Dưới sông…

Nêu ai đó có dị năng nhìn xuyên thấu màn nước đục ngầu vì bị cả ngàn chiếc mái chèo khuấy động, thì có thể thấy mấy chục trai tráng đang bơi qua bơi lại ngay dưới đáy thuyền.

Họ húi trọc đầu, trên tay cầm dùi và đục còn ở lưng xăm hình rồng bốn móng, có một sừng, khoé miệng có hai nanh dài cong vút trông rất dữ tợn và con mắt thứ ba trừng to ở giữa trán. Nhìn là biết đây không phải loài rồng Trung Quốc.

Lục bục…

Miệng và mũi tuôn ra những dòng bóng khí nhỏ, đám người ấy cứ ba người phân làm một tổ, nhè đáy thuyền quân Hồ mà đục tới tấp.

Họ đã nấp dưới sông từ khoảng một khắc trước, lợi dụng những miếng gỗ nổi và làn nước đục ngầu để che giấu hành tung. Ở thắt lưng họ dắt dao găm, hai tay cầm búa và đục.

Trên chốn giang hồ có một loại võ công gọi là Quy Tức công giúp người ta trữ một lượng lớn không khí trong hai lá phổi, nhờ vậy có thể hoạt động thời gian dài dưới nước.

Nói về môn võ này, thì không thể không nhắc tới danh tướng Yết Kiêu thời nhà Trần. Trong dân gian hiện giờ vẫn truyền lưu sự tích ông lặn nước đục thuyền quân Nguyên - Mông năm nào.

Yết Kiêu có thể qua lại trong nước như trên đất bằng, một lần lặn thì nửa ngày cũng không cần ngoi lên. Điều ấy là thực. Mà muốn biết căn nguyên nguồn cội thì phải lần lại việc năm xưa ông vô tình bắt được một con Kim Quy, cũng chính là loài rùa thần xuất hiện rất nhiều trong sử thi truyện cổ nước Nam ta.

Dân gian nói rằng loài này cứ ba tháng sống dưới nước thì ba tháng sau lên bờ sống, hai chân trước như rùa cạn mà hai chi sau lại như loài ba ba, người không có mai mà có vảy cứng như rắn. Có người già còn nói con mà Yết Kiêu gặp được là con cuối cùng của giống ấy. (*)

Quan sát rùa thần suốt ba tháng ròng, Yết Kiêu mới cải tiến môn Quy Tức công từ chiêu võ tầm thường được dân mãi võ phương bắc truyền xuống thành ngón thần công như hiện giờ. Hưng Đạo Vương biết việc này, từng khen: [ Bện rơm hoá vàng, mài đá ra ngọc, ấy cũng chính là cái tài của Yết Kiêu vậy. ]

Những tay đang đục thuyền quân nhà Hồ kia nếu xét nguồn gốc sâu xa cũng coi như môn sinh nhà họ Phạm, phải gọi Yết Kiêu một tiếng sư tổ. Mặc dầu cả bọn chỉ học được một hai phần bản lĩnh của vị danh tướng kháng Mông, song lặn nước khoảng nửa canh giờ cũng không sao hết. Chúng lại thắng ở số lượng lớn, lớp này thế lớp khác làm việc liên tục nên hiệu suất rất cao.

Thuyền quân Đại Ngu bị đục chìm hết chiếc này tới chiếc khác, lính lác thi nhau rơi xuống nước.

Lúc này lập tức có một toán rút dao ngắn ở thắt lưng ra, bơi tới cắt phăng yết hầu lính Ngu. Những người lính bị nước xông vào đầy mũi và miệng, còn chưa kịp định thần thì cổ họng đã trúng dao.

Máu tươi vấy đỏ sông, khiến nước sông Hồng càng thêm rực rỡ.

Biến cố này xuất hiện ngay sau khi Hồ Nguyên Trừng phát độc, nên quân Đại Ngu cứ như một đám kiến vỡ tổ, trận thế đại loạn. Đa số chèo gấp về gần bờ, vài người nổ pháo bắn xuống nước, nhưng vô hiệu.

Trương Phụ không rõ chuyện gì đang xảy, nhưng thấy thuyền quân Đại Ngu cứ thi nhau chìm, quân sĩ nhà Hồ thì sợ đến độ tan gan vỡ mật thì mừng rơn. Y nhanh chóng gióng trống chỉnh đốn lại quân ngũ, phất cờ lệnh đội thuyền dốc hết tốc lực đuổi giết.

Quân Đại Ngu bị đánh cho thất điên bát đảo, thua liểng xiểng. Do trúng độc, Hồ Nguyên Trừng rơi vào một giấc ngủ sâu và được lão Bộc đưa lên một chiếc thuyền nhỏ rút vội khỏi chiến trường.

Trương Phụ thừa thắng cho đại quân công mạnh, đánh dạt đội thuyền quân Đại Ngu. Binh tướng nhà Hồ y theo những gì được huấn luyện từ trước, phái một chi cảm tử quân ở lại bọc hậu còn số còn lại vội vàng tháo chạy.

Thương vong vì thế mà được hạn chế, song ước tính vẫn có đến trăm chiếc thuyền lớn nhỏ bị phá huỷ, gần một vạn quân Hồ thiệt mạng. Gỗ vụn nổi lềnh phềnh khắp cả mặt sông, còn đám người xăm rồng mới nãy giở trò đục thuyền đã sớm rút đi đâu mất.

Hồ Xạ thấy mãi mà chi phục binh vẫn chưa quay lại, bắt đầu sốt ruột. Y thầm nhủ: [ Hay là có biến? ]

Nghĩ thế, lại thấy Hồ Đỗ dần chiếm thượng phong, Hồ Xạ mới xoay mình chạy trở lại chỗ phục kích để kiểm tra. Trên đường, y thấy rất nhiều thi thể quân Minh bị giết nằm rải rác trên đường, mới thoáng yên tâm hơn.

Y thở phào, tự trách mình quá đa tưởng. Một trăm tàn binh sao có thể lật nên sóng gió gì trước một ngàn hùng binh chứ??

Song, càng nhất mực cho rằng điều gì đó không thể xảy ra, thì khi nó trở thành hiện thực lại càng tàn khốc. Trên sông quân Minh đại thắng một cách đầy bất ngờ, thì trên bộ nhà Hồ cũng thua đậm theo cách tương tự.

Nói đến lúc trước Hồ Xạ ước đoán sau vụ đốt doanh thì quân giặc chắc chỉ còn vỏn vẹn trăm kị binh. Quân Minh đã trọng thương còn mất ngựa, y lại ỷ mình có cả ngàn tinh binh, thần thái ai nấy đều tinh minh như rồng như hổ thì không khỏi khinh thường.

Lại nghĩ: [ Hồ Đỗ phải bị thương mới phát huy được thần công, nhỡ chưa làm sao đã bị Mộc Thạnh giết tại chỗ thì mệt. Ta phải chạy ra tiếp ứng. ]

Nói rồi căn dặn binh sĩ cẩn thận, theo đường khác ra bìa rừng. Đúng lúc gặp Hồ Đỗ sắp sửa đi đời nhà ma bèn vội vàng rút nỏ bắn giải vây. Đỗ thoát được một kiếp, nhưng binh nhà Hồ trong rừng không có cái may mắn ấy.

" Y theo kế hoạch, giết!!!! "

Người vừa mới lên tiếng là một bách phu trưởng, họ Hà. Sĩ tốt nhìn nhau, rồi cùng gật đầu mà hét lớn. Kẻ nào kẻ nấy tuốt gươm, rút đao rồi túa ra khỏi chỗ nấp. Vừa chạy, họ vừa quát to:

“ Tướng quốc sai bọn ta chờ các ngươi ở đây lâu rồi!!! ”

Quân Hồ lấy khoẻ đánh mệt, lấy đông hiếp ít. Đã vậy còn nhào ra bất ngờ, quân Minh không chống được bao lâu đã bị đánh tan tác, chẳng còn ai sống sót. Mà quân Hồ chỉ tổn hại hơn chục người mà thôi.

Vung đao chém chết kị binh cuối cùng của Mộc Thạnh, họ Hà mới tra lại khí giới vào vỏ. Đang định trở về phục mệnh thì đúng lúc này, đầu bên kia khu rừng đã vang lên tiếng ai cười nói xỗ xàng:

“ Thiên Sư cũng dặn bọn ta chờ lâu rồi. ”

Âm thanh y mạnh như chuông đồng, oang oang chẳng kém gì tiếng cả chục con bò cùng rống.

Bách phu trưởng họ Hà ngước lên, răng nghiến lại:

“ Là mi!!! Thù giết cha mẹ, hôm nay tính với nhau một lần cho xong cả vốn lẫn lãi đi!! ”

Sư Tử Hà Đông Huỳnh Chí Lập cười vang, nói:

“ Lão đây làm cái nghề buôn không vốn đã mười lăm mười sáu, từng giết bao nhiêu người bản thân còn chẳng nhớ rõ thì làm sao nhớ nổi mi là ai. Nhưng hôm nay hễ là lính nhà Hồ thì không ai được sống cả!! Anh em đâu, giết!! ”

Nói đến đây thì vị bách hộ họ Hà đã múa đơn đao xáp lại gần. Lập vung cây bát cương cửu hoàn đao lên cản ( đao lớn có gắn chín vòng tròn nhỏ ở sống đao). Nội công của Sư Tử Hà Đông hùng hậu hơn nhiều lắm, chỉ một cú chém của Lập là đao của vị bách hộ họ Hà đã bị đánh văng ra khỏi tay.

Huỳnh Chí Lập cười khẩy, đạp mạnh một cú vào bụng đối thủ. Ngọn cước chứa đầy kình phong quét thẳng vào vùng bụng trái, khiến cho lục phủ vị bách hộ họ Hà chấn động dữ dội như muốn tê liệt. Y còn chưa kịp định thần, thì Lập đã vung nắm đấm qua.

Cốp!

Hàm dưới họ Hà như lệch hẳn qua bên, răng kèm cả máu văng ra đầy đất. Lập nhe răng cười nanh ác, nói đoạn giơ cao thanh bát cương cửu hoàn đao lên, gằn:

" Để tao cho mày đoàn tụ với người nhà vậy… ”

Họ Hà biết mình sức cùng lực kiệt, chỉ có đường nhắm mắt chờ chết. Chung quanh y bộ tốt huynh đệ cũng đang lăn xả vào vòng chiến với một đám người giang hồ. Giữa chiến trường lượn lờ một đám khói tím, không ít lính nhà Hồ hít phải, da dẻ lập tức biến sang màu đen xanh. Hai mắt họ hồng đỏ lên, không còn phân biệt nổi địch ta nữa, chỉ biết điên cuồng vung đao khươ kiếm mà chém loạn xạ.

Hơn một nửa số binh nhà Hồ sau khi trúng độc lập tức hoá thành những cỗ máy giết người. Còn những người giang hồ thì không hề bị ảnh hưởng, họ Hà đoán họ đã sớm ngậm thuốc giải.

Huỳnh Chí Lập nhìn cảnh này thì cười nhẹ:

" Không hổ là độc dược của đảo chủ đảo Bạch Long, đúng là có một tư vị khác. ”

Miệng nói, song chân y vẫn vận kình giáng vào hai đùi bách hộ họ Hà. Cách cách hai tiếng, chân họ Hà đã gãy đoạn. Y thét lên một tiếng đau đớn, mặt vặn vẹo tới độ biến dạng. Nương theo đó, một lượng lớn khói độc cũng theo miệng tràn vào cơ thể.

Có câu thuốc có ba phần là độc. Thứ khói độc này sử dụng chín mươi bảy loại thuốc đại bổ, trong có cả linh chi nhân sâm không dưới trăm năm. Một khi tiến vào cơ thể, sẽ khiến người trúng toàn thân tràn đầy sức mạnh, lại có công hiệu mê hoặc thần trí. Thần trí đã không rõ ràng, thân thể theo bản năng cần chỗ phát tiết, tất nhiên sẽ tàn sát đồng bọn chung quanh.

Song trên đời không có việc gì mười phần chắc cả mười mươi. Họ Hà hít phải độc khí, nhưng nhờ có hận thù với Huỳnh Chí Lập mà không hề đánh mất lí trí. Đã vậy còn mượn nhờ bảy phần đại bổ trong dược vật, xông phá khai thông các kinh mạch toàn thân. Trong một khoảnh khắc hồi quang phản chiếu, tất cả tiềm lực của y đã bị khói độc kích phát.

Họ Hà đợi đúng lúc Huỳnh Chí Lập nghĩ y đã trúng độc mất hẳn nhân tính, hai chân thả ra không nhấn lên lưng nữa. Lúc này y mới xuất chưởng vỗ lên mặt đất, mượn lực phản chấn bật lên giữa bán không.

Sư Tử Hà Đông nào có ngờ con châu chấu gãy chân còn biết đá xe. Không kịp phản ứng lại, thì vị bách hộ họ Hà nọ đã phát liền hai đấm, một từ mé tả đấm qua, một từ phía hữu xông lại. Huỳnh Chí Lập chỉ kịp kêu một tiếng, hai đầu quyền đối thủ đã đập trúng ngay huyệt thái dương.

Đây là hai yếu huyệt, đánh vào nó có thể khiến não bộ bị tổn thương, khả năng dẫn đến tử vong rất cao. Đây quả là hai quyền mạnh nhất trong cuộc đời của vị bách hộ họ Hà, đã nhanh lại hiểm, chuẩn mà không yếu.

Huỳnh trúng chiêu, hai mắt trợn lên như sắp lồi ra khỏi hốc mắt. Từ cả bảy lỗ trên mặt y đầu có máu tươi rỉ ra, hai tay buông thỏng, Sư Tử Hà Đông cứ như vậy mà tuyệt khí lìa đời.

Đánh xong một đòn sấm sét, vị bách hộ họ Hà cũng ngã vật ra đất.

Máu màu đen tím chảy ra từ mọi lỗ chân lông trên người, chỉ trong thoáng chốc đã không còn nhìn rõ da thịt y nữa. Chỉ còn đôi mắt đang hấp háy, nhãn châu như sáng lên long lanh. Chất độc bò trên lòng trắng, hướng tới chỗ đồng tử của y như những con giun đáng sợ. Chẳng mất bao lâu, bách hộ họ Hà cũng bỏ mạng dưới kịch độc.

Bịch! Bịch!

Sức sống của binh sĩ nhà Hồ bị kịch độc thiêu cháy, lần lượt hoá thành người máu mà ngã xuống đất. Đám hiệp khách thấy đại cục đã định, bèn rủ nhau dùng khinh công chạy nhanh vào rừng.

Vài hô hấp sau, Hồ Xạ chạy đến.

Cảnh tượng trước mặt y thực là thương tâm, phi thường thê thảm. Nằm rạp khắp nơi toàn những người là người, ai nấy không cụt tay, đứt chân thì đầu đã lăn ra chỗ khác. Hơn một ngàn người chết, chẳng mấy ai được toàn thây.

Đó là bởi binh sĩ sau khi trúng kịch độc, có người đã dùng vũ khí chặt tới tấp lên những cái xác chung quanh để phát tiết.

Hồ Xạ gặp cảnh này, bất giác thẫn thờ. Y nhìn khắp một lượt chốn đồng thây rừng xác, hi vọng tìm được dù chỉ một hơi thở mong manh đang sắp tắt thôi. Tiếc sao, đáp lại y chỉ có sự lặng im của cái chết.

Hồ Xạ không dám bước lên thêm nữa, vì thứ khói tím kì quái nọ vẫn còn lởn vởn khắp nơi.

Y hướng ánh mắt mình ra xa, nơi một người toàn thân đẫm máu nằm ngay sát một gã đàn ông cao lớn, mặt mày nanh ác. Nhìn bộ áo huyết nhân đang mặc, Hồ Xạ nhận ra ngay ấy là tay bách hộ họ Hà.

Phập… phập… phập…

Xạ rút mấy chục mũi tên ra khỏi ống tên của mình, rồi cứ thế nhắm vào đầu Huỳnh Chí Lập mà vung tay. Y vừa nghiến răng, nước mắt nóng hổi đã tran hoà quanh hai tròng mắt.

Thì ra bốn cái nỏ chỉ là để mê hoặc người ta, chứ thực chất các mũi tên đều được y phóng ra như tụ tiễn ( tụ: ống tay áo, tiễn: mũi tên. Tụ tiễn là một loại tên nhỏ, ngắn, được dùng làm ám khí, thường giấu trong tay áo thụng dài và rộng của người Trung Quốc).

Liên phát mười sáu mũi, cái đầu của Lập đã biến dạng hoàn toàn, không còn thấy rõ được diện mạo khi còn sống nữa. Nhìn từ xa, trông như một con nhím lớn đang nằm ngủ bên cái xác không đầu của y vậy. Hồ Xạ còn muốn tiếp tục ném tên, bỗng cảm thấy bên cạnh có tiếng kêu kì lạ.

Y giật mình quay lại, chỉ kịp thấy một bóng đen to cỡ quả quất bay đến. Tốc độ của nó nhanh gấp mười lần những mũi tên Xạ vừa ném đi, đủ biết nội lực người đánh lén cao tới mức đăng phong tạo cực.

Trong khi bay, dị vật còn phát ra những tiếng " khặc " " khặc " như thể loài âm binh ma quỷ đang giật giọng mà cười.

CỐP.

Nhìn rõ, nhưng chẳng thể ngăn cản. Hồ Xạ chỉ vừa nghe thấy âm thanh, thì dị vật đã đập trúng mấy mũi tên trên tay y. Rắc một tiếng lớn, cả một bó tên bị đụng cho tan tác thành muôn mảnh. Còn bóng đen nọ thì tiếp tục bắn mạnh vào một cái cây lớn cách hắn mấy chục thước.

Chỉ nghe đánh rắc một tiếng, thân cây một người ôm từ từ đổ ra sau. Chỉ còn dị vật ấy là rơi xuống im lìm trên nền rừng.

Hồ Xạ thấy họng mình khô khốc, miệng lưỡi đắng nghét cả lại. Y tự nhận trên phương diện ám khí mình đã đạt tới cảnh giới siêu phàm nhập thánh, chưa bao giờ để quần hùng thiên hạ vào mắt. Mà nay, so với đối phương, trông y chỉ như đứa trẻ lên ba đang nghịch bùn tát nước.

" Người đã chết rồi, để họ yên nghỉ. Như còn tiếp tục hành hạ thi thể người ta, tích cắt áo chia đào (**) của nhà ngươi cũng nên công khai cho toàn thiên hạ được biết. Hồ Xạ tướng quân, lão nói kiểu này chắc ngài sẽ hiểu được chứ? ”

Đằng xa vẳng lại âm thanh khàn khàn, hơi chút tang thương của một ông lão. Hồ Xạ không thấy mặt lão, nhưng hắn đoán đối phương cũng đã ngoài lục tuần rồi.

Lại nhớ đến những gì lão ta mới nói, y không khỏi thấy bàng hoàng như có sét nổ bên tai. Không chỉ nhại lại lối nói chữ khó hiểu của y, lão ta còn chỉ rõ mối quan hệ không bình thường giữa Hồ Xạ và một người nam khác. Cụ thể là ai, có lẽ chỉ nên có ba người biết.

Lúc này khói độc đã tan, Hồ Xạ nhảy vào chiến trường tìm kiếm thêm một lần nữa. Không còn ai hết. Binh đoàn hơn một ngàn lính của y đã chết hết sạch chỉ trong thời gian chưa tới một canh giờ.

Hồ Xạ không khỏi nhớ lại những gì Hồ Nguyên Trừng đã dặn: [ mọi thứ trên chiến trường xảy ra nhanh như điện quang hoả thạch, biến hoá khôn lường, xoay vần không ngớt. Trừ phi đối phương đã không còn lực phản kháng, bằng không thì vẫn chưa thể nói trước được điều gì. ]

Y ngơ ngác hồi lâu, mới cười khổ chạy về tiếp ứng cho Hồ Đỗ. Trên đường, y đến bên cạnh cái cây đổ, cẩn thận nhặt dị vật lên. Cái vật đen trùi trũi ấy nhìn thì nhỏ mà cầm lên nặng trĩu cả tay, ước chừng cũng phải bốn năm cân. Hồ Xạ cẩn thận quan sát, dưới ánh nắng đang tắt dần y nhận ra đó là một viên bi sắt, khắc mặt của một con quỷ đang nhe nanh dẩu mỏ, trông rất hung ác.

Tay chân y như rụng rời, mồ hôi toàn thân ứa ra như tắm, nhưng không phải vì viên bi mặt quỷ ấy nặng. Y kinh hãi, hoảng sợ đến sắc mặt biến màu là vì nhân vật gắn liền với nó - thứ ám khí chết người mang tên Quỷ Diện Phi Châu ấy.

" Cô phong nơi rừng trúc " - Vua của ngàn tên trộm, chúa tể giới lục lâm - Quận Gió (***)

Chú thích:

(*) Đây là sinh vật hư cấu, trong tích thật Kim Quy không hề có hình dáng này

(**) cắt áo chia đào: tích cổ. Chia đào là nói về việc Vệ Linh Công thời Xuân Thu say mê Di Tử Hà, cắt áo thì kể việc Hán Ai Đế si mê Đổng Hiền. Ở đây Quận Gió dùng như một cách giễu nhại lối nói chữ của Xạ, đồng thời bóng gió việc y thuộc về giới tính thứ ba.

(***) Quận Gió: tay trộm huyền thoại từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, chủ yếu nói về giai đoạn đầu thời Lê.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương