Trăng Lạnh Trường Bình
-
Quyển 1 - Chương 17: Trăng vỡ trong nước
“Đại ca cô cũng bị Phi Hồng bang giết ư?”
“Ừm, huynh ấy vì cứu tôi mới…” Nói đến đây Lữ Doanh bỗng nức nở.
“Cô không muốn báo thù sao?” Cận Vi khẽ thở dài.
“Tôi chỉ là một cô gái yếu đuối…” Tiếng khóc của Lữ Doanh nhỏ dần, “Hôm đó thiếu chủ sai tôi giết người, tôi đoán thiếu chủ thấy tôi là người an phận gặp sao yên vậy nên muốn tôi không quên mối hận ấy, nhất định phải báo thù cho người nhà…nhưng tôi…”
Lần nào nàng cũng đoán nhưng lại luôn đoán đúng tâm của Cận Vi.
Lữ Doanh lúng túng một lúc mới can đảm nhẹ giọng nói: “Nhưng không phải tôi khiếp sợ. Chỉ vì tôi cảm thấy có những chuyện còn quan trọng hơn báo thù nhiều.”
Cận Vi bình tĩnh nhìn nàng, lạnh lùng nói: “Còn chuyện gì có thể quan trọng hơn báo thù chứ?”
Lữ Doanh nhẹ giọng nói: “Có lẽ tôi trời sinh tính nhu nhược. Nhưng tôi biết cha mẹ và anh tôi chắc hẳn không muốn nhìn thấy tôi sống trong thù hận. Ngày trước họ luôn nói, những người sống trên sông nước như chúng tôi mỗi ngày có thể đánh cá làm cơm, ngắm mặt trời mọc rồi lặn, không gặp phải sóng to gió lớn, vui vui vẻ vẻ mà sống chính là điều tốt nhất…”
Cận Vi trầm mặc một lát mới lạnh lùng nói: “Cô hầu hạ nha đầu chết tiệt kia chứ không phải ta, không cần gọi ta là thiếu chủ nhân…” Hắn dừng một lúc mới nói tiếp: “Nếu nha đầu chết tiệt kia biết ta ném nha hoàn của nó đi không chừng lại đại náo ta một hồi, thôi, thuyền này của ta…nuôi một người rảnh rỗi cũng chẳng thấm là bao…”
Hắn nói lời ấy rõ là mượn danh nghĩa của Nguyệt Tịch mà đổi ý lưu nàng lại, Lữ Doanh là người thông minh sao có thể không hiểu. Trong lòng nàng vừa mừng vừa sợ, đang muốn quỳ xuống tạ ơn thì Cận Vi đã đưa tay giữ nàng lại.
Lữ Doanh vừa ngẩng đầu đã thấy Cận Vi đang chăm chú đánh giá nàng, khuôn mặt hắn nhã nhặn ôn hòa còn mang theo nét cười như có như không. Tim của Lữ Doanh bỗng “Bịch” một tiếng như đụng phải thứ gì, nàng khẽ gọi: “Cận đại ca…”
Không biết vì sao Lữ Doanh lại cảm thấy trong nụ cười của Cận Vi lần đầu tiên mang theo nét sầu khổ. Nàng len lén ngẩng đầu muốn nhìn tỉ mỉ lại một lần nữa nhưng sắc mặt hắn đã khôi phục lại dáng vẻ hờ hững như trước, một bộ dáng mặc người kệ trời.
Nàng khẽ thở dài, thi lễ cáo lui với Cận Vi, lại sợ hắn một mình đứng trong đêm đen không thấy rõ, liền đặt ngọn nến trên mạn thuyền.
Một trận gió thổi tới khiến ánh nến tưởng như sắp tắt, hắn vội hơi nghiêng người giơ tay áo lên che chắn gió sông. Đột nhiên sắc mặt hắn trở nên âm trầm, ngực phập phồng bất định, vung mạnh tay áo tựa hồ mang theo đầy hận ý, quét cả ngọn nến cùng giá cắm rớt xuống sông.
Cận Nam vừa từ trong khoang thuyền đi ra, hỏi: “Thiếu chủ, đã khởi hành được chưa ạ?”
“Vẫn không tìm được nha đầu chết tiệt kia sao?”
“Dạ. Thiếu chủ, thời cơ trôi qua rất nhanh, đại sự vẫn quan trọng hơn.”
Cận Vi yên lặng gật đầu, Cận Nam lập tức phát hiệu lệnh, trước sau khoang thuyền đuốc đốt sáng rực. Chỉ chốc lát sau, thuyền chậm rãi rời bến, quay đầu đi về phía đông. Chỉ nghe Cận Vi đứng ở mũi thuyền hừ nhẹ nói: “Nha đầu chết tiệt kia chưa bao giờ tới lạc ấp, vậy mà biết tìm người của Bích Nguyệt sa giúp đỡ, thật kỳ lạ…”
Nguyệt Tịch nghe thấy lời ấy, quay sang Triệu Tử Phục cười nói: “Đó chẳng phải vì nhờ có ngươi đấy sao?”
Triệu Tử Phục chỉ cười không đáp, nói rằng: “Ta thấy vị cô nương kia thật ra cũng khá thông tuệ. Tuy lời nói đơn giản nhưng đạo lý lại sâu. Đời người ngắn ngủi, sống chết có thì, chi bằng buông hận thù mà cùng người có tình tận hưởng lạc thú trước mắt.”
Ánh mắt Nguyệt Tịch nhìn chăm chú vào chiếc thuyền hàng đang rời đi, cười nhạt nói: “Ngư tương vong hồ giang hồ, nhân tương vong hồ đạo thuật*. Nhân sinh tự cổ vốn vô thường, mọi chuyện nào có thể chỉ theo ý mình.” Nàng chẳng qua chỉ mới mười bảy mười tám tuổi, bỗng nhiên nói ra một lời như vậy, giống như một thế ngoại cao nhân hiểu thấu nhân sinh không như ý, so với nàng ngày thường cực không giống nhau.
* Ngư tương vong hồ giang hồ, nhân tương vong hồ đạo thuật: xuất xứ >: Cá ở trong sông, hồ, vui thích mà quên mình, người ở trong đạo thuật, vui thích mà quên mình.
Triệu Tử Phục nhìn nàng: “Cô có chuyện không thể thuận theo ý mình sao?”
Nguyệt Tịch cười nhạt: “Ta chỉ thuận miệng nói thôi…”
Triệu Tử Phục nhìn nàng hồi lâu, cười nói: “Vị tiểu sư huynh này của cô hảo hành tiểu tuệ*, ta thấy cô nương kia sau này có thể sẽ nếm mùi đau khổ rồi đây.”
*Hảo hành tiểu tuệ: xuất xứ >: Tử viết: ‘Quần cư chung nhật, ngôn bất cập nghĩa, hảo hành tiểu huệ; nan hĩ tai!’ – ‘Tụ họp nhau cả ngày, nói năng tào lao, làm những điều nhỏ mọn, nguy lắm thay!’
Nguyệt Tịch hơi thở dài nói: “Tiểu sư huynh xưa nay cứng miệng nhẹ dạ, sư phụ cũng từng nói huynh ta khoác lác thì nhiều mà làm được thì ít, nhưng hắn đối đãi với mọi người rất tốt. Trước đây hắn còn lén xuống núi, chỉ vì muốn mang cho ta một bọc bánh hoa lê…À đúng, vì sao ngươi nói Lữ cô nương muốn ăn vị đắng?” (苦头 (khổ đầu): đau khổ, vị đắng; ý của Triệu Tử Phục đang nói đến nghĩa trước mà Nguyệt Tịch lại hiểu sang nghĩa sau)
Triệu tử Phục khẽ cười nhưng không nói gì. Nguyệt Tịch thấy hắn không giải thích đành phải tự mình ngẫm nghĩ chốc lát, song vẫn mù mờ, mới hơi lườm Triệu Tử Phục một cái, cười nói: “Chúng ta cũng đi thôi.”
“Cô không muốn biết rốt cục trong mấy cái rương kia chứa gì sao?”
Nguyệt Tịch lắc đầu: “Kệ nó, dù là vàng bạc châu báu…cũng chẳng liên quan đến ta.”
Nàng không muốn truy xét, Triệu Tử Phục cũng không miễn cưỡng, chỉ nheo mắt nhìn hướng thuyền rời đi như có điều gì suy nghĩ.
Một lúc sau, hắn huýt nhỏ một tiếng, đáp lời hắn là tiếng vó ngựa vang lên lộp cộp ở phía xa, chẳng mấy chốc một con ngựa Ô Truy băng qua rừng liễu tiến đến dừng trước mặt hai người.
Hắn vỗ vỗ lưng ngựa, cười nói với Nguyệt Tịch: “Đi thôi.”
Mây đen dắt nhau kéo đi, trăng sao lại vén màn ló ra.
Nguyệt Tịch lập tức cưỡi lên mình ngựa Ô Truy, Triệu Tử Phục đi bên cạnh, người ngựa đi về phía Bắc môn. Bóng đêm yên ắng, ban ngày thành lạc ấp phồn hoa bao nhiêu, lúc này lại an tĩnh bấy nhiêu. Hai người bước trên con đường đá phiến trong thành, yên tĩnh đến mức tưởng như có thể nghe được tiếng ngáy của người dân hai bên.
“Cái áo lông tuyết hồ đâu rồi?”
“Cô không nhận nên ta bảo gia tướng trả lại cho Tín Lăng quân rồi.” Áo lông tuyết hồ dù trân quý, hắn cũng chẳng có ý giữ làm của riêng.
“Thành Hàm Đan nằm phía bắc thành Đại Lương, sao ngươi lại tới lạc ấp Đông Chu?”
“Nơi đây từng một thời hưng thịnh, ta tới để nhìn xem hôm nay lạc ấp Chu thất trông thế nào.”
Nếu không từng có một thời hưng thịnh, vậy sao có thể gặp lại nàng?
Triệu Tử Phục quay đầu lại, cùng nàng bốn mắt nhìn nhau, hai người đều không lên tiếng, chỉ không hẹn mà cùng cười cười.
Nàng cười rực rỡ như vậy, tựa như ánh trăng vừa ló ra sau màn mây đen, đến mức chiếu sáng cả một đoạn đường tối như mực này.
Nguyệt Tịch thấy hắn cười, tự dưng cảm thấy an tâm. Nàng đưa tay vỗ về bờm ngựa Ô Truy, lại lén lút nghiêng mặt nhìn khuôn mặt của Triệu Tử Phục.
Hắn quả rất tuấn tú, ngũ quan sâu như khắc; ánh mắt trong suốt tràn đầy trí tuệ; giữa hai hàng chân mày lộ ra khí độ nhàn nhạt; khóe miệng cong lên tựa hồ lúc nào cũng chứa ý cười.
Hắn rất giống người kia, nhưng lại cũng không giống. Người kia cười, đôi khi sẽ có phần xa cách. Mà Triệu Tử Phục cười, lại rất thoải mái dễ chịu, rất ấm áp.
Lẽ nào vì thế mà hắn có thể khiến nàng cảm thấy an tâm sao?
Nhưng cũng thật vớ vẩn, trên đời này người cười nhiều như vậy, cớ sao nàng chỉ thấy một người này tốt?
Con đường đá phiến gồ ghề này đã tồn tại cùng triều Đông Chu trên trăm năm, nay đã không còn khí phái của năm đó, chỉ còn nước mưa mới vừa rồi hãy còn đọng lại. Dọc theo đường đi nửa bóng dáng người tuần tra cũng không thấy, cửa thành đóng một nửa, trên tường thành có vài binh sĩ đang gật gù chợp mắt.
Chu thất huy hoàng trăm năm, tự vệ vô lực, loạn thế cầu sinh, cuối cùng suy thoái đến bước này.
Dọc con đường lớn chạy về phía Bắc môn có trồng hai hàng lê. Nói vậy trong thành này từng có người lưu tâm, dù chỉ còn hơi tàn nhưng không quên một thời phồn hoa, luyến tiếc để lại hai hàng hoa lê trên đường.
Sau cơn mưa xuân đêm nay, hoa lê rơi rụng đầy đất, những mầm non vươn mình nhú lên khỏi lớp đất ẩm. Vó ngựa Ô Truy để lại trên đất những dấu chân nhỏ, giẫm lên ánh trăng sáng, bọt nước vung vẫy, cánh hoa tan tác, hệt như đạp vỡ ánh trăng đêm nay.
Con đường phía trước mênh mông, Nguyệt Tịch không phân rõ đâu là lối về Vân Mông sơn. Nhưng nàng biết, chỉ cần có Triệu Tử Phục ở đây, nhất định hắn sẽ đưa nàng về đến Vân Mông sơn.
Bỗng nhiên, tâm nàng khẽ động, vội ghìm cương ngựa, mà cùng lúc Triệu Tử Phục cũng dừng bước. Hai người không hẹn cùng quay đầu nhìn lại thành lạc ấp cũ.
Con đường yên ắng, vài gốc cây trắng xóa, mặt đất trải thảm hoa lê. Không ai tống biệt, không ai níu giữ, trước cửa thành bắc, chỉ có hai người Triệu Tử Phục và Nguyệt Tịch mà thôi.
Chỉ có điều hai người rời khỏi lạc ấp, lại giống như hai người bỏ lại phồn hoa trên đời mà lặng lẽ ra đi.
Nơi này, khi đến, mỗi người một ngả; khi đi, sóng bước cùng nhau.
Có những người, đã định trước sinh ra là thuộc về nhau, đã định trước đến cùng trời cuối đất hắn vẫn đồng hành cùng nàng, chỉ là lúc này bọn họ chưa biết mà thôi.
“Ừm, huynh ấy vì cứu tôi mới…” Nói đến đây Lữ Doanh bỗng nức nở.
“Cô không muốn báo thù sao?” Cận Vi khẽ thở dài.
“Tôi chỉ là một cô gái yếu đuối…” Tiếng khóc của Lữ Doanh nhỏ dần, “Hôm đó thiếu chủ sai tôi giết người, tôi đoán thiếu chủ thấy tôi là người an phận gặp sao yên vậy nên muốn tôi không quên mối hận ấy, nhất định phải báo thù cho người nhà…nhưng tôi…”
Lần nào nàng cũng đoán nhưng lại luôn đoán đúng tâm của Cận Vi.
Lữ Doanh lúng túng một lúc mới can đảm nhẹ giọng nói: “Nhưng không phải tôi khiếp sợ. Chỉ vì tôi cảm thấy có những chuyện còn quan trọng hơn báo thù nhiều.”
Cận Vi bình tĩnh nhìn nàng, lạnh lùng nói: “Còn chuyện gì có thể quan trọng hơn báo thù chứ?”
Lữ Doanh nhẹ giọng nói: “Có lẽ tôi trời sinh tính nhu nhược. Nhưng tôi biết cha mẹ và anh tôi chắc hẳn không muốn nhìn thấy tôi sống trong thù hận. Ngày trước họ luôn nói, những người sống trên sông nước như chúng tôi mỗi ngày có thể đánh cá làm cơm, ngắm mặt trời mọc rồi lặn, không gặp phải sóng to gió lớn, vui vui vẻ vẻ mà sống chính là điều tốt nhất…”
Cận Vi trầm mặc một lát mới lạnh lùng nói: “Cô hầu hạ nha đầu chết tiệt kia chứ không phải ta, không cần gọi ta là thiếu chủ nhân…” Hắn dừng một lúc mới nói tiếp: “Nếu nha đầu chết tiệt kia biết ta ném nha hoàn của nó đi không chừng lại đại náo ta một hồi, thôi, thuyền này của ta…nuôi một người rảnh rỗi cũng chẳng thấm là bao…”
Hắn nói lời ấy rõ là mượn danh nghĩa của Nguyệt Tịch mà đổi ý lưu nàng lại, Lữ Doanh là người thông minh sao có thể không hiểu. Trong lòng nàng vừa mừng vừa sợ, đang muốn quỳ xuống tạ ơn thì Cận Vi đã đưa tay giữ nàng lại.
Lữ Doanh vừa ngẩng đầu đã thấy Cận Vi đang chăm chú đánh giá nàng, khuôn mặt hắn nhã nhặn ôn hòa còn mang theo nét cười như có như không. Tim của Lữ Doanh bỗng “Bịch” một tiếng như đụng phải thứ gì, nàng khẽ gọi: “Cận đại ca…”
Không biết vì sao Lữ Doanh lại cảm thấy trong nụ cười của Cận Vi lần đầu tiên mang theo nét sầu khổ. Nàng len lén ngẩng đầu muốn nhìn tỉ mỉ lại một lần nữa nhưng sắc mặt hắn đã khôi phục lại dáng vẻ hờ hững như trước, một bộ dáng mặc người kệ trời.
Nàng khẽ thở dài, thi lễ cáo lui với Cận Vi, lại sợ hắn một mình đứng trong đêm đen không thấy rõ, liền đặt ngọn nến trên mạn thuyền.
Một trận gió thổi tới khiến ánh nến tưởng như sắp tắt, hắn vội hơi nghiêng người giơ tay áo lên che chắn gió sông. Đột nhiên sắc mặt hắn trở nên âm trầm, ngực phập phồng bất định, vung mạnh tay áo tựa hồ mang theo đầy hận ý, quét cả ngọn nến cùng giá cắm rớt xuống sông.
Cận Nam vừa từ trong khoang thuyền đi ra, hỏi: “Thiếu chủ, đã khởi hành được chưa ạ?”
“Vẫn không tìm được nha đầu chết tiệt kia sao?”
“Dạ. Thiếu chủ, thời cơ trôi qua rất nhanh, đại sự vẫn quan trọng hơn.”
Cận Vi yên lặng gật đầu, Cận Nam lập tức phát hiệu lệnh, trước sau khoang thuyền đuốc đốt sáng rực. Chỉ chốc lát sau, thuyền chậm rãi rời bến, quay đầu đi về phía đông. Chỉ nghe Cận Vi đứng ở mũi thuyền hừ nhẹ nói: “Nha đầu chết tiệt kia chưa bao giờ tới lạc ấp, vậy mà biết tìm người của Bích Nguyệt sa giúp đỡ, thật kỳ lạ…”
Nguyệt Tịch nghe thấy lời ấy, quay sang Triệu Tử Phục cười nói: “Đó chẳng phải vì nhờ có ngươi đấy sao?”
Triệu Tử Phục chỉ cười không đáp, nói rằng: “Ta thấy vị cô nương kia thật ra cũng khá thông tuệ. Tuy lời nói đơn giản nhưng đạo lý lại sâu. Đời người ngắn ngủi, sống chết có thì, chi bằng buông hận thù mà cùng người có tình tận hưởng lạc thú trước mắt.”
Ánh mắt Nguyệt Tịch nhìn chăm chú vào chiếc thuyền hàng đang rời đi, cười nhạt nói: “Ngư tương vong hồ giang hồ, nhân tương vong hồ đạo thuật*. Nhân sinh tự cổ vốn vô thường, mọi chuyện nào có thể chỉ theo ý mình.” Nàng chẳng qua chỉ mới mười bảy mười tám tuổi, bỗng nhiên nói ra một lời như vậy, giống như một thế ngoại cao nhân hiểu thấu nhân sinh không như ý, so với nàng ngày thường cực không giống nhau.
* Ngư tương vong hồ giang hồ, nhân tương vong hồ đạo thuật: xuất xứ >: Cá ở trong sông, hồ, vui thích mà quên mình, người ở trong đạo thuật, vui thích mà quên mình.
Triệu Tử Phục nhìn nàng: “Cô có chuyện không thể thuận theo ý mình sao?”
Nguyệt Tịch cười nhạt: “Ta chỉ thuận miệng nói thôi…”
Triệu Tử Phục nhìn nàng hồi lâu, cười nói: “Vị tiểu sư huynh này của cô hảo hành tiểu tuệ*, ta thấy cô nương kia sau này có thể sẽ nếm mùi đau khổ rồi đây.”
*Hảo hành tiểu tuệ: xuất xứ >: Tử viết: ‘Quần cư chung nhật, ngôn bất cập nghĩa, hảo hành tiểu huệ; nan hĩ tai!’ – ‘Tụ họp nhau cả ngày, nói năng tào lao, làm những điều nhỏ mọn, nguy lắm thay!’
Nguyệt Tịch hơi thở dài nói: “Tiểu sư huynh xưa nay cứng miệng nhẹ dạ, sư phụ cũng từng nói huynh ta khoác lác thì nhiều mà làm được thì ít, nhưng hắn đối đãi với mọi người rất tốt. Trước đây hắn còn lén xuống núi, chỉ vì muốn mang cho ta một bọc bánh hoa lê…À đúng, vì sao ngươi nói Lữ cô nương muốn ăn vị đắng?” (苦头 (khổ đầu): đau khổ, vị đắng; ý của Triệu Tử Phục đang nói đến nghĩa trước mà Nguyệt Tịch lại hiểu sang nghĩa sau)
Triệu tử Phục khẽ cười nhưng không nói gì. Nguyệt Tịch thấy hắn không giải thích đành phải tự mình ngẫm nghĩ chốc lát, song vẫn mù mờ, mới hơi lườm Triệu Tử Phục một cái, cười nói: “Chúng ta cũng đi thôi.”
“Cô không muốn biết rốt cục trong mấy cái rương kia chứa gì sao?”
Nguyệt Tịch lắc đầu: “Kệ nó, dù là vàng bạc châu báu…cũng chẳng liên quan đến ta.”
Nàng không muốn truy xét, Triệu Tử Phục cũng không miễn cưỡng, chỉ nheo mắt nhìn hướng thuyền rời đi như có điều gì suy nghĩ.
Một lúc sau, hắn huýt nhỏ một tiếng, đáp lời hắn là tiếng vó ngựa vang lên lộp cộp ở phía xa, chẳng mấy chốc một con ngựa Ô Truy băng qua rừng liễu tiến đến dừng trước mặt hai người.
Hắn vỗ vỗ lưng ngựa, cười nói với Nguyệt Tịch: “Đi thôi.”
Mây đen dắt nhau kéo đi, trăng sao lại vén màn ló ra.
Nguyệt Tịch lập tức cưỡi lên mình ngựa Ô Truy, Triệu Tử Phục đi bên cạnh, người ngựa đi về phía Bắc môn. Bóng đêm yên ắng, ban ngày thành lạc ấp phồn hoa bao nhiêu, lúc này lại an tĩnh bấy nhiêu. Hai người bước trên con đường đá phiến trong thành, yên tĩnh đến mức tưởng như có thể nghe được tiếng ngáy của người dân hai bên.
“Cái áo lông tuyết hồ đâu rồi?”
“Cô không nhận nên ta bảo gia tướng trả lại cho Tín Lăng quân rồi.” Áo lông tuyết hồ dù trân quý, hắn cũng chẳng có ý giữ làm của riêng.
“Thành Hàm Đan nằm phía bắc thành Đại Lương, sao ngươi lại tới lạc ấp Đông Chu?”
“Nơi đây từng một thời hưng thịnh, ta tới để nhìn xem hôm nay lạc ấp Chu thất trông thế nào.”
Nếu không từng có một thời hưng thịnh, vậy sao có thể gặp lại nàng?
Triệu Tử Phục quay đầu lại, cùng nàng bốn mắt nhìn nhau, hai người đều không lên tiếng, chỉ không hẹn mà cùng cười cười.
Nàng cười rực rỡ như vậy, tựa như ánh trăng vừa ló ra sau màn mây đen, đến mức chiếu sáng cả một đoạn đường tối như mực này.
Nguyệt Tịch thấy hắn cười, tự dưng cảm thấy an tâm. Nàng đưa tay vỗ về bờm ngựa Ô Truy, lại lén lút nghiêng mặt nhìn khuôn mặt của Triệu Tử Phục.
Hắn quả rất tuấn tú, ngũ quan sâu như khắc; ánh mắt trong suốt tràn đầy trí tuệ; giữa hai hàng chân mày lộ ra khí độ nhàn nhạt; khóe miệng cong lên tựa hồ lúc nào cũng chứa ý cười.
Hắn rất giống người kia, nhưng lại cũng không giống. Người kia cười, đôi khi sẽ có phần xa cách. Mà Triệu Tử Phục cười, lại rất thoải mái dễ chịu, rất ấm áp.
Lẽ nào vì thế mà hắn có thể khiến nàng cảm thấy an tâm sao?
Nhưng cũng thật vớ vẩn, trên đời này người cười nhiều như vậy, cớ sao nàng chỉ thấy một người này tốt?
Con đường đá phiến gồ ghề này đã tồn tại cùng triều Đông Chu trên trăm năm, nay đã không còn khí phái của năm đó, chỉ còn nước mưa mới vừa rồi hãy còn đọng lại. Dọc theo đường đi nửa bóng dáng người tuần tra cũng không thấy, cửa thành đóng một nửa, trên tường thành có vài binh sĩ đang gật gù chợp mắt.
Chu thất huy hoàng trăm năm, tự vệ vô lực, loạn thế cầu sinh, cuối cùng suy thoái đến bước này.
Dọc con đường lớn chạy về phía Bắc môn có trồng hai hàng lê. Nói vậy trong thành này từng có người lưu tâm, dù chỉ còn hơi tàn nhưng không quên một thời phồn hoa, luyến tiếc để lại hai hàng hoa lê trên đường.
Sau cơn mưa xuân đêm nay, hoa lê rơi rụng đầy đất, những mầm non vươn mình nhú lên khỏi lớp đất ẩm. Vó ngựa Ô Truy để lại trên đất những dấu chân nhỏ, giẫm lên ánh trăng sáng, bọt nước vung vẫy, cánh hoa tan tác, hệt như đạp vỡ ánh trăng đêm nay.
Con đường phía trước mênh mông, Nguyệt Tịch không phân rõ đâu là lối về Vân Mông sơn. Nhưng nàng biết, chỉ cần có Triệu Tử Phục ở đây, nhất định hắn sẽ đưa nàng về đến Vân Mông sơn.
Bỗng nhiên, tâm nàng khẽ động, vội ghìm cương ngựa, mà cùng lúc Triệu Tử Phục cũng dừng bước. Hai người không hẹn cùng quay đầu nhìn lại thành lạc ấp cũ.
Con đường yên ắng, vài gốc cây trắng xóa, mặt đất trải thảm hoa lê. Không ai tống biệt, không ai níu giữ, trước cửa thành bắc, chỉ có hai người Triệu Tử Phục và Nguyệt Tịch mà thôi.
Chỉ có điều hai người rời khỏi lạc ấp, lại giống như hai người bỏ lại phồn hoa trên đời mà lặng lẽ ra đi.
Nơi này, khi đến, mỗi người một ngả; khi đi, sóng bước cùng nhau.
Có những người, đã định trước sinh ra là thuộc về nhau, đã định trước đến cùng trời cuối đất hắn vẫn đồng hành cùng nàng, chỉ là lúc này bọn họ chưa biết mà thôi.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook