Tarzan 1: Con Của Rừng Xanh
-
Chương 22: Xuyên rừng
Khi Tácdăng đã hoàn toàn bình thường trở lại, trung úy Acnốt đưa cho Tácdăng cả hai lá thư mà những người khách của ngôi nhà để lại. Tácdăng đọc bức thư để ngỏ trước. Nói đúng hơn là Tácdăng đã cố gắng nghiên cứu bức thư, dưới sự giải thích kiên trì của trung úy Acnốt. Nội dung tờ giấy đó đã làm Tácdăng ấm ức. Lá thư thứ hai được dán kín trong phong bì. Tácdăng xoay ngang, xoay dọc lá thư dán kín rất nhiều lần mà vẫn chưa hiểu phải làm gì với nó. Trung úy Acnốt giật mình nhìn chàng trai người rừng. Đối với chàng, chiếc phong bì đơn giản này vẫn là một điều bí mật. Acnốt vội xé hộ phong bì cho Tácdăng và giúp chàng đọc từng chữ một cho đúng:
"Người Bắn Cung kính mến!
Trước khi rời khỏi nơi này, ông cho phép tôi (Cũng giống như Clayton) cám ơn ông vì đã cho phép chúng tôi được ở trong nhà.
Chúng tôi rất tiếc vì ông đã không đến đây để chúng ta làm quen với nhau. Chúng tôi chân thành cám ơn ông! Nhưng còn có một người nữa chúng tôi cũng muốn cám ơn. Đáng tiếc là anh ta đã không quay lại ngôi nhà gỗ của ông sau khi đưa tôi về từ rừng sâu. Nhưng tôi không tin rằng anh ấy đã chết. Anh ta tên gì tôi cũng không biết. Nhưng trên cổ anh ta trước đây có đeo một sợi dây chuyền gắn gia huy.
Nếu như ông biết anh ta, nếu như ông biết cách nói chuyện với anh ta, hãy chuyển hộ tôi lòng biết ơn sâu nặng tới anh ấy. Ông hãy nói hộ tôi với anh ấy rằng: tôi đã chờ anh ấy trở lại ngôi nhà gỗ này suốt bảy ngày liền. Nói cho anh ấy biết rằng: tôi ở Mỹ, thành phố Bantimo. Nếu anh ấy thích đến đó, tôi sẽ rất sung sướng được đón tiếp.
Tôi đã tìm thấy lá thư của ông để cạnh ngôi nhà. Tôi không hiểu lí do gì mà ông lại yêu tôi. Bởi vì dù sao chúng ta cũng chưa một lần trông thấy mặt nhau, chưa nói với nhau một lời. Nhưng ông tin rằng tôi bao giờ cũng là một người bạn gái của ông!
Gian Potorova."
Hiểu hết nội dung lá thư, Tácdăng ngồi lặng đi. Cả hai bức thư chứng tỏ rằng người trong ngôi nhà này đã không biêt rằng Người Bắn Cung và chàng trai chỉ là một. Thư cũng chứng tỏ rằng: không bao giờ chàng còn được trông thấy cô gái nữa. Nhưng làm sao có chuyện một cô gái như vậy có thể sống ở nơi này - một vùng rừng độc địa, chỉ đem lại cho những người da trắng đe doạ và chết chóc? Làm sao cô gái có thể lưu lại nơi này, khi nó không phải là quê hương của cô? Trong khi đó thì Tácdăng lại không hề biết tới một mảnh đất nào khác nữa. Cuối cùng thì Tácdăng cũng phải đứng dậy. Chàng lao vào giường nằm. Trung úy Acnốt tắt đèn và cũng đi ngủ. Hai người đàn ông da trắng nghỉ ngơi trong ngôi nhà suốt cả tuần lễ. Trong tuần đó, trung úy Acnốt tiếp tục dạy tiếng Pháp cho Tácdăng. Càng ngày hai người càng hiểu nhau hơn. Tácdăng rất thích nói và nói rất nhiều. Cái lưỡi của chàng chẳng bao giờ chịu nằm yên. Hình như nó được giải phóng sau hai mươi năm bị cầm tù trong mông muội. Một buổi chiều Tácdăng quay sang hỏi trung úy Acnốt một câu thật bất ngờ:
- Nước Mỹ ở đâu?
Acnốt chỉ cho Tácdăng xem bản đồ và giải thích rằng màu xanh là biển, còn các màu khác trên bản đồ là lục địa. Sau đó anh chỉ vào vị trí mà hai người đang sống.
- Còn bây giờ thì chỉ nước Mỹ đi! - Tácdăng giục.
Khi Acnốt chỉ tay lên vùng Bắc Mỹ, Tácdăng cười, và đặt bàn tay lên bản đồ từ châu Phi sang Bắc Mỹ nói:
- Rất gần. Chỉ cách một bàn tay.
Acnốt ngẩn người. Anh phải giải thích điều này cho Tácdăng hiểu như thế nào? Anh cầm bút chấm một chấm nhẹ lên vùng biển châu Phi và nói:
- Một chấm nhỏ tí này trong bản đồ - Acnốt nói - thì rộng gấp ngàn lần ngôi nhà của cậu đấy. Cậu hiểu chứ? Hãy nghĩ xem nước Mỹ cách xa chúng ta bao nhiêu!
Tácdăng suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Ở Mỹ có những người da trắng?
- Có rất nhiều.
- Ở đâu?
Acnốt chỉ một vùng phía bắc.
- Gần thế thôi à? - Tácdăng ngạc nhiên.
- Không gần đâu.
- Ở đó người da trắng có thuyền to đi qua biển?
Acnốt gật đầu.
- Chúng ta sẽ đi đến đó. - Tácdăng nói
Acnốt lắc đầu.
- Xa lắm. Chúng ta sẽ già và chết trước khi đến đó..
- Anh thích ở đây mãi mãi à? - Tácdăng hỏi.
- Không.
- Ngày mai chúng ta đi. Tôi không muốn ở đây. Chết còn hơn.
- Rất tốt! - Trung úy trả lời - Tôi không biết có đến được không. Nhưng đúng là thà chết còn hơn phải sống dai dẳng mãi ở đây. Nếu cậu thích, ta cùng đi.
- Tốt! - Tácdăng nói - Ngày mai chúng ta đi. Đi Mỹ.
- Điều ấy không dễ đâu. Chúng ta không có tiền.
- Tiền là gì?
Acnốt phải giải thích rất lâu, Tácdăng mới hiểu cái khái niệm mù mờ đó.
- Làm thế nào để có tiền? - Tácdăng lại hỏi.
- Làm việc
- Được rồi, tôi sẽ làm việc.
Thế là ngay buổi sáng hôm sau, hai người lên đường, men theo bờ biển tiến về phương bắc. Hai người mang theo xoong nồi, thực phẩm, bạt che mưa và nhiều thức cần thiết khác. Tácdăng nhìn những thứ Acnốt định đem theo và cho là quá thừa. Nhưng Acnốt không cho phép chàng được vứt đi thứ nào.
- Cậu phải tập ăn đồ chín cho quen đi! Những người da trắng không ăn thịt sống.
- Tôi không thích ăn chín. Cho vào lửa, thịt toàn bị hỏng.
Hai người vừa đi vừa trò chuyện, tranh luận. Họ đi suốt một tháng liền lên phương bắc. Có ngày Tácdăng săn được rất nhiều thực phẩm dọc đường. Có ngày cả hai cùng phải nhịn đói. Tácdăng vẫn hỏi không ngớt miệng về đủ mọi thứ chuyện trên đời. Acnốt giới thiệu, giải thích cho Tácdăng những thói quen, lối sống của người văn minh. Chàng trai tiếp thu rất nhanh và nhớ rất kỹ. Chàng đã ăn được thịt chín nhưng vẫn dùng mười ngón tay xé thịt, đút vào mồm giống như một con khỉ. Nhiều lần trông thấy thế, Acnốt kêu ầm lên:
- Không thể làm thế được! Thật là kinh tởm. Con người không làm thế.
Acnốt mắng mỏ, nhưng Tácdăng chỉ cười trừ
Một hôm, Tácdăng vô tình nhắc tới chiếc thùng gỗ mà đám thủy thủ thuyền Ơrâu đã giấu ở gần ngôi nhà gỗ của chàng. Chàng kể rằng chàng đã đào lên và giấu ở chỗ khác.
- Lạy Chúa tôi! Đó là thùng tiền vàng! - Trung úy Acnốt đứng sững người, kêu ầm lên - Đó là kho báu của giáo sư Poto. Thật đáng tiếc! Đó cũng là tiền đấy.
- Thế thì chúng ta quay lại lấy đi! Ngay bây giờ, - Tácdăng đề nghị.
- Thế nào? Quay trở lại à? Chúng ta đã đi hết hơn một tháng rồi. Xa lắm rồi! Mà đằng nào cũng không thể khiêng nổi.
- Tôi sẽ quay lại, - Tácdăng vẫn giữ ý kiến của mình - Tôi quay lại một mình. Đi một mình, tôi đi nhanh hơn.
- Tôi tính thế này, - Acnốt nói - Chúng ta cứ tiếp tục đi. Khi nào gặp người, chúng ta sẽ mượn thuyền bơi trở lại đó. Như thế nhanh hơn. Chúng ta sẽ cùng đi thuyền quay lại.
- Tốt lắm! Tácdăng gật đầu - Thùng tiền vẫn còn ở đó. Các ông đúng là những người yếu ớt. Tôi vẫn chưa hiểu vì sao loài người các ông vẫn chưa bị tiêu diệt. Sư tử khỏe hơn. Nó dùng mồm và răng cũng có thể tiêu diệt các ông hàng nghìn người một ngày.
Trung úy bật cười:
- Cứ chờ xem! Rồi cậu sẽ thấy loài người có những gì, làm được gì trên trái đất này. Cậu sẽ thấy những thành phố lớn, những con tàu, máy móc. Con người biết suy nghĩ, biết gắn bó với nhau để sống. Khi loài người biết gắn bó với nhau thì mạnh hơn tất cả các loài động vật.
- Có lẽ đúng thế, - Tácdăng trả lời có vẻ trầm tư - Nếu như Kétchác biết gắn bó với Túplát và tôi thì rất mạnh. Chúng nó không biết suy nghĩ, không biết dự trữ thực phẩm. Cả Kala cũng vậy. Kala không hiểu vì sao tôi lại để thực phẩm dọc đường rừng.
- Kala là ai?
- Mẹ, - Tácdăng trả lời - Đó là mẹ tôi.
- Ồ, cậu nói gì thế? - Acnốt ngạc nhiên - Cậu cũng biết mẹ mình à?
- Biết chứ. Đó là một con vượn to. To hơn tôi nhiều.
- Còn bố cậu?
- Tôi không biết.
Trung úy Acnốt chăm chú nhìn khuôn mặt Tácdăng.
- Không phải thế đâu. Cậu là người. Mẹ cậu không phải là vượn. Có thể là một đàn vượn nào đó đã nuôi cậu, - Acnốt phỏng đoán - Cậu không còn nhớ được mẹ của mình đấy thôi. Cậu có tìm được thứ gì trong ngôi nhà gỗ không?
- Ở đó chỉ có sách. Những cuốn sách mà ông biết đấy, - Tácdăng trả lời - Nhưng có một cuốn sách chỉ nhỏ bằng bàn tay, tôi không đọc được. Tôi vẫn mang theo đây.
Tácdăng rút trong ống tên của mình ra một cuốn sổ bì màu đen đưa cho Acnốt. Viên trung úy xem qua vài trang đầu rồi nói:
- Đây là cuốn nhật ký của Giôn Clayton, huân tước Grayxtau, một quý tộc nước Anh. Đúng là người Anh nhưng lại viết tiếng Pháp.
Trung úy Acnốt tò mò lần đọc từng trang nhật ký được viết hai mươi năm trước. Anh bắt đầu nắm được câu chuyện bi thảm của Giôn Clayton cùng vợ là tiểu thư Alice từ ngày hai người từ giã nước Anh cho tới ngày Clayton bị Kétchác giết chết. Anh bắt đầu đọc to lên, thỉnh thoảng dừng lại vì nghẹn ngào. Có lúc anh ngừng đọc một lúc để nhìn khuôn mặt Tácdăng. Chàng trai ngồi nghe im lặng như pho tượng. Khi cuốn nhật kí xuất hiên đoạn viết về việc đứa trẻ chào đời, giọng văn viết đang buồn bã lập tức chuyển thành vui vẻ, tràn đầy hi vọng. Trung úy Acnốt đọc:
"Hôm nay con của chúng tôi đã được ba tháng tuổi. Nó ngồi trong lòng Alice. Thực là một đứa bé khỏe mạnh và hạnh phúc. Bây giờ, khi tôi đang viết những dòng này, hình như để tự khẳng định rằng mình đã chào đời, đã có mặt ở thế gian này, nó tự nhiên vồ lấy cây bút của tôi. Nó bị mực dây vào các đầu ngón tay rồi in cả bàn tay bé bỏng lấm mực vào trang nhật ký. Cứ như là nó tự đóng dấu chứng nhận sự vào đời của mình vậy..."
Đúng như Giôn Clayton đã viết. Trên trang giấy của cuốn nhật ký còn in vết những ngón tay nhỏ xíu. Phía cuối trang còn có một vết mực to hơn. Nếu nhìn kĩ thì đúng là vết cổ tay đứa bé. Đọc xong cuốn nhật kí, cả hai người đàn ông đều trầm ngâm.
- Cậu nghĩ sao? Tácdăng! - Acnốt lên tiếng sau một hồi im lặng - Những trang nhật kí này đã giải thích nguồn gốc, xuất xứ của cậu đấy. Chính cậu là con trai của huân tước Grayxtau.
Tácdăng lắc đầu:
- Cuốn sách đó chỉ nói về một cậu bé, - Chàng trai trả lời - Đứa trẻ đó đã chết. Xương nó nằm trong nôi. Có thể nó chết vì đói. Mỗi khi vào ngôi nhà gỗ, tôi đều trông thấy bộ xương đó. Sau đó người ta đến nhà và chôn cất tất cả đống xương xuống đấy. Cuốn sách đó chỉ nói về đứa bé, không nói về tôi. Mẹ tôi là Kala.
Trung úy Acnốt không tin Tácdăng. Ngược lại, Acnốt đã làm cho Tácdăng bắt đầu nghi ngờ về nguồn gốc của mình. Acnốt nghĩ rằng Tácdăng chỉ có thể tin rằng chính mình là cậu bé bôi mực bẩn lên trang giấy khi nào Tácdăng tiếp xúc thực sự với nền văn minh của con người.
Khoảng hai tuần sau, hai người đã gặp một vùng đồng bằng. Phía trong hàng rào của ngôi làng nhấp nhô mấy túp lều nho nhỏ. Đứng ở bìa rừng, hai người trông thấy những cánh đồng rộng, trồng nhiều loại hoa màu khác nhau. Xa xa có mấy người da đen đang lúi húi làm đồng.
Hai người lữ hành im lặng, đứng ngắm vùng đất lạ. Đột nhiên Tácdăng tháo cung ra khỏi vai, rút một mũi tên đặt vào cung. Trung úy Acnốt vội đập vào vai Tácdăng nói:
- Cậu làm gì thế, Tácdăng?
- Họ sẽ giết chúng ta đấy. Đằng nào thì họ cũng sẽ trông thấy chúng ta. - Tácdăng nói.
- Họ có thể là bạn bè của chúng ta.
- Đó là những người da đen. - Tácdăng trả lời gọn lỏn, rồi kéo dây cung.
- Không được! - Acnốt quát lên - Không được giết người vô cớ! Tôi đã dạy cậu thế nào? Không phải người da đen nào cũng là kẻ thù.
- Tôi không hiểu nổi, - Tácdăng lắc đầu rồi từ từ hạ cung xuống, - Trong rừng sâu thì người da đen là kẻ thù, ở đây thì lại không. Thế là thế nào? Vậy ở đây nếu sư tử Numa nhảy ra vồ, tôi cũng không được phép đụng tới nó hay sao?
- Cậu cứ chờ tới khi nào người da đen nhảy ra tấn công đã! Khi đó cậu hãy tự vệ. Nếu như họ không xử sự với chúng ta một cách thù địch thì ta không thể coi họ là kẻ thù.
- Thế thì đi! - Tácdăng tặc lưỡi rồi đi xuyên qua cánh đồng.
Nước da màu đồng thau của Tácdăng sáng ánh lên dưới mặt trời. Dang chân cố chạy theo chàng là trung úy Acnốt với bộ quần áo rách như tổ đỉa.
Đột nhiên có người da đen hét lên một tiếng rồi chạy về phía hàng rào. Ngay lập tức cả làng huyên náo. Từ trong làng, một người đàn ông cầm súng chạy ra. Ông ta nâng súng nhằm thẳng vào Tácdăng. Trông thấy thế, Acnốt hoảng hốt gào lên thật to: "Đừng bắn! Chúng ta là bạn bè."
"Người Bắn Cung kính mến!
Trước khi rời khỏi nơi này, ông cho phép tôi (Cũng giống như Clayton) cám ơn ông vì đã cho phép chúng tôi được ở trong nhà.
Chúng tôi rất tiếc vì ông đã không đến đây để chúng ta làm quen với nhau. Chúng tôi chân thành cám ơn ông! Nhưng còn có một người nữa chúng tôi cũng muốn cám ơn. Đáng tiếc là anh ta đã không quay lại ngôi nhà gỗ của ông sau khi đưa tôi về từ rừng sâu. Nhưng tôi không tin rằng anh ấy đã chết. Anh ta tên gì tôi cũng không biết. Nhưng trên cổ anh ta trước đây có đeo một sợi dây chuyền gắn gia huy.
Nếu như ông biết anh ta, nếu như ông biết cách nói chuyện với anh ta, hãy chuyển hộ tôi lòng biết ơn sâu nặng tới anh ấy. Ông hãy nói hộ tôi với anh ấy rằng: tôi đã chờ anh ấy trở lại ngôi nhà gỗ này suốt bảy ngày liền. Nói cho anh ấy biết rằng: tôi ở Mỹ, thành phố Bantimo. Nếu anh ấy thích đến đó, tôi sẽ rất sung sướng được đón tiếp.
Tôi đã tìm thấy lá thư của ông để cạnh ngôi nhà. Tôi không hiểu lí do gì mà ông lại yêu tôi. Bởi vì dù sao chúng ta cũng chưa một lần trông thấy mặt nhau, chưa nói với nhau một lời. Nhưng ông tin rằng tôi bao giờ cũng là một người bạn gái của ông!
Gian Potorova."
Hiểu hết nội dung lá thư, Tácdăng ngồi lặng đi. Cả hai bức thư chứng tỏ rằng người trong ngôi nhà này đã không biêt rằng Người Bắn Cung và chàng trai chỉ là một. Thư cũng chứng tỏ rằng: không bao giờ chàng còn được trông thấy cô gái nữa. Nhưng làm sao có chuyện một cô gái như vậy có thể sống ở nơi này - một vùng rừng độc địa, chỉ đem lại cho những người da trắng đe doạ và chết chóc? Làm sao cô gái có thể lưu lại nơi này, khi nó không phải là quê hương của cô? Trong khi đó thì Tácdăng lại không hề biết tới một mảnh đất nào khác nữa. Cuối cùng thì Tácdăng cũng phải đứng dậy. Chàng lao vào giường nằm. Trung úy Acnốt tắt đèn và cũng đi ngủ. Hai người đàn ông da trắng nghỉ ngơi trong ngôi nhà suốt cả tuần lễ. Trong tuần đó, trung úy Acnốt tiếp tục dạy tiếng Pháp cho Tácdăng. Càng ngày hai người càng hiểu nhau hơn. Tácdăng rất thích nói và nói rất nhiều. Cái lưỡi của chàng chẳng bao giờ chịu nằm yên. Hình như nó được giải phóng sau hai mươi năm bị cầm tù trong mông muội. Một buổi chiều Tácdăng quay sang hỏi trung úy Acnốt một câu thật bất ngờ:
- Nước Mỹ ở đâu?
Acnốt chỉ cho Tácdăng xem bản đồ và giải thích rằng màu xanh là biển, còn các màu khác trên bản đồ là lục địa. Sau đó anh chỉ vào vị trí mà hai người đang sống.
- Còn bây giờ thì chỉ nước Mỹ đi! - Tácdăng giục.
Khi Acnốt chỉ tay lên vùng Bắc Mỹ, Tácdăng cười, và đặt bàn tay lên bản đồ từ châu Phi sang Bắc Mỹ nói:
- Rất gần. Chỉ cách một bàn tay.
Acnốt ngẩn người. Anh phải giải thích điều này cho Tácdăng hiểu như thế nào? Anh cầm bút chấm một chấm nhẹ lên vùng biển châu Phi và nói:
- Một chấm nhỏ tí này trong bản đồ - Acnốt nói - thì rộng gấp ngàn lần ngôi nhà của cậu đấy. Cậu hiểu chứ? Hãy nghĩ xem nước Mỹ cách xa chúng ta bao nhiêu!
Tácdăng suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Ở Mỹ có những người da trắng?
- Có rất nhiều.
- Ở đâu?
Acnốt chỉ một vùng phía bắc.
- Gần thế thôi à? - Tácdăng ngạc nhiên.
- Không gần đâu.
- Ở đó người da trắng có thuyền to đi qua biển?
Acnốt gật đầu.
- Chúng ta sẽ đi đến đó. - Tácdăng nói
Acnốt lắc đầu.
- Xa lắm. Chúng ta sẽ già và chết trước khi đến đó..
- Anh thích ở đây mãi mãi à? - Tácdăng hỏi.
- Không.
- Ngày mai chúng ta đi. Tôi không muốn ở đây. Chết còn hơn.
- Rất tốt! - Trung úy trả lời - Tôi không biết có đến được không. Nhưng đúng là thà chết còn hơn phải sống dai dẳng mãi ở đây. Nếu cậu thích, ta cùng đi.
- Tốt! - Tácdăng nói - Ngày mai chúng ta đi. Đi Mỹ.
- Điều ấy không dễ đâu. Chúng ta không có tiền.
- Tiền là gì?
Acnốt phải giải thích rất lâu, Tácdăng mới hiểu cái khái niệm mù mờ đó.
- Làm thế nào để có tiền? - Tácdăng lại hỏi.
- Làm việc
- Được rồi, tôi sẽ làm việc.
Thế là ngay buổi sáng hôm sau, hai người lên đường, men theo bờ biển tiến về phương bắc. Hai người mang theo xoong nồi, thực phẩm, bạt che mưa và nhiều thức cần thiết khác. Tácdăng nhìn những thứ Acnốt định đem theo và cho là quá thừa. Nhưng Acnốt không cho phép chàng được vứt đi thứ nào.
- Cậu phải tập ăn đồ chín cho quen đi! Những người da trắng không ăn thịt sống.
- Tôi không thích ăn chín. Cho vào lửa, thịt toàn bị hỏng.
Hai người vừa đi vừa trò chuyện, tranh luận. Họ đi suốt một tháng liền lên phương bắc. Có ngày Tácdăng săn được rất nhiều thực phẩm dọc đường. Có ngày cả hai cùng phải nhịn đói. Tácdăng vẫn hỏi không ngớt miệng về đủ mọi thứ chuyện trên đời. Acnốt giới thiệu, giải thích cho Tácdăng những thói quen, lối sống của người văn minh. Chàng trai tiếp thu rất nhanh và nhớ rất kỹ. Chàng đã ăn được thịt chín nhưng vẫn dùng mười ngón tay xé thịt, đút vào mồm giống như một con khỉ. Nhiều lần trông thấy thế, Acnốt kêu ầm lên:
- Không thể làm thế được! Thật là kinh tởm. Con người không làm thế.
Acnốt mắng mỏ, nhưng Tácdăng chỉ cười trừ
Một hôm, Tácdăng vô tình nhắc tới chiếc thùng gỗ mà đám thủy thủ thuyền Ơrâu đã giấu ở gần ngôi nhà gỗ của chàng. Chàng kể rằng chàng đã đào lên và giấu ở chỗ khác.
- Lạy Chúa tôi! Đó là thùng tiền vàng! - Trung úy Acnốt đứng sững người, kêu ầm lên - Đó là kho báu của giáo sư Poto. Thật đáng tiếc! Đó cũng là tiền đấy.
- Thế thì chúng ta quay lại lấy đi! Ngay bây giờ, - Tácdăng đề nghị.
- Thế nào? Quay trở lại à? Chúng ta đã đi hết hơn một tháng rồi. Xa lắm rồi! Mà đằng nào cũng không thể khiêng nổi.
- Tôi sẽ quay lại, - Tácdăng vẫn giữ ý kiến của mình - Tôi quay lại một mình. Đi một mình, tôi đi nhanh hơn.
- Tôi tính thế này, - Acnốt nói - Chúng ta cứ tiếp tục đi. Khi nào gặp người, chúng ta sẽ mượn thuyền bơi trở lại đó. Như thế nhanh hơn. Chúng ta sẽ cùng đi thuyền quay lại.
- Tốt lắm! Tácdăng gật đầu - Thùng tiền vẫn còn ở đó. Các ông đúng là những người yếu ớt. Tôi vẫn chưa hiểu vì sao loài người các ông vẫn chưa bị tiêu diệt. Sư tử khỏe hơn. Nó dùng mồm và răng cũng có thể tiêu diệt các ông hàng nghìn người một ngày.
Trung úy bật cười:
- Cứ chờ xem! Rồi cậu sẽ thấy loài người có những gì, làm được gì trên trái đất này. Cậu sẽ thấy những thành phố lớn, những con tàu, máy móc. Con người biết suy nghĩ, biết gắn bó với nhau để sống. Khi loài người biết gắn bó với nhau thì mạnh hơn tất cả các loài động vật.
- Có lẽ đúng thế, - Tácdăng trả lời có vẻ trầm tư - Nếu như Kétchác biết gắn bó với Túplát và tôi thì rất mạnh. Chúng nó không biết suy nghĩ, không biết dự trữ thực phẩm. Cả Kala cũng vậy. Kala không hiểu vì sao tôi lại để thực phẩm dọc đường rừng.
- Kala là ai?
- Mẹ, - Tácdăng trả lời - Đó là mẹ tôi.
- Ồ, cậu nói gì thế? - Acnốt ngạc nhiên - Cậu cũng biết mẹ mình à?
- Biết chứ. Đó là một con vượn to. To hơn tôi nhiều.
- Còn bố cậu?
- Tôi không biết.
Trung úy Acnốt chăm chú nhìn khuôn mặt Tácdăng.
- Không phải thế đâu. Cậu là người. Mẹ cậu không phải là vượn. Có thể là một đàn vượn nào đó đã nuôi cậu, - Acnốt phỏng đoán - Cậu không còn nhớ được mẹ của mình đấy thôi. Cậu có tìm được thứ gì trong ngôi nhà gỗ không?
- Ở đó chỉ có sách. Những cuốn sách mà ông biết đấy, - Tácdăng trả lời - Nhưng có một cuốn sách chỉ nhỏ bằng bàn tay, tôi không đọc được. Tôi vẫn mang theo đây.
Tácdăng rút trong ống tên của mình ra một cuốn sổ bì màu đen đưa cho Acnốt. Viên trung úy xem qua vài trang đầu rồi nói:
- Đây là cuốn nhật ký của Giôn Clayton, huân tước Grayxtau, một quý tộc nước Anh. Đúng là người Anh nhưng lại viết tiếng Pháp.
Trung úy Acnốt tò mò lần đọc từng trang nhật ký được viết hai mươi năm trước. Anh bắt đầu nắm được câu chuyện bi thảm của Giôn Clayton cùng vợ là tiểu thư Alice từ ngày hai người từ giã nước Anh cho tới ngày Clayton bị Kétchác giết chết. Anh bắt đầu đọc to lên, thỉnh thoảng dừng lại vì nghẹn ngào. Có lúc anh ngừng đọc một lúc để nhìn khuôn mặt Tácdăng. Chàng trai ngồi nghe im lặng như pho tượng. Khi cuốn nhật kí xuất hiên đoạn viết về việc đứa trẻ chào đời, giọng văn viết đang buồn bã lập tức chuyển thành vui vẻ, tràn đầy hi vọng. Trung úy Acnốt đọc:
"Hôm nay con của chúng tôi đã được ba tháng tuổi. Nó ngồi trong lòng Alice. Thực là một đứa bé khỏe mạnh và hạnh phúc. Bây giờ, khi tôi đang viết những dòng này, hình như để tự khẳng định rằng mình đã chào đời, đã có mặt ở thế gian này, nó tự nhiên vồ lấy cây bút của tôi. Nó bị mực dây vào các đầu ngón tay rồi in cả bàn tay bé bỏng lấm mực vào trang nhật ký. Cứ như là nó tự đóng dấu chứng nhận sự vào đời của mình vậy..."
Đúng như Giôn Clayton đã viết. Trên trang giấy của cuốn nhật ký còn in vết những ngón tay nhỏ xíu. Phía cuối trang còn có một vết mực to hơn. Nếu nhìn kĩ thì đúng là vết cổ tay đứa bé. Đọc xong cuốn nhật kí, cả hai người đàn ông đều trầm ngâm.
- Cậu nghĩ sao? Tácdăng! - Acnốt lên tiếng sau một hồi im lặng - Những trang nhật kí này đã giải thích nguồn gốc, xuất xứ của cậu đấy. Chính cậu là con trai của huân tước Grayxtau.
Tácdăng lắc đầu:
- Cuốn sách đó chỉ nói về một cậu bé, - Chàng trai trả lời - Đứa trẻ đó đã chết. Xương nó nằm trong nôi. Có thể nó chết vì đói. Mỗi khi vào ngôi nhà gỗ, tôi đều trông thấy bộ xương đó. Sau đó người ta đến nhà và chôn cất tất cả đống xương xuống đấy. Cuốn sách đó chỉ nói về đứa bé, không nói về tôi. Mẹ tôi là Kala.
Trung úy Acnốt không tin Tácdăng. Ngược lại, Acnốt đã làm cho Tácdăng bắt đầu nghi ngờ về nguồn gốc của mình. Acnốt nghĩ rằng Tácdăng chỉ có thể tin rằng chính mình là cậu bé bôi mực bẩn lên trang giấy khi nào Tácdăng tiếp xúc thực sự với nền văn minh của con người.
Khoảng hai tuần sau, hai người đã gặp một vùng đồng bằng. Phía trong hàng rào của ngôi làng nhấp nhô mấy túp lều nho nhỏ. Đứng ở bìa rừng, hai người trông thấy những cánh đồng rộng, trồng nhiều loại hoa màu khác nhau. Xa xa có mấy người da đen đang lúi húi làm đồng.
Hai người lữ hành im lặng, đứng ngắm vùng đất lạ. Đột nhiên Tácdăng tháo cung ra khỏi vai, rút một mũi tên đặt vào cung. Trung úy Acnốt vội đập vào vai Tácdăng nói:
- Cậu làm gì thế, Tácdăng?
- Họ sẽ giết chúng ta đấy. Đằng nào thì họ cũng sẽ trông thấy chúng ta. - Tácdăng nói.
- Họ có thể là bạn bè của chúng ta.
- Đó là những người da đen. - Tácdăng trả lời gọn lỏn, rồi kéo dây cung.
- Không được! - Acnốt quát lên - Không được giết người vô cớ! Tôi đã dạy cậu thế nào? Không phải người da đen nào cũng là kẻ thù.
- Tôi không hiểu nổi, - Tácdăng lắc đầu rồi từ từ hạ cung xuống, - Trong rừng sâu thì người da đen là kẻ thù, ở đây thì lại không. Thế là thế nào? Vậy ở đây nếu sư tử Numa nhảy ra vồ, tôi cũng không được phép đụng tới nó hay sao?
- Cậu cứ chờ tới khi nào người da đen nhảy ra tấn công đã! Khi đó cậu hãy tự vệ. Nếu như họ không xử sự với chúng ta một cách thù địch thì ta không thể coi họ là kẻ thù.
- Thế thì đi! - Tácdăng tặc lưỡi rồi đi xuyên qua cánh đồng.
Nước da màu đồng thau của Tácdăng sáng ánh lên dưới mặt trời. Dang chân cố chạy theo chàng là trung úy Acnốt với bộ quần áo rách như tổ đỉa.
Đột nhiên có người da đen hét lên một tiếng rồi chạy về phía hàng rào. Ngay lập tức cả làng huyên náo. Từ trong làng, một người đàn ông cầm súng chạy ra. Ông ta nâng súng nhằm thẳng vào Tácdăng. Trông thấy thế, Acnốt hoảng hốt gào lên thật to: "Đừng bắn! Chúng ta là bạn bè."
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook