Vợ Phi Công
-
Chương 21
HAI CÁNH TAY MATTIE RUN BẦN BẬT, giật mạnh ống quay.
“Trời, mẹ có thấy không?” Mattie kêu to.
“Trông to thật,” Kathryn đáp.
“Con nghĩ con đã bắt được nó rồi.”
“Con kéo cước ra xa khỏi mấy tảng đá đi để nó không bị đứt.”
Kathryn có thể thấy những sọc đen và bạc quẫy tung dưới mặt nước. Trong suốt bốn mươi phút qua, cô đã quan sát Mattie chiến đấu với con cá bằng chiếc cần câu to ngoại cỡ của bố nó, thả dây cước, gắn mồi, nghiến răng, rồi kéo con cá lên, kẹp cần câu dưới nách để làm đòn bẩy. Kathryn lội ra chỗ Mattie, đem theo lưới, vớt rồi lại hụt, lại vớt lần nữa. Cuối cùng, cô giơ con cá hanh lên cho Mattie xem.
Jack nên có mặt ở đây, Kathryn lập tức nghĩ.
Mattie đặt cần câu xuống, đón lấy con cá từ mẹ, rồi đặt nó lên cát. Con cá hanh xấu số quẫy đuôi liên tục. Mattie lấy thước đo ra, và Kathryn cúi xuống với con để nhìn rõ hơn.
“Một mét,” Mattie nói vẻ tự hào.
“Tuyệt!” Kathryn nói và xoa đầu Mattie. Tóc con bé đã chuyển sang màu đồng đáng yêu sau mùa hè. Nó để tóc tự nhiên, thích xoăn chỗ nào thì xoăn. Nó gần như không mặc gì, chỉ có bộ đồ bơi gồm hai túm vải mỏng màu xanh lơ.
“Con định ăn hay thả nó?”
“Mẹ nghĩ con nên làm gì?”
“Nếu nó không phải là chiến tích đầu tiên của con, mẹ sẽ khuyên con thả nó. Bố có bao giờ dạy con cách làm cá chưa?”
Mattie đứng dậy, nâng con cá lên bằng hai cánh tay đã mệt rã rời.
“Mẹ sẽ lấy máy ảnh,” Kathryn nói.
“Con yêu mẹ lắm,” Mattie cười toe toét nói.
***
Kathryn băng qua bãi cỏ và lắng nghe tiếng sợi dây treo trên cột cờ phát ra giai điệu loạn xạ không vần điệu. Đó là một ngày đẹp như mọi ngày trong mùa hè năm nay, một chuỗi những ngày đẹp trời kéo dài, trung hòa bằng những sắc màu tươi thắm. Chỉ mới sáng nay, cô đã chứng kiến thời khắc bình minh kỳ diệu, những đám mây thấp của phút hừng đông nhường chỗ cho màu hồng dạ quang kéo dài hết đường chân trời, từng làn hơi nước dâng lên như khói oải hương. Và rồi mặt trời nhô lên, một vụ nổ trên mặt biển, và nước biển, trong vài phút huy hoàng, đã chuyển từ phẳng lặng sang màu xanh ngọc lam lung linh, phản chiếu những vệt hình thoi của ánh dạ quang. Đó là vẻ đẹp nghịch lý của bom nguyên tử, cô nghĩ, hoặc của một vụ hỏa hoạn trên một chiếc tàu. Một đám cháy lớn của mặt đất, biển và không khí.
Bây giờ điều cô than phiền duy nhất là chuyện dậy sớm, như một bà cô hay bà góa, mà quả là thế. Những buổi dậy sớm cho thấy sự thiếu vắng niềm vui thú ban đêm khiến người ta không còn biết làm gì hơn là đi ngủ. Vào những buổi sáng thường là tê tái này, Kathryn đọc sách, cảm thấy mãn nguyện vì giờ đây cô đã có thể đọc trọn một quyển sách. Cô cũng có thể đọc hết một tờ báo, như đã đọc tờ báo lúc ở hiên nhà, đặc biệt đọc hết bài viết trang nhất về sự kiện ngừng bắn.
Câu chuyện về quả bom được đem lên chuyến bay Vision 384, với sự trợ giúp một cách vô ý nhưng không hẳn là vô tội của Cơ trưởng Jack Lyons, đã được đăng tải vào ngày đầu năm mới trên tờ Belfast Telegraph. Bài báo cũng tường thuật về lịch sử buôn lậu lâu đời với sự giúp đỡ của phi hành đoàn trong các hãng hàng không, tên những phi công khác có liên quan, và những hiệu ứng từ nỗ lực của nhóm Trung quân ly khai nhằm hạ uy tín IRA và phá hoại tiến trình hòa bình. Trong số những người bị bắt có Muire Boland và anh trai, và người ta đã xác định được một sự liên hệ với Jack Lyons. Chưa thấy báo nào đề cập đến một cuộc hôn nhân hoặc một gia đình khác, và suốt nhiều tháng nay Kathryn đã lo sợ phán quyết này. Cô đã đánh bạc với Mattie, quyết định không kể gì với con gái trừ khi chuyện này bị công khai. Đó là một canh bạc lớn, và ai có thể nói nó sẽ kết thúc ra sao? Mattie chỉ biết những gì mà phần còn lại của thế giới biết, và như thế đã đủ rồi.
Kathryn không biết chuyện gì đã xảy ra với các con của Muire Boland. Đôi khi cô tưởng tượng chúng ở nhà A.
Vào mùa xuân, Kathryn đã đọc những quyển sách về các cuộc xung đột để hiểu hơn về chúng. Cô có thể nói rằng cô đã biết nhiều chuyện hơn so với tháng mười hai, nhưng cô nghĩ kiến thức này chỉ khiến cho câu chuyện thêm phức tạp. Trong vài tháng qua, cô cũng đọc trên báo, về những vụ bạo loạn trong trại giam, các vụ hành quyết của lực lượng bán vũ trang, và các vụ đánh bom xe. Bây giờ lại là một vụ ngừng bắn. Có thể một ngày nào đó sẽ có một giải pháp, dù Kathryn không nghĩ điều đó sẽ sớm xảy ra.
Nhưng đó không phải là chuyện để cô bình phẩm. Đó không phải là cuộc chiến của cô.
Trong hầu hết các ngày, đó là tất cả những gì Kathryn có thể làm để đương đầu với một ngày phía trước, và, kết cục là, cô đòi hỏi rất ít ở bản thân. Cô mặc đồ tắm dưới một lớp áo thun màu xanh đã bạc màu. Cô đang đan một chiếc áo cho Mattie bằng sợi cotton nhiều màu sắc, và cô muốn thử một cái cho mình. Đây dường như là tận cùng tham vọng của cô. Bà Julia ghé qua nhà vào hầu hết các ngày, nếu không thì Kathryn đến nhà bà. Họ cùng nhau ăn uống, cố gắng tạo lại không khí gia đình ba người. Bà Julia đón nhận tin Jack ngoại tình một cách đặc biệt khó khăn. Đó là lần đầu tiên Kathryn thấy bà của mình không biết nói gì, không thể đưa ra lời khuyên nào.
Kathryn chạy lên bậc tam cấp, băng qua phòng khách và nhà bếp. Cô nghĩ máy ảnh đang để trong chiếc áo gió ở hành lang phía sau. Cô rẽ vào hành lang và dừng lại.
Anh đang đứng ở cửa sau, đã gõ trước đó. Cô có thể thấy khuôn mặt anh qua lớp kính. Cô đưa tay ra chống tường để đứng vững. Giữa cô và cánh cửa là một kỷ niệm cay đắng, một điệp khúc về một thời gian khác khi cô đi hết hành lang đến mở cửa cho anh, một khoảnh khắc khi toàn bộ cuộc đời cô thay đổi, biến chuyển mãi mãi.
Cô đi sáu, bảy bước đến cửa như đang mộng du, rồi mở ra.
Anh tựa vào khung cửa, hai tay đút vào túi quần. Anh mặc áo thun trắng và quần soọc kaki. Anh đã cắt tóc, cô nhận ra, và da rám nắng. Ngoài những điểm đó ra, cô không nhìn thấy nhiều vì mặt trời ở ngay phía sau anh. Tuy nhiên, cô có thể cảm thấy anh đang ở đó, trong tâm trạng kỳ lạ pha lẫn giữa quyết tâm và thoái lui đang tỏa ra từ người anh. Cô nghĩ anh đang đợi cô đóng cửa lại hoặc đuổi anh đi hoặc hỏi anh, một cách cộc lốc, rằng bây giờ anh còn muốn gì ở cô nữa.
Không khí như ngạt thở xung quanh họ.
“Thời gian qua đã đủ chưa?” anh hỏi.
Và cô tự hỏi, trong lúc đứng đó, chính xác thì bao lâu mới là đủ.
“Mattie câu được một con cá,” cô nói, chợt nhớ ra. “Tôi phải đi lấy máy ảnh.”
Cô tìm thấy chiếc máy ảnh ở đúng nơi cô đã đoán. Cô đặt một tay lên trán trong lúc băng qua ngôi nhà. Da cô nóng ran, dính những lớp cát biển và muối biển. Trước đó, cô và Mattie đã đi lướt sóng, bò lồm cồm từ những đợt sóng dội bờ như hai thủy thủ bị đắm tàu.
Cô lại băng qua bãi cỏ, giờ đây tâm trí chỉ nghĩ đến người đàn ông cô đã bỏ lại ở khung cửa. Cô tự hỏi, trong thoáng chốc, phải chăng cô đã mơ thấy anh ta ở đó, chỉ là tưởng tượng ra cảnh anh đứng ngược sáng. Cô chụp hơn chục tấm ảnh Mattie và con cá, chờ đợi để kéo dài khoảnh khắc này, để cho cô chút thời gian. Chỉ đến khi Mattie hết kiên nhẫn, Kathryn mới đeo máy lên cổ và giúp Mattie khiêng con cá về nhà.
“Con có chắc con muốn làm việc này không?” cô hỏi Mattie, nhắc đến việc cắt phi lê cá. Nhưng Kathryn nghĩ đó cũng là câu hỏi mà cô nên hỏi bản thân mình.
Mattie tinh mắt hơn và nhìn thấy người đàn ông trên hiên nhà trước cả mẹ nó. Con bé đứng lại và hạ con cá xuống một chút. Đôi mắt nó ánh lên vẻ cảnh giác, ký ức về một giấc mơ xấu.
Người báo tin, Kathryn nghĩ.
“Không sao đâu,” Kathryn khẽ nói với con gái. “Chú ấy mới đến.”
Hai người cùng nhau băng qua bãi cỏ, về nhà sau chuyến đi câu như vô số người đã làm trước đó, mẹ vác cần câu, con mang chiến lợi phẩm, con cá đầu tiên trong số nhiều con sẽ bắt được trong đời. Tuần trước, Mattie đã tìm thấy cần câu và đồ nghề của bố nó trong garage và đã xem lại một cách bài bản những gì Jack dạy nó vào mùa hè trước. Kathryn không thể giúp được nhiều, vì bản thân cô chưa bao giờ thích đi câu. Nhưng Mattie rất quyết tâm và đã học cách sử dụng chiếc cần câu ngoại cỡ, phát triển một số kỹ năng thuần thục.
Gió đổi sang hướng đông, và lập tức Kathryn cảm thấy cơn rùng mình trong không khí do gió đông đem lại. Trong vài phút nữa, biển sẽ có sóng bạc đầu. Lúc đó cô nghĩ đến Jack, như cô vẫn luôn nghĩ, và cô biết cô sẽ không bao giờ cảm nhận một cơn gió đông mà không nhớ đến ngày cô đứng trên hiên nhà, ngày mà Jack thông báo việc mua nhà với cô. Đó là một trong số hàng trăm ngòi nổ, những khoảnh khắc nhỏ: Lần nữa nó lại đến, cơn gió đông.
Cô thường xuyên có những khoảnh khắc này. Cô có những khoảnh khắc về Jack Lyons, về Muire Boland, và về Robert Hart. Cô có những khoảnh khắc về máy bay, về bất cứ cái gì thuộc về Ireland, về London. Cô có những khoảnh khắc về những chiếc áo trắng, về những chiếc ô. Thậm chí một ly bia cũng có thể kích thích một ký ức vỡ vụn. Cô đã học cách sống với nó, như học cách sống với tật nói lắp hoặc cái đầu gối giở chứng thỉnh thoảng lại đau buốt.
“Chào Mattie,” Robert nói khi con bé đã đến hiên nhà. Anh nói bằng giọng thân thiện, nhưng không quá trớn, vì như thế sẽ khiến Mattie cảnh giác, làm cho nó cảm thấy không thoải mái hơn cả tâm trạng hiện giờ.
Và Mattie, được dạy dỗ tử tế, đã chào đáp lại, nhưng quay đầu đi.
“Con cá đẹp quá,” Robert nói.
Kathryn, cân nhắc Robert và Mattie trong cùng khuôn hình của mình, nói: “Mattie tự học cách câu cá đấy.”
“Nó dài tám, chín tấc không?” Robert hỏi.
“Một mét,” Mattie đáp, không giấu vẻ hãnh diện.
Mattie cầm lấy hộp đồ nghề từ tay mẹ. “Con sẽ làm ở đây,” nó nói, chỉ vào một góc của hiên nhà.
“Miễn khi làm xong con dội nước cho sạch là được,” Kathryn đáp. Cô nhìn theo Mattie đặt con cá lên mép hiên. Nó xem mang cá từ nhiều góc khác nhau, rồi cầm lên một con dao từ hộp đồ nghề. Nó cắt thử một nhát. Kathryn hy vọng con cá đã chết.
Robert tiến đến đầu kia của hiên nhà. Anh ta muốn bắt chuyện, cô nghĩ.
“Đẹp thật,” Robert nói khi cô đang lơ lửng theo hướng đi của anh. Anh quay lại và tựa lưng vào lan can. Ý anh là phong cảnh. Giờ thì cô đã thấy rõ mặt anh, và cô nghĩ trông nó sắc nét hơn so với những gì cô nhớ, rõ ràng hơn. Đó chính là màu da rám nắng. “Anh đã tưởng tượng ra cảnh này,” anh nói.
Cả hai đều nghe thấy sự gợi nhớ đầy đau đớn về những điều trong trí tưởng tượng.
Chân của Robert cũng rám nắng và có những sợi lông nhỏ xíu màu vàng. Kathryn nghĩ có lẽ cô chưa từng thấy chân anh trước đây. Chân cô cũng lộ ra, và anh đã nhìn thấy.
“Con bé thế nào rồi?” anh hỏi, ánh mắt như cô nhớ: quả quyết và sắc sảo.
“Khá hơn rồi,” Kathryn đáp khẽ để Mattie không nghe thấy. “Khá hơn. Mùa xuân vừa rồi rất khó khăn.”
Trong nhiều tuần lễ, cô và Mattie đã phải chịu đựng sự nặng nề của một cơn giận dữ tích tụ. Nếu Jack không có liên quan..., người này nói. Chính bố mày là người đem bom..., người kia nói. Đã có những cuộc điện thoại đe dọa từ người lạ, những bức thư phẫn nộ từ thân nhân, một đội quân nhà báo ở cổng nhà cô. Chỉ lái xe đi làm thôi thỉnh thoảng đã là một cực hình, nhưng Kathryn không chịu dọn đi nơi khác. Cô đã yêu cầu thị trấn Ely cử dân phòng để đảm bảo an ninh trên phần đất nhà cô. Các ủy viên đã họp toàn thị trấn, tiến hành biểu quyết, và sau rất nhiều tranh luận, người ta đã nhất trí trích ra từ ngân sách một số tiền ngoài dự toán. Nó được xếp vào mục Tình trạng bất khả kháng.
Nhu cầu bảo vệ an ninh đã giảm dần theo thời gian, nhưng Kathryn biết cả cô lẫn Mattie đều không thể có lại cuộc sống bình thường nữa. Giờ đây, đó là một sự thật, một việc được khẳng định, về sự tồn tại của họ mà họ phải vật vã mỗi ngày để chấp nhận. Cô nhớ đến lời nhận xét của Robert về con cái của những nạn nhân vụ tai nạn: Chúng biến đổi cùng với thảm họa và học cách thích nghi.
“Còn em thì sao?” anh hỏi.
“Em vẫn khỏe,” cô đáp.
Anh quay lại, dựa một tay lên cột, nhìn bãi cỏ và khu vườn.
“Em trồng thêm hoa hồng,” anh nói.
“Em trồng thử.”
“Nhìn đẹp lắm.”
“Đó là gia tài gần biển của một kẻ ngốc đấy.”
Trong cổng vòm của vườn, cô đã trồng các giống hồng Friar và Wenlock gai; trong bờ giậu hình oval là giống Cressida và Prospero. Tuy nhiên, cô nghĩ mình thích giống St. Cecilia nhất, vì những búp hoa ửng hồng không e thẹn. Chúng rất dễ trồng dù không khí biển không phù hợp. Kathryn thích vung tay đầu tư cho hoa cỏ, sự xa xỉ lãng phí.
“Lẽ ra anh nên cho em biết ngay ngày đầu tiên,” anh nói, và cô chưa chuẩn bị tinh thần để đón nhận việc này sớm đến thế. “Rồi sau đó, anh biết rằng nếu nói ra, anh sẽ mất em.”
Cô im lặng.
“Anh đã có một quyết định sai lầm,” anh nói.
“Anh đã cố gắng nói với em.”
“Nhưng chưa cố gắng đủ.”
Vậy đấy, chuyện đã được nói ra. Thế là xong.
“Đôi khi em không thể tin được bất kỳ chuyện nào trong số đó đã xảy ra,” Kathryn nói.
“Nếu bọn anh phát hiện ra họ sớm hơn thì chuyện đó có thể đã không xảy ra.”
Phát hiện ra Jack và Muire sớm hơn, ý anh là thế.
“Quả bom dự kiến sẽ phát nổ ở giữa Đại Tây Dương, phải không?” cô hỏi. “Dự định nổ ở nơi còn sót lại ít chứng cứ.”
“Bọn anh nghĩ vậy.”
“Sao họ không gọi điện đến ngay và nói là IRA làm việc đó?”
“Họ không thể. Có những mật mã riêng giữa IRA và cảnh sát.”
“Vậy là họ chỉ việc chờ cho cuộc điều tra dẫn đến Muire và Jack.”
“Như một ngòi nổ dài.”
Kathryn hít vào một hơi sâu, có thể nghe được.
“Bây giờ cô ta ở đâu?”
“Trại giam Maze. Ở Belfast. Trùng hợp là những tên khủng bố Trung quân cũng ở đó.”
“Anh đã tình nghi Jack?”
“Bọn anh đã biết có thể là một người bay hành trình đó.”
Cô tự hỏi, không phải lần đầu, liệu một người phụ nữ có thể tha thứ cho người đàn ông đã phản bội mình không? Và nếu cô tha thứ thì có phải là công nhận chuyện đó hay không? Hay đó chỉ đơn giản là ngu ngốc?
“Em đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất chưa?” Robert hỏi.
Cô gãi vết muỗi đốt trên cánh tay. Ánh sáng chói chang, sắc nét trong thời khắc chiều tà.
“Điều khó khăn nhất là em không thể để tang,” Kathryn đáp. “Làm sao em có thể để tang một người mà em có thể thậm chí còn không biết? Ai mới không phải là người mà em tưởng đã là anh ấy? Anh ấy đã phá nát ký ức em.”
“Hãy để tang cho bố của Mattie,” Robert nói, và cô nhận ra anh đã nghĩ về chuyện này.
Kathryn nhìn Mattie cắt một nhát từ sau mang cá đến xương lưng.
“Anh không thể lảng tránh,” Robert nói. “Anh phải đến.”
Cô nhận ra cả Robert cũng đã đánh bạc. Như cô đang làm với Mattie. Không chịu tiết lộ chuyện lẽ ra nên tiết lộ.
Rồi sau đó, từ từ quay người lại để nhìn khu vườn từ mép hiên, ở một góc có thể nhìn xuống vì cô hiếm khi làm thế - hoặc có lẽ là do những bông hoa hồng trồng vào năm nay - cô nhìn thấy nó.
“Nó kia rồi,” cô nói khẽ.
Mattie, nghe thấy sự ngạc nhiên trong giọng nói của mẹ, ngước lên nhìn, tay vẫn cầm dao.
“Nhà nguyện,” Kathryn giải thích.
“Cái gì ạ?” Mattie hỏi, vẻ ngơ ngác.
“Khu vườn. Mái vòm ở đó. Hình dáng đó. Miếng đá cẩm thạch mà mẹ bấy lâu nay cứ tưởng là một băng ghế? Nó không phải là băng ghế.”
Mattie ngắm nghía khu vườn một lúc, chỉ nhìn thấy khu vườn mà thôi, Kathryn biết.
Trong khi Kathryn có thể thấy những nữ tu sĩ dòng Thánh Jean de Baptiste de Bienfaisance quỳ gối trong bộ quần áo mùa hè của họ. Trong một nhà nguyện làm bằng gỗ có hình dạng như một ô cửa sổ hình cung. Một nhà nguyện có thể đã bị cháy rụi, chỉ còn lại bệ thờ bằng cẩm thạch.
Cô tiến gần hơn đến khu vườn.
Nhìn mọi vật đúng như bản chất của chúng, cô nghĩ.
“Em sẽ lấy nước uống cho chúng ta,” cô nói với Robert, lòng thầm mãn nguyện trước phát hiện của mình.
Cô đi vào phòng khách, dự định sẽ đi tiếp đến nhà bếp, rót trà đá vào ly, cắt chanh thành lát, nhưng cô không đi mà dừng lại để nhìn ra ngoài một trong những ô cửa sổ cao từ sàn đến trần nhà. Trong khung cửa, Mattie đang đánh vật với con cá, còn Robert thì nhìn nó từ lan can. Anh đã có thể chỉ nó cách đặt dao như thế nào, nhưng đây là đồ nghề của Jack, và Kathryn biết Jack sẽ kiên nhẫn chờ đợi.
Cô nghĩ về Muire Boland trong một trại giam ở Bắc Ireland. Về Jack, xác anh vẫn chưa được tìm thấy. Cô nghĩ sẽ dễ chấp nhận hơn nếu cô có thể nói nguyên nhân là vì mẹ anh đã bỏ rơi anh khi anh còn bé, hoặc sự ác độc của bố anh. Hoặc là do ảnh hưởng của một linh mục ở trường Holy Name, hoặc tuổi trung niên, hoặc tâm trạng chán nản với hãng hàng không. Hoặc là hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời anh. Hoặc là mong muốn chia sẻ rủi ro với một người đàn bà mà anh yêu. Nhưng cô biết có thể là do tất cả những lý do đó hoặc không vì lý do nào cả. Động cơ của Jack, điều sẽ mãi là ẩn số đối với Kathryn, được lập thành từ nhiều mảnh nhỏ của toàn bộ các động cơ của anh, một bức tranh ghép khó hiểu.
Cô tìm thấy tờ giấy nơi cô mới để nó gần đây, nhét dưới chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi. Cô đã nghĩ, cách đây vài tuần, rằng cô có thể sẽ làm việc này.
Cô mở tấm vé số ra.
Trên hiên, Mattie nhấc lên một miếng phi lê rồi cho nó vào chiếc túi nhựa mà Robert đang cầm giúp nó. Ở London, có một sự im lặng, như Kathryn đã dự đoán.
“Tôi chỉ muốn biết lũ trẻ có ổn không,” cô nói với người ở bên kia đại dương.
“Trời, mẹ có thấy không?” Mattie kêu to.
“Trông to thật,” Kathryn đáp.
“Con nghĩ con đã bắt được nó rồi.”
“Con kéo cước ra xa khỏi mấy tảng đá đi để nó không bị đứt.”
Kathryn có thể thấy những sọc đen và bạc quẫy tung dưới mặt nước. Trong suốt bốn mươi phút qua, cô đã quan sát Mattie chiến đấu với con cá bằng chiếc cần câu to ngoại cỡ của bố nó, thả dây cước, gắn mồi, nghiến răng, rồi kéo con cá lên, kẹp cần câu dưới nách để làm đòn bẩy. Kathryn lội ra chỗ Mattie, đem theo lưới, vớt rồi lại hụt, lại vớt lần nữa. Cuối cùng, cô giơ con cá hanh lên cho Mattie xem.
Jack nên có mặt ở đây, Kathryn lập tức nghĩ.
Mattie đặt cần câu xuống, đón lấy con cá từ mẹ, rồi đặt nó lên cát. Con cá hanh xấu số quẫy đuôi liên tục. Mattie lấy thước đo ra, và Kathryn cúi xuống với con để nhìn rõ hơn.
“Một mét,” Mattie nói vẻ tự hào.
“Tuyệt!” Kathryn nói và xoa đầu Mattie. Tóc con bé đã chuyển sang màu đồng đáng yêu sau mùa hè. Nó để tóc tự nhiên, thích xoăn chỗ nào thì xoăn. Nó gần như không mặc gì, chỉ có bộ đồ bơi gồm hai túm vải mỏng màu xanh lơ.
“Con định ăn hay thả nó?”
“Mẹ nghĩ con nên làm gì?”
“Nếu nó không phải là chiến tích đầu tiên của con, mẹ sẽ khuyên con thả nó. Bố có bao giờ dạy con cách làm cá chưa?”
Mattie đứng dậy, nâng con cá lên bằng hai cánh tay đã mệt rã rời.
“Mẹ sẽ lấy máy ảnh,” Kathryn nói.
“Con yêu mẹ lắm,” Mattie cười toe toét nói.
***
Kathryn băng qua bãi cỏ và lắng nghe tiếng sợi dây treo trên cột cờ phát ra giai điệu loạn xạ không vần điệu. Đó là một ngày đẹp như mọi ngày trong mùa hè năm nay, một chuỗi những ngày đẹp trời kéo dài, trung hòa bằng những sắc màu tươi thắm. Chỉ mới sáng nay, cô đã chứng kiến thời khắc bình minh kỳ diệu, những đám mây thấp của phút hừng đông nhường chỗ cho màu hồng dạ quang kéo dài hết đường chân trời, từng làn hơi nước dâng lên như khói oải hương. Và rồi mặt trời nhô lên, một vụ nổ trên mặt biển, và nước biển, trong vài phút huy hoàng, đã chuyển từ phẳng lặng sang màu xanh ngọc lam lung linh, phản chiếu những vệt hình thoi của ánh dạ quang. Đó là vẻ đẹp nghịch lý của bom nguyên tử, cô nghĩ, hoặc của một vụ hỏa hoạn trên một chiếc tàu. Một đám cháy lớn của mặt đất, biển và không khí.
Bây giờ điều cô than phiền duy nhất là chuyện dậy sớm, như một bà cô hay bà góa, mà quả là thế. Những buổi dậy sớm cho thấy sự thiếu vắng niềm vui thú ban đêm khiến người ta không còn biết làm gì hơn là đi ngủ. Vào những buổi sáng thường là tê tái này, Kathryn đọc sách, cảm thấy mãn nguyện vì giờ đây cô đã có thể đọc trọn một quyển sách. Cô cũng có thể đọc hết một tờ báo, như đã đọc tờ báo lúc ở hiên nhà, đặc biệt đọc hết bài viết trang nhất về sự kiện ngừng bắn.
Câu chuyện về quả bom được đem lên chuyến bay Vision 384, với sự trợ giúp một cách vô ý nhưng không hẳn là vô tội của Cơ trưởng Jack Lyons, đã được đăng tải vào ngày đầu năm mới trên tờ Belfast Telegraph. Bài báo cũng tường thuật về lịch sử buôn lậu lâu đời với sự giúp đỡ của phi hành đoàn trong các hãng hàng không, tên những phi công khác có liên quan, và những hiệu ứng từ nỗ lực của nhóm Trung quân ly khai nhằm hạ uy tín IRA và phá hoại tiến trình hòa bình. Trong số những người bị bắt có Muire Boland và anh trai, và người ta đã xác định được một sự liên hệ với Jack Lyons. Chưa thấy báo nào đề cập đến một cuộc hôn nhân hoặc một gia đình khác, và suốt nhiều tháng nay Kathryn đã lo sợ phán quyết này. Cô đã đánh bạc với Mattie, quyết định không kể gì với con gái trừ khi chuyện này bị công khai. Đó là một canh bạc lớn, và ai có thể nói nó sẽ kết thúc ra sao? Mattie chỉ biết những gì mà phần còn lại của thế giới biết, và như thế đã đủ rồi.
Kathryn không biết chuyện gì đã xảy ra với các con của Muire Boland. Đôi khi cô tưởng tượng chúng ở nhà A.
Vào mùa xuân, Kathryn đã đọc những quyển sách về các cuộc xung đột để hiểu hơn về chúng. Cô có thể nói rằng cô đã biết nhiều chuyện hơn so với tháng mười hai, nhưng cô nghĩ kiến thức này chỉ khiến cho câu chuyện thêm phức tạp. Trong vài tháng qua, cô cũng đọc trên báo, về những vụ bạo loạn trong trại giam, các vụ hành quyết của lực lượng bán vũ trang, và các vụ đánh bom xe. Bây giờ lại là một vụ ngừng bắn. Có thể một ngày nào đó sẽ có một giải pháp, dù Kathryn không nghĩ điều đó sẽ sớm xảy ra.
Nhưng đó không phải là chuyện để cô bình phẩm. Đó không phải là cuộc chiến của cô.
Trong hầu hết các ngày, đó là tất cả những gì Kathryn có thể làm để đương đầu với một ngày phía trước, và, kết cục là, cô đòi hỏi rất ít ở bản thân. Cô mặc đồ tắm dưới một lớp áo thun màu xanh đã bạc màu. Cô đang đan một chiếc áo cho Mattie bằng sợi cotton nhiều màu sắc, và cô muốn thử một cái cho mình. Đây dường như là tận cùng tham vọng của cô. Bà Julia ghé qua nhà vào hầu hết các ngày, nếu không thì Kathryn đến nhà bà. Họ cùng nhau ăn uống, cố gắng tạo lại không khí gia đình ba người. Bà Julia đón nhận tin Jack ngoại tình một cách đặc biệt khó khăn. Đó là lần đầu tiên Kathryn thấy bà của mình không biết nói gì, không thể đưa ra lời khuyên nào.
Kathryn chạy lên bậc tam cấp, băng qua phòng khách và nhà bếp. Cô nghĩ máy ảnh đang để trong chiếc áo gió ở hành lang phía sau. Cô rẽ vào hành lang và dừng lại.
Anh đang đứng ở cửa sau, đã gõ trước đó. Cô có thể thấy khuôn mặt anh qua lớp kính. Cô đưa tay ra chống tường để đứng vững. Giữa cô và cánh cửa là một kỷ niệm cay đắng, một điệp khúc về một thời gian khác khi cô đi hết hành lang đến mở cửa cho anh, một khoảnh khắc khi toàn bộ cuộc đời cô thay đổi, biến chuyển mãi mãi.
Cô đi sáu, bảy bước đến cửa như đang mộng du, rồi mở ra.
Anh tựa vào khung cửa, hai tay đút vào túi quần. Anh mặc áo thun trắng và quần soọc kaki. Anh đã cắt tóc, cô nhận ra, và da rám nắng. Ngoài những điểm đó ra, cô không nhìn thấy nhiều vì mặt trời ở ngay phía sau anh. Tuy nhiên, cô có thể cảm thấy anh đang ở đó, trong tâm trạng kỳ lạ pha lẫn giữa quyết tâm và thoái lui đang tỏa ra từ người anh. Cô nghĩ anh đang đợi cô đóng cửa lại hoặc đuổi anh đi hoặc hỏi anh, một cách cộc lốc, rằng bây giờ anh còn muốn gì ở cô nữa.
Không khí như ngạt thở xung quanh họ.
“Thời gian qua đã đủ chưa?” anh hỏi.
Và cô tự hỏi, trong lúc đứng đó, chính xác thì bao lâu mới là đủ.
“Mattie câu được một con cá,” cô nói, chợt nhớ ra. “Tôi phải đi lấy máy ảnh.”
Cô tìm thấy chiếc máy ảnh ở đúng nơi cô đã đoán. Cô đặt một tay lên trán trong lúc băng qua ngôi nhà. Da cô nóng ran, dính những lớp cát biển và muối biển. Trước đó, cô và Mattie đã đi lướt sóng, bò lồm cồm từ những đợt sóng dội bờ như hai thủy thủ bị đắm tàu.
Cô lại băng qua bãi cỏ, giờ đây tâm trí chỉ nghĩ đến người đàn ông cô đã bỏ lại ở khung cửa. Cô tự hỏi, trong thoáng chốc, phải chăng cô đã mơ thấy anh ta ở đó, chỉ là tưởng tượng ra cảnh anh đứng ngược sáng. Cô chụp hơn chục tấm ảnh Mattie và con cá, chờ đợi để kéo dài khoảnh khắc này, để cho cô chút thời gian. Chỉ đến khi Mattie hết kiên nhẫn, Kathryn mới đeo máy lên cổ và giúp Mattie khiêng con cá về nhà.
“Con có chắc con muốn làm việc này không?” cô hỏi Mattie, nhắc đến việc cắt phi lê cá. Nhưng Kathryn nghĩ đó cũng là câu hỏi mà cô nên hỏi bản thân mình.
Mattie tinh mắt hơn và nhìn thấy người đàn ông trên hiên nhà trước cả mẹ nó. Con bé đứng lại và hạ con cá xuống một chút. Đôi mắt nó ánh lên vẻ cảnh giác, ký ức về một giấc mơ xấu.
Người báo tin, Kathryn nghĩ.
“Không sao đâu,” Kathryn khẽ nói với con gái. “Chú ấy mới đến.”
Hai người cùng nhau băng qua bãi cỏ, về nhà sau chuyến đi câu như vô số người đã làm trước đó, mẹ vác cần câu, con mang chiến lợi phẩm, con cá đầu tiên trong số nhiều con sẽ bắt được trong đời. Tuần trước, Mattie đã tìm thấy cần câu và đồ nghề của bố nó trong garage và đã xem lại một cách bài bản những gì Jack dạy nó vào mùa hè trước. Kathryn không thể giúp được nhiều, vì bản thân cô chưa bao giờ thích đi câu. Nhưng Mattie rất quyết tâm và đã học cách sử dụng chiếc cần câu ngoại cỡ, phát triển một số kỹ năng thuần thục.
Gió đổi sang hướng đông, và lập tức Kathryn cảm thấy cơn rùng mình trong không khí do gió đông đem lại. Trong vài phút nữa, biển sẽ có sóng bạc đầu. Lúc đó cô nghĩ đến Jack, như cô vẫn luôn nghĩ, và cô biết cô sẽ không bao giờ cảm nhận một cơn gió đông mà không nhớ đến ngày cô đứng trên hiên nhà, ngày mà Jack thông báo việc mua nhà với cô. Đó là một trong số hàng trăm ngòi nổ, những khoảnh khắc nhỏ: Lần nữa nó lại đến, cơn gió đông.
Cô thường xuyên có những khoảnh khắc này. Cô có những khoảnh khắc về Jack Lyons, về Muire Boland, và về Robert Hart. Cô có những khoảnh khắc về máy bay, về bất cứ cái gì thuộc về Ireland, về London. Cô có những khoảnh khắc về những chiếc áo trắng, về những chiếc ô. Thậm chí một ly bia cũng có thể kích thích một ký ức vỡ vụn. Cô đã học cách sống với nó, như học cách sống với tật nói lắp hoặc cái đầu gối giở chứng thỉnh thoảng lại đau buốt.
“Chào Mattie,” Robert nói khi con bé đã đến hiên nhà. Anh nói bằng giọng thân thiện, nhưng không quá trớn, vì như thế sẽ khiến Mattie cảnh giác, làm cho nó cảm thấy không thoải mái hơn cả tâm trạng hiện giờ.
Và Mattie, được dạy dỗ tử tế, đã chào đáp lại, nhưng quay đầu đi.
“Con cá đẹp quá,” Robert nói.
Kathryn, cân nhắc Robert và Mattie trong cùng khuôn hình của mình, nói: “Mattie tự học cách câu cá đấy.”
“Nó dài tám, chín tấc không?” Robert hỏi.
“Một mét,” Mattie đáp, không giấu vẻ hãnh diện.
Mattie cầm lấy hộp đồ nghề từ tay mẹ. “Con sẽ làm ở đây,” nó nói, chỉ vào một góc của hiên nhà.
“Miễn khi làm xong con dội nước cho sạch là được,” Kathryn đáp. Cô nhìn theo Mattie đặt con cá lên mép hiên. Nó xem mang cá từ nhiều góc khác nhau, rồi cầm lên một con dao từ hộp đồ nghề. Nó cắt thử một nhát. Kathryn hy vọng con cá đã chết.
Robert tiến đến đầu kia của hiên nhà. Anh ta muốn bắt chuyện, cô nghĩ.
“Đẹp thật,” Robert nói khi cô đang lơ lửng theo hướng đi của anh. Anh quay lại và tựa lưng vào lan can. Ý anh là phong cảnh. Giờ thì cô đã thấy rõ mặt anh, và cô nghĩ trông nó sắc nét hơn so với những gì cô nhớ, rõ ràng hơn. Đó chính là màu da rám nắng. “Anh đã tưởng tượng ra cảnh này,” anh nói.
Cả hai đều nghe thấy sự gợi nhớ đầy đau đớn về những điều trong trí tưởng tượng.
Chân của Robert cũng rám nắng và có những sợi lông nhỏ xíu màu vàng. Kathryn nghĩ có lẽ cô chưa từng thấy chân anh trước đây. Chân cô cũng lộ ra, và anh đã nhìn thấy.
“Con bé thế nào rồi?” anh hỏi, ánh mắt như cô nhớ: quả quyết và sắc sảo.
“Khá hơn rồi,” Kathryn đáp khẽ để Mattie không nghe thấy. “Khá hơn. Mùa xuân vừa rồi rất khó khăn.”
Trong nhiều tuần lễ, cô và Mattie đã phải chịu đựng sự nặng nề của một cơn giận dữ tích tụ. Nếu Jack không có liên quan..., người này nói. Chính bố mày là người đem bom..., người kia nói. Đã có những cuộc điện thoại đe dọa từ người lạ, những bức thư phẫn nộ từ thân nhân, một đội quân nhà báo ở cổng nhà cô. Chỉ lái xe đi làm thôi thỉnh thoảng đã là một cực hình, nhưng Kathryn không chịu dọn đi nơi khác. Cô đã yêu cầu thị trấn Ely cử dân phòng để đảm bảo an ninh trên phần đất nhà cô. Các ủy viên đã họp toàn thị trấn, tiến hành biểu quyết, và sau rất nhiều tranh luận, người ta đã nhất trí trích ra từ ngân sách một số tiền ngoài dự toán. Nó được xếp vào mục Tình trạng bất khả kháng.
Nhu cầu bảo vệ an ninh đã giảm dần theo thời gian, nhưng Kathryn biết cả cô lẫn Mattie đều không thể có lại cuộc sống bình thường nữa. Giờ đây, đó là một sự thật, một việc được khẳng định, về sự tồn tại của họ mà họ phải vật vã mỗi ngày để chấp nhận. Cô nhớ đến lời nhận xét của Robert về con cái của những nạn nhân vụ tai nạn: Chúng biến đổi cùng với thảm họa và học cách thích nghi.
“Còn em thì sao?” anh hỏi.
“Em vẫn khỏe,” cô đáp.
Anh quay lại, dựa một tay lên cột, nhìn bãi cỏ và khu vườn.
“Em trồng thêm hoa hồng,” anh nói.
“Em trồng thử.”
“Nhìn đẹp lắm.”
“Đó là gia tài gần biển của một kẻ ngốc đấy.”
Trong cổng vòm của vườn, cô đã trồng các giống hồng Friar và Wenlock gai; trong bờ giậu hình oval là giống Cressida và Prospero. Tuy nhiên, cô nghĩ mình thích giống St. Cecilia nhất, vì những búp hoa ửng hồng không e thẹn. Chúng rất dễ trồng dù không khí biển không phù hợp. Kathryn thích vung tay đầu tư cho hoa cỏ, sự xa xỉ lãng phí.
“Lẽ ra anh nên cho em biết ngay ngày đầu tiên,” anh nói, và cô chưa chuẩn bị tinh thần để đón nhận việc này sớm đến thế. “Rồi sau đó, anh biết rằng nếu nói ra, anh sẽ mất em.”
Cô im lặng.
“Anh đã có một quyết định sai lầm,” anh nói.
“Anh đã cố gắng nói với em.”
“Nhưng chưa cố gắng đủ.”
Vậy đấy, chuyện đã được nói ra. Thế là xong.
“Đôi khi em không thể tin được bất kỳ chuyện nào trong số đó đã xảy ra,” Kathryn nói.
“Nếu bọn anh phát hiện ra họ sớm hơn thì chuyện đó có thể đã không xảy ra.”
Phát hiện ra Jack và Muire sớm hơn, ý anh là thế.
“Quả bom dự kiến sẽ phát nổ ở giữa Đại Tây Dương, phải không?” cô hỏi. “Dự định nổ ở nơi còn sót lại ít chứng cứ.”
“Bọn anh nghĩ vậy.”
“Sao họ không gọi điện đến ngay và nói là IRA làm việc đó?”
“Họ không thể. Có những mật mã riêng giữa IRA và cảnh sát.”
“Vậy là họ chỉ việc chờ cho cuộc điều tra dẫn đến Muire và Jack.”
“Như một ngòi nổ dài.”
Kathryn hít vào một hơi sâu, có thể nghe được.
“Bây giờ cô ta ở đâu?”
“Trại giam Maze. Ở Belfast. Trùng hợp là những tên khủng bố Trung quân cũng ở đó.”
“Anh đã tình nghi Jack?”
“Bọn anh đã biết có thể là một người bay hành trình đó.”
Cô tự hỏi, không phải lần đầu, liệu một người phụ nữ có thể tha thứ cho người đàn ông đã phản bội mình không? Và nếu cô tha thứ thì có phải là công nhận chuyện đó hay không? Hay đó chỉ đơn giản là ngu ngốc?
“Em đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất chưa?” Robert hỏi.
Cô gãi vết muỗi đốt trên cánh tay. Ánh sáng chói chang, sắc nét trong thời khắc chiều tà.
“Điều khó khăn nhất là em không thể để tang,” Kathryn đáp. “Làm sao em có thể để tang một người mà em có thể thậm chí còn không biết? Ai mới không phải là người mà em tưởng đã là anh ấy? Anh ấy đã phá nát ký ức em.”
“Hãy để tang cho bố của Mattie,” Robert nói, và cô nhận ra anh đã nghĩ về chuyện này.
Kathryn nhìn Mattie cắt một nhát từ sau mang cá đến xương lưng.
“Anh không thể lảng tránh,” Robert nói. “Anh phải đến.”
Cô nhận ra cả Robert cũng đã đánh bạc. Như cô đang làm với Mattie. Không chịu tiết lộ chuyện lẽ ra nên tiết lộ.
Rồi sau đó, từ từ quay người lại để nhìn khu vườn từ mép hiên, ở một góc có thể nhìn xuống vì cô hiếm khi làm thế - hoặc có lẽ là do những bông hoa hồng trồng vào năm nay - cô nhìn thấy nó.
“Nó kia rồi,” cô nói khẽ.
Mattie, nghe thấy sự ngạc nhiên trong giọng nói của mẹ, ngước lên nhìn, tay vẫn cầm dao.
“Nhà nguyện,” Kathryn giải thích.
“Cái gì ạ?” Mattie hỏi, vẻ ngơ ngác.
“Khu vườn. Mái vòm ở đó. Hình dáng đó. Miếng đá cẩm thạch mà mẹ bấy lâu nay cứ tưởng là một băng ghế? Nó không phải là băng ghế.”
Mattie ngắm nghía khu vườn một lúc, chỉ nhìn thấy khu vườn mà thôi, Kathryn biết.
Trong khi Kathryn có thể thấy những nữ tu sĩ dòng Thánh Jean de Baptiste de Bienfaisance quỳ gối trong bộ quần áo mùa hè của họ. Trong một nhà nguyện làm bằng gỗ có hình dạng như một ô cửa sổ hình cung. Một nhà nguyện có thể đã bị cháy rụi, chỉ còn lại bệ thờ bằng cẩm thạch.
Cô tiến gần hơn đến khu vườn.
Nhìn mọi vật đúng như bản chất của chúng, cô nghĩ.
“Em sẽ lấy nước uống cho chúng ta,” cô nói với Robert, lòng thầm mãn nguyện trước phát hiện của mình.
Cô đi vào phòng khách, dự định sẽ đi tiếp đến nhà bếp, rót trà đá vào ly, cắt chanh thành lát, nhưng cô không đi mà dừng lại để nhìn ra ngoài một trong những ô cửa sổ cao từ sàn đến trần nhà. Trong khung cửa, Mattie đang đánh vật với con cá, còn Robert thì nhìn nó từ lan can. Anh đã có thể chỉ nó cách đặt dao như thế nào, nhưng đây là đồ nghề của Jack, và Kathryn biết Jack sẽ kiên nhẫn chờ đợi.
Cô nghĩ về Muire Boland trong một trại giam ở Bắc Ireland. Về Jack, xác anh vẫn chưa được tìm thấy. Cô nghĩ sẽ dễ chấp nhận hơn nếu cô có thể nói nguyên nhân là vì mẹ anh đã bỏ rơi anh khi anh còn bé, hoặc sự ác độc của bố anh. Hoặc là do ảnh hưởng của một linh mục ở trường Holy Name, hoặc tuổi trung niên, hoặc tâm trạng chán nản với hãng hàng không. Hoặc là hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời anh. Hoặc là mong muốn chia sẻ rủi ro với một người đàn bà mà anh yêu. Nhưng cô biết có thể là do tất cả những lý do đó hoặc không vì lý do nào cả. Động cơ của Jack, điều sẽ mãi là ẩn số đối với Kathryn, được lập thành từ nhiều mảnh nhỏ của toàn bộ các động cơ của anh, một bức tranh ghép khó hiểu.
Cô tìm thấy tờ giấy nơi cô mới để nó gần đây, nhét dưới chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi. Cô đã nghĩ, cách đây vài tuần, rằng cô có thể sẽ làm việc này.
Cô mở tấm vé số ra.
Trên hiên, Mattie nhấc lên một miếng phi lê rồi cho nó vào chiếc túi nhựa mà Robert đang cầm giúp nó. Ở London, có một sự im lặng, như Kathryn đã dự đoán.
“Tôi chỉ muốn biết lũ trẻ có ổn không,” cô nói với người ở bên kia đại dương.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook