Thịnh Đường
-
Chương 29
Hai người bước ra cửa, Lý Thế Dân bực bội nói: “Đại ca, Dương Hựu kia sắp thoái vị rồi, đối với chúng ta hắn đã hoàn toàn vô dụng, cần gì phải để tâm đến hắn nữa?”
“Chim hết cất cung, thỏ chết chó săn vào nồi, đây là điều xưa nay không thể tránh. Nhưng Dương Hựu dù sao cũng là Tùy chủ do chúng ta lập nên, nếu không thêm phần hậu đãi, làm sao tỏ rõ khí độ của họ Lý ta, khiến cho bốn phương quy phục?” Lý Kiến Thành dừng một chút, dường như muốn nói điều gì, cuối cùng chỉ rũ mắt, than nhẹ một tiếng, “Thế Dân, thân bất do kỷ đi đến bước đường này, kể cũng đáng thương…… chi bằng tha được chỗ nào thì tha đi.”
Thật ra trong lòng anh hiểu rõ, ngoài miệng dù biện ra trăm ngàn lý do, cũng không bằng một lý do vẫn luôn giữ kín trong lòng, tuyệt không thể nói ra.
Đang ở đỉnh cao mà rơi xuống vực sâu, một sớm một chiều đã đánh mất tất cả. Cảm giác này, đối với anh…… khác nào đồng bệnh tương liên, cho nên đại khái cũng nảy sinh vài phần thương xót đối với Dương Hựu.
Lý Thế Dân nhìn sang anh, đáy mắt nổi lên một tia kinh ngạc.
Hắn cứ ngỡ đại ca người ôn hòa nhất, cũng là người tỉnh táo nhất trên đời. Ôn hòa và tỉnh táo tuy mâu thuẫn nhưng vẫn thống nhất, cuối cùng hợp lại thành một loại hờ hững gặp chuyện gì cũng không dao động.
Chỉ là lúc này đây, đáy mắt anh vô ý hiện lên một tia trong trẻo cô tịch, khiến Lý Thế Dân khẽ giật mình.
Nhưng tập trung nhìn lại, ánh mắt kia đã khôi phục như thường, khiến người ta không nhìn ra bất cứ cảm xúc nào. Không hiểu vì sao, lòng hắn hơi đau xót, cách ống tay áo lẳng lặng nắm tay anh, khẽ nói: “Nếu đại ca thật sự nghĩ vậy, Thế Dân xin nghe theo đại ca.”
Lý Kiến Thành liếc mắt nhìn hắn chăm chú trong giây lát, gật đầu, đáy mắt lộ ra ý cười nhàn nhạt như không.
*****
Mấy ngày sau, Dương Hựu hạ chiếu thư trong buổi chầu, bày tỏ ý muốn thoái vị, nhường ngôi cho Đường vương Lý Uyên. Chiếu này vừa ra, trong triều từ trên xuống dưới không ai lấy làm kinh ngạc, hiển nhiên cũng không người nào khuyên giải.
Nhưng Lý Uyên vẫn ngấm ngầm khống chế cục diện, đến lúc này lại ra sức từ chối, chỉ nói mình một lòng trung với Tùy, tuyệt không có tâm phản nghịch. Nhưng quan viên trong triều đều ngầm hiểu đây chẳng qua là Lý Uyên muốn diễn cho trọn vai, nên cũng thuận theo ý tứ của ông, thay nhau cầu kiến.
Một bên khổ sở khuyên can, một bên lại ra sức chối từ, cứ thế kéo dài đến hơn một tháng vẫn không có kết quả.
Ngày hôm nay, Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân được triệu đến tướng phủ.
Lý Uyên quay lưng đứng trên đài, ngắm tấm địa đồ khổ lớn treo trên tường. Bùi Tịch ngồi một bên, thấy hai người lập tức đứng dậy, cung kính thi lễ.
Lúc này Lý Uyên đã nghe tiếng, quay lại nhìn hai người cười nói: “Kiến Thành, Thế Dân, các con đến đây.”
Hai người lên điện, chắp tay thi lễ.
Lý Uyên gật đầu, nói thẳng vào đề: “Không giấu hai con, lần này vi phụ triệu các con đến chính là vì chuyện đông tiến. Không biết hai con có kiến giải gì?”
Việc này anh từng nghe Lý Uyên đề cập đến trong lúc chuyện trò, xem ra lần này đã chính thức động tâm niệm. Lý Kiến Thành nghe vậy, tiến lên đáp: “Kiến Thành nghĩ, lúc này Dương Quảng đã chết, tân đế mới lập, tình hình Lạc Dương không ổn định. Lúc này dẫn quân đông tiến, thứ nhất dễ dàng thăm dò địch tình, thứ hai……” Hơi ngập ngừng, cuối cùng nói tiếp, “Có thể củng cố uy danh của ta trước khi phụ thân đăng cơ đại vị.”
Nghe anh nói trắng ra chuyện đăng cơ, Lý Uyên cũng không phủ nhận, chỉ gật đầu, mỉm cười nhìn sang Lý Thế Dân mà hỏi: “Thế Dân nghĩ sao?”
“Lời đại ca, Thế Dân hoàn toàn đồng ý.” Lý Thế Dân cũng tiến lên, nói, “Thế Dân nguyện dẫn đại quân đi trước, đánh chiếm Lạc Dương, thay phụ thân trừ bỏ khối tâm bệnh này!”
“Thế Dân đừng vội,” Lý Uyên nghe vậy chỉ cười ha hả, “Lần này vi phụ muốn cho hai con cùng đi, sao hả?”
Lý Thế Dân ngẩn người, nhanh chóng liếc sang Lý Kiến Thành, kế đó chắp tay: “Thế Dân nguyện tiến lui cùng đại ca!”
Nghe ngữ điệu hắn ngập tràn kích động, Lý Kiến Thành mỉm cười, cũng tiến lên nói: “Mọi chuyện xin nghe theo an bài của phụ thân.” Trong lòng anh hiểu rõ, thực ra Lý Uyên đã có tính toán từ trước, lần này gọi hai người đến hỏi chẳng qua chỉ muốn thăm dò đó thôi.
Lúc này Bùi Tịch lại bước lên, chắp tay cúi đầu nói: “Vương gia, hai vị công tử, thần có một lời khuyên, chẳng biết có nên nói ra hay không?”
Lý Uyên luôn kính trọng ông ta, nghe vậy cười nói: “Bùi giám cứ nói đừng ngại.”
Bùi Tịch chậm rãi nói: “Thần nghĩ chuyến đông tiến này không thể không đi, nhưng cũng không thể quá nóng vội.”
Lý Kiến Thành nhìn thẳng vào mắt ông ta, hỏi: “Thâm ý của Bùi đại nhân, xin hãy chỉ giáo.”
“Không dám,” Bùi Tịch cười cười, ngữ điệu vẫn thong thả ung dung, “Lần này thần cũng có một câu, chỉ mong nó sẽ có ích cho thế tử.”
“Xin Bùi đại nhân nói rõ.”
Bùi Tịch chầm chậm nói: “Chiến, hòa, tiến, thoái, mong thế tử hãy tùy thời mà hành sự.”
“Tùy thời mà hành sự……” Lý Kiến Thành hơi trầm ngâm, sau đó mỉm cười, chắp tay thi lễ, “Lời Bùi đại nhân nói, Kiến Thành xin ghi nhớ trong lòng.”
Bùi Tịch cũng cười, đáp lễ: “Không dám.”
Lý Uyên đứng trên đài chứng kiến rõ ràng nhưng cũng không vạch trần, hồi lâu mới nói: “Được rồi, giờ hai con hãy mau mau lui về chuẩn bị đi.”
“Dạ!”
Hai người thi lễ rồi trở ra. Đến cửa, Lý Thế Dân hỏi ngay: “Đại ca, lời Bùi Tịch nói thật ra có ý gì?”
Lý Kiến Thành chân không ngừng bước, chậm rãi đáp: “Đó là muốn khuyên chúng ta nên chiến thì chiến; nếu không thể chiến thì hãy cứ thoái lui, không cần đắn đo gì cả.”
Lý Thế Dân nghe vậy, dường như đã hiểu ra vài phần, trầm ngâm hỏi: “Đại ca nghĩ chuyến này đại quân ta có thể đánh hạ Lạc Dương hay không?”
“Nếu dốc sức tấn công, dĩ nhiên có thể đánh hạ. Nhưng nếu cái giá phải trả là quá lớn thì cũng không đáng.” Lý Kiến Thành dừng một chút lại tiếp, “Lời Bùi Tịch nói chỉ e cũng chính là ý của phụ thân, chúng ta…… cứ tùy thời mà hành sự là được rồi.”
*****
Cuối tháng ba, Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân được phong làm Tả, Hữu tướng quân, dẫn binh mười vạn, thẳng hướng Lạc Dương.
Đại quân một đường đông tiến, thế như chẻ tre, gần như không gặp sự chống cự ngoan cố nào, cứ thế tiền vào vùng ngoại thành Lạc Dương.
Hôm đó sau giờ cơm, Lý Kiến Thành vén trướng bước ra, đi đến một sườn dốc phóng mắt nhìn về phương xa. Chỉ thấy sơn quang rợp mắt, sắc xuân động lòng người, thành Lạc Dương nằm giữa muôn hồng nghìn tía, còn nghe văng vẳng tiếng nhạc.
Nhưng theo lời hạ nhân báo lại, mấy ngày nay cổng thành Lạc Dương đóng chặt tử thủ, dù đại quân đã áp sát cũng hoàn toàn không có hành động nghênh chiến.
Anh biết trong tay mình có mười vạn nhân mã, nếu dốc sức công thành hẳn cũng không rơi vào thế yếu. Nhưng giờ này lại thấy thành Lạc Dương trang nghiêm vững vàng, quân đội chỉnh tề, ngoại trừ đồ tang rải khắp thành thì tuyệt không thấy nửa phần rối loạn.
Nghĩ đến lời gợi ý của Bùi Tịch, Lý Kiến Thành không khỏi rơi vào trầm ngâm.
Không biết đã đứng yên bao lâu, chợt cảm thấy đầu vai man mát, thân thể không khỏi hơi hơi co lại, hoàn hồn thì đã thấy trời đổ xuống cơn mưa.
Mưa phùn tháng ba tuy không lớn, nhưng đi kèm với nó là những cơn gió lạnh nên cũng thêm vài phần giá buốt. Lý Kiến Thành ngẩng đầu nhìn trời, đang định xoay người về doanh thì đầu vai đã đột ngột trở nên ấm áp.
Lý Thế Dân đứng sau lưng anh, vươn hai tay giúp anh buộc áo choàng. Động tác của hắn rất chậm, rõ ràng là lưu luyến tư thế gần như ôm ấp này.
Lý Kiến Thành lặng lẽ nhìn thành Lạc Dương phía xa, cười nói: “Đa tạ Thế Dân.”
Lý Thế Dân rốt cuộc cũng thu tay, bước đến bên cạnh, sóng vai đứng cùng anh: “Đại ca đang phân vân không biết nên tiến hay lùi?”
Lý Kiến Thành vẫn không rời mắt, chỉ chầm chậm gật đầu.
“Trận chiến này không phải một sớm một chiều, đại ca không cần lo lắng thái quá,” Lý Thế Dân hiếm khi không muốn làm liều, ngược lại khuyên nhủ, “Tạm thời hãy chờ xem thời tiết ngày mai thế nào đã.”
Anh biết lời hắn nói có lý: Nếu mưa vẫn không ngừng rơi, đường xá lầy lội, dù có muốn công thành cũng không nổi, chi bằng…… chờ xem thiên ý.
Vừa gật đầu đã nghe Lý Thế Dân tiếp: “Ngoài trời đổ mưa, chúng ta vẫn nên mau chóng về doanh.” Dứt lời nắm tay anh, gấp gáp kéo về.
Trở về trướng, Lý Kiến Thành còn chưa kịp cởi áo choàng đã thấy trong trướng có một người cung kính đứng chờ.
Còn đang định hỏi, Lý Thế Dân đã mở lời trước: “Đại ca, Thế Dân nghe nói trong thành Lạc Dương có một danh y nên đã sớm nhờ người dò hỏi khắp nơi, muốn mời ông ta đến Trường An.” Dừng một chút, lại vòng ra sau lưng đại phu cười nói, “Không ngờ đại phu còn chưa đến Trường An, chúng ta đã đến đây trước. Cũng may ta đã sớm mời người, bằng không giờ này cổng thành đóng im ỉm, chỉ e là không có duyên gặp gỡ.”
Vì Lý Kiến Thành không muốn lộ chuyện này ra ngoài, hắn phải sai người điều tra cẩn thận mới mời đại phu đến, những trắc trở trong đó khỏi nói cũng biết.
Lý Kiến Thành lẳng lặng nhìn hắn, sóng mắt hơi hơi lay động, mãi cho đến khi đại phu kia chắp tay nói: “Thảo dân bái kiến Đường thế tử.”
Lúc này anh mới quay đầu nhìn sang đại phu, đưa tay đỡ ông ta dậy, khẽ cười nói: “Vậy xin phiền đại phu.” Dứt lời ngồi xuống ghế, vén ống tay áo lên một đoạn, lộ ra cổ tay trắng ngần mà rắn chắc.
Đại phu đặt hai ngón tay lên mạch, trầm ngâm hồi lâu mới hỏi: “Thế tử bắt đầu mắc chứng bệnh này từ bao giờ?”
Lý Kiến Thành lặng lẽ nói: “Từ ba năm trước.”
Ba năm trước chợt bừng tỉnh, khung cảnh trước Huyền Vũ môn phảng phất như một hồi mộng mị, nhưng cơn đau nhói lên trong ***g ngực vẫn hết sức chân thật.
Đại phu gật đầu, lát sau thu tay, chậm rãi nói: “Xem mạch tượng của thế tử không có chỗ nào bất thường, hẳn không phải là bệnh từ bên trong. Chẳng hay chứng đau tim này có phải do ngoại thương gây ra không?”
Lý Kiến Thành nghe vậy liền ngước nhìn lên, lại bắt gặp một đôi mắt vẫn nhìn mình chằm chằm từ sau lưng đại phu. Anh thu ánh mắt, bình tĩnh đáp: “Không hề.”
Đại phu nghe vậy nhíu mày, đứng dậy vái dài, nói: “Thảo dân vô năng, xin thế tử thứ tội.”
Lý Thế Dân nghe vậy, ánh mắt nhất thời tối đi vài phần. Mà nét mặt Lý Kiến Thành trái lại lại vẫn bình tĩnh khác thường, anh tiến lên đỡ ông ta đứng dậy, nói: “Đây vốn là cố tật, đại phu không nên tự trách mình.”
Đại phu thở dài: “Nếu thế tử không chê, thảo dân xin kê hai phương thuốc: Một thang trấn định giảm đau, khi bệnh phát có lẽ sẽ phát huy tác dụng; một thang điều hòa nội tức, dùng lâu ngày, tự nhiên chỉ lợi mà không hại.”
Lý Kiến Thành gật đầu đáp: “Vậy xin phiền đại phu.” Dứt lời ra hiệu cho hạ nhân đưa đại phu đi bốc thuốc.
Đại phu sắp ra khỏi trướng, bỗng dừng chân mà nói: “Triều Tùy khí số đã tận, dân chúng lầm than, bách tính trong thiên hạ đều trông chờ vào họ Lý. Chỉ mong Đường vương hãy mau mau chấm dứt chiến loạn, quy thiên hạ về một mối.”
Lý Kiến Thành mỉm cười, đáp: “Đương nhiên sẽ dốc hết sức lực.”
Đại phu lui đi rồi, Lý Thế Dân ngồi xuống ghế đối diện, nét mặt lộ rõ vẻ thất vọng.
Lý Kiến Thành nhìn hắn, cuối cùng thở dài: “Thế Dân, ta đã nói từ lâu rồi, chứng bệnh này không có thuốc chữa.”
Khi còn ở Trường An, Lý Thế Dân đã nửa ngấm ngầm nửa công khai mời rất nhiều đại phu, các loại thảo dược bày đầy một tủ. Lý Kiến Thành không nói ra nhưng trong lòng thủy chung vẫn hiểu: Làm vậy chẳng qua chỉ là phí công.
Muốn tháo chuông phải tìm người buộc chuông. Tâm bệnh, chỉ có tâm dược mới giải nổi.
Mà Lý Thế Dân nghe vậy lại chỉ lắc đầu: “Có thật sự vô phương cứu chữa hay không, phải mời hết danh y trong thiên hạ mới biết được.” Dáng vẻ của Lý Kiến Thành khi phát bệnh hắn đã thấy rất nhiều, nhưng vẫn không nỡ nhìn thêm một lần nào nữa.
Mỗi khi nhớ tới cảnh tượng ấy, lòng hắn lại khe khẽ nhói đau.
Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng hạ nhân: “Thế tử, nhị công tử, thuốc đã sắc xong rồi.”
“Vào đi.” Lý Kiến Thành nhìn hạ nhân đặt thuốc lên bàn, xoay người lui ra, vừa định đưa tay cầm bát, không ngờ Lý Thế Dân đã tiến lên đoạt đi trước.
Lý Kiến Thành cười hỏi: “Chẳng lẽ Thế Dân muốn giúp ta uống thuốc hay sao?”
Lý Thế Dân gật đầu, bước đến đứng ngay trước mắt Lý Kiến Thành.
“Đại ca có còn nhớ lần đầu tiên Thế Dân hầu đại ca uống thuốc không?” Cúi đầu nhìn người trước mặt, khóe môi khẽ mỉm cười, đôi ngươi lại trở nên hết sức thâm trầm.
Đêm mưa hỗn loạn, binh đao giao tranh, vệt máu đỏ thẫm, khoái mã phi như bay, cơn đau xé tim…… cùng với mùi thuốc ngấm đầy khoang miệng, môi lưỡi gắn bó, hơi thở quyện vào nhau……
Hỗn độn, nhưng cũng rõ ràng như mới hôm qua.
Nếu chưa từng trải qua đêm dài nôn nóng và đau xót ấy, nếu không có cái hôn táo bạo kia…… Có lẽ hắn sẽ vĩnh viễn không hiểu, đại ca đối với mình…… rốt cuộc là quan trọng đến nhường nào.
Đối với hắn, cái hôn kia là bước đầu tiên mở đường; đối với cả hai người, lần thân cận ấy có thể nói là màn khởi đầu chân chính cho tất cả.
Cho đến hôm nay, không ngờ đã có được. Mỗi lần nhớ lại còn tưởng một giấc chiêm bao, nhưng lại vô cùng chân thật.
Nghĩ đến đây, khóe môi Lý Thế Dân bất giác mỉm cười. Hắn cúi đầu đăm đăm nhìn Lý Kiến Thành, trầm lặng mà nghiêm túc, bỗng quay đầu, một ngụm uống vơi nửa bát thuốc.
Lý Kiến Thành lặng thinh không nói, chỉ ngẩng mặt lặng lẽ nhìn hắn, dĩ nhiên đã hiểu hắn sắp làm gì.
Cảm nhận được đối phương đang tới gần, cảm nhận được cái bóng đang dần dần phủ lên thân thể, anh chầm chậm khép mắt, cho đến khi nhắm nghiền lại. Đợi chờ hơi ấm đã vô cùng quen thuộc của đối phương, đợi chờ môi lưỡi quấn quýt vội vàng mà triền miên, đợi chờ hơi thở quyện vào nhau như nước sữa giao hòa……
Nước thuốc từ miệng hắn chảy vào, đã chẳng còn phân biệt được ngươi ta. Mùi hương đặc quánh tràn đầy khoang miệng, dần dần hóa thành một vòng nước xoáy, kéo mình lún sâu từng chút một.
Gắng sức kháng cự, muốn kháng cự, cuối cùng lại không hề kháng cự.
Bỗng dưng giật mình, tiếng mưa rơi bên tai ngày càng dồn dập, tí tách tí tách, hóa thành những điệu nhạc tuyệt trần.
Cơn mưa này, chỉ e sẽ không tạnh trong ngày một ngày hai được.
Mang theo ý niệm mơ hồ này, Lý Kiến Thành chầm chậm vươn tay, đặt lên vai hắn, ra sức giữ chặt.
Thật ra anh hiểu rõ hơn ai hết, nếu chứng đau tim của mình thực sự có thuốc trị tận gốc, thì phương thuốc này chính là Lý Thế Dân, cũng chỉ có thể là Lý Thế Dân mà thôi.
Nhưng cách dùng thuốc đã có đến hai.
Giết ngươi, hay là…… yêu ngươi…… *vote yêu xong rồi giết, công hiệu gấp đôi:”>*
Câu hỏi này không lúc nào không quanh quẩn trong đầu, mà giờ khắc này, anh lại chỉ muốn buông bỏ.
Lời tác giả: Tuy không tình nguyện cho lắm, nhưng nhị ngốc, đại ca cứ tạm giao cho ngươi bảo quản →_→
Nhân lúc còn có thể ngọt ngào, hãy mau mau nắm cho chắc đi, không chừng đến ngày nào đó ta lại đòi về bây giờ (ˉ^ˉ)
“Chim hết cất cung, thỏ chết chó săn vào nồi, đây là điều xưa nay không thể tránh. Nhưng Dương Hựu dù sao cũng là Tùy chủ do chúng ta lập nên, nếu không thêm phần hậu đãi, làm sao tỏ rõ khí độ của họ Lý ta, khiến cho bốn phương quy phục?” Lý Kiến Thành dừng một chút, dường như muốn nói điều gì, cuối cùng chỉ rũ mắt, than nhẹ một tiếng, “Thế Dân, thân bất do kỷ đi đến bước đường này, kể cũng đáng thương…… chi bằng tha được chỗ nào thì tha đi.”
Thật ra trong lòng anh hiểu rõ, ngoài miệng dù biện ra trăm ngàn lý do, cũng không bằng một lý do vẫn luôn giữ kín trong lòng, tuyệt không thể nói ra.
Đang ở đỉnh cao mà rơi xuống vực sâu, một sớm một chiều đã đánh mất tất cả. Cảm giác này, đối với anh…… khác nào đồng bệnh tương liên, cho nên đại khái cũng nảy sinh vài phần thương xót đối với Dương Hựu.
Lý Thế Dân nhìn sang anh, đáy mắt nổi lên một tia kinh ngạc.
Hắn cứ ngỡ đại ca người ôn hòa nhất, cũng là người tỉnh táo nhất trên đời. Ôn hòa và tỉnh táo tuy mâu thuẫn nhưng vẫn thống nhất, cuối cùng hợp lại thành một loại hờ hững gặp chuyện gì cũng không dao động.
Chỉ là lúc này đây, đáy mắt anh vô ý hiện lên một tia trong trẻo cô tịch, khiến Lý Thế Dân khẽ giật mình.
Nhưng tập trung nhìn lại, ánh mắt kia đã khôi phục như thường, khiến người ta không nhìn ra bất cứ cảm xúc nào. Không hiểu vì sao, lòng hắn hơi đau xót, cách ống tay áo lẳng lặng nắm tay anh, khẽ nói: “Nếu đại ca thật sự nghĩ vậy, Thế Dân xin nghe theo đại ca.”
Lý Kiến Thành liếc mắt nhìn hắn chăm chú trong giây lát, gật đầu, đáy mắt lộ ra ý cười nhàn nhạt như không.
*****
Mấy ngày sau, Dương Hựu hạ chiếu thư trong buổi chầu, bày tỏ ý muốn thoái vị, nhường ngôi cho Đường vương Lý Uyên. Chiếu này vừa ra, trong triều từ trên xuống dưới không ai lấy làm kinh ngạc, hiển nhiên cũng không người nào khuyên giải.
Nhưng Lý Uyên vẫn ngấm ngầm khống chế cục diện, đến lúc này lại ra sức từ chối, chỉ nói mình một lòng trung với Tùy, tuyệt không có tâm phản nghịch. Nhưng quan viên trong triều đều ngầm hiểu đây chẳng qua là Lý Uyên muốn diễn cho trọn vai, nên cũng thuận theo ý tứ của ông, thay nhau cầu kiến.
Một bên khổ sở khuyên can, một bên lại ra sức chối từ, cứ thế kéo dài đến hơn một tháng vẫn không có kết quả.
Ngày hôm nay, Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân được triệu đến tướng phủ.
Lý Uyên quay lưng đứng trên đài, ngắm tấm địa đồ khổ lớn treo trên tường. Bùi Tịch ngồi một bên, thấy hai người lập tức đứng dậy, cung kính thi lễ.
Lúc này Lý Uyên đã nghe tiếng, quay lại nhìn hai người cười nói: “Kiến Thành, Thế Dân, các con đến đây.”
Hai người lên điện, chắp tay thi lễ.
Lý Uyên gật đầu, nói thẳng vào đề: “Không giấu hai con, lần này vi phụ triệu các con đến chính là vì chuyện đông tiến. Không biết hai con có kiến giải gì?”
Việc này anh từng nghe Lý Uyên đề cập đến trong lúc chuyện trò, xem ra lần này đã chính thức động tâm niệm. Lý Kiến Thành nghe vậy, tiến lên đáp: “Kiến Thành nghĩ, lúc này Dương Quảng đã chết, tân đế mới lập, tình hình Lạc Dương không ổn định. Lúc này dẫn quân đông tiến, thứ nhất dễ dàng thăm dò địch tình, thứ hai……” Hơi ngập ngừng, cuối cùng nói tiếp, “Có thể củng cố uy danh của ta trước khi phụ thân đăng cơ đại vị.”
Nghe anh nói trắng ra chuyện đăng cơ, Lý Uyên cũng không phủ nhận, chỉ gật đầu, mỉm cười nhìn sang Lý Thế Dân mà hỏi: “Thế Dân nghĩ sao?”
“Lời đại ca, Thế Dân hoàn toàn đồng ý.” Lý Thế Dân cũng tiến lên, nói, “Thế Dân nguyện dẫn đại quân đi trước, đánh chiếm Lạc Dương, thay phụ thân trừ bỏ khối tâm bệnh này!”
“Thế Dân đừng vội,” Lý Uyên nghe vậy chỉ cười ha hả, “Lần này vi phụ muốn cho hai con cùng đi, sao hả?”
Lý Thế Dân ngẩn người, nhanh chóng liếc sang Lý Kiến Thành, kế đó chắp tay: “Thế Dân nguyện tiến lui cùng đại ca!”
Nghe ngữ điệu hắn ngập tràn kích động, Lý Kiến Thành mỉm cười, cũng tiến lên nói: “Mọi chuyện xin nghe theo an bài của phụ thân.” Trong lòng anh hiểu rõ, thực ra Lý Uyên đã có tính toán từ trước, lần này gọi hai người đến hỏi chẳng qua chỉ muốn thăm dò đó thôi.
Lúc này Bùi Tịch lại bước lên, chắp tay cúi đầu nói: “Vương gia, hai vị công tử, thần có một lời khuyên, chẳng biết có nên nói ra hay không?”
Lý Uyên luôn kính trọng ông ta, nghe vậy cười nói: “Bùi giám cứ nói đừng ngại.”
Bùi Tịch chậm rãi nói: “Thần nghĩ chuyến đông tiến này không thể không đi, nhưng cũng không thể quá nóng vội.”
Lý Kiến Thành nhìn thẳng vào mắt ông ta, hỏi: “Thâm ý của Bùi đại nhân, xin hãy chỉ giáo.”
“Không dám,” Bùi Tịch cười cười, ngữ điệu vẫn thong thả ung dung, “Lần này thần cũng có một câu, chỉ mong nó sẽ có ích cho thế tử.”
“Xin Bùi đại nhân nói rõ.”
Bùi Tịch chầm chậm nói: “Chiến, hòa, tiến, thoái, mong thế tử hãy tùy thời mà hành sự.”
“Tùy thời mà hành sự……” Lý Kiến Thành hơi trầm ngâm, sau đó mỉm cười, chắp tay thi lễ, “Lời Bùi đại nhân nói, Kiến Thành xin ghi nhớ trong lòng.”
Bùi Tịch cũng cười, đáp lễ: “Không dám.”
Lý Uyên đứng trên đài chứng kiến rõ ràng nhưng cũng không vạch trần, hồi lâu mới nói: “Được rồi, giờ hai con hãy mau mau lui về chuẩn bị đi.”
“Dạ!”
Hai người thi lễ rồi trở ra. Đến cửa, Lý Thế Dân hỏi ngay: “Đại ca, lời Bùi Tịch nói thật ra có ý gì?”
Lý Kiến Thành chân không ngừng bước, chậm rãi đáp: “Đó là muốn khuyên chúng ta nên chiến thì chiến; nếu không thể chiến thì hãy cứ thoái lui, không cần đắn đo gì cả.”
Lý Thế Dân nghe vậy, dường như đã hiểu ra vài phần, trầm ngâm hỏi: “Đại ca nghĩ chuyến này đại quân ta có thể đánh hạ Lạc Dương hay không?”
“Nếu dốc sức tấn công, dĩ nhiên có thể đánh hạ. Nhưng nếu cái giá phải trả là quá lớn thì cũng không đáng.” Lý Kiến Thành dừng một chút lại tiếp, “Lời Bùi Tịch nói chỉ e cũng chính là ý của phụ thân, chúng ta…… cứ tùy thời mà hành sự là được rồi.”
*****
Cuối tháng ba, Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân được phong làm Tả, Hữu tướng quân, dẫn binh mười vạn, thẳng hướng Lạc Dương.
Đại quân một đường đông tiến, thế như chẻ tre, gần như không gặp sự chống cự ngoan cố nào, cứ thế tiền vào vùng ngoại thành Lạc Dương.
Hôm đó sau giờ cơm, Lý Kiến Thành vén trướng bước ra, đi đến một sườn dốc phóng mắt nhìn về phương xa. Chỉ thấy sơn quang rợp mắt, sắc xuân động lòng người, thành Lạc Dương nằm giữa muôn hồng nghìn tía, còn nghe văng vẳng tiếng nhạc.
Nhưng theo lời hạ nhân báo lại, mấy ngày nay cổng thành Lạc Dương đóng chặt tử thủ, dù đại quân đã áp sát cũng hoàn toàn không có hành động nghênh chiến.
Anh biết trong tay mình có mười vạn nhân mã, nếu dốc sức công thành hẳn cũng không rơi vào thế yếu. Nhưng giờ này lại thấy thành Lạc Dương trang nghiêm vững vàng, quân đội chỉnh tề, ngoại trừ đồ tang rải khắp thành thì tuyệt không thấy nửa phần rối loạn.
Nghĩ đến lời gợi ý của Bùi Tịch, Lý Kiến Thành không khỏi rơi vào trầm ngâm.
Không biết đã đứng yên bao lâu, chợt cảm thấy đầu vai man mát, thân thể không khỏi hơi hơi co lại, hoàn hồn thì đã thấy trời đổ xuống cơn mưa.
Mưa phùn tháng ba tuy không lớn, nhưng đi kèm với nó là những cơn gió lạnh nên cũng thêm vài phần giá buốt. Lý Kiến Thành ngẩng đầu nhìn trời, đang định xoay người về doanh thì đầu vai đã đột ngột trở nên ấm áp.
Lý Thế Dân đứng sau lưng anh, vươn hai tay giúp anh buộc áo choàng. Động tác của hắn rất chậm, rõ ràng là lưu luyến tư thế gần như ôm ấp này.
Lý Kiến Thành lặng lẽ nhìn thành Lạc Dương phía xa, cười nói: “Đa tạ Thế Dân.”
Lý Thế Dân rốt cuộc cũng thu tay, bước đến bên cạnh, sóng vai đứng cùng anh: “Đại ca đang phân vân không biết nên tiến hay lùi?”
Lý Kiến Thành vẫn không rời mắt, chỉ chầm chậm gật đầu.
“Trận chiến này không phải một sớm một chiều, đại ca không cần lo lắng thái quá,” Lý Thế Dân hiếm khi không muốn làm liều, ngược lại khuyên nhủ, “Tạm thời hãy chờ xem thời tiết ngày mai thế nào đã.”
Anh biết lời hắn nói có lý: Nếu mưa vẫn không ngừng rơi, đường xá lầy lội, dù có muốn công thành cũng không nổi, chi bằng…… chờ xem thiên ý.
Vừa gật đầu đã nghe Lý Thế Dân tiếp: “Ngoài trời đổ mưa, chúng ta vẫn nên mau chóng về doanh.” Dứt lời nắm tay anh, gấp gáp kéo về.
Trở về trướng, Lý Kiến Thành còn chưa kịp cởi áo choàng đã thấy trong trướng có một người cung kính đứng chờ.
Còn đang định hỏi, Lý Thế Dân đã mở lời trước: “Đại ca, Thế Dân nghe nói trong thành Lạc Dương có một danh y nên đã sớm nhờ người dò hỏi khắp nơi, muốn mời ông ta đến Trường An.” Dừng một chút, lại vòng ra sau lưng đại phu cười nói, “Không ngờ đại phu còn chưa đến Trường An, chúng ta đã đến đây trước. Cũng may ta đã sớm mời người, bằng không giờ này cổng thành đóng im ỉm, chỉ e là không có duyên gặp gỡ.”
Vì Lý Kiến Thành không muốn lộ chuyện này ra ngoài, hắn phải sai người điều tra cẩn thận mới mời đại phu đến, những trắc trở trong đó khỏi nói cũng biết.
Lý Kiến Thành lẳng lặng nhìn hắn, sóng mắt hơi hơi lay động, mãi cho đến khi đại phu kia chắp tay nói: “Thảo dân bái kiến Đường thế tử.”
Lúc này anh mới quay đầu nhìn sang đại phu, đưa tay đỡ ông ta dậy, khẽ cười nói: “Vậy xin phiền đại phu.” Dứt lời ngồi xuống ghế, vén ống tay áo lên một đoạn, lộ ra cổ tay trắng ngần mà rắn chắc.
Đại phu đặt hai ngón tay lên mạch, trầm ngâm hồi lâu mới hỏi: “Thế tử bắt đầu mắc chứng bệnh này từ bao giờ?”
Lý Kiến Thành lặng lẽ nói: “Từ ba năm trước.”
Ba năm trước chợt bừng tỉnh, khung cảnh trước Huyền Vũ môn phảng phất như một hồi mộng mị, nhưng cơn đau nhói lên trong ***g ngực vẫn hết sức chân thật.
Đại phu gật đầu, lát sau thu tay, chậm rãi nói: “Xem mạch tượng của thế tử không có chỗ nào bất thường, hẳn không phải là bệnh từ bên trong. Chẳng hay chứng đau tim này có phải do ngoại thương gây ra không?”
Lý Kiến Thành nghe vậy liền ngước nhìn lên, lại bắt gặp một đôi mắt vẫn nhìn mình chằm chằm từ sau lưng đại phu. Anh thu ánh mắt, bình tĩnh đáp: “Không hề.”
Đại phu nghe vậy nhíu mày, đứng dậy vái dài, nói: “Thảo dân vô năng, xin thế tử thứ tội.”
Lý Thế Dân nghe vậy, ánh mắt nhất thời tối đi vài phần. Mà nét mặt Lý Kiến Thành trái lại lại vẫn bình tĩnh khác thường, anh tiến lên đỡ ông ta đứng dậy, nói: “Đây vốn là cố tật, đại phu không nên tự trách mình.”
Đại phu thở dài: “Nếu thế tử không chê, thảo dân xin kê hai phương thuốc: Một thang trấn định giảm đau, khi bệnh phát có lẽ sẽ phát huy tác dụng; một thang điều hòa nội tức, dùng lâu ngày, tự nhiên chỉ lợi mà không hại.”
Lý Kiến Thành gật đầu đáp: “Vậy xin phiền đại phu.” Dứt lời ra hiệu cho hạ nhân đưa đại phu đi bốc thuốc.
Đại phu sắp ra khỏi trướng, bỗng dừng chân mà nói: “Triều Tùy khí số đã tận, dân chúng lầm than, bách tính trong thiên hạ đều trông chờ vào họ Lý. Chỉ mong Đường vương hãy mau mau chấm dứt chiến loạn, quy thiên hạ về một mối.”
Lý Kiến Thành mỉm cười, đáp: “Đương nhiên sẽ dốc hết sức lực.”
Đại phu lui đi rồi, Lý Thế Dân ngồi xuống ghế đối diện, nét mặt lộ rõ vẻ thất vọng.
Lý Kiến Thành nhìn hắn, cuối cùng thở dài: “Thế Dân, ta đã nói từ lâu rồi, chứng bệnh này không có thuốc chữa.”
Khi còn ở Trường An, Lý Thế Dân đã nửa ngấm ngầm nửa công khai mời rất nhiều đại phu, các loại thảo dược bày đầy một tủ. Lý Kiến Thành không nói ra nhưng trong lòng thủy chung vẫn hiểu: Làm vậy chẳng qua chỉ là phí công.
Muốn tháo chuông phải tìm người buộc chuông. Tâm bệnh, chỉ có tâm dược mới giải nổi.
Mà Lý Thế Dân nghe vậy lại chỉ lắc đầu: “Có thật sự vô phương cứu chữa hay không, phải mời hết danh y trong thiên hạ mới biết được.” Dáng vẻ của Lý Kiến Thành khi phát bệnh hắn đã thấy rất nhiều, nhưng vẫn không nỡ nhìn thêm một lần nào nữa.
Mỗi khi nhớ tới cảnh tượng ấy, lòng hắn lại khe khẽ nhói đau.
Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng hạ nhân: “Thế tử, nhị công tử, thuốc đã sắc xong rồi.”
“Vào đi.” Lý Kiến Thành nhìn hạ nhân đặt thuốc lên bàn, xoay người lui ra, vừa định đưa tay cầm bát, không ngờ Lý Thế Dân đã tiến lên đoạt đi trước.
Lý Kiến Thành cười hỏi: “Chẳng lẽ Thế Dân muốn giúp ta uống thuốc hay sao?”
Lý Thế Dân gật đầu, bước đến đứng ngay trước mắt Lý Kiến Thành.
“Đại ca có còn nhớ lần đầu tiên Thế Dân hầu đại ca uống thuốc không?” Cúi đầu nhìn người trước mặt, khóe môi khẽ mỉm cười, đôi ngươi lại trở nên hết sức thâm trầm.
Đêm mưa hỗn loạn, binh đao giao tranh, vệt máu đỏ thẫm, khoái mã phi như bay, cơn đau xé tim…… cùng với mùi thuốc ngấm đầy khoang miệng, môi lưỡi gắn bó, hơi thở quyện vào nhau……
Hỗn độn, nhưng cũng rõ ràng như mới hôm qua.
Nếu chưa từng trải qua đêm dài nôn nóng và đau xót ấy, nếu không có cái hôn táo bạo kia…… Có lẽ hắn sẽ vĩnh viễn không hiểu, đại ca đối với mình…… rốt cuộc là quan trọng đến nhường nào.
Đối với hắn, cái hôn kia là bước đầu tiên mở đường; đối với cả hai người, lần thân cận ấy có thể nói là màn khởi đầu chân chính cho tất cả.
Cho đến hôm nay, không ngờ đã có được. Mỗi lần nhớ lại còn tưởng một giấc chiêm bao, nhưng lại vô cùng chân thật.
Nghĩ đến đây, khóe môi Lý Thế Dân bất giác mỉm cười. Hắn cúi đầu đăm đăm nhìn Lý Kiến Thành, trầm lặng mà nghiêm túc, bỗng quay đầu, một ngụm uống vơi nửa bát thuốc.
Lý Kiến Thành lặng thinh không nói, chỉ ngẩng mặt lặng lẽ nhìn hắn, dĩ nhiên đã hiểu hắn sắp làm gì.
Cảm nhận được đối phương đang tới gần, cảm nhận được cái bóng đang dần dần phủ lên thân thể, anh chầm chậm khép mắt, cho đến khi nhắm nghiền lại. Đợi chờ hơi ấm đã vô cùng quen thuộc của đối phương, đợi chờ môi lưỡi quấn quýt vội vàng mà triền miên, đợi chờ hơi thở quyện vào nhau như nước sữa giao hòa……
Nước thuốc từ miệng hắn chảy vào, đã chẳng còn phân biệt được ngươi ta. Mùi hương đặc quánh tràn đầy khoang miệng, dần dần hóa thành một vòng nước xoáy, kéo mình lún sâu từng chút một.
Gắng sức kháng cự, muốn kháng cự, cuối cùng lại không hề kháng cự.
Bỗng dưng giật mình, tiếng mưa rơi bên tai ngày càng dồn dập, tí tách tí tách, hóa thành những điệu nhạc tuyệt trần.
Cơn mưa này, chỉ e sẽ không tạnh trong ngày một ngày hai được.
Mang theo ý niệm mơ hồ này, Lý Kiến Thành chầm chậm vươn tay, đặt lên vai hắn, ra sức giữ chặt.
Thật ra anh hiểu rõ hơn ai hết, nếu chứng đau tim của mình thực sự có thuốc trị tận gốc, thì phương thuốc này chính là Lý Thế Dân, cũng chỉ có thể là Lý Thế Dân mà thôi.
Nhưng cách dùng thuốc đã có đến hai.
Giết ngươi, hay là…… yêu ngươi…… *vote yêu xong rồi giết, công hiệu gấp đôi:”>*
Câu hỏi này không lúc nào không quanh quẩn trong đầu, mà giờ khắc này, anh lại chỉ muốn buông bỏ.
Lời tác giả: Tuy không tình nguyện cho lắm, nhưng nhị ngốc, đại ca cứ tạm giao cho ngươi bảo quản →_→
Nhân lúc còn có thể ngọt ngào, hãy mau mau nắm cho chắc đi, không chừng đến ngày nào đó ta lại đòi về bây giờ (ˉ^ˉ)
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook