Vợ Phi Công
-
Chương 13
HỌ DI CHUYỂN TỪ PHÒNG NÀY SANG PHÒNG KHÁC, LAU BỤI, HÚT bụi, chà rửa sàn nhà, đổ rác, dọn giường, giặt giũ. Robert làm những việc này như một người đàn ông, cô nhận thấy thế: vụng về khi dọn giường, tháo vát trong nhà bếp, chà rửa sàn nhà bếp như đang hành hạ tra tấn nó. Với sự có mặt của Robert trong phòng ngủ của cô và của Mattie, những vật dụng tiềm ẩn hiểm họa trở nên bình thường: Áo sơ mi vắt trên ghế cũng chỉ là một chiếc áo mà Robert ném xuống đất cùng mớ quần áo cần giặt khác. Ga giường là ga giường, cần được giặt như bất cứ thứ gì khác. Anh nhặt giấy tờ trong phòng làm việc của Jack và, chẳng cần xem chúng là gì, không như Kathryn, cho hết vào ngăn kéo và đóng lại. Trong phòng của Mattie, Kathryn nhận thấy sự dò xét của Robert, cảm nhận rằng anh sợ khi vào phòng này cô sẽ chùn bước, nhưng cô khiến anh và chính bản thân cô ngạc nhiên khi tỏ ra đặc biệt nhanh nhẹn và hiệu quả. Thậm chí cô còn giúp Robert hạ cây thông Giáng sinh xuống, cả hai kéo cây thông đã khô héo qua nhà bếp ra hành lang sau nhà, làm lá rụng vương vãi trên sàn gỗ và sàn đá. Khi họ dọn dẹp xong, những gợn mây màu trắng sữa trên trời đã nhường chỗ cho những cụm mây xám thấp là đà.
“Sắp có tuyết rồi,” Robert nói, dùng một ống nước xịt bên trong bồn rửa bát.
Cô mở tủ dưới bồn rửa, cất lại những chai nước cọ rửa nhà tắm, hiệu Pine Sol và Comet. Cô rửa tay dưới vòi nước rồi lau khô bằng khăn lau bát.
“Tôi đói rồi,” cô nói, cảm thấy sự hài lòng nhẹ nhàng mỗi khi nhà cửa sạch sẽ. Giống như vừa ngâm mình trong bồn tắm.
“Tốt,” anh quay người lại nói. “Trong xe có tôm hùm đấy.”
Cô nhướn mày.
“Mua ở Ingerbretson,” anh giải thích. “Tôi mua trên đường đến đây. Không cưỡng lại được.”
“Tôi không thích tôm hùm lắm,” cô nói.
“Tôi thấy đồ kẹp trong ngăn đồ bạc.”
“Anh cũng thích ngó nghiêng nhỉ.”
“Thỉnh thoảng thôi.”
Nhưng khi đứng đó, cô chợt có cảm giác rằng Robert Hart lúc nào cũng ngó nghiêng. Lúc nào cũng quan sát.
***
Robert nấu hôm hùm trong khi Kathryn dọn bàn ngoài phòng khách. Một cơn mưa tuyết trút xuống, những mảng bông tuyết lặng lẽ rơi lên kính cửa sổ. Kathryn mở tủ lạnh, lấy ra hai chai bia. Cô khui một chai, chuẩn bị khui chai thứ hai thì chợt nhớ ra Robert không uống bia. Cô lén cất hai chai bia vào tủ lạnh không để Robert nhận ra.
“Làm ơn đi mà,” Robert nói khi đang đứng cạnh bếp. “Cứ uống bia đi. Tôi không thấy phiền đâu. Thật ra nếu cô không uống thì tôi mới thấy khó chịu đấy.”
Kathryn nhìn đồng hồ: mười hai giờ hai mươi. Thời gian thấm thoắt trôi. Một lần nữa, vỏ bọc thời gian lại mở ra. Hôm đó là thứ sáu. Bình thường giờ này cô đang ở trường, tiết năm. Bình thường cô sẽ không uống bia. Dù đó là kỳ nghỉ Giáng sinh, cô nghĩ; theo lý thuyết, phải đến ngày mồng hai tháng giêng cô mới đi dạy lại. Cô chưa nghĩ đến chuyện sẽ xoay sở thế nào trong lớp học. Một hình ảnh tốp học sinh chạy nhảy trên hành lang hiện lên, nhưng cô gạt bỏ nó ngay.
Lúc mười hai giờ kém năm phút, Robert đã tắt tất cả tiếng chuông điện thoại. Không có gì khẩn cấp đến nỗi không chờ được một, hai giờ, anh bảo thế, và cô đồng tình.
Trên tinh thần đó, cô trải lên chiếc bàn gần cửa sổ trong phòng khách chiếc khăn in hoa đỏ, màu sắc tươi tắn của khăn trải bàn đối nghịch với sắc trời ảm đạm bên ngoài. Robert mở nhạc lên: B.B.King. Kathryn ước gì trong nhà có hoa tươi. Nhưng chính xác thì cô đang ăn mừng chuyện gì? cô tự hỏi, cảm thấy hơi tội lỗi. Vì đã sống sót trong mười một ngày qua? Vì đã dọn dẹp nhà cửa? Cô xếp dao nĩa, bát đựng vỏ tôm, bánh mì, bơ đã làm tan, và một cuộn khăn giấy dày lên bàn. Robert bước từ nhà bếp vào phòng khách, bê một đĩa tôm hùm ướt và trơn. Mặt trước áo anh lấm tấm nước.
“Tôi đói rụng rời rồi,” anh nói, đặt đĩa tôm xuống và ngồi đối diện cô.
Cô nhìn những con tôm hùm trước mặt. Và vào đúng lúc đó, sự chấn động ký ức mạnh mẽ, quyết liệt lại tấn công cô. Cô nhìn nhanh ra ngoài cửa sổ. Cô đưa một tay lên miệng.
“Chuyện gì vậy?” Robert hỏi.
Cô vội lắc đầu nguầy nguậy. Cô ngồi yên, giữ chặt trong một hình ảnh, không dám cử động về trước hay sau vì sợ những vết nứt. Cô hít sâu vào, rồi thở ra, đặt hai cánh tay lên bàn.
“Tôi chỉ mới nhớ lại một kỷ niệm,” cô đáp.
“Kỷ niệm gì?”
“Jack và tôi.”
“Ở đây à?”
Cô gật đầu.
“Ngồi ăn như thế này?”
Giống thế này, cô muốn nói như thế, nhưng không phải thế này. Lúc đó là đầu hè, rèm được cuốn lên. Mattie đang ở nhà bạn, và lúc đó là buổi chiều, gần bốn hoặc năm giờ. Ánh nắng rất đặc biệt, cô còn nhớ, lung linh xanh như thủy tinh biển. Họ uống champagne. Họ ăn mừng chuyện gì nhỉ? Cô không tài nào nhớ nổi. Có thể chẳng vì chuyện gì cả, có thể là để chúc tụng chính họ. Cô đã muốn làm tình, cô còn nhớ, và anh cũng thế, nhưng không ai muốn hi sinh một con tôm hùm mới luộc nóng hổi, thế là họ chờ đợi với một sự căng thẳng ngọt ngào giữa hai người. Cô đã mút càng tôm một cách cường điệu, Jack đã cười bảo cô đang khiêu khích, và cô cảm thấy thích thú vì điều đó. Khiêu khích. Cô hiếm khi nào làm thế.
“Tôi rất tiếc,” Robert nói. “Tôi nên biết mới phải. Tôi sẽ đem thức ăn vào nhà bếp.”
“Không,” cô nói nhanh, chặn tay anh lại khi anh với lấy đĩa của cô. “Không, làm sao anh biết được. Vả lại, cuộc sống tôi đầy ắp những kỷ niệm như vậy. Hàng trăm kỷ niệm nhỏ khiến tôi không kịp trở tay. Chúng giống như bom mìn chôn dưới đồng vậy, chỉ chờ đến lúc phát nổ. Thật lòng mà nói, tôi muốn cắt bỏ thùy não quách cho rồi.”
Robert rút bàn tay dưới tay cô ra rồi đặt nó lên các ngón tay cô. Anh nắm tay cô theo kiểu một người đàn ông nắm tay bạn của mình, chờ đợi một cơn khủng hoảng nhỏ bùng nổ. Bàn tay anh rất ấm, vì tay của Kathryn chợt lạnh buốt. Những kỷ niệm đã khiến cô trở nên thế này; chúng đã rút hết máu khỏi tay chân cô. Cũng giống như nỗi sợ.
“Anh tốt với tôi quá,” cô nói.
Thời gian trôi qua. Bao lâu? Cô không còn tính được từng giây, từng phút. Cô nhắm mắt lại. Bia khiến cô hơi buồn ngủ. Cô muốn lật bàn tay lại, muốn anh chạm vào lòng bàn tay cô. Vuốt bàn tay anh dọc lòng bàn tay lên đến cổ tay cô. Cô tưởng tượng có thể cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay anh di chuyển dọc mặt trong cánh tay mình, vỗ lên cùi chỏ.
Các ngón tay cô trở nên buông lỏng, và cô cảm thấy sự căng thẳng trút khỏi người mình. Sự buông lỏng đó, đầu hàng đó thật hư hỏng, nhưng không. Mắt cô dường như không còn nhìn thấy rõ nữa, cô không còn nhìn thấy Robert hay cái gì khác nữa, chỉ còn cảm giác ánh sáng từ cửa sổ. Ánh sáng đó, phân tán và mờ ảo, tạo ra một cảm giác dễ chịu uể oải. Và cô nghĩ rằng cô phải cảm thấy khó chịu vì đã nghĩ đến Robert và cô theo cách đó, nhưng một cảm giác khoan dung dường như đã trỗi lên như một làn khói mờ, cô cảm thấy mơ hồ và lãng đãng. Đến nỗi khi Robert, trong nỗ lực kéo cô về với thực tại, siết chặt bàn tay cô, cô cảm thấy như bị ném về khoảnh khắc hiện thực.
“Anh giống như một linh mục vậy,” cô nói.
Anh bật cười. “Không có đâu.”
“Tôi nghĩ vì vậy mà tôi tìm đến anh.”
“Cha Robert,” Robert nói, mỉm cười.
Và rồi cô nghĩ: Có ai biết được bàn tay của người đàn ông này vuốt lên mặt trong cánh tay cô đâu? Có ai quan tâm đâu? Chẳng phải mọi luật lệ đều đã bị phá vỡ rồi sao? Chẳng phải Mattie đã nói như thế sao?
Sự im lặng của trận tuyết rơi bao trùm lấy họ. Cô có thể nhận thấy anh đang cố gắng hiểu một cách chính xác cô đang nghĩ gì và tại sao, nhưng cô không thể giúp anh, vì bản thân cô còn không biết. Phòng khách lúc nào cũng quá lạnh vào mùa đông, cô nghĩ, và đã cô rùng mình dù nghe được tiếng hơi nước róc rách trong máy sưởi. Bên ngoài, trời đã âm u đến nỗi có thể nhầm tưởng là hoàng hôn.
Anh rút tay lại, để bàn tay cô trơ trọi trên bàn. Cô cảm thấy bị phơi bày.
Cô uống chai bia thứ hai. Họ ăn hết bánh mì và tôm hùm. Giữa lúc ăn, Robert đứng dậy và thay đĩa nhạc. B.B.King chuyển sang Brahms.
“Cô có mấy đĩa nhạc hay quá,” anh nói khi quay lại.
“Anh thích nghe nhạc lắm à?”
“Vâng.”
“Thể loại gì?”
“Đặc biệt là piano. Nhạc này của Jack hay của cô?” anh hỏi, ngồi xuống.
Cô cúi đầu, không chắc chắn có hiểu câu hỏi đó hay không.
“Thông thường các đĩa nhạc và dàn âm thanh là đam mê của một trong hai vợ chồng, không thể của cả hai,” anh giải thích. “Đó là theo kinh nghiệm của tôi.”
Cô nghĩ ngợi về điều này.
“Của tôi,” cô đáp. “Jack không phân biệt được các nốt nhạc. Nhưng anh ấy thích rock and roll. Và một vài đĩa nhạc của Mattie - vì tiết tấu, tôi nghĩ vậy. Còn anh thì sao?”
“Cũng của tôi,” anh đáp. “Dù vợ cũ của tôi giữ lại dàn âm thanh và phần lớn đĩa nhạc. Một trong hai đứa con của tôi thừa hưởng tai nghe nhạc từ bố. Nó chơi saxophone trong trường. Đứa kia thì hình như chẳng quan tâm gì.”
“Mattie chơi kèn clarinet đấy. Tôi đã cố gắng hướng nó chơi piano,” Kathryn kể, “nhưng điều đó giống như cực hình.”
Kathryn nghĩ về tất cả những thời gian cô ở cạnh Mattie bên cây đàn piano, Mattie rõ ràng không muốn ngồi đấy, cường điệu hóa sự miễn cưỡng vô lý của nó bằng cách gãi lưng liên tục khi không thể đàn đúng, hoặc chỉnh lại ghế ngồi, hoặc mất rất nhiều thời gian một cách quá đáng để đàn đúng. Buộc Mattie chơi một bản nhạc một lần đã khó, huống chi đến việc bảo nó tập bài đó vài lần. Thông thường, Kathryn phải bỏ ra khỏi phòng với cảm giác tức giận gần như không che đậy, và mỗi lần như vậy Mattie lại khóc rấm rứt. Khi năm đầu tiên sắp trôi qua, Kathryn nhận ra nếu cô cứ ép buộc Mattie học đàn, thì tình mẹ con của họ sẽ tan nát.
Bây giờ, tất nhiên, Mattie hầu như không bao giờ sống thiếu âm nhạc - trong phòng nó, trong xe, và gắn tai nghe suốt ngày như thể người ta truyền oxy qua tai nghe vậy.
“Anh có chơi nhạc cụ không?” Kathryn hỏi.
“Từng chơi.”
Cô quan sát anh và điểm thêm một nét nhỏ vào bức chân dung đã hình thành từ ngày anh bước chân vào nhà. Đó là việc người ta hay làm với người khác, Kathryn tự nhủ, vẽ chân dung, chấm phá thêm những nét còn thiếu, chờ đợi ảnh và màu hiển hiện.
Anh nhúng một phần đuôi tôm vào bơ rồi cho vào miệng.
“Đêm trước khi Jack đi làm,” Kathryn nói, “anh ấy vào phòng của Mattie và hỏi con bé có muốn đi xem đội Celtics thi đấu vào tối thứ sáu không. Một người bạn tặng anh ấy vé ngồi ở vị trí rất tốt. Điều tôi muốn biết là: Liệu một người đàn ông có rủ con gái mình đi xem đội Celtics chơi hay không nếu anh ta dự định tự sát trước khi quay trở lại?”
Robert lau cằm rồi nghĩ ngợi một lúc.
“Liệu một người đàn ông có ghế ngồi rất tốt ở một trận Celtics có tự sát trước khi kịp xem trận đấu không?”
Cô mở to mắt.
“Tôi xin lỗi,” anh ta vội nói. “Không. Nó không hợp lý, tôi không thể lý giải nổi.”
“Và Jack bảo tôi gọi cho Alfred,” Kathryn nói tiếp. “Anh ấy bảo tôi hẹn Alfred thứ sáu đến sửa lại vòi hoa sen bị rỉ nước. Nếu Jack không có ý định quay về, thì anh ấy sẽ chẳng làm thế. Không nói kiểu như thế, gần giống như anh ấy chợt nhớ ra trong lúc đi ra xe. Và anh ấy hẳn đã cư xử khác với tôi. Anh ấy hẳn đã chào tạm biệt theo cách khác. Tôi biết như vậy. Hẳn phải có một chi tiết nhỏ mà lúc đó tôi không nhận ra, nhưng sau đó phải nhớ ra. Một điều gì đó.”
Robert với tay lấy ly nước rồi nhích ra xa chiếc bàn.
“Anh có nhớ,” cô hỏi tiếp, “khi Ban An toàn thẩm vấn tôi, họ hỏi Jack có bạn bè thân thiết ở Anh không?”
“Vâng.”
Cô nhìn vào chiếc bát đựng vỏ tôm.
“Tôi vừa nghĩ ra một ý,” cô nói. “Tôi sẽ quay lại ngay.”
Khi đi lên cầu thang, cô cố gắng nhớ lại xem mình đã giặt mẻ đồ đó chưa. Cô đã mặc chiếc quần jean đó hai ngày rồi ném nó vào giỏ quần áo. Nhưng không phải giỏ của cô, cô nhớ như vậy, mà là giỏ của Mattie. Và Kathryn chưa giặt quần áo của Mattie lần nào vì Mattie không có ở đó. Tất cả quần áo Mattie cần mặc đều được giặt ở nhà bà Julia.
Cô tìm thấy chiếc quần jean bên dưới một đống đồ bẩn, bị chôn vùi dưới mớ quần áo mà Robert và cô ném vào giỏ vài giờ trước. Cô lấy ra xấp giấy tờ và hóa đơn, chúng bị ẩm một chút vì chiếc khăn tắm lâu ngày chưa giặt.
Khi cô quay về phòng khách, Robert đang trầm tư ngắm tuyết rơi. Anh quan sát khi cô đẩy đĩa thức ăn ra xa và mở xấp giấy tờ ra.
“Nhìn này,” cô nói, đưa tấm vé số cho Robert. “Tôi tìm thấy mớ giấy tờ này nhét trong túi quần jean của Jack móc trên cửa nhà tắm vào ngày anh ấy mất. Lúc đó tôi chẳng nghĩ ngợi nhiều mà chỉ nhét chúng vào túi quần jean của mình. Nhưng anh có thấy dòng ghi chú đó không, M ở A, và mấy con số theo sau? Anh nghĩ đó là gì?”
Robert nghiên cứu những con số, và cô có thể thấy từ cái chớp mắt của anh rằng anh hiểu điều cô đang nghĩ.
“Một số điện thoại ở Anh, cô nghĩ vậy à,” anh ta nói.
“Đó là mã số của London, phải không? Số một tám một đấy?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Đó có phải là số điện thoại không nhỉ?”
“Tôi không biết nữa.”
“Để tôi xem nào,” cô nói và chìa tay ra. Robert đưa cô tờ vé số với vẻ miễn cưỡng.
“Tôi tò mò thôi,” cô biện hộ. “Nếu nó là số điện thoại thì tại sao lại viết trên tấm vé này? Mà cái này cũng mới đây thôi. Chắc anh ấy mua tờ vé số này một ngày trước khi đi.” Cô nhìn ngày tháng trên tấm vé. “Đúng rồi. Mười bốn tháng mười hai.”
Đây là việc hoàn toàn hợp lý, cô nghĩ trong lúc bước đến chỗ điện thoại cạnh sofa. Cô nhấc ống nghe lên rồi bấm số. Gần như ngay tức khắc, cô có thể nghe thấy tiếng chuông vang từ xa, âm thanh luôn khiến cô liên tưởng đến những chiếc điện thoại Paris cổ có giá đỡ màu đen thanh mảnh.
Một giọng nói cất lên ở đầu dây bên kia, và Kathryn, bất ngờ trước giọng nói ấy, chưa chuẩn bị tinh thần đón nhận nó, liếc nhanh lên Robert. Cô chưa nghĩ đến điều mình muốn nói. Một phụ nữ nhắc lại câu xin chào, lần này có vẻ khó chịu một chút. Không phải bà già, không phải thiếu nữ.
Kathryn tìm một cái tên. Cô muốn hỏi: Chị có biết một người tên là Jack Lyons không? nhưng câu hỏi đó chợt nghe có vẻ vô lý quá.
“Chắc tôi nhầm số rồi,” Kathryn đáp nhanh. “Xin lỗi đã làm phiền chị.”
“Ai đấy?” người phụ nữ hỏi, bây giờ có vẻ cảnh giác.
Kathryn không thể xưng tên.
Có tiếng gác máy bực bội. Sau đó là im lặng.
Tay run lẩy bẩy, Kathryn đặt lại ống nghe và ngồi xuống. Cô cảm thấy bấn loạn hệt như lúc còn là cô nữ sinh trung học, gọi điện cho một cậu bạn học mà cô cảm mến nhưng lại không dám xưng tên.
“Thôi bỏ qua chuyện này đi,” Robert khẽ nói.
Kathryn chà hai bàn tay lên đùi quần jean để ngừng run.
“Thế này,” cô nói. “Anh tìm giúp tôi một thứ được không?”
“Thứ gì?”
“Anh có thể tìm tên của toàn bộ phi hành đoàn mà Jack từng bay cùng không?”
“Tại sao?”
“Tôi có thể nhận ra một cái tên nếu nhìn thấy. Hoặc nhớ lại một khuôn mặt mà tôi từng gặp.”
“Nếu cô muốn thế,” anh nói chậm rãi.
“Thật khó để biết tôi muốn gì,” cô đáp.
***
Khi Robert đi lên phòng của Jack để lấy danh sách phi hành đoàn, Kathryn trải toàn bộ những mảnh giấy từ tập giấy nhăn nhúm và xem xét cẩn thận. Cô đặc biệt chú ý đến một hóa đơn từ bưu điện cho một món hàng trị giá hai mươi hai đô la. Có lẽ đó không phải là tiền tem, cô nghĩ, xem xét tờ hóa đơn kỹ hơn. Cô mở mảnh giấy kẻ hàng trắng và đọc những dòng thơ mà Jack đã chép lại.
Ở đây trong ngõ hẹp và phương Bắc khắc nghiệt, những bội phản
Vĩnh viễn, phản kháng tàn nhẫn vô phương.
Cơn thịnh nộ bất ngờ của dao găm trong đêm tối: cuộc chiến sinh tồn
Của những tế bào mù đói khát từ sự sống trong dạ con.
Bài thơ có ý nghĩa gì? Cô ngước lên nhìn mảng trời trắng xóa ngoài cửa sổ. Trên bãi cỏ đã có một lớp tuyết phủ, và cô nghĩ có lẽ mình nên gọi điện cho bà Julia để hỏi xem hai bà cháu có ổn không. Cô tự hỏi giờ này Mattie đã thức dậy chưa.
Cô mở mảnh giấy kẻ hàng thứ hai - danh sách cần nhớ. Áo choàng Bergdorf gửi FedEx đến ngày 20.
Kỳ lạ, cô thầm nghĩ, nhưng không có kiện hàng Fedex nào đến vào ngày hai mươi cả. Cô chắc chắn như vậy.
Cô vừa đứng dậy vừa ngẫm nghĩ về ý nghĩa những câu thơ. Bây giờ thì chúng chẳng có ý nghĩa gì với cô, nhưng biết đâu cô có thể tìm thấy cả bài thơ và khi đó sẽ hiểu ra ý gì đó. Cô tiến đến kệ sách. Nó chỉ là những tấm ván gỗ chia thành tầng, kéo dài đến gần trần nhà. Jack đọc sách về máy bay và tiểu sử người nổi tiếng, đôi khi anh đọc tiểu thuyết có cốt truyện sáng tạo. Còn Kathryn chủ yếu đọc tiểu thuyết của các tác giả nữ, thường là tiểu thuyết đương đại, dù cô đặc biệt yêu thích Edith Wharton và Willa Cather. Cô tìm một quyển tuyển tập thơ cũ và thấy nó trên kệ dưới cùng.
Cô ngồi ở mép sofa. Cô đặt quyển sách trên đùi và bắt đầu giở các trang. Khi không phát hiện ngay bài nào đáng chú ý, cô quyết định bắt đầu từ đầu, dự tính sẽ xem từng trang cho đến khi thấy những câu thơ mình đang tìm. Nhưng cô nhanh chóng nhận ra không cần phải làm thế: Những bài thơ đầu rất cổ. Dùng ngôn ngữ trong bài thơ làm manh mối, cô mở quyển sách từ giữa ra. Ở đó, các nhà thơ dùng cú pháp tương tự như những câu thơ mà cô đang cầm trong tay. Cô vừa bắt đầu lần giở một cách bài bản qua các trang sách thì nghe tiếng Robert gọi từ phòng của Jack.
Bên ngoài, tuyết đang rơi dày đặc, va vào cửa sổ như dòng thác đổ ào ào. Dự báo thời tiết nói tuyết sẽ rơi dày mười lăm đến hai mươi centimet, Robert đã nói như vậy. Ít ra Kathryn biết Mattie đang ở đâu và sẽ không đi ra ngoài bằng xe ô tô.
Cô đặt quyển sách xuống rồi đi lên phòng làm việc của Jack. Robert đang ngồi ở bàn làm việc, tay cầm một tờ fax bằng giấy bóng. Và cô chợt nhận ra, khi cô nhìn thấy anh ta ngồi trên ghế của Jack, rằng Robert đã biết trong cuộn băng có gì - tất nhiên là anh ta biết.
“Hãy cho tôi biết về cuộn băng đi,” cô nói.
“Đây là danh sách tất cả những người Jack từng bay cùng tại Vision,” anh nói, đưa cô tờ fax.
“Cám ơn anh,” cô đáp, nhận lấy tờ fax nhưng không nhìn nó. Cô có thể thấy rằng anh không nghĩ là cô sẽ hỏi. “Làm ơn đi,” cô lặp lại. “Hãy kể cho tôi những gì anh biết.”
Anh khoanh tay trước ngực và đẩy ghế ra khỏi bàn, tạo một khoảng cách nhỏ giữa hai người. “Tôi chưa nghe được cuộn băng đó,” anh đáp. “Chưa ai nghe cả.”
“Không, tôi biết như vậy.”
“Tôi chỉ có thể cho cô biết những gì mà một người bạn làm việc ở Liên đoàn đã nói với tôi.”
“Tôi biết.”
“Cô thật sự muốn nghe chứ?”
“Vâng,” cô đáp, dù cô không biết, cô không rõ. Làm sao cô biết mình có muốn nghe hay không cho đến khi đã nghe được nó chứ?
Anh đột ngột đứng dậy rồi tiến về cửa sổ, quay lưng lại với Kathryn. Anh nói ngắn gọn, kiểu giọng công việc, như muốn tước hết mọi cảm xúc trong câu chữ.
“Chuyến bay vẫn bình thường cho đến phút thứ năm mươi sáu,” anh nói. “Jack có vẻ như có biểu hiện lạ.”
“Biểu hiện lạ?”
“Anh ấy rời buồng lái sau khi máy bay bay được năm mươi sáu phút mười bốn giây. Anh ấy không nói có chuyện gì, chỉ nói là sẽ quay lại. Họ - những người đã nghe đoạn băng - cho rằng anh ấy đi vệ sinh.” Anh quay lại nhìn về hướng cô, dù không hẳn là nhìn trực diện.
Cô gật đầu.
“Hai phút sau, Cơ phó Roger Martin thông báo gặp vấn đề về tai nghe. Anh ta đề nghị mượn tai nghe của Trevor Sullivan, kỹ sư chuyến bay. Sullivan đưa tai nghe của mình cho Martin và nói, Thử cái này xem. Martin thử tai nghe của kỹ sư, nhận thấy nó hoạt động bình thường, và nói, Không phải do dây cắm. Chắc tai nghe của tôi bị hỏng rồi.”
“Tai nghe của Roger Martin bị hỏng,” Kathryn nói.
“Phải. Thế là Martin trả lại tai nghe cho Sullivan, rồi Sullivan nói, Đây này, đợi một chút. Có thể Lyons có một bộ thừa. Dường như, Sullivan sau đó đã tháo đai an toàn rồi với tay qua lấy túi xách của Jack. Cô biết túi bay được đặt ở đâu chứ?”
“Bên cạnh phi công?”
“Ở buồng bên ngoài cạnh mỗi phi công. Phải. Và Sullivan khi đó hẳn đã lôi ra cái gì đó từ túi bay của Jack mà không nhận ra. Vì anh ta nói, Cái quái gì thế này?”
“Đó là một thứ mà anh ta không ngờ đến.”
“Có vẻ như vậy.”
“Không phải tai nghe.”
“Chúng ta không biết.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó Jack quay trở lại buồng lái. Sullivan nói, Lyons, đây là một trò đùa có phải không?”
Robert dừng lại. Anh tựa lên bậu cửa sổ, nửa đứng nửa ngồi.
“Lúc này có thể đã xảy ra một trận ẩu đả,” Robert nói. “Tôi nghe các báo cáo mâu thuẫn nhau. Nhưng nếu có thì nó cũng xảy ra rất nhanh. Vì Sullivan nói gần như ngay lập tức, Cái quái quỷ gì vậy?”
“Rồi sao?”
“Rồi anh ta nói, Chúa ơi.”
“Ai nói Chúa ơi?”
“Sullivan.”
“Sau đó?”
“Chỉ có vậy.”
“Không ai nói thêm gì nữa?”
“Đoạn băng kết thúc.”
Cô ngửa đầu lên, ngẫm nghĩ về đoạn hội thoại cuối cuộn băng.
“Anh ấy có một quả bom trong túi bay,” cô khẽ nói. “Một quả bom vũ trang. Vì thế mà họ nghĩ đến khả năng tự sát.”
Robert đứng dậy. Anh cho tay vào túi quần.
“Thậm chí chỉ một câu khác đi là cả cuộn băng sẽ có ý nghĩa khác. Thậm chí với những từ đúng như tôi vừa kể, đoạn băng không nhất thiết phải có một ý nghĩa gì đó. Cô biết như thế mà. Chúng ta đã nói về chuyện đó rồi.”
“Họ có biết chắc chắn rằng Jack có mặt trong buồng lái vào lúc đó không?”
“Họ nghe tiếng cửa buồng lái mở ra rồi đóng lại. Sau đó Sullivan gọi đích danh anh ấy.”
“Điều tôi không hiểu là làm sao Jack lại có thể cất một thứ nguy hiểm như thế trong túi bay của anh ấy.”
“Thật ra thì,” Robert nói, “chuyện đó lại rất dễ.” Anh quay ra nhìn trời tuyết. “Nó vô hại. Tuyệt đối vô hại. Mọi người đều làm thế.”
“Làm gì?”
“Rất nhiều phi công quốc tế làm thế, hầu như mọi tiếp viên hàng không mà tôi biết,” Robert nói. “Thường là trang sức. Vàng và bạc, đôi khi có cả đá quý.”
Cô không chắc mình có hiểu hay không. Cô nghĩ đến số nữ trang mà cô đã nhận từ Jack trong nhiều năm qua: một chiếc lắc tay mỏng bằng vàng vào một dịp kỷ niệm, một chiếc dây chuyền chữ S trong dịp sinh nhật, hoa tai cẩn kim cương vào Lễ Giáng sinh.
“Sau khi ra vào sân bay hàng trăm lần thì cô sẽ quen các nhân viên an ninh,” Robert nói. “Họ kể chuyện về gia đình mình và vẫy tay cho cô qua. Đó là phép lịch sự. Khi tôi còn bay, cứ năm mươi lần qua hải quan tôi mới phải trình hộ chiếu một lần. Và hải quan hầu như không bao giờ khám xét túi của tôi.”
Kathryn lắc đầu. “Tôi chẳng biết gì hết,” cô nói. “Jack không bao giờ kể với tôi.”
“Một số phi công giữ kín chuyện này. Tôi nghĩ nếu đó là một món quà thì người vợ sẽ không vui nếu biết nó được tuồn lậu qua hải quan. Tôi cũng chẳng biết nữa.”
“Anh có làm thế không?” cô hỏi.
“Luôn luôn vào dịp Giáng sinh. Đó sẽ là câu hỏi khi gặp nhau ở sảnh đợi xe trung chuyển ra sân bay: Anh mua gì cho vợ?”
Cô đút tay vào túi quần jean; đứng thõng vai xuống.
“Tại sao Jack không nói gì trong đoạn băng?” Kathryn hỏi. “Nếu anh ấy không biết đó là bom, thì anh ấy hẳn đã ngạc nhiên như Trevor Sullivan rồi. Anh ấy đã nói gì đó rồi. Anh ấy sẽ hỏi, Cậu nói cái gì vậy? Anh ấy sẽ kêu trời hoặc quát lên.”
“Không hẳn.”
“Jack đã nói dối về mẹ anh ấy,” Kathryn nói.
“Thì sao?”
“Anh ấy không ngủ ở căn hộ phi hành đoàn.”
“Như thế chưa đủ.”
“Ai đó đã đem bom lên máy bay.”
“Nếu đó là bom, thì ai đó đã đặt nó ở đó. Tôi đảm bảo với cô như thế.”
“Và Jack hẳn đã biết điều đó,” cô nói. “Đó là túi bay của anh ấy mà.”
“Tôi không đảm bảo chuyện đó.”
“Viên phi công người Maroc đã tự sát,” cô nói.
“Chuyện đó hoàn toàn khác.”
“Sao ta biết nó khác hay không?”
“Cô đang đứng về phe ác,” Robert nói với cô bằng giọng gấp gáp. “Cô không thực lòng tin rằng Jack đã làm điều đó.” Robert thở dài vẻ thất vọng và quay lưng về phía cô.
“Cô muốn biết về đoạn băng, nên tôi đã kể cho cô nghe.”
***
Cô mở tờ fax mà cô nhét dưới cánh tay. Trong đó có rất nhiều cái tên, chín hoặc mười trang toàn là tên, bắt đầu bằng phi hành đoàn gần đây nhất của Jack và xa dần đến năm 1986, năm anh bắt đầu làm với hãng hàng không. Cô nhìn vào danh sách: Christopher Haverstraw, Paul Kennedy, Michael DiSantis, Richard Goldthwaite... Thỉnh thoảng, một khuôn mặt hiện lên, một người nam hoặc nữ mà cô và Jack từng ăn tối cùng, hoặc một người cô đã gặp ở một buổi tiệc, dù hầu hết những cái tên đều xa lạ với cô, và một nửa trong số đó sống ở Anh. Theo cách này, cô nghĩ, cuộc đời của một phi công hãng Vision thật kỳ lạ, một nghề nghiệp gần như xa lánh đồng loại. Những thành viên của phi hành đoàn mà Jack bay cùng có thể sống cách anh tám mươi cây số hoặc cả một đại dương.
Và rồi, trong một danh sách năm 1992, cô nhìn thấy một cái tên mà cô thậm chí còn không nhận ra là mình đang tìm, cái tên không bình thường hiện lên ngay trên trang giấy và chui thẳng vào xương cô.
Muire Boland.
Tiếp viên hàng không.
Kathryn đọc lớn tên này.
Muire Boland.
Cô khá chắn chắn đó là tên phụ nữ. Cô thắc mắc liệu đó có phải là tên tiếng Pháp và cô phát âm có đúng không. Kathryn cúi xuống trước mặt và mở ngăn kéo lớn dưới bàn của Jack ra. Phong bì thư rác có tên viết bằng bút chì ở góc không còn nằm đó, nhưng cô có thể thấy nó rõ ràng hệt như cô đang nhìn thấy cái tên được đánh máy trên danh sách mà cô đang cầm trong tay. Muire 3:30, dòng chữ viết tay rất vội đã viết như vậy. Trên một phong bì, gửi từ Ngân hàng Bay.
Biết ngay rằng nếu cô chần chừ, cô sẽ bị tê liệt trước sự thiếu quyết đoán, Kathryn lấy tấm vé số ra khỏi túi quần rồi đặt nó lên bàn làm việc của Jack. Cô nhấc điện thoại lên và một lần nữa bấm con số viết trên đó. Một người trả lời, chính là giọng nói khi nãy.
“Xin chào,” Kathryn nói nhanh. “Muire có ở đó không?”
“Ai?”
Kathryn nhắc lại cái tên.
“Ô, chị muốn nói là Muire à,” giọng nói ở đầu dây bên kia đáp, và Kathryn nghe thấy phát âm chính xác của tên này: Meur-ah, hơi uốn lưỡi ở chữ R. “Không,” người phụ nữ đáp.
“Ồ, xin lỗi,” Kathryn nói, cảm thấy một sự nhẹ nhõm tột độ. Lúc này cô chỉ muốn gác ống nghe xuống.
“Muire từng ở đây,” giọng tiếng Anh nói, “nhưng cô ấy đã dọn về chỗ cũ rồi. Cô là bạn của cô ấy à?”
Kathryn không thể trả lời. Cô ngồi phịch xuống ghế.
“Cô là ai?” người phụ nữ ở London hỏi.
Kathryn mở miệng ra nhưng không thể nói tên mình. Cô ấn ống nghe lên ngực.
M ở A, dòng chữ viết trên tờ vé số trước mặt cô. Muire 3:30, dòng chữ viết trên phong bì thư rác. Hai ghi chú, bằng chữ viết tay của Jack, viết cách nhau bốn năm và có liên hệ với một số điện thoại.
Robert cầm lấy ống nghe từ tay cô rồi gác lên giá điện thoại.
“Tại sao cô lại hỏi tên Muire?” Robert hỏi nhanh. “Trông cô trắng bệch ra rồi.”
“Tôi chỉ đoán thôi,” cô đáp.
Người phụ nữ tên Muire là ai? Và Jack có mối liên hệ gì với cô ta? Có phải anh đã trải qua đêm cuối với người phụ nữ này không? Có phải Jack đã ngoại tình bấy lâu nay? Các câu hỏi đè lên ngực cô, chực làm cô ngạt thở. Cô nghĩ đến những câu nói đùa người ta hay nói về phi công và tiếp viên hàng không. Trước đây cô luôn phớt lờ những lời đùa đó, như thể ngoài đời thật, phi công sẽ không làm vậy.
“Robert, anh có thể tìm thêm thông tin gì khác về một cái tên cụ thể không?” cô hỏi. “Chẳng hạn như người đó sống ở đâu?”
“Nếu cô chắc chắn đó là điều cô muốn,” anh đáp.
“Chuyện này thật kinh khủng.”
“Vậy thì đừng bận tâm đến nó.”
Cô nghĩ đến khả năng không bận tâm đến nó.
“Anh có thể làm thế không?” cô hỏi.
***
“Con bé muốn xem tivi,” bà Julia nói. “Bà phải nghĩ ra cái gì khác. Trước đây có người tặng bà phim Nhân chứng vào dịp Giáng sinh.”
Robert đã rời khỏi phòng làm việc của Jack. Kathryn nghĩ có thể anh đang rửa bát.
“Chính là Jack đấy.”
“Ừ, con bé có vẻ thích lắm. Nó dậy lúc hai giờ. Nó ăn rồi.”
“Bà đừng cho cháu nó xem tivi nhé,” Kathryn dặn dò. “Cháu nói nghiêm túc đấy. Nếu cần thì bà cắt dây cáp cũng được.”
Kathryn xoay vòng trong chiếc ghế văn phòng và nhìn ra lớp tuyết đang đọng ngày một dày ngoài bậu cửa sổ. Trông nó như nước trong bể cá. Muire từng ở đây, đầu dây bên kia đã nói thế.
“Cậu Robert đang ở đấy với cháu à?” Julia hỏi.
“Vâng.”
“Cậu ấy đã đến đây, cháu biết chứ?”
“Cháu biết ạ.”
“Vậy cháu đã biết về...”
“Căn hộ phi hành đoàn ạ? Vâng.” Kathryn gác một chân lên, quàng một cánh tay quanh gối. Hai ghi chú, cách nhau bốn năm, liên hệ với nhau bằng một ký tự viết tắt. Kathryn cảm thấy một cơn bồn chồn lo lắng xâm chiếm, nó lập tức khiến mồ hôi tuôn lấm tấm trên trán cô.
“Cháu đừng đánh mất niềm tin,” bà Julia nói.
“Chính xác thì đó là niềm tin gì ạ?”
“Cháu hiểu ý bà mà.”
“Cháu đang cố để không hiểu đây.”
“Họ mới điều chỉnh dự báo thời tiết đấy,” bà Julia nói. “Âm mười hai lên âm mười một độ.”
“Bây giờ cháu nên về nhà bà,” Kathryn dùng tay áo lau trán.
“Cháu đừng ngốc nghếch thế. Nếu không có việc thì cháu không cần đi ra ngoài. Cháu ăn gì chưa?”
Đúng là bà Julia, luôn lo lắng chuyện ăn uống.
“Cháu ăn rồi ạ. Cháu nói chuyện với Mattie được không?”
Đầu dây bên kia im lặng.
“Cháu biết không,” Julia thận trọng nói, “Mattie đang bận. Nó vẫn ổn. Nếu cháu nói chuyện với nó, nó sẽ lại buồn rầu và xa cách. Nó cần nghỉ ngơi vài ngày, chỉ xem phim, ăn bỏng ngô thôi. Giống như thuốc phiện ấy, và con bé cần nó càng lâu càng tốt. Nó cần được chữa lành, Kathryn à.”
“Nhưng cháu muốn được ở cạnh nó,” Kathryn phản kháng.
“Kathryn à, cháu đã ở cạnh nó từng phút từng giây suốt mười ngày rồi. Cháu cũng hiểu là chỉ với sự có mặt của cháu thôi, hai mẹ con cháu đã xé toạc trái tim nhau rồi. Cháu không chịu đựng nổi nỗi buồn của nó, còn nó thì không chịu nổi khi nghĩ đến việc cháu đang đau khổ nhường nào. Bình thường cháu không dành thời gian ở bên nó như thế.”
“Việc này không phải là bình thường.”
“Thế thì lúc này chúng ta có thể dùng đến một chút bình thường vậy,” bà Julia nói.
Kathryn đi đến cửa sổ và lau lớp hơi nước phủ trên kính. Tuyết rơi dày đặc, con đường mòn vào nhà chưa được cào tuyết. Lớp tuyết đóng trên xe cộ dày phải đến hai tấc.
Cô thở dài. Thật khó để phản đối sự thông thái của bà Julia, nhất là khi hóa ra bà thường là người nói đúng.
“Đừng rời khỏi nhà,” bà Julia lặp lại.
***
Tuyết rơi đều suốt buổi chiều, mỗi lúc một dày đặc. Thỉnh thoảng, gió gào từng cơn nhưng sau đó dường như lại lập tức lắng dịu, như thể cơn bão đang từ bỏ nỗ lực trở thành một trận bão tuyết. Trong lúc Robert gọi điện thoại từ phòng của Jack, Kathryn đi thơ thẩn từ phòng này sang phòng khác, nhìn lên tường và ngoài cửa sổ, khoanh tay trước ngực, thả tay ra, rồi lững thững đi vào một căn phòng khác, đứng trong đó và tiếp tục nhìn lên tường hoặc ngoài cửa sổ. Dạo này, chỉ đứng yên và nghĩ ngợi đôi khi là tất cả những gì cô có thể làm.
Một lúc sau, cô thấy mình ở trong nhà tắm. Cô cởi bỏ áo quần rồi mở vòi hoa sen, để nước ấm lên từ từ đến mức nóng hổi. Khi bước vào, cô cúi cổ xuống dưới làn nước và đứng như thế một lúc lâu. Cảm giác thật dễ chịu khi đứng ở đấy đến khi
bình nước nóng cạn hết và nước chuyển sang lạnh.
Khi tắt nước, cô nghe tiếng nhạc. Không phải nhạc từ đĩa, dù đó là tiếng piano.
Cô chỉnh lại cổ áo chiếc áo choàng tắm dài màu xám, loại áo bằng vải cotton dài đến mắt cá chân. Một người phụ nữ già nua nhìn cô trong gương, một khuôn mặt mệt mỏi với hai hố mắt trũng sâu.
Vừa đi vừa vuốt tóc, cô theo tiếng nhạc xuống cầu thang, vào phòng khách, ở đó Robert đang chơi piano.
Cô biết bản nhạc này: Chopin. Cô nằm xuống sofa, kéo áo choàng che lại đùi và chân.
Cô nhắm mắt lại. Fantasie Impromptu là một bản nhạc phù hoa, đẹp đẽ đầy kiêu hãnh, với cơ man nốt nhạc. Cô hiếm khi nghe bản nhạc này được chơi theo cách của Robert, không cảm xúc, song lại chứa đựng sức nặng khôn nguôi của những ký ức bị khuấy động và bí mật bị lãng quên. Khi nghe đến những cú vuốt, cô hình dung đến những mảnh kim cương vỡ.
Cây đàn piano nằm ở góc phòng, cạnh cửa sổ. Robert đã xăn tay áo lên, cô nhìn bàn tay anh trước, sau đó đến cánh tay. Sự khẽ khàng của tuyết càng làm tiếng nhạc mộc trong phòng trở nên ấn tượng, hoặc có lẽ vì không có sự cạnh tranh từ bất kỳ âm thanh nào khác; tiếng piano nghe hay hơn so với cô nhớ, dù nhiều tháng rồi chưa được căn dây lại.
Cuộc sống nhiều năm trước hẳn giống như thế này, Kathryn nghĩ ngợi trong lúc lắng nghe Robert chơi đàn. Không tivi, không đài phát thanh, không phim ảnh, chỉ có không gian của một buổi chiều dài trắng xóa để tạo ra thời gian của riêng mình, âm thanh của riêng mình. Và thế này thật an toàn. Cô có thể thả tâm trí đi hoang, không nghĩ gì về vụ tai nạn hoặc Jack hoặc Mattie. Cây đàn piano không phải là món mà cô và Jack cùng sử dụng. Trước giờ nó chỉ thuộc về một mình cô, một sự theo đuổi lẻ loi, dù có một mối liên hệ đến bà Julia, mà bà thì cũng an toàn.
“Tôi không ngờ đấy,” cô nói khi anh đàn xong.
“Cũng lâu rồi,” anh đáp, quay sang cô.
“Anh đúng là lãng tử,” cô mỉm cười nói. “Một lãng tử khéo ẩn mình. Anh chơi hay tuyệt.”
“Cám ơn cô.”
“Chơi bản nào khác không?”
Khi đó cô nhận ra, theo cách mà trước đây cô không hề nhận thấy, rằng Robert là người có quá khứ - đương nhiên anh ta có quá khứ. Anh ta có cả một cuộc đời mà cô gần như chẳng biết gì, một cuộc đời trong đó anh chơi piano điệu nghệ, học lái máy bay, trở thành một anh chàng nghiện ngập, cưới vợ, sinh con đẻ cái, li dị vợ, rồi bằng cách nào đó lại dính đến công việc đặc biệt này.
Cô nhận ra giai điệu: “The shadow of your smile”. Thay đổi tâm trạng trong tích tắc.
Khi chơi xong, anh gãi gãi sau gáy rồi nhìn ra tuyết bên ngoài. “Bên ngoài tuyết dày phải ba tấc rồi đấy,” anh nói.
“Đường mòn vào nhà chưa được cào tuyết,” cô đáp. “Mấy giờ rồi nhỉ?”
Anh nhìn đồng hồ. “Ba giờ,” anh đáp. “Chắc tôi đi dạo một chút đây.”
“Trong thời tiết này ư?”
“Chỉ đi đến cuối đường mòn rồi quay lại thôi. Tôi cần chút không khí.”
“Tôi hi vọng anh biết rằng tối nay anh không phải ra khách sạn. Có rất nhiều giường trong căn nhà này. Rất nhiều phòng. Anh có thể ngủ trong phòng nghỉ dành cho khách,” cô nói thêm. “Ở đấy thoải mái lắm. Mục đích của nó là vậy mà.”
“Để ẩn nấp, như cô đã nói.”
“Phải.”
“Thông tin mà cô hỏi tôi được đặt trên bàn của Jack,” anh nói.
Cô mở miệng định nói, nhưng anh lắc đầu.
“Chuyện xảy ra với cô thật là họa vô đơn chí,” anh nói.
***
Kathryn chợp mắt vài phút trên sofa rồi lảo đảo bò lên phòng ngủ với ý nghĩ chui vào giường và ngủ một giấc thật dài. Cô đem theo quyển sách thơ.
Cô nằm sấp trên giường và bắt đầu lật từng trang, hờ hững tìm các câu thơ. Cô đọc những đoạn thơ ngắn của Gerard Manley Hopkins, Wordsworth, và Keats. Đến khoảng giữa cuốn sách, từ phản bội đột nhiên đập vào mắt cô, và cô nhận ra mình đã tìm được đúng bài thơ đó. Nhưng rồi gần như ngay lập tức, trước khi cô kịp đọc các câu thơ trong bài, cô thấy một ghi chú mờ dọc mép trong của trang giấy.
M!
Viết bằng bút chì, nét mảnh, với một dấu chấm than.
Và nằm ở đó. Không thể nhầm lẫn được.
Cô ngồi bật dậy và đọc kỹ bài thơ. Bài thơ có tựa đề “Antrim” của tác giả Robinson Jeffers. Có vẻ như nó nói về những cuộc chiến thời cổ đại để giành một mảnh đất, có vẻ mảnh đất tên là Antrim. Về máu đổ vì nhiều mục đích, hàng loạt những cuộc tập kích và phản bội, chủ nghĩa yêu nước và những thân người hy sinh, tất cả giờ hóa thành tro bụi, tro bụi chờ ngày phục sinh.
Nó có nghĩa là gì?
Cô để quyển sách rơi từ cạnh giường xuống đất. Cô nằm xuống và úp mặt vào gối. Cô cảm thấy như vừa vượt qua hàng nghìn dặm.
***
Khi tỉnh dậy, theo bản năng, cô đưa mắt nhìn đồng hồ trên tủ đầu giường. Lúc đó là ba giờ rưỡi sáng. Cô đã ngủ chín giờ. Hôm đó là ngày mấy nhỉ? Hai mươi tám? Hay hai mươi chín?
Cô vặn người ngồi dậy và lờ đờ đi ra hành lang. Cửa phòng nghỉ của khách đang đóng. Robert hẳn đã quay lại sau khi đi dạo và vào ngủ trong đấy, cô tự nhủ. Hay là anh ấy đã ăn tối? Xem tivi? Đọc sách?
Trong nhà bếp, không có dấu hiệu nào cho thấy có người đã nấu ăn. Kathryn pha một ấm cà phê và rót một tách. Qua cửa sổ trên bồn rửa, cô thấy tuyết đã ngừng rơi. Cô đi ra cửa sau, mở cửa ra và lập tức bị một làn bột mịn lạnh buốt rơi ập từ mái hiên xuống. Cô chớp mắt và lắc đầu. Điều chỉnh để quen với bóng tối, cô nhìn thấy bốn bề đã được bao phủ dưới một tấm chăn dày trắng toát, một tấm chăn chần vải bông xù có đường may cạn, cây cối, bụi rậm và xe cộ chỉ là những ụ nhô lên. Kỳ thực, tuyết nhiều đến nỗi cô tự hỏi phải chăng lời dự báo tuyết dày ba tấc không phải là quá lạc quan. Cô đóng cửa lại rồi tựa lưng vào đó.
M ở A.
Muire 3:30
M!
Siết chặt áo choàng lại, Kathryn nhanh chóng đi lên cầu thang đến phòng của Jack. Cô vẫn chưa thôi bất ngờ trước sự trống trải đầy bụi bặm của nó. Cô nhìn thấy tờ giấy mà Robert nhắc đến trên bàn của Jack.
Trên giấy viết rằng Muire Boland đã rời hãng hàng không vào tháng giêng năm 1993. Được đào tạo với Vision ở London, cô ta làm tiếp viên hàng không của hãng được ba năm. Có một địa chỉ, một số điện thoại, và một ngày sinh. Muire Boland năm nay ba mươi mốt tuổi.
Robert đã viết ghi chú cạnh số điện thoại. Thử cái này xem. Khi tôi gọi, không ai biết cô ta. Dưới thông tin này là một danh sách các số điện thoại. Có bảy M. Boland trong danh bạ điện thoại London.
Kathryn cố gắng định hình một câu hỏi, một yêu cầu hợp lý. Người nghe điện thoại có biết đến Jack Lyons không? Nếu có, liệu Kathryn có thể hỏi một, hai câu không? Hỏi như vậy có bất bình thường quá không?
Kathryn nhìn quanh quất trong phòng, sự đơn điệu kim loại của nó, chất đàn ông của nó. Cô sẽ không cho phép mình tin rằng Jack đã ngoại tình. Làm sao cô có thể làm thế, khi chính cô đã chứng kiến điều xảy ra khi người ta thêu dệt nên cả một câu chuyện đầy kịch tính chỉ từ một vài sự thật, như đã xảy ra với báo chí khi đoạn băng CVR bị tiết lộ?
Cô nhấc điện thoại lên và gọi đến số đầu tiên. Một người đàn ông trả lời, và giọng ông ta nghe như mới bị cô đánh thức. Cô tính nhanh thời gian ở London - chín giờ bốn mươi sáng. Cô hỏi Muire có ở đó không.
“Cô muốn kiếm ai?” ông ta vặn lại, như chưa nghe rõ câu hỏi lắm.
“Muire Boland,” cô đáp.
“Ở đây không có ai là Muire Boland cả,” ông ta tự tin đáp.
“Xin lỗi,” Kathryn nói rồi gác máy.
Cô gạch bỏ số đầu tiên rồi gọi số thứ hai. Không ai trả lời. Cô thử số thứ ba. Một người đàn ông trả lời bằng giọng ngắn gọn, nghiêm nghị.
“Michael Boland nghe đây,” ông ta nói, như đang chờ đợi một cuộc điện thoại tìm mình.
“Xin lỗi, nhầm số.”
Cô gạch bỏ số thứ ba. Cô gọi tiếp số thứ tư. Một phụ nữ trả lời. “Xin chào?”
“Xin chào. Tôi muốn gặp Muire Boland.”
Sự im lặng ở đầu dây bên kia tuyệt đối đến nỗi Kathryn có thể nghe thấy tiếng vọng mơ hồ từ một cuộc nói chuyện xuyên đại dương của ai đó.
“Xin chào?” Kathryn hỏi lại lần nữa.
Người phụ nữ gác máy. Kathryn ngồi áp ống nghe chết lặng vào tai. Cô cầm bút chì lên và gạch bỏ số thứ tư, nhưng rồi cô do dự.
Cô gọi số thứ năm. Rồi số thứ sáu. Rồi số thứ bảy. Khi gọi xong, cô nhìn lại danh sách. Trên đó, có một người đàn ông không biết Muire là ai; một số không có người trả lời; một Michael Boland, doanh nhân; một người phụ nữ không tiếp chuyện; một số khác không trả lời; một lời nhắn trên máy ghi âm bằng phát âm khó nghe nói rằng Kate và Murray hy vọng cô để lại lời nhắn; một cô bé không biết Muire là ai nhưng nói mẹ của mình tên là Mary.
Cô thử gọi lại số thứ tư.
“Xin chào?” người phụ nữ khi nãy nói.
“Tôi xin lỗi đã làm phiền chị,” Kathryn nói nhanh, trước khi người phụ nữ gác máy. “Nhưng tôi đang muốn tìm người tên Muire Boland.”
Kỳ quặc, lại là sự im lặng như lần trước. Có gì đó ở phía sau. Tiếng nhạc? Máy rửa bát? Rồi Kathryn nghe thấy một âm thanh nhỏ từ cổ họng của người phụ nữ, như mở đầu của một từ định nói. Tiếp theo là một sự im lặng khác, lần này ngắn hơn.
“Ở đây không có ai là Muire hết,” cuối cùng người phụ nữ lên tiếng.
Kathryn nghĩ giữa suy nghĩ và lời nói của cô hẳn có một sự lỗi nhịp, vì khi cô mở miệng định nói, thì đường dây đã bị cắt đứt.
***
Khi Robert tìm thấy cô vào buổi sáng, cô đang ngồi tại chiếc bàn trong phòng khách. Mặt trời đã lên, tuyết bên ngoài chói chang đến độ Robert phải nheo mắt để nhìn cô. Trong ánh nắng sáng lòa, cô có thể nhìn thấy từng nếp nhăn và lỗ chân lông trên mặt anh.
“Trong này chói quá,” anh nói, quay đầu đi.
“Đôi khi anh cần đeo kính mát vào phòng này đấy,” cô đáp. “Jack thường làm thế.”
Cô nhìn Robert nhét áo sơ mi vào quần.
“Cô ngủ ngon không?”
“Cũng được. Còn anh?”
“Ngon lắm.”
Cô thấy anh đã mặc nguyên quần áo cũ để đi ngủ. Hẳn anh đã quá mệt đến nỗi không buồn cởi quần áo, cô nghĩ.
Khi đã quen với ánh sáng, Robert dường như đã nhìn thấy mặt cô rõ hơn.
“Có chuyện gì vậy?” anh hỏi.
Kathryn ngồi hơi chồm về trước.
“Tôi sẽ đến London,” cô đáp.
Anh không do dự. Anh không hề do dự.
“Tôi sẽ đi với cô.”
“Sắp có tuyết rồi,” Robert nói, dùng một ống nước xịt bên trong bồn rửa bát.
Cô mở tủ dưới bồn rửa, cất lại những chai nước cọ rửa nhà tắm, hiệu Pine Sol và Comet. Cô rửa tay dưới vòi nước rồi lau khô bằng khăn lau bát.
“Tôi đói rồi,” cô nói, cảm thấy sự hài lòng nhẹ nhàng mỗi khi nhà cửa sạch sẽ. Giống như vừa ngâm mình trong bồn tắm.
“Tốt,” anh quay người lại nói. “Trong xe có tôm hùm đấy.”
Cô nhướn mày.
“Mua ở Ingerbretson,” anh giải thích. “Tôi mua trên đường đến đây. Không cưỡng lại được.”
“Tôi không thích tôm hùm lắm,” cô nói.
“Tôi thấy đồ kẹp trong ngăn đồ bạc.”
“Anh cũng thích ngó nghiêng nhỉ.”
“Thỉnh thoảng thôi.”
Nhưng khi đứng đó, cô chợt có cảm giác rằng Robert Hart lúc nào cũng ngó nghiêng. Lúc nào cũng quan sát.
***
Robert nấu hôm hùm trong khi Kathryn dọn bàn ngoài phòng khách. Một cơn mưa tuyết trút xuống, những mảng bông tuyết lặng lẽ rơi lên kính cửa sổ. Kathryn mở tủ lạnh, lấy ra hai chai bia. Cô khui một chai, chuẩn bị khui chai thứ hai thì chợt nhớ ra Robert không uống bia. Cô lén cất hai chai bia vào tủ lạnh không để Robert nhận ra.
“Làm ơn đi mà,” Robert nói khi đang đứng cạnh bếp. “Cứ uống bia đi. Tôi không thấy phiền đâu. Thật ra nếu cô không uống thì tôi mới thấy khó chịu đấy.”
Kathryn nhìn đồng hồ: mười hai giờ hai mươi. Thời gian thấm thoắt trôi. Một lần nữa, vỏ bọc thời gian lại mở ra. Hôm đó là thứ sáu. Bình thường giờ này cô đang ở trường, tiết năm. Bình thường cô sẽ không uống bia. Dù đó là kỳ nghỉ Giáng sinh, cô nghĩ; theo lý thuyết, phải đến ngày mồng hai tháng giêng cô mới đi dạy lại. Cô chưa nghĩ đến chuyện sẽ xoay sở thế nào trong lớp học. Một hình ảnh tốp học sinh chạy nhảy trên hành lang hiện lên, nhưng cô gạt bỏ nó ngay.
Lúc mười hai giờ kém năm phút, Robert đã tắt tất cả tiếng chuông điện thoại. Không có gì khẩn cấp đến nỗi không chờ được một, hai giờ, anh bảo thế, và cô đồng tình.
Trên tinh thần đó, cô trải lên chiếc bàn gần cửa sổ trong phòng khách chiếc khăn in hoa đỏ, màu sắc tươi tắn của khăn trải bàn đối nghịch với sắc trời ảm đạm bên ngoài. Robert mở nhạc lên: B.B.King. Kathryn ước gì trong nhà có hoa tươi. Nhưng chính xác thì cô đang ăn mừng chuyện gì? cô tự hỏi, cảm thấy hơi tội lỗi. Vì đã sống sót trong mười một ngày qua? Vì đã dọn dẹp nhà cửa? Cô xếp dao nĩa, bát đựng vỏ tôm, bánh mì, bơ đã làm tan, và một cuộn khăn giấy dày lên bàn. Robert bước từ nhà bếp vào phòng khách, bê một đĩa tôm hùm ướt và trơn. Mặt trước áo anh lấm tấm nước.
“Tôi đói rụng rời rồi,” anh nói, đặt đĩa tôm xuống và ngồi đối diện cô.
Cô nhìn những con tôm hùm trước mặt. Và vào đúng lúc đó, sự chấn động ký ức mạnh mẽ, quyết liệt lại tấn công cô. Cô nhìn nhanh ra ngoài cửa sổ. Cô đưa một tay lên miệng.
“Chuyện gì vậy?” Robert hỏi.
Cô vội lắc đầu nguầy nguậy. Cô ngồi yên, giữ chặt trong một hình ảnh, không dám cử động về trước hay sau vì sợ những vết nứt. Cô hít sâu vào, rồi thở ra, đặt hai cánh tay lên bàn.
“Tôi chỉ mới nhớ lại một kỷ niệm,” cô đáp.
“Kỷ niệm gì?”
“Jack và tôi.”
“Ở đây à?”
Cô gật đầu.
“Ngồi ăn như thế này?”
Giống thế này, cô muốn nói như thế, nhưng không phải thế này. Lúc đó là đầu hè, rèm được cuốn lên. Mattie đang ở nhà bạn, và lúc đó là buổi chiều, gần bốn hoặc năm giờ. Ánh nắng rất đặc biệt, cô còn nhớ, lung linh xanh như thủy tinh biển. Họ uống champagne. Họ ăn mừng chuyện gì nhỉ? Cô không tài nào nhớ nổi. Có thể chẳng vì chuyện gì cả, có thể là để chúc tụng chính họ. Cô đã muốn làm tình, cô còn nhớ, và anh cũng thế, nhưng không ai muốn hi sinh một con tôm hùm mới luộc nóng hổi, thế là họ chờ đợi với một sự căng thẳng ngọt ngào giữa hai người. Cô đã mút càng tôm một cách cường điệu, Jack đã cười bảo cô đang khiêu khích, và cô cảm thấy thích thú vì điều đó. Khiêu khích. Cô hiếm khi nào làm thế.
“Tôi rất tiếc,” Robert nói. “Tôi nên biết mới phải. Tôi sẽ đem thức ăn vào nhà bếp.”
“Không,” cô nói nhanh, chặn tay anh lại khi anh với lấy đĩa của cô. “Không, làm sao anh biết được. Vả lại, cuộc sống tôi đầy ắp những kỷ niệm như vậy. Hàng trăm kỷ niệm nhỏ khiến tôi không kịp trở tay. Chúng giống như bom mìn chôn dưới đồng vậy, chỉ chờ đến lúc phát nổ. Thật lòng mà nói, tôi muốn cắt bỏ thùy não quách cho rồi.”
Robert rút bàn tay dưới tay cô ra rồi đặt nó lên các ngón tay cô. Anh nắm tay cô theo kiểu một người đàn ông nắm tay bạn của mình, chờ đợi một cơn khủng hoảng nhỏ bùng nổ. Bàn tay anh rất ấm, vì tay của Kathryn chợt lạnh buốt. Những kỷ niệm đã khiến cô trở nên thế này; chúng đã rút hết máu khỏi tay chân cô. Cũng giống như nỗi sợ.
“Anh tốt với tôi quá,” cô nói.
Thời gian trôi qua. Bao lâu? Cô không còn tính được từng giây, từng phút. Cô nhắm mắt lại. Bia khiến cô hơi buồn ngủ. Cô muốn lật bàn tay lại, muốn anh chạm vào lòng bàn tay cô. Vuốt bàn tay anh dọc lòng bàn tay lên đến cổ tay cô. Cô tưởng tượng có thể cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay anh di chuyển dọc mặt trong cánh tay mình, vỗ lên cùi chỏ.
Các ngón tay cô trở nên buông lỏng, và cô cảm thấy sự căng thẳng trút khỏi người mình. Sự buông lỏng đó, đầu hàng đó thật hư hỏng, nhưng không. Mắt cô dường như không còn nhìn thấy rõ nữa, cô không còn nhìn thấy Robert hay cái gì khác nữa, chỉ còn cảm giác ánh sáng từ cửa sổ. Ánh sáng đó, phân tán và mờ ảo, tạo ra một cảm giác dễ chịu uể oải. Và cô nghĩ rằng cô phải cảm thấy khó chịu vì đã nghĩ đến Robert và cô theo cách đó, nhưng một cảm giác khoan dung dường như đã trỗi lên như một làn khói mờ, cô cảm thấy mơ hồ và lãng đãng. Đến nỗi khi Robert, trong nỗ lực kéo cô về với thực tại, siết chặt bàn tay cô, cô cảm thấy như bị ném về khoảnh khắc hiện thực.
“Anh giống như một linh mục vậy,” cô nói.
Anh bật cười. “Không có đâu.”
“Tôi nghĩ vì vậy mà tôi tìm đến anh.”
“Cha Robert,” Robert nói, mỉm cười.
Và rồi cô nghĩ: Có ai biết được bàn tay của người đàn ông này vuốt lên mặt trong cánh tay cô đâu? Có ai quan tâm đâu? Chẳng phải mọi luật lệ đều đã bị phá vỡ rồi sao? Chẳng phải Mattie đã nói như thế sao?
Sự im lặng của trận tuyết rơi bao trùm lấy họ. Cô có thể nhận thấy anh đang cố gắng hiểu một cách chính xác cô đang nghĩ gì và tại sao, nhưng cô không thể giúp anh, vì bản thân cô còn không biết. Phòng khách lúc nào cũng quá lạnh vào mùa đông, cô nghĩ, và đã cô rùng mình dù nghe được tiếng hơi nước róc rách trong máy sưởi. Bên ngoài, trời đã âm u đến nỗi có thể nhầm tưởng là hoàng hôn.
Anh rút tay lại, để bàn tay cô trơ trọi trên bàn. Cô cảm thấy bị phơi bày.
Cô uống chai bia thứ hai. Họ ăn hết bánh mì và tôm hùm. Giữa lúc ăn, Robert đứng dậy và thay đĩa nhạc. B.B.King chuyển sang Brahms.
“Cô có mấy đĩa nhạc hay quá,” anh nói khi quay lại.
“Anh thích nghe nhạc lắm à?”
“Vâng.”
“Thể loại gì?”
“Đặc biệt là piano. Nhạc này của Jack hay của cô?” anh hỏi, ngồi xuống.
Cô cúi đầu, không chắc chắn có hiểu câu hỏi đó hay không.
“Thông thường các đĩa nhạc và dàn âm thanh là đam mê của một trong hai vợ chồng, không thể của cả hai,” anh giải thích. “Đó là theo kinh nghiệm của tôi.”
Cô nghĩ ngợi về điều này.
“Của tôi,” cô đáp. “Jack không phân biệt được các nốt nhạc. Nhưng anh ấy thích rock and roll. Và một vài đĩa nhạc của Mattie - vì tiết tấu, tôi nghĩ vậy. Còn anh thì sao?”
“Cũng của tôi,” anh đáp. “Dù vợ cũ của tôi giữ lại dàn âm thanh và phần lớn đĩa nhạc. Một trong hai đứa con của tôi thừa hưởng tai nghe nhạc từ bố. Nó chơi saxophone trong trường. Đứa kia thì hình như chẳng quan tâm gì.”
“Mattie chơi kèn clarinet đấy. Tôi đã cố gắng hướng nó chơi piano,” Kathryn kể, “nhưng điều đó giống như cực hình.”
Kathryn nghĩ về tất cả những thời gian cô ở cạnh Mattie bên cây đàn piano, Mattie rõ ràng không muốn ngồi đấy, cường điệu hóa sự miễn cưỡng vô lý của nó bằng cách gãi lưng liên tục khi không thể đàn đúng, hoặc chỉnh lại ghế ngồi, hoặc mất rất nhiều thời gian một cách quá đáng để đàn đúng. Buộc Mattie chơi một bản nhạc một lần đã khó, huống chi đến việc bảo nó tập bài đó vài lần. Thông thường, Kathryn phải bỏ ra khỏi phòng với cảm giác tức giận gần như không che đậy, và mỗi lần như vậy Mattie lại khóc rấm rứt. Khi năm đầu tiên sắp trôi qua, Kathryn nhận ra nếu cô cứ ép buộc Mattie học đàn, thì tình mẹ con của họ sẽ tan nát.
Bây giờ, tất nhiên, Mattie hầu như không bao giờ sống thiếu âm nhạc - trong phòng nó, trong xe, và gắn tai nghe suốt ngày như thể người ta truyền oxy qua tai nghe vậy.
“Anh có chơi nhạc cụ không?” Kathryn hỏi.
“Từng chơi.”
Cô quan sát anh và điểm thêm một nét nhỏ vào bức chân dung đã hình thành từ ngày anh bước chân vào nhà. Đó là việc người ta hay làm với người khác, Kathryn tự nhủ, vẽ chân dung, chấm phá thêm những nét còn thiếu, chờ đợi ảnh và màu hiển hiện.
Anh nhúng một phần đuôi tôm vào bơ rồi cho vào miệng.
“Đêm trước khi Jack đi làm,” Kathryn nói, “anh ấy vào phòng của Mattie và hỏi con bé có muốn đi xem đội Celtics thi đấu vào tối thứ sáu không. Một người bạn tặng anh ấy vé ngồi ở vị trí rất tốt. Điều tôi muốn biết là: Liệu một người đàn ông có rủ con gái mình đi xem đội Celtics chơi hay không nếu anh ta dự định tự sát trước khi quay trở lại?”
Robert lau cằm rồi nghĩ ngợi một lúc.
“Liệu một người đàn ông có ghế ngồi rất tốt ở một trận Celtics có tự sát trước khi kịp xem trận đấu không?”
Cô mở to mắt.
“Tôi xin lỗi,” anh ta vội nói. “Không. Nó không hợp lý, tôi không thể lý giải nổi.”
“Và Jack bảo tôi gọi cho Alfred,” Kathryn nói tiếp. “Anh ấy bảo tôi hẹn Alfred thứ sáu đến sửa lại vòi hoa sen bị rỉ nước. Nếu Jack không có ý định quay về, thì anh ấy sẽ chẳng làm thế. Không nói kiểu như thế, gần giống như anh ấy chợt nhớ ra trong lúc đi ra xe. Và anh ấy hẳn đã cư xử khác với tôi. Anh ấy hẳn đã chào tạm biệt theo cách khác. Tôi biết như vậy. Hẳn phải có một chi tiết nhỏ mà lúc đó tôi không nhận ra, nhưng sau đó phải nhớ ra. Một điều gì đó.”
Robert với tay lấy ly nước rồi nhích ra xa chiếc bàn.
“Anh có nhớ,” cô hỏi tiếp, “khi Ban An toàn thẩm vấn tôi, họ hỏi Jack có bạn bè thân thiết ở Anh không?”
“Vâng.”
Cô nhìn vào chiếc bát đựng vỏ tôm.
“Tôi vừa nghĩ ra một ý,” cô nói. “Tôi sẽ quay lại ngay.”
Khi đi lên cầu thang, cô cố gắng nhớ lại xem mình đã giặt mẻ đồ đó chưa. Cô đã mặc chiếc quần jean đó hai ngày rồi ném nó vào giỏ quần áo. Nhưng không phải giỏ của cô, cô nhớ như vậy, mà là giỏ của Mattie. Và Kathryn chưa giặt quần áo của Mattie lần nào vì Mattie không có ở đó. Tất cả quần áo Mattie cần mặc đều được giặt ở nhà bà Julia.
Cô tìm thấy chiếc quần jean bên dưới một đống đồ bẩn, bị chôn vùi dưới mớ quần áo mà Robert và cô ném vào giỏ vài giờ trước. Cô lấy ra xấp giấy tờ và hóa đơn, chúng bị ẩm một chút vì chiếc khăn tắm lâu ngày chưa giặt.
Khi cô quay về phòng khách, Robert đang trầm tư ngắm tuyết rơi. Anh quan sát khi cô đẩy đĩa thức ăn ra xa và mở xấp giấy tờ ra.
“Nhìn này,” cô nói, đưa tấm vé số cho Robert. “Tôi tìm thấy mớ giấy tờ này nhét trong túi quần jean của Jack móc trên cửa nhà tắm vào ngày anh ấy mất. Lúc đó tôi chẳng nghĩ ngợi nhiều mà chỉ nhét chúng vào túi quần jean của mình. Nhưng anh có thấy dòng ghi chú đó không, M ở A, và mấy con số theo sau? Anh nghĩ đó là gì?”
Robert nghiên cứu những con số, và cô có thể thấy từ cái chớp mắt của anh rằng anh hiểu điều cô đang nghĩ.
“Một số điện thoại ở Anh, cô nghĩ vậy à,” anh ta nói.
“Đó là mã số của London, phải không? Số một tám một đấy?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Đó có phải là số điện thoại không nhỉ?”
“Tôi không biết nữa.”
“Để tôi xem nào,” cô nói và chìa tay ra. Robert đưa cô tờ vé số với vẻ miễn cưỡng.
“Tôi tò mò thôi,” cô biện hộ. “Nếu nó là số điện thoại thì tại sao lại viết trên tấm vé này? Mà cái này cũng mới đây thôi. Chắc anh ấy mua tờ vé số này một ngày trước khi đi.” Cô nhìn ngày tháng trên tấm vé. “Đúng rồi. Mười bốn tháng mười hai.”
Đây là việc hoàn toàn hợp lý, cô nghĩ trong lúc bước đến chỗ điện thoại cạnh sofa. Cô nhấc ống nghe lên rồi bấm số. Gần như ngay tức khắc, cô có thể nghe thấy tiếng chuông vang từ xa, âm thanh luôn khiến cô liên tưởng đến những chiếc điện thoại Paris cổ có giá đỡ màu đen thanh mảnh.
Một giọng nói cất lên ở đầu dây bên kia, và Kathryn, bất ngờ trước giọng nói ấy, chưa chuẩn bị tinh thần đón nhận nó, liếc nhanh lên Robert. Cô chưa nghĩ đến điều mình muốn nói. Một phụ nữ nhắc lại câu xin chào, lần này có vẻ khó chịu một chút. Không phải bà già, không phải thiếu nữ.
Kathryn tìm một cái tên. Cô muốn hỏi: Chị có biết một người tên là Jack Lyons không? nhưng câu hỏi đó chợt nghe có vẻ vô lý quá.
“Chắc tôi nhầm số rồi,” Kathryn đáp nhanh. “Xin lỗi đã làm phiền chị.”
“Ai đấy?” người phụ nữ hỏi, bây giờ có vẻ cảnh giác.
Kathryn không thể xưng tên.
Có tiếng gác máy bực bội. Sau đó là im lặng.
Tay run lẩy bẩy, Kathryn đặt lại ống nghe và ngồi xuống. Cô cảm thấy bấn loạn hệt như lúc còn là cô nữ sinh trung học, gọi điện cho một cậu bạn học mà cô cảm mến nhưng lại không dám xưng tên.
“Thôi bỏ qua chuyện này đi,” Robert khẽ nói.
Kathryn chà hai bàn tay lên đùi quần jean để ngừng run.
“Thế này,” cô nói. “Anh tìm giúp tôi một thứ được không?”
“Thứ gì?”
“Anh có thể tìm tên của toàn bộ phi hành đoàn mà Jack từng bay cùng không?”
“Tại sao?”
“Tôi có thể nhận ra một cái tên nếu nhìn thấy. Hoặc nhớ lại một khuôn mặt mà tôi từng gặp.”
“Nếu cô muốn thế,” anh nói chậm rãi.
“Thật khó để biết tôi muốn gì,” cô đáp.
***
Khi Robert đi lên phòng của Jack để lấy danh sách phi hành đoàn, Kathryn trải toàn bộ những mảnh giấy từ tập giấy nhăn nhúm và xem xét cẩn thận. Cô đặc biệt chú ý đến một hóa đơn từ bưu điện cho một món hàng trị giá hai mươi hai đô la. Có lẽ đó không phải là tiền tem, cô nghĩ, xem xét tờ hóa đơn kỹ hơn. Cô mở mảnh giấy kẻ hàng trắng và đọc những dòng thơ mà Jack đã chép lại.
Ở đây trong ngõ hẹp và phương Bắc khắc nghiệt, những bội phản
Vĩnh viễn, phản kháng tàn nhẫn vô phương.
Cơn thịnh nộ bất ngờ của dao găm trong đêm tối: cuộc chiến sinh tồn
Của những tế bào mù đói khát từ sự sống trong dạ con.
Bài thơ có ý nghĩa gì? Cô ngước lên nhìn mảng trời trắng xóa ngoài cửa sổ. Trên bãi cỏ đã có một lớp tuyết phủ, và cô nghĩ có lẽ mình nên gọi điện cho bà Julia để hỏi xem hai bà cháu có ổn không. Cô tự hỏi giờ này Mattie đã thức dậy chưa.
Cô mở mảnh giấy kẻ hàng thứ hai - danh sách cần nhớ. Áo choàng Bergdorf gửi FedEx đến ngày 20.
Kỳ lạ, cô thầm nghĩ, nhưng không có kiện hàng Fedex nào đến vào ngày hai mươi cả. Cô chắc chắn như vậy.
Cô vừa đứng dậy vừa ngẫm nghĩ về ý nghĩa những câu thơ. Bây giờ thì chúng chẳng có ý nghĩa gì với cô, nhưng biết đâu cô có thể tìm thấy cả bài thơ và khi đó sẽ hiểu ra ý gì đó. Cô tiến đến kệ sách. Nó chỉ là những tấm ván gỗ chia thành tầng, kéo dài đến gần trần nhà. Jack đọc sách về máy bay và tiểu sử người nổi tiếng, đôi khi anh đọc tiểu thuyết có cốt truyện sáng tạo. Còn Kathryn chủ yếu đọc tiểu thuyết của các tác giả nữ, thường là tiểu thuyết đương đại, dù cô đặc biệt yêu thích Edith Wharton và Willa Cather. Cô tìm một quyển tuyển tập thơ cũ và thấy nó trên kệ dưới cùng.
Cô ngồi ở mép sofa. Cô đặt quyển sách trên đùi và bắt đầu giở các trang. Khi không phát hiện ngay bài nào đáng chú ý, cô quyết định bắt đầu từ đầu, dự tính sẽ xem từng trang cho đến khi thấy những câu thơ mình đang tìm. Nhưng cô nhanh chóng nhận ra không cần phải làm thế: Những bài thơ đầu rất cổ. Dùng ngôn ngữ trong bài thơ làm manh mối, cô mở quyển sách từ giữa ra. Ở đó, các nhà thơ dùng cú pháp tương tự như những câu thơ mà cô đang cầm trong tay. Cô vừa bắt đầu lần giở một cách bài bản qua các trang sách thì nghe tiếng Robert gọi từ phòng của Jack.
Bên ngoài, tuyết đang rơi dày đặc, va vào cửa sổ như dòng thác đổ ào ào. Dự báo thời tiết nói tuyết sẽ rơi dày mười lăm đến hai mươi centimet, Robert đã nói như vậy. Ít ra Kathryn biết Mattie đang ở đâu và sẽ không đi ra ngoài bằng xe ô tô.
Cô đặt quyển sách xuống rồi đi lên phòng làm việc của Jack. Robert đang ngồi ở bàn làm việc, tay cầm một tờ fax bằng giấy bóng. Và cô chợt nhận ra, khi cô nhìn thấy anh ta ngồi trên ghế của Jack, rằng Robert đã biết trong cuộn băng có gì - tất nhiên là anh ta biết.
“Hãy cho tôi biết về cuộn băng đi,” cô nói.
“Đây là danh sách tất cả những người Jack từng bay cùng tại Vision,” anh nói, đưa cô tờ fax.
“Cám ơn anh,” cô đáp, nhận lấy tờ fax nhưng không nhìn nó. Cô có thể thấy rằng anh không nghĩ là cô sẽ hỏi. “Làm ơn đi,” cô lặp lại. “Hãy kể cho tôi những gì anh biết.”
Anh khoanh tay trước ngực và đẩy ghế ra khỏi bàn, tạo một khoảng cách nhỏ giữa hai người. “Tôi chưa nghe được cuộn băng đó,” anh đáp. “Chưa ai nghe cả.”
“Không, tôi biết như vậy.”
“Tôi chỉ có thể cho cô biết những gì mà một người bạn làm việc ở Liên đoàn đã nói với tôi.”
“Tôi biết.”
“Cô thật sự muốn nghe chứ?”
“Vâng,” cô đáp, dù cô không biết, cô không rõ. Làm sao cô biết mình có muốn nghe hay không cho đến khi đã nghe được nó chứ?
Anh đột ngột đứng dậy rồi tiến về cửa sổ, quay lưng lại với Kathryn. Anh nói ngắn gọn, kiểu giọng công việc, như muốn tước hết mọi cảm xúc trong câu chữ.
“Chuyến bay vẫn bình thường cho đến phút thứ năm mươi sáu,” anh nói. “Jack có vẻ như có biểu hiện lạ.”
“Biểu hiện lạ?”
“Anh ấy rời buồng lái sau khi máy bay bay được năm mươi sáu phút mười bốn giây. Anh ấy không nói có chuyện gì, chỉ nói là sẽ quay lại. Họ - những người đã nghe đoạn băng - cho rằng anh ấy đi vệ sinh.” Anh quay lại nhìn về hướng cô, dù không hẳn là nhìn trực diện.
Cô gật đầu.
“Hai phút sau, Cơ phó Roger Martin thông báo gặp vấn đề về tai nghe. Anh ta đề nghị mượn tai nghe của Trevor Sullivan, kỹ sư chuyến bay. Sullivan đưa tai nghe của mình cho Martin và nói, Thử cái này xem. Martin thử tai nghe của kỹ sư, nhận thấy nó hoạt động bình thường, và nói, Không phải do dây cắm. Chắc tai nghe của tôi bị hỏng rồi.”
“Tai nghe của Roger Martin bị hỏng,” Kathryn nói.
“Phải. Thế là Martin trả lại tai nghe cho Sullivan, rồi Sullivan nói, Đây này, đợi một chút. Có thể Lyons có một bộ thừa. Dường như, Sullivan sau đó đã tháo đai an toàn rồi với tay qua lấy túi xách của Jack. Cô biết túi bay được đặt ở đâu chứ?”
“Bên cạnh phi công?”
“Ở buồng bên ngoài cạnh mỗi phi công. Phải. Và Sullivan khi đó hẳn đã lôi ra cái gì đó từ túi bay của Jack mà không nhận ra. Vì anh ta nói, Cái quái gì thế này?”
“Đó là một thứ mà anh ta không ngờ đến.”
“Có vẻ như vậy.”
“Không phải tai nghe.”
“Chúng ta không biết.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó Jack quay trở lại buồng lái. Sullivan nói, Lyons, đây là một trò đùa có phải không?”
Robert dừng lại. Anh tựa lên bậu cửa sổ, nửa đứng nửa ngồi.
“Lúc này có thể đã xảy ra một trận ẩu đả,” Robert nói. “Tôi nghe các báo cáo mâu thuẫn nhau. Nhưng nếu có thì nó cũng xảy ra rất nhanh. Vì Sullivan nói gần như ngay lập tức, Cái quái quỷ gì vậy?”
“Rồi sao?”
“Rồi anh ta nói, Chúa ơi.”
“Ai nói Chúa ơi?”
“Sullivan.”
“Sau đó?”
“Chỉ có vậy.”
“Không ai nói thêm gì nữa?”
“Đoạn băng kết thúc.”
Cô ngửa đầu lên, ngẫm nghĩ về đoạn hội thoại cuối cuộn băng.
“Anh ấy có một quả bom trong túi bay,” cô khẽ nói. “Một quả bom vũ trang. Vì thế mà họ nghĩ đến khả năng tự sát.”
Robert đứng dậy. Anh cho tay vào túi quần.
“Thậm chí chỉ một câu khác đi là cả cuộn băng sẽ có ý nghĩa khác. Thậm chí với những từ đúng như tôi vừa kể, đoạn băng không nhất thiết phải có một ý nghĩa gì đó. Cô biết như thế mà. Chúng ta đã nói về chuyện đó rồi.”
“Họ có biết chắc chắn rằng Jack có mặt trong buồng lái vào lúc đó không?”
“Họ nghe tiếng cửa buồng lái mở ra rồi đóng lại. Sau đó Sullivan gọi đích danh anh ấy.”
“Điều tôi không hiểu là làm sao Jack lại có thể cất một thứ nguy hiểm như thế trong túi bay của anh ấy.”
“Thật ra thì,” Robert nói, “chuyện đó lại rất dễ.” Anh quay ra nhìn trời tuyết. “Nó vô hại. Tuyệt đối vô hại. Mọi người đều làm thế.”
“Làm gì?”
“Rất nhiều phi công quốc tế làm thế, hầu như mọi tiếp viên hàng không mà tôi biết,” Robert nói. “Thường là trang sức. Vàng và bạc, đôi khi có cả đá quý.”
Cô không chắc mình có hiểu hay không. Cô nghĩ đến số nữ trang mà cô đã nhận từ Jack trong nhiều năm qua: một chiếc lắc tay mỏng bằng vàng vào một dịp kỷ niệm, một chiếc dây chuyền chữ S trong dịp sinh nhật, hoa tai cẩn kim cương vào Lễ Giáng sinh.
“Sau khi ra vào sân bay hàng trăm lần thì cô sẽ quen các nhân viên an ninh,” Robert nói. “Họ kể chuyện về gia đình mình và vẫy tay cho cô qua. Đó là phép lịch sự. Khi tôi còn bay, cứ năm mươi lần qua hải quan tôi mới phải trình hộ chiếu một lần. Và hải quan hầu như không bao giờ khám xét túi của tôi.”
Kathryn lắc đầu. “Tôi chẳng biết gì hết,” cô nói. “Jack không bao giờ kể với tôi.”
“Một số phi công giữ kín chuyện này. Tôi nghĩ nếu đó là một món quà thì người vợ sẽ không vui nếu biết nó được tuồn lậu qua hải quan. Tôi cũng chẳng biết nữa.”
“Anh có làm thế không?” cô hỏi.
“Luôn luôn vào dịp Giáng sinh. Đó sẽ là câu hỏi khi gặp nhau ở sảnh đợi xe trung chuyển ra sân bay: Anh mua gì cho vợ?”
Cô đút tay vào túi quần jean; đứng thõng vai xuống.
“Tại sao Jack không nói gì trong đoạn băng?” Kathryn hỏi. “Nếu anh ấy không biết đó là bom, thì anh ấy hẳn đã ngạc nhiên như Trevor Sullivan rồi. Anh ấy đã nói gì đó rồi. Anh ấy sẽ hỏi, Cậu nói cái gì vậy? Anh ấy sẽ kêu trời hoặc quát lên.”
“Không hẳn.”
“Jack đã nói dối về mẹ anh ấy,” Kathryn nói.
“Thì sao?”
“Anh ấy không ngủ ở căn hộ phi hành đoàn.”
“Như thế chưa đủ.”
“Ai đó đã đem bom lên máy bay.”
“Nếu đó là bom, thì ai đó đã đặt nó ở đó. Tôi đảm bảo với cô như thế.”
“Và Jack hẳn đã biết điều đó,” cô nói. “Đó là túi bay của anh ấy mà.”
“Tôi không đảm bảo chuyện đó.”
“Viên phi công người Maroc đã tự sát,” cô nói.
“Chuyện đó hoàn toàn khác.”
“Sao ta biết nó khác hay không?”
“Cô đang đứng về phe ác,” Robert nói với cô bằng giọng gấp gáp. “Cô không thực lòng tin rằng Jack đã làm điều đó.” Robert thở dài vẻ thất vọng và quay lưng về phía cô.
“Cô muốn biết về đoạn băng, nên tôi đã kể cho cô nghe.”
***
Cô mở tờ fax mà cô nhét dưới cánh tay. Trong đó có rất nhiều cái tên, chín hoặc mười trang toàn là tên, bắt đầu bằng phi hành đoàn gần đây nhất của Jack và xa dần đến năm 1986, năm anh bắt đầu làm với hãng hàng không. Cô nhìn vào danh sách: Christopher Haverstraw, Paul Kennedy, Michael DiSantis, Richard Goldthwaite... Thỉnh thoảng, một khuôn mặt hiện lên, một người nam hoặc nữ mà cô và Jack từng ăn tối cùng, hoặc một người cô đã gặp ở một buổi tiệc, dù hầu hết những cái tên đều xa lạ với cô, và một nửa trong số đó sống ở Anh. Theo cách này, cô nghĩ, cuộc đời của một phi công hãng Vision thật kỳ lạ, một nghề nghiệp gần như xa lánh đồng loại. Những thành viên của phi hành đoàn mà Jack bay cùng có thể sống cách anh tám mươi cây số hoặc cả một đại dương.
Và rồi, trong một danh sách năm 1992, cô nhìn thấy một cái tên mà cô thậm chí còn không nhận ra là mình đang tìm, cái tên không bình thường hiện lên ngay trên trang giấy và chui thẳng vào xương cô.
Muire Boland.
Tiếp viên hàng không.
Kathryn đọc lớn tên này.
Muire Boland.
Cô khá chắn chắn đó là tên phụ nữ. Cô thắc mắc liệu đó có phải là tên tiếng Pháp và cô phát âm có đúng không. Kathryn cúi xuống trước mặt và mở ngăn kéo lớn dưới bàn của Jack ra. Phong bì thư rác có tên viết bằng bút chì ở góc không còn nằm đó, nhưng cô có thể thấy nó rõ ràng hệt như cô đang nhìn thấy cái tên được đánh máy trên danh sách mà cô đang cầm trong tay. Muire 3:30, dòng chữ viết tay rất vội đã viết như vậy. Trên một phong bì, gửi từ Ngân hàng Bay.
Biết ngay rằng nếu cô chần chừ, cô sẽ bị tê liệt trước sự thiếu quyết đoán, Kathryn lấy tấm vé số ra khỏi túi quần rồi đặt nó lên bàn làm việc của Jack. Cô nhấc điện thoại lên và một lần nữa bấm con số viết trên đó. Một người trả lời, chính là giọng nói khi nãy.
“Xin chào,” Kathryn nói nhanh. “Muire có ở đó không?”
“Ai?”
Kathryn nhắc lại cái tên.
“Ô, chị muốn nói là Muire à,” giọng nói ở đầu dây bên kia đáp, và Kathryn nghe thấy phát âm chính xác của tên này: Meur-ah, hơi uốn lưỡi ở chữ R. “Không,” người phụ nữ đáp.
“Ồ, xin lỗi,” Kathryn nói, cảm thấy một sự nhẹ nhõm tột độ. Lúc này cô chỉ muốn gác ống nghe xuống.
“Muire từng ở đây,” giọng tiếng Anh nói, “nhưng cô ấy đã dọn về chỗ cũ rồi. Cô là bạn của cô ấy à?”
Kathryn không thể trả lời. Cô ngồi phịch xuống ghế.
“Cô là ai?” người phụ nữ ở London hỏi.
Kathryn mở miệng ra nhưng không thể nói tên mình. Cô ấn ống nghe lên ngực.
M ở A, dòng chữ viết trên tờ vé số trước mặt cô. Muire 3:30, dòng chữ viết trên phong bì thư rác. Hai ghi chú, bằng chữ viết tay của Jack, viết cách nhau bốn năm và có liên hệ với một số điện thoại.
Robert cầm lấy ống nghe từ tay cô rồi gác lên giá điện thoại.
“Tại sao cô lại hỏi tên Muire?” Robert hỏi nhanh. “Trông cô trắng bệch ra rồi.”
“Tôi chỉ đoán thôi,” cô đáp.
Người phụ nữ tên Muire là ai? Và Jack có mối liên hệ gì với cô ta? Có phải anh đã trải qua đêm cuối với người phụ nữ này không? Có phải Jack đã ngoại tình bấy lâu nay? Các câu hỏi đè lên ngực cô, chực làm cô ngạt thở. Cô nghĩ đến những câu nói đùa người ta hay nói về phi công và tiếp viên hàng không. Trước đây cô luôn phớt lờ những lời đùa đó, như thể ngoài đời thật, phi công sẽ không làm vậy.
“Robert, anh có thể tìm thêm thông tin gì khác về một cái tên cụ thể không?” cô hỏi. “Chẳng hạn như người đó sống ở đâu?”
“Nếu cô chắc chắn đó là điều cô muốn,” anh đáp.
“Chuyện này thật kinh khủng.”
“Vậy thì đừng bận tâm đến nó.”
Cô nghĩ đến khả năng không bận tâm đến nó.
“Anh có thể làm thế không?” cô hỏi.
***
“Con bé muốn xem tivi,” bà Julia nói. “Bà phải nghĩ ra cái gì khác. Trước đây có người tặng bà phim Nhân chứng vào dịp Giáng sinh.”
Robert đã rời khỏi phòng làm việc của Jack. Kathryn nghĩ có thể anh đang rửa bát.
“Chính là Jack đấy.”
“Ừ, con bé có vẻ thích lắm. Nó dậy lúc hai giờ. Nó ăn rồi.”
“Bà đừng cho cháu nó xem tivi nhé,” Kathryn dặn dò. “Cháu nói nghiêm túc đấy. Nếu cần thì bà cắt dây cáp cũng được.”
Kathryn xoay vòng trong chiếc ghế văn phòng và nhìn ra lớp tuyết đang đọng ngày một dày ngoài bậu cửa sổ. Trông nó như nước trong bể cá. Muire từng ở đây, đầu dây bên kia đã nói thế.
“Cậu Robert đang ở đấy với cháu à?” Julia hỏi.
“Vâng.”
“Cậu ấy đã đến đây, cháu biết chứ?”
“Cháu biết ạ.”
“Vậy cháu đã biết về...”
“Căn hộ phi hành đoàn ạ? Vâng.” Kathryn gác một chân lên, quàng một cánh tay quanh gối. Hai ghi chú, cách nhau bốn năm, liên hệ với nhau bằng một ký tự viết tắt. Kathryn cảm thấy một cơn bồn chồn lo lắng xâm chiếm, nó lập tức khiến mồ hôi tuôn lấm tấm trên trán cô.
“Cháu đừng đánh mất niềm tin,” bà Julia nói.
“Chính xác thì đó là niềm tin gì ạ?”
“Cháu hiểu ý bà mà.”
“Cháu đang cố để không hiểu đây.”
“Họ mới điều chỉnh dự báo thời tiết đấy,” bà Julia nói. “Âm mười hai lên âm mười một độ.”
“Bây giờ cháu nên về nhà bà,” Kathryn dùng tay áo lau trán.
“Cháu đừng ngốc nghếch thế. Nếu không có việc thì cháu không cần đi ra ngoài. Cháu ăn gì chưa?”
Đúng là bà Julia, luôn lo lắng chuyện ăn uống.
“Cháu ăn rồi ạ. Cháu nói chuyện với Mattie được không?”
Đầu dây bên kia im lặng.
“Cháu biết không,” Julia thận trọng nói, “Mattie đang bận. Nó vẫn ổn. Nếu cháu nói chuyện với nó, nó sẽ lại buồn rầu và xa cách. Nó cần nghỉ ngơi vài ngày, chỉ xem phim, ăn bỏng ngô thôi. Giống như thuốc phiện ấy, và con bé cần nó càng lâu càng tốt. Nó cần được chữa lành, Kathryn à.”
“Nhưng cháu muốn được ở cạnh nó,” Kathryn phản kháng.
“Kathryn à, cháu đã ở cạnh nó từng phút từng giây suốt mười ngày rồi. Cháu cũng hiểu là chỉ với sự có mặt của cháu thôi, hai mẹ con cháu đã xé toạc trái tim nhau rồi. Cháu không chịu đựng nổi nỗi buồn của nó, còn nó thì không chịu nổi khi nghĩ đến việc cháu đang đau khổ nhường nào. Bình thường cháu không dành thời gian ở bên nó như thế.”
“Việc này không phải là bình thường.”
“Thế thì lúc này chúng ta có thể dùng đến một chút bình thường vậy,” bà Julia nói.
Kathryn đi đến cửa sổ và lau lớp hơi nước phủ trên kính. Tuyết rơi dày đặc, con đường mòn vào nhà chưa được cào tuyết. Lớp tuyết đóng trên xe cộ dày phải đến hai tấc.
Cô thở dài. Thật khó để phản đối sự thông thái của bà Julia, nhất là khi hóa ra bà thường là người nói đúng.
“Đừng rời khỏi nhà,” bà Julia lặp lại.
***
Tuyết rơi đều suốt buổi chiều, mỗi lúc một dày đặc. Thỉnh thoảng, gió gào từng cơn nhưng sau đó dường như lại lập tức lắng dịu, như thể cơn bão đang từ bỏ nỗ lực trở thành một trận bão tuyết. Trong lúc Robert gọi điện thoại từ phòng của Jack, Kathryn đi thơ thẩn từ phòng này sang phòng khác, nhìn lên tường và ngoài cửa sổ, khoanh tay trước ngực, thả tay ra, rồi lững thững đi vào một căn phòng khác, đứng trong đó và tiếp tục nhìn lên tường hoặc ngoài cửa sổ. Dạo này, chỉ đứng yên và nghĩ ngợi đôi khi là tất cả những gì cô có thể làm.
Một lúc sau, cô thấy mình ở trong nhà tắm. Cô cởi bỏ áo quần rồi mở vòi hoa sen, để nước ấm lên từ từ đến mức nóng hổi. Khi bước vào, cô cúi cổ xuống dưới làn nước và đứng như thế một lúc lâu. Cảm giác thật dễ chịu khi đứng ở đấy đến khi
bình nước nóng cạn hết và nước chuyển sang lạnh.
Khi tắt nước, cô nghe tiếng nhạc. Không phải nhạc từ đĩa, dù đó là tiếng piano.
Cô chỉnh lại cổ áo chiếc áo choàng tắm dài màu xám, loại áo bằng vải cotton dài đến mắt cá chân. Một người phụ nữ già nua nhìn cô trong gương, một khuôn mặt mệt mỏi với hai hố mắt trũng sâu.
Vừa đi vừa vuốt tóc, cô theo tiếng nhạc xuống cầu thang, vào phòng khách, ở đó Robert đang chơi piano.
Cô biết bản nhạc này: Chopin. Cô nằm xuống sofa, kéo áo choàng che lại đùi và chân.
Cô nhắm mắt lại. Fantasie Impromptu là một bản nhạc phù hoa, đẹp đẽ đầy kiêu hãnh, với cơ man nốt nhạc. Cô hiếm khi nghe bản nhạc này được chơi theo cách của Robert, không cảm xúc, song lại chứa đựng sức nặng khôn nguôi của những ký ức bị khuấy động và bí mật bị lãng quên. Khi nghe đến những cú vuốt, cô hình dung đến những mảnh kim cương vỡ.
Cây đàn piano nằm ở góc phòng, cạnh cửa sổ. Robert đã xăn tay áo lên, cô nhìn bàn tay anh trước, sau đó đến cánh tay. Sự khẽ khàng của tuyết càng làm tiếng nhạc mộc trong phòng trở nên ấn tượng, hoặc có lẽ vì không có sự cạnh tranh từ bất kỳ âm thanh nào khác; tiếng piano nghe hay hơn so với cô nhớ, dù nhiều tháng rồi chưa được căn dây lại.
Cuộc sống nhiều năm trước hẳn giống như thế này, Kathryn nghĩ ngợi trong lúc lắng nghe Robert chơi đàn. Không tivi, không đài phát thanh, không phim ảnh, chỉ có không gian của một buổi chiều dài trắng xóa để tạo ra thời gian của riêng mình, âm thanh của riêng mình. Và thế này thật an toàn. Cô có thể thả tâm trí đi hoang, không nghĩ gì về vụ tai nạn hoặc Jack hoặc Mattie. Cây đàn piano không phải là món mà cô và Jack cùng sử dụng. Trước giờ nó chỉ thuộc về một mình cô, một sự theo đuổi lẻ loi, dù có một mối liên hệ đến bà Julia, mà bà thì cũng an toàn.
“Tôi không ngờ đấy,” cô nói khi anh đàn xong.
“Cũng lâu rồi,” anh đáp, quay sang cô.
“Anh đúng là lãng tử,” cô mỉm cười nói. “Một lãng tử khéo ẩn mình. Anh chơi hay tuyệt.”
“Cám ơn cô.”
“Chơi bản nào khác không?”
Khi đó cô nhận ra, theo cách mà trước đây cô không hề nhận thấy, rằng Robert là người có quá khứ - đương nhiên anh ta có quá khứ. Anh ta có cả một cuộc đời mà cô gần như chẳng biết gì, một cuộc đời trong đó anh chơi piano điệu nghệ, học lái máy bay, trở thành một anh chàng nghiện ngập, cưới vợ, sinh con đẻ cái, li dị vợ, rồi bằng cách nào đó lại dính đến công việc đặc biệt này.
Cô nhận ra giai điệu: “The shadow of your smile”. Thay đổi tâm trạng trong tích tắc.
Khi chơi xong, anh gãi gãi sau gáy rồi nhìn ra tuyết bên ngoài. “Bên ngoài tuyết dày phải ba tấc rồi đấy,” anh nói.
“Đường mòn vào nhà chưa được cào tuyết,” cô đáp. “Mấy giờ rồi nhỉ?”
Anh nhìn đồng hồ. “Ba giờ,” anh đáp. “Chắc tôi đi dạo một chút đây.”
“Trong thời tiết này ư?”
“Chỉ đi đến cuối đường mòn rồi quay lại thôi. Tôi cần chút không khí.”
“Tôi hi vọng anh biết rằng tối nay anh không phải ra khách sạn. Có rất nhiều giường trong căn nhà này. Rất nhiều phòng. Anh có thể ngủ trong phòng nghỉ dành cho khách,” cô nói thêm. “Ở đấy thoải mái lắm. Mục đích của nó là vậy mà.”
“Để ẩn nấp, như cô đã nói.”
“Phải.”
“Thông tin mà cô hỏi tôi được đặt trên bàn của Jack,” anh nói.
Cô mở miệng định nói, nhưng anh lắc đầu.
“Chuyện xảy ra với cô thật là họa vô đơn chí,” anh nói.
***
Kathryn chợp mắt vài phút trên sofa rồi lảo đảo bò lên phòng ngủ với ý nghĩ chui vào giường và ngủ một giấc thật dài. Cô đem theo quyển sách thơ.
Cô nằm sấp trên giường và bắt đầu lật từng trang, hờ hững tìm các câu thơ. Cô đọc những đoạn thơ ngắn của Gerard Manley Hopkins, Wordsworth, và Keats. Đến khoảng giữa cuốn sách, từ phản bội đột nhiên đập vào mắt cô, và cô nhận ra mình đã tìm được đúng bài thơ đó. Nhưng rồi gần như ngay lập tức, trước khi cô kịp đọc các câu thơ trong bài, cô thấy một ghi chú mờ dọc mép trong của trang giấy.
M!
Viết bằng bút chì, nét mảnh, với một dấu chấm than.
Và nằm ở đó. Không thể nhầm lẫn được.
Cô ngồi bật dậy và đọc kỹ bài thơ. Bài thơ có tựa đề “Antrim” của tác giả Robinson Jeffers. Có vẻ như nó nói về những cuộc chiến thời cổ đại để giành một mảnh đất, có vẻ mảnh đất tên là Antrim. Về máu đổ vì nhiều mục đích, hàng loạt những cuộc tập kích và phản bội, chủ nghĩa yêu nước và những thân người hy sinh, tất cả giờ hóa thành tro bụi, tro bụi chờ ngày phục sinh.
Nó có nghĩa là gì?
Cô để quyển sách rơi từ cạnh giường xuống đất. Cô nằm xuống và úp mặt vào gối. Cô cảm thấy như vừa vượt qua hàng nghìn dặm.
***
Khi tỉnh dậy, theo bản năng, cô đưa mắt nhìn đồng hồ trên tủ đầu giường. Lúc đó là ba giờ rưỡi sáng. Cô đã ngủ chín giờ. Hôm đó là ngày mấy nhỉ? Hai mươi tám? Hay hai mươi chín?
Cô vặn người ngồi dậy và lờ đờ đi ra hành lang. Cửa phòng nghỉ của khách đang đóng. Robert hẳn đã quay lại sau khi đi dạo và vào ngủ trong đấy, cô tự nhủ. Hay là anh ấy đã ăn tối? Xem tivi? Đọc sách?
Trong nhà bếp, không có dấu hiệu nào cho thấy có người đã nấu ăn. Kathryn pha một ấm cà phê và rót một tách. Qua cửa sổ trên bồn rửa, cô thấy tuyết đã ngừng rơi. Cô đi ra cửa sau, mở cửa ra và lập tức bị một làn bột mịn lạnh buốt rơi ập từ mái hiên xuống. Cô chớp mắt và lắc đầu. Điều chỉnh để quen với bóng tối, cô nhìn thấy bốn bề đã được bao phủ dưới một tấm chăn dày trắng toát, một tấm chăn chần vải bông xù có đường may cạn, cây cối, bụi rậm và xe cộ chỉ là những ụ nhô lên. Kỳ thực, tuyết nhiều đến nỗi cô tự hỏi phải chăng lời dự báo tuyết dày ba tấc không phải là quá lạc quan. Cô đóng cửa lại rồi tựa lưng vào đó.
M ở A.
Muire 3:30
M!
Siết chặt áo choàng lại, Kathryn nhanh chóng đi lên cầu thang đến phòng của Jack. Cô vẫn chưa thôi bất ngờ trước sự trống trải đầy bụi bặm của nó. Cô nhìn thấy tờ giấy mà Robert nhắc đến trên bàn của Jack.
Trên giấy viết rằng Muire Boland đã rời hãng hàng không vào tháng giêng năm 1993. Được đào tạo với Vision ở London, cô ta làm tiếp viên hàng không của hãng được ba năm. Có một địa chỉ, một số điện thoại, và một ngày sinh. Muire Boland năm nay ba mươi mốt tuổi.
Robert đã viết ghi chú cạnh số điện thoại. Thử cái này xem. Khi tôi gọi, không ai biết cô ta. Dưới thông tin này là một danh sách các số điện thoại. Có bảy M. Boland trong danh bạ điện thoại London.
Kathryn cố gắng định hình một câu hỏi, một yêu cầu hợp lý. Người nghe điện thoại có biết đến Jack Lyons không? Nếu có, liệu Kathryn có thể hỏi một, hai câu không? Hỏi như vậy có bất bình thường quá không?
Kathryn nhìn quanh quất trong phòng, sự đơn điệu kim loại của nó, chất đàn ông của nó. Cô sẽ không cho phép mình tin rằng Jack đã ngoại tình. Làm sao cô có thể làm thế, khi chính cô đã chứng kiến điều xảy ra khi người ta thêu dệt nên cả một câu chuyện đầy kịch tính chỉ từ một vài sự thật, như đã xảy ra với báo chí khi đoạn băng CVR bị tiết lộ?
Cô nhấc điện thoại lên và gọi đến số đầu tiên. Một người đàn ông trả lời, và giọng ông ta nghe như mới bị cô đánh thức. Cô tính nhanh thời gian ở London - chín giờ bốn mươi sáng. Cô hỏi Muire có ở đó không.
“Cô muốn kiếm ai?” ông ta vặn lại, như chưa nghe rõ câu hỏi lắm.
“Muire Boland,” cô đáp.
“Ở đây không có ai là Muire Boland cả,” ông ta tự tin đáp.
“Xin lỗi,” Kathryn nói rồi gác máy.
Cô gạch bỏ số đầu tiên rồi gọi số thứ hai. Không ai trả lời. Cô thử số thứ ba. Một người đàn ông trả lời bằng giọng ngắn gọn, nghiêm nghị.
“Michael Boland nghe đây,” ông ta nói, như đang chờ đợi một cuộc điện thoại tìm mình.
“Xin lỗi, nhầm số.”
Cô gạch bỏ số thứ ba. Cô gọi tiếp số thứ tư. Một phụ nữ trả lời. “Xin chào?”
“Xin chào. Tôi muốn gặp Muire Boland.”
Sự im lặng ở đầu dây bên kia tuyệt đối đến nỗi Kathryn có thể nghe thấy tiếng vọng mơ hồ từ một cuộc nói chuyện xuyên đại dương của ai đó.
“Xin chào?” Kathryn hỏi lại lần nữa.
Người phụ nữ gác máy. Kathryn ngồi áp ống nghe chết lặng vào tai. Cô cầm bút chì lên và gạch bỏ số thứ tư, nhưng rồi cô do dự.
Cô gọi số thứ năm. Rồi số thứ sáu. Rồi số thứ bảy. Khi gọi xong, cô nhìn lại danh sách. Trên đó, có một người đàn ông không biết Muire là ai; một số không có người trả lời; một Michael Boland, doanh nhân; một người phụ nữ không tiếp chuyện; một số khác không trả lời; một lời nhắn trên máy ghi âm bằng phát âm khó nghe nói rằng Kate và Murray hy vọng cô để lại lời nhắn; một cô bé không biết Muire là ai nhưng nói mẹ của mình tên là Mary.
Cô thử gọi lại số thứ tư.
“Xin chào?” người phụ nữ khi nãy nói.
“Tôi xin lỗi đã làm phiền chị,” Kathryn nói nhanh, trước khi người phụ nữ gác máy. “Nhưng tôi đang muốn tìm người tên Muire Boland.”
Kỳ quặc, lại là sự im lặng như lần trước. Có gì đó ở phía sau. Tiếng nhạc? Máy rửa bát? Rồi Kathryn nghe thấy một âm thanh nhỏ từ cổ họng của người phụ nữ, như mở đầu của một từ định nói. Tiếp theo là một sự im lặng khác, lần này ngắn hơn.
“Ở đây không có ai là Muire hết,” cuối cùng người phụ nữ lên tiếng.
Kathryn nghĩ giữa suy nghĩ và lời nói của cô hẳn có một sự lỗi nhịp, vì khi cô mở miệng định nói, thì đường dây đã bị cắt đứt.
***
Khi Robert tìm thấy cô vào buổi sáng, cô đang ngồi tại chiếc bàn trong phòng khách. Mặt trời đã lên, tuyết bên ngoài chói chang đến độ Robert phải nheo mắt để nhìn cô. Trong ánh nắng sáng lòa, cô có thể nhìn thấy từng nếp nhăn và lỗ chân lông trên mặt anh.
“Trong này chói quá,” anh nói, quay đầu đi.
“Đôi khi anh cần đeo kính mát vào phòng này đấy,” cô đáp. “Jack thường làm thế.”
Cô nhìn Robert nhét áo sơ mi vào quần.
“Cô ngủ ngon không?”
“Cũng được. Còn anh?”
“Ngon lắm.”
Cô thấy anh đã mặc nguyên quần áo cũ để đi ngủ. Hẳn anh đã quá mệt đến nỗi không buồn cởi quần áo, cô nghĩ.
Khi đã quen với ánh sáng, Robert dường như đã nhìn thấy mặt cô rõ hơn.
“Có chuyện gì vậy?” anh hỏi.
Kathryn ngồi hơi chồm về trước.
“Tôi sẽ đến London,” cô đáp.
Anh không do dự. Anh không hề do dự.
“Tôi sẽ đi với cô.”
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook