Tử Thư Tây Hạ
-
Quyển 3 - Chương 14: Quang minh thần điện
Dưới làn nước không được trong lắm, thấp thoáng hiện Lên những mẩu xương trắng rời rạc. Khi chưa rõ đây Là xương người hay xương động vật, thì anh đã chỉ còn thấy hoa mắt chóng mặt, rồi bỗng có cảm giác trời đất quay cuồng. Makairov linh cảm không lành, người anh bất giác đổ về phía sau.
1
Lối đi hướng về phía tây vẫn kéo dài. “Đợi đã, "Đường Phong!”, phía sau vang lên giọng của Makarov, “Theo truyền thống kiến trúc Trung Quốc thì tiền điện, trung điện, hậu điện phai cùng trên một tuyến đường, nhưng lối đi này lại trải dài về hướng tây, như vậy có bình thường không?”
“Không bình thường, lối đi này cũng không bình thường!”, Đường Phong nói.
“Đúng vậy! Ở giữa trung điện và hậu điện sao lại có lối đi dài vậy nhỉ!”, Makarov lắc đầu nói.
Trong lúc hai người nói chuyện, Đường Phong không đổ ý dưới chân mình gồ ghề khúc khuỷu, nên xém chút nữa là lộn nhào, Makarov cũng giật mình. Hai người đứng vững lại, Đường Phong vội vàng lấy đèn pin soi, dưới đất xuất hiện một tảng đá nhô lên; lần theo tảng đá này, anh di chuyển ánh sáng đèn pin tới hai bên vách đá, tại hai vị trí giống nhau trên vách đá hai bên, xuất hiện một cái máng lõm vào trong.
“Hóa ra trước kia ở đây có cánh cửa!”, Đường Phong suy đoán.
“Cửa? Sao bây giờ chẳng có gì cả vậy?”
“Bậu cửa trên nền đất vẫn còn, có thể nó đã bị những người tới đây trước đó dỡ đi rồi!”, Đường Phong ngẫm nghĩ, nói tiếp: “Mặc kệ cánh cửa đó đi đâu mất, nó xuất hiện ở đây là đã cho thấy hậu điện cách đây không xa nữa đâu.”
“Đúng vậy! Nếu không thì cũng không nhất thiết phải làm một cái cửa ở đây.”
Hai người bước qua bậu cửa, Đường Phong cảm giác tim mình lại bắt đầu đập thình thịch. Phía sau cánh cửa biến mất này có phải là hậu điện không? Ở đó có kệ tranh ngọc không? Anh bất giác bước nhanh hơn. Sau hơn hai chục bựớc chân, Đường Phong cảm giác mình đã tới một nơi rộng rãi, nhưng lấy đèn pin soi thì phía trước lại xuất hiện một bức tường.
Đường Phong nhìn trái ngó phải, rồi lại ngẳng đầu lên nhìn, anh bỗng hiểu ra, trước mặt mình chắc là một “bức vách ngăn”. Makarov cũng đang ngạc nhiên, nhưng
Đường Phong không giải thích mà dẫn ông vòng qua “bức vách ngăn”. Phía sau “bức vách ngăn” rộng thênh thang, Đường Phong chỉ dựa vào ánh đèn pin yểu ớt mà đã cảm thấy đây là một không gian rộng lớn.
Đường Phong và Makarov lần lượt thắp nến lên cái máng trên vách đá, thạch điện khổng lồ rốt cuộc cũng hiện rõ diện mạo trước mắt hai neười. Lúc này, Đường Phong mới phát hiện ra cái gọi là “bức vách ngăn” vốn không phải là bức tường nào cả, mà là lưng của một bức tượng Phật cao lớn. Nhìn lại toàn bộ hậu điện, ở chính giữa ba mặt còn lại đều có một bức tượng Phật cao lớn.
Cả hậu điện hình vuông, mỗi bên đều có bậc dẫn xuống dưới, từng bậc một thu hẹp lại, cuối cùng tại vị trí chính giữa hậu điện là một đầm nước hình vuông, đầm nước chết lấp lánh ánh xanh. Đường Phong không tài nào phán đoán được đó là đầm nước hay lại là một đầm thủy ngân.
“Thật... thật hùng vĩ quá!”, Makarov ngạc nhiên tới nỗi mắt và miệng đều mở to hết cỡ.
“Đúng vậy! Quả nhiên hậu điện to hơn hẳn hai điện trước đó.”
Đường Phong tức tốc đoán định vị trí mà họ đang
đứng là cạnh phía đông của bức tượng Phật; do phía sau tượng Phật là một lối đi, vậy thì ba hướng phía sau tượng Phật cũng có phải là lối đi không nhỉ? Đường Phong ngẫm nghĩ mà chân đã bước tới bức tượng ở hướng nam.
Makarov theo sau, hiểu ngay ra ý của Đường Phong: “Nếu như phía sau mỗi bức tượng đều có một lối đi, vậy... vậy thì... tôi điên mất rồi đấy!”
“Cháu cũng sắp điên đây!”, Đường Phong vòng ngay ra sau bức tượng phía nam, tỉ mỉ quan sát, mỗi một tảng đá to đều khít vào nhau, vô cùng kiên cố, “Xem ra ở đây chẳng có lối đi nào cả.”
Đường Phong lại nhanh chóng vòng ra phía sau bức tượng Phật phía tây, vách đá ở đây cũng khít vào nhau như vậy, sừng sững đồ sộ, phía sau bức tượng phía bắc cũng chẳng phát hiện ra điều gì dị thường. Đường Phong không khỏi nghi ngờ: “Cái này thì gọi gì là cống, một hậu điện hoành tráng như thế này thì đáng ra phải có một cánh cổng hùng vĩ mới xứng tầm chứ nhỉ! Sao chắng có cánh cổng nào cả? Chúng ta đã từ phía sau tượng Phật tiến thẳng vào đây.”
“Đúng vậy! Tôi còn tưởng rằng sẽ có một cánh cống bằng vàng cơ!”, Makarov không khỏi tiếc rẻ.
Đường Phong thắp nến lên cả bốn góc đại điện, toàn bộ hậu điện đã sáng bừng lên. Anh phát hiện ra trên đỉnh đầu chính giữa đại điện có chạm khắc một đóa hoa sen khổng lồ, ở chính giữa đóa hoa hiện lên bốn chữ to, nét rắn rỏi, vẫn là chữ Tây Hạ. Đường Phong ngẩng đầu nhìn lên vòm động, từ từ đọc lên bốn chữ này: “Quang - Minh - Đại - Điện”.
2
Toàn bộ Quang Minh thần điện đã được nến soi sáng, tuy ánh sáng vàng đục nhưng cũng đủ để Đường Phong nhìn rõ mọi vật trong đại điện. Lúc này anh mới phát hiện ra, xung quanh bốn pho tượng Phật có rất nhiều tượng Phật bị đổ nghiêng ngả, còn có rất nhiều tượng Phật bị hư hỏng. “Thế này là thế nào?”, Đường Phong cúi xuống, nhặt một mảnh tượng Phật bị nứt vỡ lên.
“Xem ra ở đây đã từng bị phá hoại!”, Makarov suy đoán.
“Ai đã phá hủy những tượng Phật đẹp đẽ này? Nghĩ mà xem, hóa ra những bức tượng này đều được dựng xung quanh bốn bức tượng Phật lớn, hùng vĩ làm sao! Linh Sơn ở Tây Thiên cũng chỉ đến vậy mà thôi!”, Đường Phong thán phục.
“Chắc chắn là người có thù hằn sâu sắc với chủ nhân ở đây.”
“Lẽ nào là Lượng Tộ?”, Đường Phong lẩm bẩm.
Trong tức khắc, Đường Phong phát hiện ra trong đống tượng Phật đổ nát phía dưới bức tượng phía tây, có một tấm bia đứng sừng sững, rất dễ nhìn. Anh bước tới, vuốt bụi trên đó đi, rồi từ tò đọc những chữ Tây Hạ khắc trên bia đá: “Một Tạng Thị chuyên quyền, lật đổ triều thần, độc đoán chuyên hành, trong mắt không có quân phụ, tram vô cùng thù hận; phụ mẫu trẫm dâm loạn bất pháp, bao che cho những người trong sắc tộc, trẫm vô cùng thù hận. Nay trẫm may mắn được ông trời phù hộ, đoạt được triều chính, ra tay trừ gian diệt ác, gây dựng lại triều cương. Không vì việc tư mà bỏ qua công luận, không vì hiếu từ mà lãng quên luật pháp... đóng cửa hậu điện, phá bỏ lối đi, vĩnh viễn chôn vùi Một Tạng Thị và những gian nhân.”
Có mấy chữ trong đó quả thực Đường Phong không nhìn rõ, nhưng chỉ những dòng này thôi mà đã khiến anh giật thót tim, một đoạn mật sử của vương triều Tây Hạ đã phơi bày trước mắt anh. “Xem ra những gì chúng ta suy đoán đều đúng cả, Lượng Tộ quả nhiên vì hận thù gia tộc Một Tạng chuyên quyền nên mới đóng cửa thạch điện, phá hủy đường đi. Khỏi cần phải hỏi, phá hủy những tượng Phật này cũng chính là Lượng Tộ!”, Đường Phong nói.
“Nhưng tại sao bốn pho tượng Phật này lại không bị hủy hoại nhỉ?”, Makarov hỏi.
“Có thể là do chúng quá to nên không hủy hoại ngay được!”, Đường Phong đoán mò.
Đường -Phong đã hết hứng thú với những bức tượng to lớn này, bởi anh chợt phát hiện ra hình như đầm nước chính giữa hậu điện phát ra chút ánh sáng quái dị.
Makarov cũng đã trông thấy sự biến hóa trong đầm nước. Hai người bước xuống năm sáu bậc thang, tới lúc chỉ còn cách mặt nước bốn bậc, Đường Phong ngạc nhiên tới nồi ngớ người ra. Anh dừng lại, quay đầu nhìn Makarov. Makarov cũng há hốc mồm kinh ngạc, nhìn Đường Phong.
“Đây... đây chính là… chính là kho báu của Hạo vương sao?”, Đường Phong lẩm bẩm.
“Tôi nghĩ là vậy, đây chính là kho báu của Hạo vương!”, Makarobv cũng không ngừng lẩm bẩm.
Mặt nước chết trong đầm nước hình vuông lấp loáng sắc xanh, nhưng chốc chốc lại lóe lên sắc vàng khiến Đường Phong và Makarov bất giác không thể mở được mắt ra.
Đường Phong che mắt, cẩn thận rón rén bước tiếp ba bậc thang xuống dưới, tới cạnh mép đầm. Anh thực sự bị chấn động bởi cảnh tượng trước mắt, trong đầm là những thỏi vàng, thỏi bạc, tiền xu chất như núi cùng những báu vật kì lạ và quý báu đủ hình đủ dạng. Đường Phong không tài nào khống chế được sự hưng phấn trong lòng, anh đưa tay về phía mặt nước chết đó...
3
“Cẩn thận! Đường Phong!”, Makarov bỗng hét lên.
Đường Phong lúc này mới tỉnh lại, vội vàng rút tay về, kích động tới nỗi lắp ba lắp bắp, nói không thành câu: “Đây... quả là..hóa... hóa ra là một đầm châu báu.”
“Đường Phong, tỉnh táo chút đi. Nếu như ở đây là kho báu của Hạo Vương, thì tại sao đám người tới đây trước chúng ta không lấy đi?”, Makarov vẫn giữ được tỉnh táo đúng như tố chất mà ông từng được huấn luyện.
“Đúng vậy!”, Đường Phong nghe Makarov nói vậy liền tỉnh ngay ra, “Lão Mã, may mà có bác cảnh tỉnh. Từ di tích ban nãy cho thấy, đám người đó đã từng tới Quang Minh thần điện rồi, nhưng lại không lấy những báu vật này đi. Vậy có khi nào trong... trong đầm này là thủy ngân không? Bởi vậy mà những người đó mới không lấy những báu vật này?”, Đường Phong bồng nghĩ tới thủy ngân.
Makarov ngồi xuống, cúi sát mặt nước, cẩn thận quan sát, cuối cùng lắc lắc đầu, nói: “Không giống thủy ngân, đây là một đầm nước chết.”
“Vậy phải giải thích thế nào về đám người tới đây trước chúng ta?”, Đường Phong thấy đầu óc mình rối tung cả lên.
“Điều này...”, Makarov cũng khône thể trả lời câu hỏi này.
Đường Phong lấy hết can đảm, nhoài ra áp người sát đầm nước. Nhìn lớp rong rêu dày cộm bên cạnh đầm mà anh hoa mắt chóng mặt, chỉ muốn nhìn thấu lớp sương mù, chọc thủng xuống tận đáy đầm mà thôi. Nhưng anh không trông thấy đáy đầm, bởi vì trong đó chất đầy châu báu và nước thì xanh lét, đục ngầu.
“Tôi sợ nhất là có một con quái vật từ trong đầm nhảy lên nuốt chửng chúng ta!”, Makarov nói vậy khiến Đường Phong giật bắn mình.
Đường Phong quay lại nhìn, Makarov cũng đang nhoài người ra mặt nước, quan sát động tĩnh trong đầm.
“Lão Mã, sao bác lại nói vậy?”, Đường Phong không hiểu hỏi Makarov.
Makarov bò dậy, tựa vào bậc thang cạnh đầm nước, chậm rãi nói: “Bởi vì tôi đã từng gặp một cái đầm nước ăn thịt người.”
“Ồ! Một cái đầm nước ăn thịt người?”, Đường Phong không hiểu nhìn Makarov.
“Đúng! Một cái đầm nước ăn thịt naười hoặc có thể gọi là hố nước!”, Makarov khẳng định.
“Hố nước ăn thịt người? Trên đời này đúng là có chuyện như vậy sao? Lại là kinh nghiệm của bác trong KGB phải không?”
“ừm, tất cả những gì ly kì quái gở mà tôi gặp phải đều được KGB ban tặng cả!”
“Lão Mã, những gì bác trải qua tại KGB ly kì thật đấy! Bác có thể viết được cả cuốn sách ấy chứ!”
“Tôi cũng từng nghĩ đến điều đó, nhưng rất nhiều việc trải qua đều thuộc về những vụ án chưa được hóa giải. Giống như cái hố nước mà tôi gặp phải tại căn cứ Tiền Tiến trước đây vậy!”, giọng Makarov rất bình thản.
“Lại là căn cứ Tiền Tiến?!”, Đường Phong ngạc nhiên, “Những chuyện ở căn cứ không phải bác đã kể hết rồi sao? Sao lại vẫn còn chuyện ly kì vậy?”
“Những chuyện ly kì gặp phải trong căn cứ Tiền Tiến thì quá nhiều rồi, so với những gì ly kì gặp phải trong đội thám hiểm lần đó thì còn kéo dài và nhiều hơn nữa! Đó là chuyện xảy ra sau khi Branch đưa tôi tới Khe Sói hoang, khi đó căn cứ Tiền Tiến thiếu nước...”, Makarov vừa nói vừa hồi tưởng lại đoạn kí ức trong khu căn cứ Tiền Tiến.
4
Từ khe Sói hoang trở về chưa được bao lâu, Makarov, lại gặp phải một chuyện ghê rợn. Muốn sinh tồn được trên tại sa mạc Gô-bi thì quan trọng nhất là nguồn nước, và đây cũng là vấn đề lớn của căn cứ Tiền Tiến.
Branch bước vào phòng Makarov, hiếm khi anh càu nhàu như vậy: “Nguồn nước của chúng ta sắp không ổn rồi!”
“Thế nào gọi là sắp không ổn?”, Makarov không hiểu
ý Branch.
“Sắp không ổn tức là sắp hết nước rồi! Lẽ nào anh không phát hiện ra chất lượng nước mấy hôm nay chúng ta uống kém hẳn, tuy đã được khử độc nhưng nước vẫn đục ngầu, bên trong còn có cả cặn.”
“Tôi cũng phát hiện thấy nhưng trước đây cũng từng gặp phải chuyện này rồi mà, cũng đâu đến nỗi mất nước đâu!”, Makarov bán tín bán nghi.
“Trước khi chúng ta đến, nước dùng ở đây đều lấy từ giếng bên ngoài căn cứ. Mấy năm nay, căn cứ tăng thêm bao nhiêu người như vậy, nhưng cũng không phát hiện thêm được nguồn nước nào mới, cái giếng đó quá tải từ lâu rồi. Ban nãy tôi đã đi kiểm tra rồi, cái giếng đó chắc chắn không trụ được bao lâu nữa đâu, nếu không tìm thấy nguồn nước mới thì chúng ta sẽ mất nước thật đấy!”
“Nghiêm trọng vậy ư? Vậy cái giếng đó còn trụ được bao lâu nữa?”, Makarov có chút bất ngờ.
“Nhiều nhất là một tháng!”, Branch nói xong nhìn Makarov hồi lâu rồi nói tiếp: “Tôi đã kiến nghị với anh trước đó rất lâu rồi, phải khẩn trương đào một cái giếng khác, nhưng anh lúc nào cũng nói rằng kinh phí của căn cứ hẹn hẹp, nếu đủ dùng thì không đào cái mới nữa. Giờ thì hay rồi, cháy đến đít rồi đấy!”
Makarov cũng không nói được gì, trong lòng bắt đầu ân hận vì đã không nghe lời Branch ngay từ đầu: “Vậy ngay sau đây chúng ta phải làm thế nào?”
“Bây giờ phải đào giếng đã, nhưng e rằng thời gian một tháng cũng không kịp đâu. Điều kiện địa chất ở đây không phải là anh không biết, vô cùng khô hạn, không phải cứ đào sâu là sẽ có nước đâu.”
“Tôi hiểu cấu tạo địa chất ở đây rất phức tạp, không phải chỗ nào cũng đào được nước, bởi vậy nếu trong vòng một tháng mà không đào được nước thì chúng ta phải làm thế nào?”, Makarov đã có chút cuống lên.
“Đúng vậy, trong căn cứ thì bao nhiêu người, nếu không có nước thỉ chúng ta cũng không tài nào trụ được ở đây đâu!”, Branch nói tới đây, ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói: “Nhưng cũng không phải là hết cách, trước khi đào giếng chúng ta có thể yêu cầu hậu phương tiếp nước cho chúng ta bằng trực thăng, nhưng...”
“Nhưng sao?”
“Nhưng như vậy sẽ tốn rất nhiều tiền. Tôi tính sơ qua, lượng nước mà căn cứ chúng ta dùng trong một ngày ít nhất cũng phải cần tới hai chiếc trực thăng Mi-8 chở tới. Nếu hai tháng mới đào thấy nước thì tổng cộng phải cần tới 120 chuyến máy bay chở nước tới. Anh tính mà xem, chỉ riêng tiền dầu áy bay đã là bao nhiêu rồi? Nước được chở đến như vậy cũng đắt lắm!”. Branch tính toán ra cho Makarov một con số đáng để ngạc nhiên.
Makarov lặng lẽ không nói năng gì. Branch lại nói tiếp: “Đày vẫn là cách tính lạc quan nhất đấy, nếu như trong hai tháng mà không đào được nước, nếu như trên đường chuyển nước tới gặp phải sự cố nào đó, thì tiền để đưa nước tới sẽ không thể tính nổi đâu.”
Branch nói vậy khiến Makarov giật thót tim. Trong lòng Makarov cũng rất rõ, nếu như sự việc đúng như những gì Branch nói thì mình cũng sắp bị cách chức đến nơi.
“Vậy không còn cách nào khác sao?”, Makarov ty giọng khẩn khoản.
Branch nhún vai: “Rất tiếc, tôi thực sự không nghĩ ra còn cách nào tốt hơn.”
Tuy Branch ngoài miệng nói hết cách nhưng trong lòng Makarov biết thừa Branch chắc chắn vẫn còn cách, anh ta chỉ cần mình khẩn cầu anh ấy, giống như một sự báo thù nho nhỏ cho sự việc A711209 lần trước hoặc coi như hòa nhau.
“Tôi nghĩ chắc chắn anh sẽ có cách!”, Makarov khẩn cầu.
Branch nhìn lên trần nhà, ngẫm nghĩ, nói: “Cách hả?
Cũng không phải là không có, nhưng cũng chỉ là xem có gặp vận may hay không thôi”.
“Xem vận may...”, Makarov hiểu ý của Branch,
“Cách của anh là ra ngoài tìm nguồn nước?”
“Chúng ta có thể một mặt để hậu phương phái người tới đào giếng, một mặt tìm kiếm nguồn nước tạm thời gần căn cứ.”
“Sau khi chúng ta tới đây cũng đã từng tìm kiếm nguồn nước quanh đây, nhưng đến chút bọt nước cũng chẳng thấy!”, Makarov bày tỏ sự thất vọng trước biện pháp của Branch.
“Trước đây chúng ta từng tìm kiếm nguồn nước xung quanh căn cứ, nhưng đều chưa vượt quá phạm vi mười ki lô mét, và còn rất nhiều nơi chưa đi. Lần này, chúng ta phải mở rộng phạm vi khảo sát, lấy căn cứ làm trọng tâm, những khu vực trong đường kính năm chục ki lô mét đều phải tìm.”
“Trong đường kính năm chục ki lô mét? Xa như vậy nếu có tìm thấy nguồn nước thì cùng phải cần tới xe để chỏ" về căn cứ, giá tiền để sử dụng cũng vẫn quá cao!”, Makarov không tin tưởng biện pháp của Branch.
“Đây không phải chỉ là tạm thời thôi sao! Đợi giếng đào được rồi thì chúng ta cũng không cần nữa, hơn nữa không biết chìmg chúng ta cũng không cần phải đi xa như vậy, mà vẫn có thể phát hiện thấy nguồn nước thì sao?
Makarov nghĩ cả đêm, cuối cùng quả thật là chẳng còn cách nào khác, đành phải dùng cách của Branch. Một mặt anh nhờ hậu phương cử người tới đào giếng tìm nguồn nước gần khu căn cứ, một mặt cử nhân viên trong căn cứ đi tìm nguồn nước trong phạm vi ba mươi ki lô mét xung quanh căn cứ.
5
Ba mươi cây số là do Makarov quy định, nhưng quả
nhiên đúng như những gì Branch nói, trong có một tuần, tất cả những nhân viên đi tìm kiếm nguồn nước đều trở về báo cáo rằng không phát hiện thấy nguồn nước nào.
“Sao rồi tôi đã nói với anh rồi mà trong phạm vi ba chục cây số gần căn cứ anh đừng mong tìm được nguồn nước!” Giọng Branch có chút phấn lkh[ỉ trong nỗi bất hạnh của người khác.
Được rồi, đồng chí Branch, chúng ta đừng chọc tữa, quanh đây anh thông thạo hơn tôi, rốt cuộc có nguồn nước không?”, Makarov có chút lo lắng.
“Nói thật với anh nhé, trong vòng ba chục cây số cỏ một nơi có nguồn nước...”, Branch không thay đối giọng điệu.
“Sao anh không nói sớm!”, Makarov có chút tức giận.
“Bởi vì nguồn nước này rất khó sử dụng”, Branch đủng đỉnh nói.
“Thế nào gọi là rất khó sử dụng?”, Makarov chất vấn.
“Bởi vì nguồn nước đó gần khe Sói hoang.”
“Khe Sói hoang?!”, Makarov lập tức im bặt.
“Hoặc có thể nói rằng nguồn nước đó chính tại khe Sói hoang!”, Branch lại bổ sung thêm.
Mãi lâu sau, Makarov giống như hạ quyết tâm rất lớn vậy, nghiêm giọng nói: “Bất luận ở đâu, cứ đi xem thế nào đã.”
Makarov cố ý muốn đi, vậy là Branch lại phải lái xe đưa anh tới gần khe Sói hoang. Nhưng lần này Branch không đưa anh tới hang núi màu đỏ chất đầy xương trắng lần trước nữa mà lại đưa anh tới một khe núi kĩ lạ.
Makarov phát hiện ra khe núi này rất rộng, cơ bản không hề giống một khe núi, dãy núi hai bên rất thấp nhưng lại không trông thấy rặng núi phía sau. Xe tiến vào chưa được bao lâu thì Makarov phát hiện ra trong đất cát mềm nhũn xuất hiện một chút màu xanh, xe càng đi vào trong thì màu xanh xuất hiện càng nhiều.
“Đây là đâu? Hình như không giống khe Sói hoang lần trước chúng ta tới?”, Makarov lớn tiếng hỏi Branch.
Branch không vội trả lời câu hỏi của Makarov mà lái xe tới một bãi cỏ xanh rộng rãi trước, đỗ xe lại rồi mới trả lời câu hỏi của Makarov: “Tôi nghe ông lão du mục kể lại rằng, gọi là khe Sói hoang thực ra không phải nhằm chỉ một hang động cụ thế nào cả mà để chỉ hàng loạt những hang động lớn nhỏ ẩn chứa trong rặng núi màu đỏ này”.
“Ra là như vậy! Thảo nào lần trước anh nói rằng đại quân của Thành Cát Tư Hãn đã từ đây tập kích Tây Hạ, nếu như là cái hang động bé tẹo lần trước thì làm sao mà chứa được đại quân của Thành Cát Tư Hãn cơ chứ? Một hang động hoang vu đáng sợ như vậy, thì sao có người và gia súc đi qua đó được chứ?”, Makarov nói.
“Không! Anh sai rồi, ông lão du mục đó kể rằng, đại quân của Thành Cát Tư Hãn đã đi qua cái hang động dài hẹp mà anh trông thấy đấy. Hơn nữa, anh đừng tưởng rằng cái hang mà hôm nay chúng ta đến trông phong cảnh không đến nỗi, còn có cả thực vật xanh rì, thì cho rằng ở đây không nguy hiểm. Ông lão đó từng nói với tôi rằng hang động nào quanh đây cũng nguy hiểm cả!”, Branch cảnh cáo Makarov.
“Hang động nào cũng nguy hiểm ư?”, Makarov có chút giật mình.
“Đúng! Hang động nào cũng nguy hiểm, bởi vậy tôi mới không nhắc tới nguồn nước ở đây với anh. Anh phải biết rằng, nếu một người trong sa mạc mênh mông bồng đột nhiên trông thấy nguồn nước, thì đừng có vui mừng vội, mà trước tiên phải tìm hiểu cho rõ tại sao giữa sa mạc mênh mông, những nơi khác không có nguồn nước mà ở đây lại có?”
“Giống như ở đây?”
“Đúng! Mấy hang động ở đây tôi cũng đã từng tới, trong những hang động khác không có chút màu xanh nào cả, chỉ duy nhất ở đây có một vùng thực vật rộng như vậy, điều này rất không bình thường.”
“Vì vậy anh nghi ngờ nước ở đây không dùng được?! Bất luận thế nào cũng cần phải tin vào khoa học. Chúng ta có thể đem chút nước mẫu về mời chuyên gia xét nghiệm!”, Makarov nhìn màu xanh khắp nơi, hình như anh rất tự tin rằng đã tìm thấy nguồn nước ở đây.
“Được rồi! Anh hãy để khoa học của anh xét nghiệm đi! Chúng ta đi thôi!”, Branch nhảy xuống xe.
Makarov cũng nhảy xuống xe, anh phát hiện thảm, thực vật dưới chân ngoài cỏ lau, nhục thung dung, cây lang độc ra thì vẫn còn một loài thực vật màu xanh mà anh không biết tên. Loài thực vật này không cao, nhưng sức sống rất ngoan cường, bám chặt lấy mặt đất, phủ kín cả khe núi.
Makarov cũng theo Branch tiến lên phía trước, chân giầm lên thảm thực vật màu xanh không biết tên này. Makarov cảm giác địa hình dưới chân mình hình như cao lên, chẳng bao lâu sau họ đã vượt qua một cồn cát nhỏ. Dưới cồn cát, trong đám lau sậy che phủ, một hố nước hiện lên trước mặt Makarov.
6
Makarov hào hứng lao tới trước hố nước, vạch đám lau sậy ra, cúi người xuống, đang định dùng tay múc nước trong hố lên thì Branch phía sau lièn hét to: “Cẩn thận!”
Makarov cũng vội vàng rụt ngay tay lại, quay lại nhìn Branch. Toàn thân Branch quay lưng về phía ánh mặt trời, chìm đắm trong bóng râm. “Anh nhìn bên cạnh anh xem!”, giọng Branch khiến Makarov cảm thấy ớn lạnh.
Makarov cũng vội vàng nhìn sang bên cạnh, anh phát hiện ra trong đám lau sậy bên cạnh mình là một đống xương trắng lồ lộ. “Đây...”, Makarov nhận ra đây là một bộ xương bò. ngay sau đó, anh lại phát hiện ra còn nhiều xương trắng hơn nữa trong đống lau sậy bên cạnh, đó là xương bò,
Xương dê, còn có cả xương của loài động vật có vú to lớn mà anh không biết tên, dĩ nhiên càng khiến Makarov cảm thấy hoảng loạn hơn chính là hai bộ xương người.
“Sao ở đây lại có nhiều xương cốt vậy?”, giọng Makarov đầy sợ hãi.
“Bởi vậy tôi mới bảo anh cẩn thận!”
“Lẽ nào trong nước có độc? Những người và gia súc này sau khi uống nước đã vĩnh viễn ngã ra đây?”
“Có độc hay không thì tôi không biết nhưng đây rõ ràng là một hố nước ăn thịt người! Anh xem trong hang núi này chúng ta không phát hiện thấy xương cốt nào mà tất cả xương đều xuất hiện bên cạnh hố nước, có khi trong hố nước cũng có xương cũng nên; việc này nói lên điều gì?”, Branch suy đoán.
Makarov vươn người ra mặt nước nhìn ngó, quả nhiên, dưới làn nước không được trong lắm thấp thoáng hiện lên những mẩu xương trắng rời rạc. Khi chưa rõ đây là xương người hay xương động vật, thì anh đã cảm thấy hoa mắt chóng mặt, rồi bỗng có cảm giác trời đất quay cuồng. Makarov linh cảm không lành, người anh bất giác đổ về phía sau. Đúng trong giây phút anh mất thăng bằng thì một cánh tay vạm vỡ đã đỡ lấy anh. Makarov nằm trên bờ, thở hổn hển, lúc này anh mới trông thấy người ban nãy đỡ mình chính là Branch.
“Cái hố... hố nước này nguy hiểm thật!”, Makarov thở hổn hển nói.
“Tôi không gạt anh phải không, nếu không phải nước ở đây có vấn đề thì là cái hố nước này có vấn đề, không biết chừng trong đó còn có con quái vật nào cũng nên!”
“Quái vật?”, Makarov nhìn mặt nước không rộng lắm trong lúc Branch cười nói.
Branch thấy Makarov không tin liền giải thích: “Ông lão du mục đó còn kể với tôi rằng: trong hố nước này có một con quái vật rất hung ác, chuyên ăn thịt những người qua lại đây. Nhưng con quái vật này không nhoài lên tấn công người và động vật, mà nó chỉ ăn những người và động vật không chịu được khát đã đến đây uống nước mà thôi.”
“Anh đừng dọa tôi nữa, một cái hố nước nhỏ như vậy làm sao mà quái vật sống được?”
“Tôi không biết, những chuyện đó đều là do ông lão du mục kể cho tôi nghe. Ban đầu tôi cũng không tin, nhưng ông lão đó nói: tuy hố nước này không rộng nhưng rất sâu, sâu không thấy đáy, thông với một cái hồ lớn cách đây rất xa”, Branch nói rất thật, khiến Makarov không thể không tin.
Makarov đứng dậy, anh nhìn mặt nước tĩnh lặng, ước lượng một lúc, cái hố nước này ít nhất cũng giúp căn cứ đủ dùng trong hai tháng. Tuy trong lòng Makarov sợ hãi, nhưng vẫn không chịu khuất phục, anh lại lần nữa cẩn thận nhoài người ra nhìn xuống đáy nước. Lại một trận quay cuồng, khiến anh không chịu được, lại nằm vật ra bãi lau bên cạnh. Anh bắt đầu tin truyền thuyết mà ông lão du mục kia kể.
Nghỉ nghơi một lúc, Makarov mới hồi phục lại. Anh không dám nhìn cái hố nước đó thêm lần nào nữa, lo sợ con quái vật đó đột nhiên chui từ mặt nước lên kéo mình xuống dưới.
“ở... ở đây không còn nguồn nước nào khác sao?”, mãi sau Makarov mới hỏi lại.
Branch nhìn hố nước trước mặt, một lúc sau mới lắc đầu, nói: “Phía trước tôi chưa đến bao giờ, bởi vì ở đó là dường biên giới. Chỉ mới tới đây thôi, trong vòng mấy chục cây số quanh đây, tôi cũng chỉ phát hiện thấy mồi cái hố nước này. Có khi phía trước vẫn còn, nhưng đối với chúng ta thì cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.”
“Đúng! Chẳng có ý nghĩa gì cả!”, Makarov miệng lẩm bẩm, cùng Branch quay lại xe. Trong lúc khởi động máy, Makarov vẫn thất vọng quay lại nhìn cồn cát đó, anh đã không còn trông thấy cái hố nước ăn thịt người đâu nữa.
7
Makarov vừa hồi tưởng xong về cái hố nước ăn thịt người, thì cơ thể ông bất giác đổ về phía sau, rồi đột nhiên người ông hẫng một cái, cả người lõm xuống. “Đường Phong, ở đây có cái gì đó!”, Makarov hét lên.
Đường Phong cũng nghe thấy một tiếng động nặng trịch; khi anh trông thấy Makarov lún vào trong đó, theo phản xạ, anh đã kéo ngay Makarov lại, nhưng không thể kéo được. Nhìn Makarov càng lúc càng lún sâu vào trong mà anh không biết phải làm thế nào. Thế nhưng, sau khi tảng đá sau lưng Makarov đã lún vào trong một đoạn thì nó dừng lại.
Makarov nhìn Đường Phong, Đường Phong cũng nhìn ông, rồi hai người không hẹn mà gặp, cùng lúc nhìn xung quanh và nhìn lên đỉnh đại điện. Họ không biết sắp có vận hạn gì rơi xuống đầu, cũng không biết bước tiếp theo nên làm thế nào.
Thời gian dường như ngừng lại, toàn bộ đại điện yên ắng tĩnh mịch. Makarov vẫn tựa lưng vào tảng đá lõm xuống, ông không dám tùy tiện cử động vì sợ rằng lại chạm vào thứ đáng sợ nào đó.
Đường Phong ra hiệu cho Makarov từ từ đứng dậy. Makarov phán đoán tình hình một hồi, sau đó mới từ từ vươn thẳng lưng. Tảng đá to phía sau lưng ông không hề thay đổi, vẫn lõm xuống giữa những bậc thang đá. Makarov đã bình tĩnh trở lại, ông tức tốc đứng dậy, bước tới cạnh Đường Phong, rồi mới dám quay đầu lại nhìn tảng đá đã lõm vào: “Thế này là thế nào? Bậc thang đá mà cũng có thể lõm vào trong sao?”
“Chắc chắn ban nãy bác đã chạm vào chồ nào đó rồi!”, Đường Phong phán đoán.
“Giờ ta phải làm thế nào?”
“Cháu cũng chưa biết!”, Đường Phong ngầm nghĩ, quyết định hay là cứ mạo hiểm một lần đê xem rốt cuộc thế nào. Anh thu hết can đảm tới cạnh bậc thang lõm vào trong, dùng chân đạp thử hai bên bậc đá, mặt bậc vẫn vững chắc kiên cố, chẳng động tĩnh gì cả, bậc đá ở cùng vị trí phíaa trên và phía dưới cũng như vậy.
“Xem ra ở đây đúng là có một hệ thống nào đó rồi!",
Đường Phong tin tưởng phán đoán của mình.
“Nhưng chẳng xảy ra chuyện gì cả mà?”, Makarov lính là kể từ lúc mình chạm vào thứ đó đến giờ thì cũng đã bảy tám phút trôi qua.
“Lẽ nào là do thời gian qua đi quá lâu rồi, nên hệ thống đó không nhạy nữa?”, Đường Phong cũng cảm thấy kì lạ.
Đường Phong lùi lại phía sau, cẩn thận quan sát vị trí mà họ đang đứng, là bậc thang thứ hai cạnh đầm nước phía tây, bậc đá lõm vào ở vị trí chếch về bên phải của tầng chính giữa những bậc thang đá.
“Quái lạ, ở đây vừa không phải là đỉnh nhọn, cũng không phải là vị trí chính giữa...”, Đường Phong nghi ngờ miệng lẩm bẩm.
“Nếu như nhìn tò bên phải thì bậc đá lõm vào ở khoảng vị trí một phần ba”, Makarov nhanh nhạy phán đoán.
“Chồ một phần ba?”, đầu óc Đường Phong nhanh chóng tính toán, rồi anh lập tức reo lên: “Cháu hiểu rồi!”
Đường Phong quay lại hấp tấp đi tới bậc đá phía bắc, Makarov cũng theo sau, hỏi với theo: “Cậu hiểu ra gì vậy?”
“Tỷ lệ vàng! Vị trí này vừa đúng là tỷ lệ vàng!”, tiếng reo của Đường Phong khiến cả đại điện vang lên ong ong.
“Tỷ lệ vàng! Trời ơi, người Đảng Hạng cũng biết tỷ lệ vàng sao?”, Makarov không sao tin được.
Đường Phong tới vị trí tương tự chỗ bậc đá phía bắc, kiếm tra một lượt, và tin rằng phán đoán của mình là chính xác, khi anh đưa hai tay ra đẩy thử, một tiếng động nặng trịch vang lên, tảng đá trước mặt quả nhiên lõm vào bên trong.
Bậc thang phía bắc đó đã lõm vào trong, nhưng đại điện vẫn chẳng có gì thay đổi. Đường Phong và Makarov tới vị trí tương tự ở phía đông, rồi dùng cách giống như vậy, và tình hình giống hệt như hai chồ ban nãy. Cuối cùng, khi họ tới vị trí tương tự ở phía nam thì cả hai trở nên do đự, đây rất có khả năng là bậc thang cuối cùng khởi động một hệ thống nào đó.
Hai người chần chừ hồi lâu, Makarov mới nói: “Cứ để tôi đẩy!”
Đường Phong không phản đối, anh đã chuẩn bị xong tâm lý đối diện với bất cứ sự cố nào, nhưng anh vẫn bị sự khủng hoảng kì lạ nào đó bao trùm. Sự khủng hoảng với thế giới bên ngoài khiến anh theo phản xạ rút súng ra.
Makarov dồn sức vào hai cánh tay, tảng đá trên bậc thang phía nam lõm vào trong, nhưng vẫn chẳng có gì thay đổi..., nhưng đúng lúc Đường Phong và Makarov ngạc nhiên không hiểu và đưa mắt nhìn nhau, thì không biết từ đâu, một tiếng động lớn vang lên. Ngay sau đó, Đường Phong và Makarov để ý thấy, đầm nước trước mặt họ có sự biến đổi.
1
Lối đi hướng về phía tây vẫn kéo dài. “Đợi đã, "Đường Phong!”, phía sau vang lên giọng của Makarov, “Theo truyền thống kiến trúc Trung Quốc thì tiền điện, trung điện, hậu điện phai cùng trên một tuyến đường, nhưng lối đi này lại trải dài về hướng tây, như vậy có bình thường không?”
“Không bình thường, lối đi này cũng không bình thường!”, Đường Phong nói.
“Đúng vậy! Ở giữa trung điện và hậu điện sao lại có lối đi dài vậy nhỉ!”, Makarov lắc đầu nói.
Trong lúc hai người nói chuyện, Đường Phong không đổ ý dưới chân mình gồ ghề khúc khuỷu, nên xém chút nữa là lộn nhào, Makarov cũng giật mình. Hai người đứng vững lại, Đường Phong vội vàng lấy đèn pin soi, dưới đất xuất hiện một tảng đá nhô lên; lần theo tảng đá này, anh di chuyển ánh sáng đèn pin tới hai bên vách đá, tại hai vị trí giống nhau trên vách đá hai bên, xuất hiện một cái máng lõm vào trong.
“Hóa ra trước kia ở đây có cánh cửa!”, Đường Phong suy đoán.
“Cửa? Sao bây giờ chẳng có gì cả vậy?”
“Bậu cửa trên nền đất vẫn còn, có thể nó đã bị những người tới đây trước đó dỡ đi rồi!”, Đường Phong ngẫm nghĩ, nói tiếp: “Mặc kệ cánh cửa đó đi đâu mất, nó xuất hiện ở đây là đã cho thấy hậu điện cách đây không xa nữa đâu.”
“Đúng vậy! Nếu không thì cũng không nhất thiết phải làm một cái cửa ở đây.”
Hai người bước qua bậu cửa, Đường Phong cảm giác tim mình lại bắt đầu đập thình thịch. Phía sau cánh cửa biến mất này có phải là hậu điện không? Ở đó có kệ tranh ngọc không? Anh bất giác bước nhanh hơn. Sau hơn hai chục bựớc chân, Đường Phong cảm giác mình đã tới một nơi rộng rãi, nhưng lấy đèn pin soi thì phía trước lại xuất hiện một bức tường.
Đường Phong nhìn trái ngó phải, rồi lại ngẳng đầu lên nhìn, anh bỗng hiểu ra, trước mặt mình chắc là một “bức vách ngăn”. Makarov cũng đang ngạc nhiên, nhưng
Đường Phong không giải thích mà dẫn ông vòng qua “bức vách ngăn”. Phía sau “bức vách ngăn” rộng thênh thang, Đường Phong chỉ dựa vào ánh đèn pin yểu ớt mà đã cảm thấy đây là một không gian rộng lớn.
Đường Phong và Makarov lần lượt thắp nến lên cái máng trên vách đá, thạch điện khổng lồ rốt cuộc cũng hiện rõ diện mạo trước mắt hai neười. Lúc này, Đường Phong mới phát hiện ra cái gọi là “bức vách ngăn” vốn không phải là bức tường nào cả, mà là lưng của một bức tượng Phật cao lớn. Nhìn lại toàn bộ hậu điện, ở chính giữa ba mặt còn lại đều có một bức tượng Phật cao lớn.
Cả hậu điện hình vuông, mỗi bên đều có bậc dẫn xuống dưới, từng bậc một thu hẹp lại, cuối cùng tại vị trí chính giữa hậu điện là một đầm nước hình vuông, đầm nước chết lấp lánh ánh xanh. Đường Phong không tài nào phán đoán được đó là đầm nước hay lại là một đầm thủy ngân.
“Thật... thật hùng vĩ quá!”, Makarov ngạc nhiên tới nỗi mắt và miệng đều mở to hết cỡ.
“Đúng vậy! Quả nhiên hậu điện to hơn hẳn hai điện trước đó.”
Đường Phong tức tốc đoán định vị trí mà họ đang
đứng là cạnh phía đông của bức tượng Phật; do phía sau tượng Phật là một lối đi, vậy thì ba hướng phía sau tượng Phật cũng có phải là lối đi không nhỉ? Đường Phong ngẫm nghĩ mà chân đã bước tới bức tượng ở hướng nam.
Makarov theo sau, hiểu ngay ra ý của Đường Phong: “Nếu như phía sau mỗi bức tượng đều có một lối đi, vậy... vậy thì... tôi điên mất rồi đấy!”
“Cháu cũng sắp điên đây!”, Đường Phong vòng ngay ra sau bức tượng phía nam, tỉ mỉ quan sát, mỗi một tảng đá to đều khít vào nhau, vô cùng kiên cố, “Xem ra ở đây chẳng có lối đi nào cả.”
Đường Phong lại nhanh chóng vòng ra phía sau bức tượng Phật phía tây, vách đá ở đây cũng khít vào nhau như vậy, sừng sững đồ sộ, phía sau bức tượng phía bắc cũng chẳng phát hiện ra điều gì dị thường. Đường Phong không khỏi nghi ngờ: “Cái này thì gọi gì là cống, một hậu điện hoành tráng như thế này thì đáng ra phải có một cánh cổng hùng vĩ mới xứng tầm chứ nhỉ! Sao chắng có cánh cổng nào cả? Chúng ta đã từ phía sau tượng Phật tiến thẳng vào đây.”
“Đúng vậy! Tôi còn tưởng rằng sẽ có một cánh cống bằng vàng cơ!”, Makarov không khỏi tiếc rẻ.
Đường Phong thắp nến lên cả bốn góc đại điện, toàn bộ hậu điện đã sáng bừng lên. Anh phát hiện ra trên đỉnh đầu chính giữa đại điện có chạm khắc một đóa hoa sen khổng lồ, ở chính giữa đóa hoa hiện lên bốn chữ to, nét rắn rỏi, vẫn là chữ Tây Hạ. Đường Phong ngẩng đầu nhìn lên vòm động, từ từ đọc lên bốn chữ này: “Quang - Minh - Đại - Điện”.
2
Toàn bộ Quang Minh thần điện đã được nến soi sáng, tuy ánh sáng vàng đục nhưng cũng đủ để Đường Phong nhìn rõ mọi vật trong đại điện. Lúc này anh mới phát hiện ra, xung quanh bốn pho tượng Phật có rất nhiều tượng Phật bị đổ nghiêng ngả, còn có rất nhiều tượng Phật bị hư hỏng. “Thế này là thế nào?”, Đường Phong cúi xuống, nhặt một mảnh tượng Phật bị nứt vỡ lên.
“Xem ra ở đây đã từng bị phá hoại!”, Makarov suy đoán.
“Ai đã phá hủy những tượng Phật đẹp đẽ này? Nghĩ mà xem, hóa ra những bức tượng này đều được dựng xung quanh bốn bức tượng Phật lớn, hùng vĩ làm sao! Linh Sơn ở Tây Thiên cũng chỉ đến vậy mà thôi!”, Đường Phong thán phục.
“Chắc chắn là người có thù hằn sâu sắc với chủ nhân ở đây.”
“Lẽ nào là Lượng Tộ?”, Đường Phong lẩm bẩm.
Trong tức khắc, Đường Phong phát hiện ra trong đống tượng Phật đổ nát phía dưới bức tượng phía tây, có một tấm bia đứng sừng sững, rất dễ nhìn. Anh bước tới, vuốt bụi trên đó đi, rồi từ tò đọc những chữ Tây Hạ khắc trên bia đá: “Một Tạng Thị chuyên quyền, lật đổ triều thần, độc đoán chuyên hành, trong mắt không có quân phụ, tram vô cùng thù hận; phụ mẫu trẫm dâm loạn bất pháp, bao che cho những người trong sắc tộc, trẫm vô cùng thù hận. Nay trẫm may mắn được ông trời phù hộ, đoạt được triều chính, ra tay trừ gian diệt ác, gây dựng lại triều cương. Không vì việc tư mà bỏ qua công luận, không vì hiếu từ mà lãng quên luật pháp... đóng cửa hậu điện, phá bỏ lối đi, vĩnh viễn chôn vùi Một Tạng Thị và những gian nhân.”
Có mấy chữ trong đó quả thực Đường Phong không nhìn rõ, nhưng chỉ những dòng này thôi mà đã khiến anh giật thót tim, một đoạn mật sử của vương triều Tây Hạ đã phơi bày trước mắt anh. “Xem ra những gì chúng ta suy đoán đều đúng cả, Lượng Tộ quả nhiên vì hận thù gia tộc Một Tạng chuyên quyền nên mới đóng cửa thạch điện, phá hủy đường đi. Khỏi cần phải hỏi, phá hủy những tượng Phật này cũng chính là Lượng Tộ!”, Đường Phong nói.
“Nhưng tại sao bốn pho tượng Phật này lại không bị hủy hoại nhỉ?”, Makarov hỏi.
“Có thể là do chúng quá to nên không hủy hoại ngay được!”, Đường Phong đoán mò.
Đường -Phong đã hết hứng thú với những bức tượng to lớn này, bởi anh chợt phát hiện ra hình như đầm nước chính giữa hậu điện phát ra chút ánh sáng quái dị.
Makarov cũng đã trông thấy sự biến hóa trong đầm nước. Hai người bước xuống năm sáu bậc thang, tới lúc chỉ còn cách mặt nước bốn bậc, Đường Phong ngạc nhiên tới nồi ngớ người ra. Anh dừng lại, quay đầu nhìn Makarov. Makarov cũng há hốc mồm kinh ngạc, nhìn Đường Phong.
“Đây... đây chính là… chính là kho báu của Hạo vương sao?”, Đường Phong lẩm bẩm.
“Tôi nghĩ là vậy, đây chính là kho báu của Hạo vương!”, Makarobv cũng không ngừng lẩm bẩm.
Mặt nước chết trong đầm nước hình vuông lấp loáng sắc xanh, nhưng chốc chốc lại lóe lên sắc vàng khiến Đường Phong và Makarov bất giác không thể mở được mắt ra.
Đường Phong che mắt, cẩn thận rón rén bước tiếp ba bậc thang xuống dưới, tới cạnh mép đầm. Anh thực sự bị chấn động bởi cảnh tượng trước mắt, trong đầm là những thỏi vàng, thỏi bạc, tiền xu chất như núi cùng những báu vật kì lạ và quý báu đủ hình đủ dạng. Đường Phong không tài nào khống chế được sự hưng phấn trong lòng, anh đưa tay về phía mặt nước chết đó...
3
“Cẩn thận! Đường Phong!”, Makarov bỗng hét lên.
Đường Phong lúc này mới tỉnh lại, vội vàng rút tay về, kích động tới nỗi lắp ba lắp bắp, nói không thành câu: “Đây... quả là..hóa... hóa ra là một đầm châu báu.”
“Đường Phong, tỉnh táo chút đi. Nếu như ở đây là kho báu của Hạo Vương, thì tại sao đám người tới đây trước chúng ta không lấy đi?”, Makarov vẫn giữ được tỉnh táo đúng như tố chất mà ông từng được huấn luyện.
“Đúng vậy!”, Đường Phong nghe Makarov nói vậy liền tỉnh ngay ra, “Lão Mã, may mà có bác cảnh tỉnh. Từ di tích ban nãy cho thấy, đám người đó đã từng tới Quang Minh thần điện rồi, nhưng lại không lấy những báu vật này đi. Vậy có khi nào trong... trong đầm này là thủy ngân không? Bởi vậy mà những người đó mới không lấy những báu vật này?”, Đường Phong bồng nghĩ tới thủy ngân.
Makarov ngồi xuống, cúi sát mặt nước, cẩn thận quan sát, cuối cùng lắc lắc đầu, nói: “Không giống thủy ngân, đây là một đầm nước chết.”
“Vậy phải giải thích thế nào về đám người tới đây trước chúng ta?”, Đường Phong thấy đầu óc mình rối tung cả lên.
“Điều này...”, Makarov cũng khône thể trả lời câu hỏi này.
Đường Phong lấy hết can đảm, nhoài ra áp người sát đầm nước. Nhìn lớp rong rêu dày cộm bên cạnh đầm mà anh hoa mắt chóng mặt, chỉ muốn nhìn thấu lớp sương mù, chọc thủng xuống tận đáy đầm mà thôi. Nhưng anh không trông thấy đáy đầm, bởi vì trong đó chất đầy châu báu và nước thì xanh lét, đục ngầu.
“Tôi sợ nhất là có một con quái vật từ trong đầm nhảy lên nuốt chửng chúng ta!”, Makarov nói vậy khiến Đường Phong giật bắn mình.
Đường Phong quay lại nhìn, Makarov cũng đang nhoài người ra mặt nước, quan sát động tĩnh trong đầm.
“Lão Mã, sao bác lại nói vậy?”, Đường Phong không hiểu hỏi Makarov.
Makarov bò dậy, tựa vào bậc thang cạnh đầm nước, chậm rãi nói: “Bởi vì tôi đã từng gặp một cái đầm nước ăn thịt người.”
“Ồ! Một cái đầm nước ăn thịt người?”, Đường Phong không hiểu nhìn Makarov.
“Đúng! Một cái đầm nước ăn thịt naười hoặc có thể gọi là hố nước!”, Makarov khẳng định.
“Hố nước ăn thịt người? Trên đời này đúng là có chuyện như vậy sao? Lại là kinh nghiệm của bác trong KGB phải không?”
“ừm, tất cả những gì ly kì quái gở mà tôi gặp phải đều được KGB ban tặng cả!”
“Lão Mã, những gì bác trải qua tại KGB ly kì thật đấy! Bác có thể viết được cả cuốn sách ấy chứ!”
“Tôi cũng từng nghĩ đến điều đó, nhưng rất nhiều việc trải qua đều thuộc về những vụ án chưa được hóa giải. Giống như cái hố nước mà tôi gặp phải tại căn cứ Tiền Tiến trước đây vậy!”, giọng Makarov rất bình thản.
“Lại là căn cứ Tiền Tiến?!”, Đường Phong ngạc nhiên, “Những chuyện ở căn cứ không phải bác đã kể hết rồi sao? Sao lại vẫn còn chuyện ly kì vậy?”
“Những chuyện ly kì gặp phải trong căn cứ Tiền Tiến thì quá nhiều rồi, so với những gì ly kì gặp phải trong đội thám hiểm lần đó thì còn kéo dài và nhiều hơn nữa! Đó là chuyện xảy ra sau khi Branch đưa tôi tới Khe Sói hoang, khi đó căn cứ Tiền Tiến thiếu nước...”, Makarov vừa nói vừa hồi tưởng lại đoạn kí ức trong khu căn cứ Tiền Tiến.
4
Từ khe Sói hoang trở về chưa được bao lâu, Makarov, lại gặp phải một chuyện ghê rợn. Muốn sinh tồn được trên tại sa mạc Gô-bi thì quan trọng nhất là nguồn nước, và đây cũng là vấn đề lớn của căn cứ Tiền Tiến.
Branch bước vào phòng Makarov, hiếm khi anh càu nhàu như vậy: “Nguồn nước của chúng ta sắp không ổn rồi!”
“Thế nào gọi là sắp không ổn?”, Makarov không hiểu
ý Branch.
“Sắp không ổn tức là sắp hết nước rồi! Lẽ nào anh không phát hiện ra chất lượng nước mấy hôm nay chúng ta uống kém hẳn, tuy đã được khử độc nhưng nước vẫn đục ngầu, bên trong còn có cả cặn.”
“Tôi cũng phát hiện thấy nhưng trước đây cũng từng gặp phải chuyện này rồi mà, cũng đâu đến nỗi mất nước đâu!”, Makarov bán tín bán nghi.
“Trước khi chúng ta đến, nước dùng ở đây đều lấy từ giếng bên ngoài căn cứ. Mấy năm nay, căn cứ tăng thêm bao nhiêu người như vậy, nhưng cũng không phát hiện thêm được nguồn nước nào mới, cái giếng đó quá tải từ lâu rồi. Ban nãy tôi đã đi kiểm tra rồi, cái giếng đó chắc chắn không trụ được bao lâu nữa đâu, nếu không tìm thấy nguồn nước mới thì chúng ta sẽ mất nước thật đấy!”
“Nghiêm trọng vậy ư? Vậy cái giếng đó còn trụ được bao lâu nữa?”, Makarov có chút bất ngờ.
“Nhiều nhất là một tháng!”, Branch nói xong nhìn Makarov hồi lâu rồi nói tiếp: “Tôi đã kiến nghị với anh trước đó rất lâu rồi, phải khẩn trương đào một cái giếng khác, nhưng anh lúc nào cũng nói rằng kinh phí của căn cứ hẹn hẹp, nếu đủ dùng thì không đào cái mới nữa. Giờ thì hay rồi, cháy đến đít rồi đấy!”
Makarov cũng không nói được gì, trong lòng bắt đầu ân hận vì đã không nghe lời Branch ngay từ đầu: “Vậy ngay sau đây chúng ta phải làm thế nào?”
“Bây giờ phải đào giếng đã, nhưng e rằng thời gian một tháng cũng không kịp đâu. Điều kiện địa chất ở đây không phải là anh không biết, vô cùng khô hạn, không phải cứ đào sâu là sẽ có nước đâu.”
“Tôi hiểu cấu tạo địa chất ở đây rất phức tạp, không phải chỗ nào cũng đào được nước, bởi vậy nếu trong vòng một tháng mà không đào được nước thì chúng ta phải làm thế nào?”, Makarov đã có chút cuống lên.
“Đúng vậy, trong căn cứ thì bao nhiêu người, nếu không có nước thỉ chúng ta cũng không tài nào trụ được ở đây đâu!”, Branch nói tới đây, ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói: “Nhưng cũng không phải là hết cách, trước khi đào giếng chúng ta có thể yêu cầu hậu phương tiếp nước cho chúng ta bằng trực thăng, nhưng...”
“Nhưng sao?”
“Nhưng như vậy sẽ tốn rất nhiều tiền. Tôi tính sơ qua, lượng nước mà căn cứ chúng ta dùng trong một ngày ít nhất cũng phải cần tới hai chiếc trực thăng Mi-8 chở tới. Nếu hai tháng mới đào thấy nước thì tổng cộng phải cần tới 120 chuyến máy bay chở nước tới. Anh tính mà xem, chỉ riêng tiền dầu áy bay đã là bao nhiêu rồi? Nước được chở đến như vậy cũng đắt lắm!”. Branch tính toán ra cho Makarov một con số đáng để ngạc nhiên.
Makarov lặng lẽ không nói năng gì. Branch lại nói tiếp: “Đày vẫn là cách tính lạc quan nhất đấy, nếu như trong hai tháng mà không đào được nước, nếu như trên đường chuyển nước tới gặp phải sự cố nào đó, thì tiền để đưa nước tới sẽ không thể tính nổi đâu.”
Branch nói vậy khiến Makarov giật thót tim. Trong lòng Makarov cũng rất rõ, nếu như sự việc đúng như những gì Branch nói thì mình cũng sắp bị cách chức đến nơi.
“Vậy không còn cách nào khác sao?”, Makarov ty giọng khẩn khoản.
Branch nhún vai: “Rất tiếc, tôi thực sự không nghĩ ra còn cách nào tốt hơn.”
Tuy Branch ngoài miệng nói hết cách nhưng trong lòng Makarov biết thừa Branch chắc chắn vẫn còn cách, anh ta chỉ cần mình khẩn cầu anh ấy, giống như một sự báo thù nho nhỏ cho sự việc A711209 lần trước hoặc coi như hòa nhau.
“Tôi nghĩ chắc chắn anh sẽ có cách!”, Makarov khẩn cầu.
Branch nhìn lên trần nhà, ngẫm nghĩ, nói: “Cách hả?
Cũng không phải là không có, nhưng cũng chỉ là xem có gặp vận may hay không thôi”.
“Xem vận may...”, Makarov hiểu ý của Branch,
“Cách của anh là ra ngoài tìm nguồn nước?”
“Chúng ta có thể một mặt để hậu phương phái người tới đào giếng, một mặt tìm kiếm nguồn nước tạm thời gần căn cứ.”
“Sau khi chúng ta tới đây cũng đã từng tìm kiếm nguồn nước quanh đây, nhưng đến chút bọt nước cũng chẳng thấy!”, Makarov bày tỏ sự thất vọng trước biện pháp của Branch.
“Trước đây chúng ta từng tìm kiếm nguồn nước xung quanh căn cứ, nhưng đều chưa vượt quá phạm vi mười ki lô mét, và còn rất nhiều nơi chưa đi. Lần này, chúng ta phải mở rộng phạm vi khảo sát, lấy căn cứ làm trọng tâm, những khu vực trong đường kính năm chục ki lô mét đều phải tìm.”
“Trong đường kính năm chục ki lô mét? Xa như vậy nếu có tìm thấy nguồn nước thì cùng phải cần tới xe để chỏ" về căn cứ, giá tiền để sử dụng cũng vẫn quá cao!”, Makarov không tin tưởng biện pháp của Branch.
“Đây không phải chỉ là tạm thời thôi sao! Đợi giếng đào được rồi thì chúng ta cũng không cần nữa, hơn nữa không biết chìmg chúng ta cũng không cần phải đi xa như vậy, mà vẫn có thể phát hiện thấy nguồn nước thì sao?
Makarov nghĩ cả đêm, cuối cùng quả thật là chẳng còn cách nào khác, đành phải dùng cách của Branch. Một mặt anh nhờ hậu phương cử người tới đào giếng tìm nguồn nước gần khu căn cứ, một mặt cử nhân viên trong căn cứ đi tìm nguồn nước trong phạm vi ba mươi ki lô mét xung quanh căn cứ.
5
Ba mươi cây số là do Makarov quy định, nhưng quả
nhiên đúng như những gì Branch nói, trong có một tuần, tất cả những nhân viên đi tìm kiếm nguồn nước đều trở về báo cáo rằng không phát hiện thấy nguồn nước nào.
“Sao rồi tôi đã nói với anh rồi mà trong phạm vi ba chục cây số gần căn cứ anh đừng mong tìm được nguồn nước!” Giọng Branch có chút phấn lkh[ỉ trong nỗi bất hạnh của người khác.
Được rồi, đồng chí Branch, chúng ta đừng chọc tữa, quanh đây anh thông thạo hơn tôi, rốt cuộc có nguồn nước không?”, Makarov có chút lo lắng.
“Nói thật với anh nhé, trong vòng ba chục cây số cỏ một nơi có nguồn nước...”, Branch không thay đối giọng điệu.
“Sao anh không nói sớm!”, Makarov có chút tức giận.
“Bởi vì nguồn nước này rất khó sử dụng”, Branch đủng đỉnh nói.
“Thế nào gọi là rất khó sử dụng?”, Makarov chất vấn.
“Bởi vì nguồn nước đó gần khe Sói hoang.”
“Khe Sói hoang?!”, Makarov lập tức im bặt.
“Hoặc có thể nói rằng nguồn nước đó chính tại khe Sói hoang!”, Branch lại bổ sung thêm.
Mãi lâu sau, Makarov giống như hạ quyết tâm rất lớn vậy, nghiêm giọng nói: “Bất luận ở đâu, cứ đi xem thế nào đã.”
Makarov cố ý muốn đi, vậy là Branch lại phải lái xe đưa anh tới gần khe Sói hoang. Nhưng lần này Branch không đưa anh tới hang núi màu đỏ chất đầy xương trắng lần trước nữa mà lại đưa anh tới một khe núi kĩ lạ.
Makarov phát hiện ra khe núi này rất rộng, cơ bản không hề giống một khe núi, dãy núi hai bên rất thấp nhưng lại không trông thấy rặng núi phía sau. Xe tiến vào chưa được bao lâu thì Makarov phát hiện ra trong đất cát mềm nhũn xuất hiện một chút màu xanh, xe càng đi vào trong thì màu xanh xuất hiện càng nhiều.
“Đây là đâu? Hình như không giống khe Sói hoang lần trước chúng ta tới?”, Makarov lớn tiếng hỏi Branch.
Branch không vội trả lời câu hỏi của Makarov mà lái xe tới một bãi cỏ xanh rộng rãi trước, đỗ xe lại rồi mới trả lời câu hỏi của Makarov: “Tôi nghe ông lão du mục kể lại rằng, gọi là khe Sói hoang thực ra không phải nhằm chỉ một hang động cụ thế nào cả mà để chỉ hàng loạt những hang động lớn nhỏ ẩn chứa trong rặng núi màu đỏ này”.
“Ra là như vậy! Thảo nào lần trước anh nói rằng đại quân của Thành Cát Tư Hãn đã từ đây tập kích Tây Hạ, nếu như là cái hang động bé tẹo lần trước thì làm sao mà chứa được đại quân của Thành Cát Tư Hãn cơ chứ? Một hang động hoang vu đáng sợ như vậy, thì sao có người và gia súc đi qua đó được chứ?”, Makarov nói.
“Không! Anh sai rồi, ông lão du mục đó kể rằng, đại quân của Thành Cát Tư Hãn đã đi qua cái hang động dài hẹp mà anh trông thấy đấy. Hơn nữa, anh đừng tưởng rằng cái hang mà hôm nay chúng ta đến trông phong cảnh không đến nỗi, còn có cả thực vật xanh rì, thì cho rằng ở đây không nguy hiểm. Ông lão đó từng nói với tôi rằng hang động nào quanh đây cũng nguy hiểm cả!”, Branch cảnh cáo Makarov.
“Hang động nào cũng nguy hiểm ư?”, Makarov có chút giật mình.
“Đúng! Hang động nào cũng nguy hiểm, bởi vậy tôi mới không nhắc tới nguồn nước ở đây với anh. Anh phải biết rằng, nếu một người trong sa mạc mênh mông bồng đột nhiên trông thấy nguồn nước, thì đừng có vui mừng vội, mà trước tiên phải tìm hiểu cho rõ tại sao giữa sa mạc mênh mông, những nơi khác không có nguồn nước mà ở đây lại có?”
“Giống như ở đây?”
“Đúng! Mấy hang động ở đây tôi cũng đã từng tới, trong những hang động khác không có chút màu xanh nào cả, chỉ duy nhất ở đây có một vùng thực vật rộng như vậy, điều này rất không bình thường.”
“Vì vậy anh nghi ngờ nước ở đây không dùng được?! Bất luận thế nào cũng cần phải tin vào khoa học. Chúng ta có thể đem chút nước mẫu về mời chuyên gia xét nghiệm!”, Makarov nhìn màu xanh khắp nơi, hình như anh rất tự tin rằng đã tìm thấy nguồn nước ở đây.
“Được rồi! Anh hãy để khoa học của anh xét nghiệm đi! Chúng ta đi thôi!”, Branch nhảy xuống xe.
Makarov cũng nhảy xuống xe, anh phát hiện thảm, thực vật dưới chân ngoài cỏ lau, nhục thung dung, cây lang độc ra thì vẫn còn một loài thực vật màu xanh mà anh không biết tên. Loài thực vật này không cao, nhưng sức sống rất ngoan cường, bám chặt lấy mặt đất, phủ kín cả khe núi.
Makarov cũng theo Branch tiến lên phía trước, chân giầm lên thảm thực vật màu xanh không biết tên này. Makarov cảm giác địa hình dưới chân mình hình như cao lên, chẳng bao lâu sau họ đã vượt qua một cồn cát nhỏ. Dưới cồn cát, trong đám lau sậy che phủ, một hố nước hiện lên trước mặt Makarov.
6
Makarov hào hứng lao tới trước hố nước, vạch đám lau sậy ra, cúi người xuống, đang định dùng tay múc nước trong hố lên thì Branch phía sau lièn hét to: “Cẩn thận!”
Makarov cũng vội vàng rụt ngay tay lại, quay lại nhìn Branch. Toàn thân Branch quay lưng về phía ánh mặt trời, chìm đắm trong bóng râm. “Anh nhìn bên cạnh anh xem!”, giọng Branch khiến Makarov cảm thấy ớn lạnh.
Makarov cũng vội vàng nhìn sang bên cạnh, anh phát hiện ra trong đám lau sậy bên cạnh mình là một đống xương trắng lồ lộ. “Đây...”, Makarov nhận ra đây là một bộ xương bò. ngay sau đó, anh lại phát hiện ra còn nhiều xương trắng hơn nữa trong đống lau sậy bên cạnh, đó là xương bò,
Xương dê, còn có cả xương của loài động vật có vú to lớn mà anh không biết tên, dĩ nhiên càng khiến Makarov cảm thấy hoảng loạn hơn chính là hai bộ xương người.
“Sao ở đây lại có nhiều xương cốt vậy?”, giọng Makarov đầy sợ hãi.
“Bởi vậy tôi mới bảo anh cẩn thận!”
“Lẽ nào trong nước có độc? Những người và gia súc này sau khi uống nước đã vĩnh viễn ngã ra đây?”
“Có độc hay không thì tôi không biết nhưng đây rõ ràng là một hố nước ăn thịt người! Anh xem trong hang núi này chúng ta không phát hiện thấy xương cốt nào mà tất cả xương đều xuất hiện bên cạnh hố nước, có khi trong hố nước cũng có xương cũng nên; việc này nói lên điều gì?”, Branch suy đoán.
Makarov vươn người ra mặt nước nhìn ngó, quả nhiên, dưới làn nước không được trong lắm thấp thoáng hiện lên những mẩu xương trắng rời rạc. Khi chưa rõ đây là xương người hay xương động vật, thì anh đã cảm thấy hoa mắt chóng mặt, rồi bỗng có cảm giác trời đất quay cuồng. Makarov linh cảm không lành, người anh bất giác đổ về phía sau. Đúng trong giây phút anh mất thăng bằng thì một cánh tay vạm vỡ đã đỡ lấy anh. Makarov nằm trên bờ, thở hổn hển, lúc này anh mới trông thấy người ban nãy đỡ mình chính là Branch.
“Cái hố... hố nước này nguy hiểm thật!”, Makarov thở hổn hển nói.
“Tôi không gạt anh phải không, nếu không phải nước ở đây có vấn đề thì là cái hố nước này có vấn đề, không biết chừng trong đó còn có con quái vật nào cũng nên!”
“Quái vật?”, Makarov nhìn mặt nước không rộng lắm trong lúc Branch cười nói.
Branch thấy Makarov không tin liền giải thích: “Ông lão du mục đó còn kể với tôi rằng: trong hố nước này có một con quái vật rất hung ác, chuyên ăn thịt những người qua lại đây. Nhưng con quái vật này không nhoài lên tấn công người và động vật, mà nó chỉ ăn những người và động vật không chịu được khát đã đến đây uống nước mà thôi.”
“Anh đừng dọa tôi nữa, một cái hố nước nhỏ như vậy làm sao mà quái vật sống được?”
“Tôi không biết, những chuyện đó đều là do ông lão du mục kể cho tôi nghe. Ban đầu tôi cũng không tin, nhưng ông lão đó nói: tuy hố nước này không rộng nhưng rất sâu, sâu không thấy đáy, thông với một cái hồ lớn cách đây rất xa”, Branch nói rất thật, khiến Makarov không thể không tin.
Makarov đứng dậy, anh nhìn mặt nước tĩnh lặng, ước lượng một lúc, cái hố nước này ít nhất cũng giúp căn cứ đủ dùng trong hai tháng. Tuy trong lòng Makarov sợ hãi, nhưng vẫn không chịu khuất phục, anh lại lần nữa cẩn thận nhoài người ra nhìn xuống đáy nước. Lại một trận quay cuồng, khiến anh không chịu được, lại nằm vật ra bãi lau bên cạnh. Anh bắt đầu tin truyền thuyết mà ông lão du mục kia kể.
Nghỉ nghơi một lúc, Makarov mới hồi phục lại. Anh không dám nhìn cái hố nước đó thêm lần nào nữa, lo sợ con quái vật đó đột nhiên chui từ mặt nước lên kéo mình xuống dưới.
“ở... ở đây không còn nguồn nước nào khác sao?”, mãi sau Makarov mới hỏi lại.
Branch nhìn hố nước trước mặt, một lúc sau mới lắc đầu, nói: “Phía trước tôi chưa đến bao giờ, bởi vì ở đó là dường biên giới. Chỉ mới tới đây thôi, trong vòng mấy chục cây số quanh đây, tôi cũng chỉ phát hiện thấy mồi cái hố nước này. Có khi phía trước vẫn còn, nhưng đối với chúng ta thì cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.”
“Đúng! Chẳng có ý nghĩa gì cả!”, Makarov miệng lẩm bẩm, cùng Branch quay lại xe. Trong lúc khởi động máy, Makarov vẫn thất vọng quay lại nhìn cồn cát đó, anh đã không còn trông thấy cái hố nước ăn thịt người đâu nữa.
7
Makarov vừa hồi tưởng xong về cái hố nước ăn thịt người, thì cơ thể ông bất giác đổ về phía sau, rồi đột nhiên người ông hẫng một cái, cả người lõm xuống. “Đường Phong, ở đây có cái gì đó!”, Makarov hét lên.
Đường Phong cũng nghe thấy một tiếng động nặng trịch; khi anh trông thấy Makarov lún vào trong đó, theo phản xạ, anh đã kéo ngay Makarov lại, nhưng không thể kéo được. Nhìn Makarov càng lúc càng lún sâu vào trong mà anh không biết phải làm thế nào. Thế nhưng, sau khi tảng đá sau lưng Makarov đã lún vào trong một đoạn thì nó dừng lại.
Makarov nhìn Đường Phong, Đường Phong cũng nhìn ông, rồi hai người không hẹn mà gặp, cùng lúc nhìn xung quanh và nhìn lên đỉnh đại điện. Họ không biết sắp có vận hạn gì rơi xuống đầu, cũng không biết bước tiếp theo nên làm thế nào.
Thời gian dường như ngừng lại, toàn bộ đại điện yên ắng tĩnh mịch. Makarov vẫn tựa lưng vào tảng đá lõm xuống, ông không dám tùy tiện cử động vì sợ rằng lại chạm vào thứ đáng sợ nào đó.
Đường Phong ra hiệu cho Makarov từ từ đứng dậy. Makarov phán đoán tình hình một hồi, sau đó mới từ từ vươn thẳng lưng. Tảng đá to phía sau lưng ông không hề thay đổi, vẫn lõm xuống giữa những bậc thang đá. Makarov đã bình tĩnh trở lại, ông tức tốc đứng dậy, bước tới cạnh Đường Phong, rồi mới dám quay đầu lại nhìn tảng đá đã lõm vào: “Thế này là thế nào? Bậc thang đá mà cũng có thể lõm vào trong sao?”
“Chắc chắn ban nãy bác đã chạm vào chồ nào đó rồi!”, Đường Phong phán đoán.
“Giờ ta phải làm thế nào?”
“Cháu cũng chưa biết!”, Đường Phong ngầm nghĩ, quyết định hay là cứ mạo hiểm một lần đê xem rốt cuộc thế nào. Anh thu hết can đảm tới cạnh bậc thang lõm vào trong, dùng chân đạp thử hai bên bậc đá, mặt bậc vẫn vững chắc kiên cố, chẳng động tĩnh gì cả, bậc đá ở cùng vị trí phíaa trên và phía dưới cũng như vậy.
“Xem ra ở đây đúng là có một hệ thống nào đó rồi!",
Đường Phong tin tưởng phán đoán của mình.
“Nhưng chẳng xảy ra chuyện gì cả mà?”, Makarov lính là kể từ lúc mình chạm vào thứ đó đến giờ thì cũng đã bảy tám phút trôi qua.
“Lẽ nào là do thời gian qua đi quá lâu rồi, nên hệ thống đó không nhạy nữa?”, Đường Phong cũng cảm thấy kì lạ.
Đường Phong lùi lại phía sau, cẩn thận quan sát vị trí mà họ đang đứng, là bậc thang thứ hai cạnh đầm nước phía tây, bậc đá lõm vào ở vị trí chếch về bên phải của tầng chính giữa những bậc thang đá.
“Quái lạ, ở đây vừa không phải là đỉnh nhọn, cũng không phải là vị trí chính giữa...”, Đường Phong nghi ngờ miệng lẩm bẩm.
“Nếu như nhìn tò bên phải thì bậc đá lõm vào ở khoảng vị trí một phần ba”, Makarov nhanh nhạy phán đoán.
“Chồ một phần ba?”, đầu óc Đường Phong nhanh chóng tính toán, rồi anh lập tức reo lên: “Cháu hiểu rồi!”
Đường Phong quay lại hấp tấp đi tới bậc đá phía bắc, Makarov cũng theo sau, hỏi với theo: “Cậu hiểu ra gì vậy?”
“Tỷ lệ vàng! Vị trí này vừa đúng là tỷ lệ vàng!”, tiếng reo của Đường Phong khiến cả đại điện vang lên ong ong.
“Tỷ lệ vàng! Trời ơi, người Đảng Hạng cũng biết tỷ lệ vàng sao?”, Makarov không sao tin được.
Đường Phong tới vị trí tương tự chỗ bậc đá phía bắc, kiếm tra một lượt, và tin rằng phán đoán của mình là chính xác, khi anh đưa hai tay ra đẩy thử, một tiếng động nặng trịch vang lên, tảng đá trước mặt quả nhiên lõm vào bên trong.
Bậc thang phía bắc đó đã lõm vào trong, nhưng đại điện vẫn chẳng có gì thay đổi. Đường Phong và Makarov tới vị trí tương tự ở phía đông, rồi dùng cách giống như vậy, và tình hình giống hệt như hai chồ ban nãy. Cuối cùng, khi họ tới vị trí tương tự ở phía nam thì cả hai trở nên do đự, đây rất có khả năng là bậc thang cuối cùng khởi động một hệ thống nào đó.
Hai người chần chừ hồi lâu, Makarov mới nói: “Cứ để tôi đẩy!”
Đường Phong không phản đối, anh đã chuẩn bị xong tâm lý đối diện với bất cứ sự cố nào, nhưng anh vẫn bị sự khủng hoảng kì lạ nào đó bao trùm. Sự khủng hoảng với thế giới bên ngoài khiến anh theo phản xạ rút súng ra.
Makarov dồn sức vào hai cánh tay, tảng đá trên bậc thang phía nam lõm vào trong, nhưng vẫn chẳng có gì thay đổi..., nhưng đúng lúc Đường Phong và Makarov ngạc nhiên không hiểu và đưa mắt nhìn nhau, thì không biết từ đâu, một tiếng động lớn vang lên. Ngay sau đó, Đường Phong và Makarov để ý thấy, đầm nước trước mặt họ có sự biến đổi.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook