy còn quá nhỏ.”

“Quê nhà của Thợ Săn Bóng Tối?” Clary thấy đầu quay mòng mòng. “Tên nó là gì?”

“Idris.”

“Tôi chưa nghe thấy bao giờ.”

“Làm sao em nghe được.” Sự trịch thượng đáng ghét đã quay lại trong giọng nói của Jace. “Người thường không bao giờ biết. Có những hệ thống canh giữ - những lời chú bảo vệ - giăng khắp vùng biên giới. Nếu em cố đột nhập vào Idris, em sẽ chỉ thấy mình đột nhiên bị chuyển từ biên giới này sang biên giới khác. Em không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra.”

“Vậy là nó không có trên bản đồ?”

“Không có trên bản đồ của người thường. Với bọn anh thì em có thể coi nơi đấy là một quốc gia nhỏ nằm giữa Đức và Pháp.”

“Nhưng chẳng có gì giữa Đức và Pháp hết. Trừ Thụy Sĩ.”

“Chính xác,” Jace nói.

“Thế theo tôi hiểu là anh đã từng ở đó. Ý tôi là Idris ấy.”

“Anh lớn lên ở đó.” Giọng Jace vẫn đều đều, nhưng có gì trong cách nói năng khiến cô biết sẽ không có thêm câu hỏi nào đào sau vào hướng nay được chào đón nữa. “Hầu hết bọn anh đều vậy. Tất nhiên, còn có những Thợ Săn Bóng Tối từ khắp nơi trên thế giời. Bọn anh phải ở mọi nơi, vì quỷ dữ hoạt động ở mọi chỗ. Nhưng đối với những Thợ Săn Bóng Tối, Idris luôn là ‘quê hương.’”

“Giống như Mecca hay Jerusalem,” Clary trầm ngâm. “Vậy là hầu hết các anh đều lớn lên ở đó, và khi các anh trưởng thành...”

“Bọn anh sẽ được đưa tới những nơi cần bọn anh,” Jace nói ngắn gọn. “Và cũng có vài người khác, như Isabelle và Alec, lớn lên ở xa quê hương vì bố mẹ họ sống ở đó. Với tất cả những trang thiết bị của Học Viện, dưới sự dạy dỗ của bác Hodge...” Anh ngừng lời. “Đây là thư viện.”

Họ đã tới trước khung cửa gỗ hình vòm. Một con mèo Ba Tư màu xanh xám với cặp mắt vàng đang nằm cuộn tròn phía trước. Nó ngẩng đầu khi thấy họ tới và ngáp. “Này, Church,” Jace vừa nói vừa lấy bàn chân trần vuốt ve lưng con mèo. Con mèo lim dim thỏa mãn.

“Đợi đã,” Clary nói. “Alec, Isabelle và Max – họ là những Thợ Săn Bóng Tối bằng tuổi duy nhất anh biết và chơi cùng à?”

Jace dừng vuốt ve con mèo. “Đúng.”

“Thế thì cô đơn lắm nhỉ?”

“Anh có mọi thứ anh cần.” Anh đẩy mở cửa. Sau một thoáng lưỡng lự, cô đi theo vào trong.

Thư viện được thiết kế dạng hình tròn, với mái nhà thon vút cao, như thể nó nằm trong một ngọn tháp vậy. Những bức tường chất đầy sách vở, những giá sách cao chót vót đến mức phải có những chiếc thang trên bánh xe dựng trong những khoảng trống giữa các kệ. Ở đây cũng không có những cuốn sách thông thường – chỉ có những cuốn sách bìa da và nhung, với những ổ khóa có vẻ chắc chắn có bản lề bằng đồng hoặc bạc. Những gáy sách được gắn những viên đá quý óng ánh đã xỉn màu và được sơn thếp chữ vàng. Những cuốn sách trông sờn mòn theo kiểu chắc chắn chúng không chỉ cũ mà còn được sử dụng thường xuyên, từng được rất yêu chuộng.

Sàn nhà bằng gỗ sáng bóng, khảm những mảnh thủy tinh, đá hoa cương và ít ngọc bản quý. Phần đá khảm tạo thành một kiểu họa tiết Clary không thể giải mã – có thể là dải thiên hà, hoặc thậm chí là bản đồ thế giới; cô ngờ rằng mình phải trèo lên tháp và nhìn xuống mới nhìn cho ra được.

Ở chính giữa phòng là một cái bàn cỡ đại. Bàn được đẽo ra từ nguyên một phiến gỗ sồi đẹp mắt, nặng trịch, óng lên vẻ sáng bóng hơi mờ đi vì năm tháng. Phiến gỗ ngự trên lưng hai thiên thần, tạc từ cùng loại gỗ, đôi cánh mạ vàng, khuôn mặt hằn vẻ khắc khổ như thể sức nặng của phiến gỗ đã đè gãy lưng họ. Một người đàn ông gầy gò với mái tóc điểm bạc và cái mũi diều hâu dài sọc đang ngồi sau bàn.

“Một kẻ yêu sách,” ông ta nói và mỉm cười với Clary. “Thế mà cháu không nói cho bác nghe, Jace.”

Jace cười khùng khục. Clary biết anh đã đi đến đứng ngay sau cô mà nhét tay vào túi quần, cười cười cái nụ cười toe toét khiến người ta điên tiết. “Bọn cháu không nói chuyện nhiều trong quãng thời gian quen biết ngắn ngủi,” anh ta nói. “Cháu e rằng thói quen đọc sách của chúng cháu đã không được nhắn đến.”

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương