Thanh Bình Nhạc (Đam mỹ)
-
Chương 22: Nhất Phiến Sinh
Sơn tịnh sơn, thanh bình sinh yên, chính là nhân duyên tốt đồng vợ đồng chồng.
Đây là lời giải của trưởng lão chủ sự năm ấy, nhưng Tri Tân lại bảo rằng “Sư huynh sai rồi”.
Thái cực lưỡng nghi, pháp lý tứ tượng, điều mà mỗi người đạt được trong cuộc đời về cơ bản đều là cân bằng, Lý Di quá thông minh, cho nên không có mệnh sống lâu, mà Vương Cẩm Quan xuất thân cơ hàn, là mệnh khổ trước sướng sau, duyên phận của bọn họ chẳng thể kéo dài mãi.
Còn Lý Ý Lan, y nhớ tới bóng lưng hắn nhảy vào sân nhà người thợ mộc, hiên ngang chặn đao cho mình, y rũ mắt nghĩ bụng người này quá chuyên tâm, lòng chẳng màng đến điều chi khác.
“Bần tăng không giải, chỉ nói một câu bâng quơ mà thôi.” Thời gian qua đi sáu năm, Tri Tân gạt đi nỗi tiếc nuối trong lòng, lặp lại câu nói kia một lần nữa, “Núi Ngô xanh, núi Việt xanh, ngọn núi đôi bờ đưa đón quanh. Biệt ly ai thấu tình. Hiện tại phu nhân đã ngồi được rồi chứ?”
Hòa thượng nói năng từ tốn dịu dàng, đây chỉ là một câu nhẹ nhàng, nhưng Vương Cẩm Quan lại như bị giáng một cú đòn vô hình, trên gương mặt bình tĩnh bỗng nhiên hiện lên nét bi thương.
Biệt ly ai thấu tình? Nàng không thấu được.
Ngày Lý Di xảy ra chuyện, đã ngần ấy năm trôi qua, nhưng vẫn hiện rõ trước mắt nàng.
Hôm đó Lý Di thay áo bào đai ngọc mà hắn không thường mặc, đứng ở ngưỡng cửa quay đầu hỏi nàng có muốn ăn nhẹ hay không, khi về hắn sẽ mang cho nàng. Song xưa nay nàng chẳng ham ăn uống, tay lại đang bận mài đao, bởi vì không biết người và người sắp sửa cách xa mãi mãi như trời với đất, cho nên chỉ lắc đầu, giục hắn đi sớm về sớm.
Mãi đến khi bi kịch ập đến bất ngờ, trong cơn thống khổ Vương Cẩm Quan miên man nhớ tới bức tường công đức sáu năm về trước, mới hoàn toàn ngộ ra, người bên kia tường không phải lừa trọc, mà là người tiên tri mệnh trời.
Bây giờ người này đang ở ngay trước mắt, mang một gương mặt trẻ tuổi chẳng gánh nổi đức cao vọng trọng, song khí chất của y lại vô cùng dễ chịu, khiến người ta dù khổ sở muốn rơi lệ nhưng cũng không sợ y khinh thường hay chế nhạo, bởi vì thần sắc của y ẩn chứa khí độ có thể dung chứa vạn vật.
Trong lòng Vương Cẩm Quan ngoài nỗi đau thương thì vẫn còn một phần chủ kiến, khí chất dễ chịu như vậy, ngoại trừ cao tăng trên núi thì người bình thường chẳng thể nào giả bộ được. Nàng thu lại khí thế, cung kính ngồi xuống, bởi vì cảm nhận được trí tuệ của đối phương nên cũng bỏ qua lời vòng vo, trực tiếp nói thẳng.
“Ta phá án nhiều năm, tính tình rất đa nghi, vừa rồi bởi vì đại sư hiếm khi rời núi, hơn nữa lại có dung mạo hơi giống một người liên quan đến vụ án, cho nên ta mới muốn thử đại sư. Nếu có chỗ nào đắc tội hay bất kính, kính mong đại sư chớ chấp nhặt với ta.”
Tri Tân gật đầu: “Ra là vậy, phu nhân đã xin lỗi thì ta cũng không so đo làm gì, không cần để bụng, việc đã qua rồi.”
Vương Cẩm Quan nhoẻn miệng: “Đại sư thật rộng lượng, ta không tiện dò hỏi nội vụ Từ Bi tự, song thứ cho ta mạo muội hỏi một câu nữa, đại sư không hiếu kỳ mình giống ai ư?”
Tri Trân cười nhẹ: “Chúng sinh trăm tướng, mà chúng sinh lại có ngàn vạn, người xa lạ có dung mạo tương đồng cũng chẳng phải sự lạ. Không phải ta không hiếu kỳ, chỉ là họa từ miệng mà ra, tuy ta không tu bế khẩu thiền, song nhiều năm qua đã tập thành thói quen không nghe ngóng. Nếu có chuyện cần ta biết thì ắt hẳn sẽ có người hữu duyên báo cho ta, phu nhân muốn nói cho ta sao?”
Nghi ngờ đã qua, Vương Cẩm Quan không thăm dò y, chỉ nói: “Đại sự quả thực kín miệng như bưng, cảnh giác vô cùng, khiến người ta bội phục. Không bàn chuyện này nữa, đại sư hiểu nhiều biết rộng, nếu ngài có quen biết hạnh lâm ẩn sĩ nào thì làm ơn giới thiệu cho ta, bệnh phổi của Hành Cửu đã…… kéo dài rất lâu rồi.”
Tri Tân lộ vẻ suy tư, hồi lâu sau mới bảo: “Không tính là quen biết, song trước kia khi ra ngoài vân du, ta từng gặp một thầy lang hết sức đặc biệt.”
“Ta và ông ấy gặp nhau ở bãi tha ma, nơi đó chồng chất xác người, ông ấy lại cầm dao ở đó giết gà. Ta lấy làm lạ, bèn hỏi ông ấy tại sao lại làm thế, ông ấy nói mình muốn tìm hiểu vị trí và hình dạng của phủ tạng trong cơ thể, nhưng không dám bất kính với người chết, cho nên đành dùng súc vật để thay thế, song cũng biết rõ nội tạng của động vật và con người là khác nhau, hành động ấy chỉ là phí công, mong ta đừng chê cười ông ấy.”
“Ta lại hỏi, vì sao phải quan sát nội tạng con người, ông ấy nói ghi chép liên quan đến cơ thể trong sách dược có rất nhiều chỗ không chính xác, mà đại phu đều chỉ xem qua loa, rập khuôn học vẹt, làm nghề y như thế rốt cuộc là đang cứu người hay đang hại người, ông ấy không trả lời được, cho nên đang tìm kiếm một đáp án.”
“Từ đó đến nay đã bảy năm trôi qua, nếu vị đại phu ấy đã tìm được đáp án thì ta nghĩ với hiểu biết về phế phủ của ông ấy, có lẽ Lý đại nhân vẫn còn một chút hi vọng sống.”
Sau khi nghe xong, Vương Cẩm Quan chẳng nói lời nào, nhưng trong ánh mắt lại toát lên sự vui mừng, trước kia nàng từng mang danh y đến xem bệnh cho Lý Ý Lan, lão phu tử kia vuốt ria nói, trừ phi là đại la thần tiên tái thế thay đổi phế mạch mới cho hắn, bằng không thì hết đường cứu chữa, nhưng chẳng danh y ở đâu có cách chữa bệnh bằng mổ bụng rạch ngực cả, trời không phụ người có lòng, nàng cuối cùng cũng tìm được chút hi vọng nhỏ nhoi từ câu trả lời của Tri Tân.
Nàng đứng dậy bái tạ Tri Tân, giơ hai tay cao quá đỉnh đầu, nói: “Xin đại sư nói cho ta biết tôn húy của thầy lang đó, ta sẽ lập tức phái người đi mời.”
Tri Tân thầm thở dài, có phần bất đắc dĩ khi mình cho người ta hi vọng mà chỉ khiến nàng đuổi theo huyễn ảnh, y duỗi tay nhẹ nhàng đẩy bàn tay giơ tao của nàng ra, ý bảo nàng không cần hành đại lễ như vậy: “Xin lỗi, khi đó chỉ ngẫu nhiên gặp gỡ, không nghĩ hôm này còn có cơ duyên liên quan, cho nên không trao đổi họ tên với nhau, ta không biết tục danh của thầy lang đó, e rằng phu nhân phải tự đi tìm rồi.”
Vương Cẩm Quan ngẩn ngơ đứng lên, nhanh chóng hoàn hồn lại: “Đại sư chớ nói thế, biết được tin này đã là may mắn của Hành Cửu rồi, chúng ta hẳn nên tự đi tìm đại phu, song ta còn muốn làm phiền đại sư nghĩ kỹ xem ngoại hình và trang phục của vị thầy lang năm đó ra sao, cụ thể gặp gỡ ở nơi nào? Ông ấy có khẩu âm hay không?”
Tri Tâm nhìn mép bàn ngẫm nghĩ một chốc, sau đó đứng dậy, giơ tay sờ sờ sống mũi, nói từng chữ từng chữ rất chậm, như là còn đang suy nghĩ chưa nắm chắc: “Thời gian đã lâu, ta chỉ nhớ đại khái thôi.”
Vương Cẩm Quan gật đầu, ý bảo đại khái thôi cũng không sao.
Tri Tân: “Vị tiên sinh ấy cao chừng này, ngày đó vóc người ông ấy giống như Lý Ý Lan, tuổi chừng ba mươi, bây giờ hẳn cũng bốn mươi rồi. Mặt nhỏ dài, lông mày ngang, hai bên tóc mai điểm bạc, khí chất nhã nhặn, trên vai trái đeo một hòm thuốc nhỏ, mặc áo vải bông màu xanh lục, khẩu âm thì ta nghe không rõ, nhưng không phải người Khương Hưng. Nơi gặp gỡ là bãi tha ma cách thành Bắc Khương Hưng mười hai dặm.”
Vương Cẩm Quan nở nụ cười, khóe môi hiện ra lúm đồng tiên nho nhỏ: “Đa tạ đại sư chỉ điểm, đêm đã khuya, đại sư nghỉ sớm đi nhé.”
Nói rồi, nàng xoay người rời đi, không nán lại nữa.
Tri Tân nhìn bóng lưng gầy của nàng giống hệt Lý Ý Lan, khi nàng bước qua ngưỡng cửa, y chợt gọi nàng lại: “Khoan đã, còn có một đặc điểm nữa, trên hòm thuốc của thầy lang kia có khắc một chữ “Tôn”, có lẽ là họ của ông ấy, hoặc cũng có lẽ không phải, phu nhân hãy lưu ý nhé.”
Vương Cẩm Quan lại cảm ơn lần nữa, còn giúp hắn khép cửa lại.
Tri Tân nhìn ra ngoài qua khe cửa càng lúc càng hẹp, trông thấy trong màn đêm tăm tối có ánh trăng lững lờ tựa như hạt đậu nhỏ, sống hay chết, đành xem số phận của Lý Ý Lan vậy, y ung dung nghĩ, việc y có thể làm cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.
Lý Ý Lan tiến vào cửa viện, trông thấy tẩu tử của mình đi ra từ phòng đại sư.
Cách khá xa, hắn lại mặc đồ đen đứng lặng lẽ, cho nên Vương Cẩm Quan không phát hiện hắn, tiếp tục cất bước trở về phòng của mình.
Lý Ý Lan cách gian phòng của Lữ Xuyên, quan sát kỹ hai cánh cửa phòng, không biết tẩu tử tới cửa thăm viếng, rốt cuộc là muốn tìm đại sư có việc gì.
Tuy nhiên hắn không hỏi, về phòng thấy Ký Thanh vẫn đang ăn bánh, hắn còn chưa kịp lên tiếng bảo tiểu tử này đừng ăn nữa thì cậu chàng đã từ trên giường chạy đến bên bàn, vừa gặm bánh vừa nói: “Ta còn tưởng lão gia ngài muốn qua đêm ở phòng vật chứng cơ, nào nào nào, uống thuốc trước đi đã.”
Khay và chén trên bàn trông hơi quen mắt, Lý Ý Lan thắc mắc: “Thuốc gì thế? Sau khi ăn xong ta đã uống hết thuốc rồi mà.”
“Vậy thì không phải thuốc,” Ký Thanh đáp qua loa, dịch cái chén đến phía bàn gần cửa: “Là trà, uống vào đảm bảo huynh có thể ngủ ngon giấc.”
Lý Ý Lan cúi đầu nhìn, trong chén là nước trà trong suốt màu hổ phách, trông hơi giống mứt lê, hắn bưng lên ngửi thử, trong mùi đắng nhạt xen lẫn một chút mùi gừng, dựa vào kinh nghiệm uống thuốc nhiều năm của hắn, đây là một thứ hoàn toàn mới mẻ.
“Đây là cái gì?” Lý Ý Lan nhấp một hớp, bất ngờ phát hiện nó chẳng đắng mấy, bèn hài lòng nói, “Ai đưa cho đệ mà tùy tiện cho ta uống vậy?”
“Tùy tiện gì chứ,” Ký Thanh rót cho mình một chén trà nguội, vừa uống vừa bảo, “Đây là nước gừng Trúc Linh, Trương Triều bảo là vừa nãy đại sư tiện đường đưa cho huynh ấy, bảo huynh ấy chuyển cho huynh, để huynh uống trước khi ngủ, nói là có thể nhuận họng, giúp huynh ban đêm đỡ ho.”
Trong miệng quả nhiên thoang thoảng mùi trúc thơm ngát, nước canh đã lạnh, nhưng khi chúng chảy vào phế phủ, Lý Ý Lan vẫn cảm giác như có hơi ấm đang lan tràn, hắn nhủ thầm thì ra đại sư nửa đêm xuống bếp là để lấy Trúc Lịch cho hắn. Hơn nữa lúc ở ngoài sân không trực tiếp nói cho hắn, có lẽ là vì không muốn khiến mọi người đổ dồn hỏi han bệnh tình của mình.
Ghi chép trong Thiên Kim Phương nói rằng Trúc Lịch có thể nhuận họng, đại phu Lê Xương cũng biết, song Trúc Lịch không thích hợp làm thuốc, Trúc Lịch khi sắc ra sẽ cháy đen vẩn đục, đây là lần đầu tiên Lý Ý Lan nhìn thấy Trúc Lịch chân chính, hơn nữa còn là tấm lòng thành của đại sư.
Hắn bỗng dâng lên lòng cảm động xa lạ, cảm thấy đại sư rất tốt, tốt đến nỗi khác hẳn tất cả mọi người, nhưng hắn không nói rõ được là khác ở chỗ nào.
Chẳng qua là cảm thấy bằng hữu tận tâm chu đáo như vậy, có thể may mắn gặp được một người, cũng coi như không uổng đời này.
Lý Ý Lan dỏng tai lắng nghe động tĩnh ở sát vách, nhưng Tri Tân làm gì cũng khẽ khàng, nhĩ lực của hắn chẳng nghe rõ được gì, hắn chầm chậm nhấm nháp xong chén Trúc Lịch nọ, mang theo tâm trạng vui sướng mà Ký Thanh không hiểu nổi để rửa ráy đi ngủ.
Mùng mười tháng mười hai, đầu giờ Thân, hậu viện Nhiêu Lâm.
Người tập võ quen tập luyện buổi sáng, Lý Ý Lan dậy sớm nhất viện, xách thương thao luyện bên cạnh bức tường có cổng tròn.
Không bao lâu sau Vương Cẩm Quan cũng đi ra, nàng không luyện chiêu thức mà chỉ khoanh tay đứng ở hành lang ngắm nhìn Lý Nhị đâm thương.
Cái gọi là trung bình thương chính là vua của thương, loại khó phòng nhất. Trung bình thương của Lý Ý Lan là ổn nhất, vững nhất và nhanh nhất trong số những người dùng thương mà Vương Cẩm Quan từng gặp, khổ luyện chính là bí quyết duy nhất của hắn.
Vương Cẩm Quan thích sự khắc khổ này, cho nên luôn xem Lý Ý Lan như đệ đệ, nàng chưa bao giờ nói ra, song trong lòng vô cùng để tâm đến sự sống chết của hắn, không đợi Lý Ý Lan luyện xong, nàng đã bước xuống bậc thang đi tới bên tường.
“Hành Cửu, hôm nay ta định trở về, nếu đệ không có việc gì thì lát nữa ta sẽ đi.”
Lý Ý Lan thu tay về sau, thuận thế xoay cán thương nửa vòng, khiến nó dán sát vào cánh tay, đoạn quay người lại kinh ngạc nói: “Sao đột ngột vậy ạ?”
Vương Cẩm Quan dự định đi thẳng đến Khương Hưng để hỏi thăm vị đại phu mà Tri Tân nói, nhưng nàng không phải người thích lải nhải, cho nên chỉ nói hàm hồ: “Chẳng vì sao cả, lâu rồi không ra khỏi cửa, ra ngoài thấy không quen thôi.”
Lý Ý Lan chẳng hề hay biết ý đồ của nàng, vẫn đang một lòng một dạ suy nghĩ vụ án: “Vậy xin phiền tẩu tử trì hoãn một chút, tỷ nhiều kinh nghiệm, ta có vài món vật chứng muốn nhờ tỷ xem giúp, còn một việc nữa, cũng chỉ giao cho tẩu tử thì ta mới yên tâm được.”
Vương Cẩm Quan là người dứt khoát, nàng lập tức đáp ngay: “Được, đệ nói đi.”
Lý Ý Lan tháo đầu thương xuống, dẫn Vương Cẩm Quan đến phòng vật chứng, vừa đi vừa kể lại vắn tắt hành trình tra án của mình, cuối cùng hắn nói: “Trong nhà người thợ mộc có một tờ giấy, đêm qua mới giải ra là tán phu thê, ta vẫn chưa kịp phái người đi điều tra.”
“Thu Bình và Trương Triều bị đâm trên đường, Vu sư gia bị dụ vào ngôi nhà mà Ký Thanh theo dõi, hai bên này đều bị giám sát, ta không biết có còn nhiều tốp đang nhòm ngó hay không. Bên điều tra vợ của thợ mộc nhất định phải bí mật hơn bất cứ ai hết, bằng không nhỡ để lộ phong thanh thì ta sợ sẽ xuất hiện thêm một bộ thi thể nữa.”
“Ta vẫn luôn đề phòng Lữ Xuyên, hắn không thích hợp, Ký Thanh thì quá hấp tấp, cũng không được, đêm qua ta vốn đang nghĩ cùng lắm thì tự mình đi, bên này giao cho Thu Bình, song tẩu tử đã đến đây rồi thì có thể đi giúp ta một chuyến không?”
Vương Cẩm Quan chần chừ một chốc, cuối cùng vẫn gật đầu, bởi vì nếu hắn bôn ba ăn gió nằm sương thì chỉ sợ sẽ càng đoản mệnh.
Trong phòng vật chứng thứ bắt mắt nhất đương nhiên chính là năm bộ xương kia, Vương Cẩm Quan tiến lên xem xét, song cũng không phát hiện được gì.
Lý Ý Lan lần lượt đem nam châm, tờ giấy và chuông ra, lúc cầm chiếc chuông kia Vương Cẩm Quan vẫn như thường, song khi chếch miệng chuông lên trên, sắc mặt nàng bỗng nhiên thay đổi.
Lý Ý Lan thấy thế bèn nói: “Sao vậy ạ?”
Vương Cẩm Quan nhíu mày nói: “Chiếc quạt có gió, cầm ở trong tay, có người tới mượn, đợi đến lập đông, từng nghe bao giờ chưa?”
Đâu chỉ từng nghe, phải nói là như sấm bên tai ấy chứ, Lý Ý Lan giật mình gật đầu nói: “Từng nghe rồi, chưởng giáo của Khoái Tai môn, Nhất Phiến Sinh, sao ông ta cũng dính líu tới chuyện này?”
Đây là lời giải của trưởng lão chủ sự năm ấy, nhưng Tri Tân lại bảo rằng “Sư huynh sai rồi”.
Thái cực lưỡng nghi, pháp lý tứ tượng, điều mà mỗi người đạt được trong cuộc đời về cơ bản đều là cân bằng, Lý Di quá thông minh, cho nên không có mệnh sống lâu, mà Vương Cẩm Quan xuất thân cơ hàn, là mệnh khổ trước sướng sau, duyên phận của bọn họ chẳng thể kéo dài mãi.
Còn Lý Ý Lan, y nhớ tới bóng lưng hắn nhảy vào sân nhà người thợ mộc, hiên ngang chặn đao cho mình, y rũ mắt nghĩ bụng người này quá chuyên tâm, lòng chẳng màng đến điều chi khác.
“Bần tăng không giải, chỉ nói một câu bâng quơ mà thôi.” Thời gian qua đi sáu năm, Tri Tân gạt đi nỗi tiếc nuối trong lòng, lặp lại câu nói kia một lần nữa, “Núi Ngô xanh, núi Việt xanh, ngọn núi đôi bờ đưa đón quanh. Biệt ly ai thấu tình. Hiện tại phu nhân đã ngồi được rồi chứ?”
Hòa thượng nói năng từ tốn dịu dàng, đây chỉ là một câu nhẹ nhàng, nhưng Vương Cẩm Quan lại như bị giáng một cú đòn vô hình, trên gương mặt bình tĩnh bỗng nhiên hiện lên nét bi thương.
Biệt ly ai thấu tình? Nàng không thấu được.
Ngày Lý Di xảy ra chuyện, đã ngần ấy năm trôi qua, nhưng vẫn hiện rõ trước mắt nàng.
Hôm đó Lý Di thay áo bào đai ngọc mà hắn không thường mặc, đứng ở ngưỡng cửa quay đầu hỏi nàng có muốn ăn nhẹ hay không, khi về hắn sẽ mang cho nàng. Song xưa nay nàng chẳng ham ăn uống, tay lại đang bận mài đao, bởi vì không biết người và người sắp sửa cách xa mãi mãi như trời với đất, cho nên chỉ lắc đầu, giục hắn đi sớm về sớm.
Mãi đến khi bi kịch ập đến bất ngờ, trong cơn thống khổ Vương Cẩm Quan miên man nhớ tới bức tường công đức sáu năm về trước, mới hoàn toàn ngộ ra, người bên kia tường không phải lừa trọc, mà là người tiên tri mệnh trời.
Bây giờ người này đang ở ngay trước mắt, mang một gương mặt trẻ tuổi chẳng gánh nổi đức cao vọng trọng, song khí chất của y lại vô cùng dễ chịu, khiến người ta dù khổ sở muốn rơi lệ nhưng cũng không sợ y khinh thường hay chế nhạo, bởi vì thần sắc của y ẩn chứa khí độ có thể dung chứa vạn vật.
Trong lòng Vương Cẩm Quan ngoài nỗi đau thương thì vẫn còn một phần chủ kiến, khí chất dễ chịu như vậy, ngoại trừ cao tăng trên núi thì người bình thường chẳng thể nào giả bộ được. Nàng thu lại khí thế, cung kính ngồi xuống, bởi vì cảm nhận được trí tuệ của đối phương nên cũng bỏ qua lời vòng vo, trực tiếp nói thẳng.
“Ta phá án nhiều năm, tính tình rất đa nghi, vừa rồi bởi vì đại sư hiếm khi rời núi, hơn nữa lại có dung mạo hơi giống một người liên quan đến vụ án, cho nên ta mới muốn thử đại sư. Nếu có chỗ nào đắc tội hay bất kính, kính mong đại sư chớ chấp nhặt với ta.”
Tri Tân gật đầu: “Ra là vậy, phu nhân đã xin lỗi thì ta cũng không so đo làm gì, không cần để bụng, việc đã qua rồi.”
Vương Cẩm Quan nhoẻn miệng: “Đại sư thật rộng lượng, ta không tiện dò hỏi nội vụ Từ Bi tự, song thứ cho ta mạo muội hỏi một câu nữa, đại sư không hiếu kỳ mình giống ai ư?”
Tri Trân cười nhẹ: “Chúng sinh trăm tướng, mà chúng sinh lại có ngàn vạn, người xa lạ có dung mạo tương đồng cũng chẳng phải sự lạ. Không phải ta không hiếu kỳ, chỉ là họa từ miệng mà ra, tuy ta không tu bế khẩu thiền, song nhiều năm qua đã tập thành thói quen không nghe ngóng. Nếu có chuyện cần ta biết thì ắt hẳn sẽ có người hữu duyên báo cho ta, phu nhân muốn nói cho ta sao?”
Nghi ngờ đã qua, Vương Cẩm Quan không thăm dò y, chỉ nói: “Đại sự quả thực kín miệng như bưng, cảnh giác vô cùng, khiến người ta bội phục. Không bàn chuyện này nữa, đại sư hiểu nhiều biết rộng, nếu ngài có quen biết hạnh lâm ẩn sĩ nào thì làm ơn giới thiệu cho ta, bệnh phổi của Hành Cửu đã…… kéo dài rất lâu rồi.”
Tri Tân lộ vẻ suy tư, hồi lâu sau mới bảo: “Không tính là quen biết, song trước kia khi ra ngoài vân du, ta từng gặp một thầy lang hết sức đặc biệt.”
“Ta và ông ấy gặp nhau ở bãi tha ma, nơi đó chồng chất xác người, ông ấy lại cầm dao ở đó giết gà. Ta lấy làm lạ, bèn hỏi ông ấy tại sao lại làm thế, ông ấy nói mình muốn tìm hiểu vị trí và hình dạng của phủ tạng trong cơ thể, nhưng không dám bất kính với người chết, cho nên đành dùng súc vật để thay thế, song cũng biết rõ nội tạng của động vật và con người là khác nhau, hành động ấy chỉ là phí công, mong ta đừng chê cười ông ấy.”
“Ta lại hỏi, vì sao phải quan sát nội tạng con người, ông ấy nói ghi chép liên quan đến cơ thể trong sách dược có rất nhiều chỗ không chính xác, mà đại phu đều chỉ xem qua loa, rập khuôn học vẹt, làm nghề y như thế rốt cuộc là đang cứu người hay đang hại người, ông ấy không trả lời được, cho nên đang tìm kiếm một đáp án.”
“Từ đó đến nay đã bảy năm trôi qua, nếu vị đại phu ấy đã tìm được đáp án thì ta nghĩ với hiểu biết về phế phủ của ông ấy, có lẽ Lý đại nhân vẫn còn một chút hi vọng sống.”
Sau khi nghe xong, Vương Cẩm Quan chẳng nói lời nào, nhưng trong ánh mắt lại toát lên sự vui mừng, trước kia nàng từng mang danh y đến xem bệnh cho Lý Ý Lan, lão phu tử kia vuốt ria nói, trừ phi là đại la thần tiên tái thế thay đổi phế mạch mới cho hắn, bằng không thì hết đường cứu chữa, nhưng chẳng danh y ở đâu có cách chữa bệnh bằng mổ bụng rạch ngực cả, trời không phụ người có lòng, nàng cuối cùng cũng tìm được chút hi vọng nhỏ nhoi từ câu trả lời của Tri Tân.
Nàng đứng dậy bái tạ Tri Tân, giơ hai tay cao quá đỉnh đầu, nói: “Xin đại sư nói cho ta biết tôn húy của thầy lang đó, ta sẽ lập tức phái người đi mời.”
Tri Tân thầm thở dài, có phần bất đắc dĩ khi mình cho người ta hi vọng mà chỉ khiến nàng đuổi theo huyễn ảnh, y duỗi tay nhẹ nhàng đẩy bàn tay giơ tao của nàng ra, ý bảo nàng không cần hành đại lễ như vậy: “Xin lỗi, khi đó chỉ ngẫu nhiên gặp gỡ, không nghĩ hôm này còn có cơ duyên liên quan, cho nên không trao đổi họ tên với nhau, ta không biết tục danh của thầy lang đó, e rằng phu nhân phải tự đi tìm rồi.”
Vương Cẩm Quan ngẩn ngơ đứng lên, nhanh chóng hoàn hồn lại: “Đại sư chớ nói thế, biết được tin này đã là may mắn của Hành Cửu rồi, chúng ta hẳn nên tự đi tìm đại phu, song ta còn muốn làm phiền đại sư nghĩ kỹ xem ngoại hình và trang phục của vị thầy lang năm đó ra sao, cụ thể gặp gỡ ở nơi nào? Ông ấy có khẩu âm hay không?”
Tri Tâm nhìn mép bàn ngẫm nghĩ một chốc, sau đó đứng dậy, giơ tay sờ sờ sống mũi, nói từng chữ từng chữ rất chậm, như là còn đang suy nghĩ chưa nắm chắc: “Thời gian đã lâu, ta chỉ nhớ đại khái thôi.”
Vương Cẩm Quan gật đầu, ý bảo đại khái thôi cũng không sao.
Tri Tân: “Vị tiên sinh ấy cao chừng này, ngày đó vóc người ông ấy giống như Lý Ý Lan, tuổi chừng ba mươi, bây giờ hẳn cũng bốn mươi rồi. Mặt nhỏ dài, lông mày ngang, hai bên tóc mai điểm bạc, khí chất nhã nhặn, trên vai trái đeo một hòm thuốc nhỏ, mặc áo vải bông màu xanh lục, khẩu âm thì ta nghe không rõ, nhưng không phải người Khương Hưng. Nơi gặp gỡ là bãi tha ma cách thành Bắc Khương Hưng mười hai dặm.”
Vương Cẩm Quan nở nụ cười, khóe môi hiện ra lúm đồng tiên nho nhỏ: “Đa tạ đại sư chỉ điểm, đêm đã khuya, đại sư nghỉ sớm đi nhé.”
Nói rồi, nàng xoay người rời đi, không nán lại nữa.
Tri Tân nhìn bóng lưng gầy của nàng giống hệt Lý Ý Lan, khi nàng bước qua ngưỡng cửa, y chợt gọi nàng lại: “Khoan đã, còn có một đặc điểm nữa, trên hòm thuốc của thầy lang kia có khắc một chữ “Tôn”, có lẽ là họ của ông ấy, hoặc cũng có lẽ không phải, phu nhân hãy lưu ý nhé.”
Vương Cẩm Quan lại cảm ơn lần nữa, còn giúp hắn khép cửa lại.
Tri Tân nhìn ra ngoài qua khe cửa càng lúc càng hẹp, trông thấy trong màn đêm tăm tối có ánh trăng lững lờ tựa như hạt đậu nhỏ, sống hay chết, đành xem số phận của Lý Ý Lan vậy, y ung dung nghĩ, việc y có thể làm cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.
Lý Ý Lan tiến vào cửa viện, trông thấy tẩu tử của mình đi ra từ phòng đại sư.
Cách khá xa, hắn lại mặc đồ đen đứng lặng lẽ, cho nên Vương Cẩm Quan không phát hiện hắn, tiếp tục cất bước trở về phòng của mình.
Lý Ý Lan cách gian phòng của Lữ Xuyên, quan sát kỹ hai cánh cửa phòng, không biết tẩu tử tới cửa thăm viếng, rốt cuộc là muốn tìm đại sư có việc gì.
Tuy nhiên hắn không hỏi, về phòng thấy Ký Thanh vẫn đang ăn bánh, hắn còn chưa kịp lên tiếng bảo tiểu tử này đừng ăn nữa thì cậu chàng đã từ trên giường chạy đến bên bàn, vừa gặm bánh vừa nói: “Ta còn tưởng lão gia ngài muốn qua đêm ở phòng vật chứng cơ, nào nào nào, uống thuốc trước đi đã.”
Khay và chén trên bàn trông hơi quen mắt, Lý Ý Lan thắc mắc: “Thuốc gì thế? Sau khi ăn xong ta đã uống hết thuốc rồi mà.”
“Vậy thì không phải thuốc,” Ký Thanh đáp qua loa, dịch cái chén đến phía bàn gần cửa: “Là trà, uống vào đảm bảo huynh có thể ngủ ngon giấc.”
Lý Ý Lan cúi đầu nhìn, trong chén là nước trà trong suốt màu hổ phách, trông hơi giống mứt lê, hắn bưng lên ngửi thử, trong mùi đắng nhạt xen lẫn một chút mùi gừng, dựa vào kinh nghiệm uống thuốc nhiều năm của hắn, đây là một thứ hoàn toàn mới mẻ.
“Đây là cái gì?” Lý Ý Lan nhấp một hớp, bất ngờ phát hiện nó chẳng đắng mấy, bèn hài lòng nói, “Ai đưa cho đệ mà tùy tiện cho ta uống vậy?”
“Tùy tiện gì chứ,” Ký Thanh rót cho mình một chén trà nguội, vừa uống vừa bảo, “Đây là nước gừng Trúc Linh, Trương Triều bảo là vừa nãy đại sư tiện đường đưa cho huynh ấy, bảo huynh ấy chuyển cho huynh, để huynh uống trước khi ngủ, nói là có thể nhuận họng, giúp huynh ban đêm đỡ ho.”
Trong miệng quả nhiên thoang thoảng mùi trúc thơm ngát, nước canh đã lạnh, nhưng khi chúng chảy vào phế phủ, Lý Ý Lan vẫn cảm giác như có hơi ấm đang lan tràn, hắn nhủ thầm thì ra đại sư nửa đêm xuống bếp là để lấy Trúc Lịch cho hắn. Hơn nữa lúc ở ngoài sân không trực tiếp nói cho hắn, có lẽ là vì không muốn khiến mọi người đổ dồn hỏi han bệnh tình của mình.
Ghi chép trong Thiên Kim Phương nói rằng Trúc Lịch có thể nhuận họng, đại phu Lê Xương cũng biết, song Trúc Lịch không thích hợp làm thuốc, Trúc Lịch khi sắc ra sẽ cháy đen vẩn đục, đây là lần đầu tiên Lý Ý Lan nhìn thấy Trúc Lịch chân chính, hơn nữa còn là tấm lòng thành của đại sư.
Hắn bỗng dâng lên lòng cảm động xa lạ, cảm thấy đại sư rất tốt, tốt đến nỗi khác hẳn tất cả mọi người, nhưng hắn không nói rõ được là khác ở chỗ nào.
Chẳng qua là cảm thấy bằng hữu tận tâm chu đáo như vậy, có thể may mắn gặp được một người, cũng coi như không uổng đời này.
Lý Ý Lan dỏng tai lắng nghe động tĩnh ở sát vách, nhưng Tri Tân làm gì cũng khẽ khàng, nhĩ lực của hắn chẳng nghe rõ được gì, hắn chầm chậm nhấm nháp xong chén Trúc Lịch nọ, mang theo tâm trạng vui sướng mà Ký Thanh không hiểu nổi để rửa ráy đi ngủ.
Mùng mười tháng mười hai, đầu giờ Thân, hậu viện Nhiêu Lâm.
Người tập võ quen tập luyện buổi sáng, Lý Ý Lan dậy sớm nhất viện, xách thương thao luyện bên cạnh bức tường có cổng tròn.
Không bao lâu sau Vương Cẩm Quan cũng đi ra, nàng không luyện chiêu thức mà chỉ khoanh tay đứng ở hành lang ngắm nhìn Lý Nhị đâm thương.
Cái gọi là trung bình thương chính là vua của thương, loại khó phòng nhất. Trung bình thương của Lý Ý Lan là ổn nhất, vững nhất và nhanh nhất trong số những người dùng thương mà Vương Cẩm Quan từng gặp, khổ luyện chính là bí quyết duy nhất của hắn.
Vương Cẩm Quan thích sự khắc khổ này, cho nên luôn xem Lý Ý Lan như đệ đệ, nàng chưa bao giờ nói ra, song trong lòng vô cùng để tâm đến sự sống chết của hắn, không đợi Lý Ý Lan luyện xong, nàng đã bước xuống bậc thang đi tới bên tường.
“Hành Cửu, hôm nay ta định trở về, nếu đệ không có việc gì thì lát nữa ta sẽ đi.”
Lý Ý Lan thu tay về sau, thuận thế xoay cán thương nửa vòng, khiến nó dán sát vào cánh tay, đoạn quay người lại kinh ngạc nói: “Sao đột ngột vậy ạ?”
Vương Cẩm Quan dự định đi thẳng đến Khương Hưng để hỏi thăm vị đại phu mà Tri Tân nói, nhưng nàng không phải người thích lải nhải, cho nên chỉ nói hàm hồ: “Chẳng vì sao cả, lâu rồi không ra khỏi cửa, ra ngoài thấy không quen thôi.”
Lý Ý Lan chẳng hề hay biết ý đồ của nàng, vẫn đang một lòng một dạ suy nghĩ vụ án: “Vậy xin phiền tẩu tử trì hoãn một chút, tỷ nhiều kinh nghiệm, ta có vài món vật chứng muốn nhờ tỷ xem giúp, còn một việc nữa, cũng chỉ giao cho tẩu tử thì ta mới yên tâm được.”
Vương Cẩm Quan là người dứt khoát, nàng lập tức đáp ngay: “Được, đệ nói đi.”
Lý Ý Lan tháo đầu thương xuống, dẫn Vương Cẩm Quan đến phòng vật chứng, vừa đi vừa kể lại vắn tắt hành trình tra án của mình, cuối cùng hắn nói: “Trong nhà người thợ mộc có một tờ giấy, đêm qua mới giải ra là tán phu thê, ta vẫn chưa kịp phái người đi điều tra.”
“Thu Bình và Trương Triều bị đâm trên đường, Vu sư gia bị dụ vào ngôi nhà mà Ký Thanh theo dõi, hai bên này đều bị giám sát, ta không biết có còn nhiều tốp đang nhòm ngó hay không. Bên điều tra vợ của thợ mộc nhất định phải bí mật hơn bất cứ ai hết, bằng không nhỡ để lộ phong thanh thì ta sợ sẽ xuất hiện thêm một bộ thi thể nữa.”
“Ta vẫn luôn đề phòng Lữ Xuyên, hắn không thích hợp, Ký Thanh thì quá hấp tấp, cũng không được, đêm qua ta vốn đang nghĩ cùng lắm thì tự mình đi, bên này giao cho Thu Bình, song tẩu tử đã đến đây rồi thì có thể đi giúp ta một chuyến không?”
Vương Cẩm Quan chần chừ một chốc, cuối cùng vẫn gật đầu, bởi vì nếu hắn bôn ba ăn gió nằm sương thì chỉ sợ sẽ càng đoản mệnh.
Trong phòng vật chứng thứ bắt mắt nhất đương nhiên chính là năm bộ xương kia, Vương Cẩm Quan tiến lên xem xét, song cũng không phát hiện được gì.
Lý Ý Lan lần lượt đem nam châm, tờ giấy và chuông ra, lúc cầm chiếc chuông kia Vương Cẩm Quan vẫn như thường, song khi chếch miệng chuông lên trên, sắc mặt nàng bỗng nhiên thay đổi.
Lý Ý Lan thấy thế bèn nói: “Sao vậy ạ?”
Vương Cẩm Quan nhíu mày nói: “Chiếc quạt có gió, cầm ở trong tay, có người tới mượn, đợi đến lập đông, từng nghe bao giờ chưa?”
Đâu chỉ từng nghe, phải nói là như sấm bên tai ấy chứ, Lý Ý Lan giật mình gật đầu nói: “Từng nghe rồi, chưởng giáo của Khoái Tai môn, Nhất Phiến Sinh, sao ông ta cũng dính líu tới chuyện này?”
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook