Sự Im Lặng Của Bầy Cừu
-
Chương 12
Trời đã tối đen. Trong ánh sáng của các ngọn đèn pha, cô cảm thấy mình quá yếu đuối; tiếng cánh quạt nước kêu rít trong khi máy xe nổ đều trong chế độ quá chậm. Cô đã khóa cánh cửa chiếc Plymouth và ông Yow có vẻ vô hại, nhưng cô không thích gặp nguy cơ bị xe tông vào cánh cửa sắt.
Ổ khóa được mở ra trong bàn tay cô và nó rất nặng, dính đầy nhớt. Cái kia có nhiều thời gian để thấm hơn, cũng dễ dàng bung ra.
Cánh cửa cuốn vẫn trơ lì. Clarice cố hết sức mình để kéo nó lên cho đến mức mắt nổ đom đóm. Yow xuống giúp một tay nhưng do ông này bị thoái vị nên cũng không giúp được gì nhiều.
- Chúng ta có thể trở lại vào tuần sau, với thằng con tôi và vài người thợ nữa - Ông đề nghị. - Bởi vì tôi không thích về nhà quá muộn đâu.
Clarice không tin mình có thể trở lại đây; bởi vì quá dễ để Crawford gọi một cú điện thoại và vụ này sẽ qua tay một nhân viên của ông ta tại Baltimore ngay.
- Tôi sẽ cố một lần nữa xem sao. Ông có con đội nào không?
Để con đội ngay dưới tay cầm, Clarice ấn thật mạnh xuống tay quay. Với một tiếng rít chói tai, cánh cửa nhích lên được một phân. Tiếp đến cô đẩy lên thêm được hai phân nữa, và hai phân nữa; đến lúc này cô mới lấy chiếc bánh dự phòng để chặn ngay giữa và dùng con đội của cô và cái của ông Yow để chặn ở hai đầu rãnh trượt của cánh cửa.
Thao tác luân phiên trên hai con đội, cuối cùng cô cũng đẩy được cánh cửa lên hơn năm mươi phân, nhưng sau đó cánh cửa kẹt cứng và không gì có thể lay chuyển được nữa.
Ông Yow nhìn qua khoảng trống đó, nhưng ông không thể cúi người lâu hơn vài giây được.
- Trong đó hôi mùi chuột quá - Ông nhận xét - Người ta đã bảo đảm với tôi là sẽ đặt thuốc chuột kia mà. Tôi nhớ điều này được ghi trong hợp đồng. Không có bọn gặm nhấm, nhưng tôi nghe tiếng chuột, cô có nghe thấy không?
- Có chứ. Trong ánh sáng của ngọn đèn pin, cô nhìn thấy nhiều thùng các tông và một cái bánh xe với thân được sơn trắng lòi ra dưới một tấm bạt.
Cô cho chiếc xe Plymouth lui lại cho đến khi ánh đèn pha rọi ngay dưới cánh cửa rồi lấy một tấm thảm lót chân bằng cao su ra.
- Cô vào trong đó sao?
- Tôi phải vào nhìn xem qua mới được.
Ông rút khăn tay ra.
- Tôi có thể nào đề nghị cô nên cột các ống quần ở ngay mắt cá của cô lại được không? Để chuột không thể chui vào ấy mà.
- Xin cám ơn ông, đúng là một ý kiến tuyệt vời. Nếu cánh cửa sập xuống hoặc có bất cứ chuyên gì khác xảy ra xin ông gọi giùm số này - cô vừa nói vừa cười - Đó là số của văn phòng chúng tôi tại Baltimore. Họ biết tôi đang ở đây cùng ông và nếu một lâu sau họ không nhận được tin tức gì của tôi, họ sẽ lo đấy. Ông hiểu không?
- Đương nhiên là hiểu rồi. - Ông ta đưa cho cô chùm chìa khóa của chiếc Packard.
Clarice trải tấm thảm xuống nền đất ướt trước cánh cửa, và buộc thật chắc hai ống quần bằng cái khăn tay của cô cùng cái của ông Yow đưa, cô nằm xuống đó và bao kín các ống kính của cái máy chụp hình tang vật. Mùi chuột và ẩm mốc xông nồng nặc lên mũi cô. Thật phi lý, nhưng ngay lúc này cô lại nghĩ đến một châm ngôn Latinh.
Đó là phương châm của các bác sĩ thời La Mã, được ông thầy pháp y cô viết trên bảng trong ngày đầu tiên của khóa học: Primum non nocere. (Trước hết, không được làm hại.)
Họ sẽ không nói thế trong cái ga ra đầy những chuột chết tiệt này.
Và đột nhiên cô nghe lại lời nói của cha cô đã nói với cô “Nếu con không thể chơi mà không cằn nhằn, tốt hơn con nên vô nhà đi”.
Clarice cài kỹ tất cả các nút áo lại, thụt cổ xuống và bắt đầu trườn dưới cánh cửa. Cô đến ngay phía sau chiếc Packard. Chiếc xe đậu ở bên trái gần sát tường. Bên phải, nhiều chồng thùng các tông được chất kín những khoảng còn trống. Clarice phải trườn tiếp cho đến khi đầu cô ra được chỗ trống giữa chiếc xe các thùng giấy. Cô dùng đèn pin để rọi khắp nơi và thấy có đầy mạng nhện.
Tốt rồi. Con nguy hiểm nhất là nàng góa phụ đen và nó không ở ngoài trời như thế này đâu. Mũi chích của mấy con này không để lại dấu vết gì đâu mà phải sợ.
Có vẻ còn chỗ trống ở chỗ thanh chống sốc sau. Cô mới lách người để có thể đứng thẳng người lên và mặt cô ở ngang tầm với cái bánh xe được sơn trắng bên hông. Có thể đọc được hiệu GOODYEAR HAI CHIM ƯNG. Thật cẩn trọng, cô dùng tay quơ mấy mạng nhện đi. Có phải người ta có cảm giác như thế này khi phải mang một khăn voan trên đầu không?
- Cô ổn chứ cô Starling? - Yow lên tiếng hỏi.
- Tốt rồi - Tiếng nói của cô làm cho đám chuột chạy lung tung và một con chui vào trong cây đàn dương cầm, chạy trên các dây nốt cao. Ánh đèn pha xe hơi chiếu sáng từ chân cho đến mắt cá của cô.
- Hình như cô tìm được cây dương cầm rồi thì phải? - Ông Yow la lên.
- Không phải tôi.
- À!
Chiếc xe vừa cao vừa dài. Một chiếc limouzin đời 1938, căn cứ theo bảng kiểm kê của Yow. Một tấm thảm bao phủ nó, mặt có lông nằm ở dưới. Cô chiếu đèn pin dọc trên đó.
- Có phải ông đã phủ tấm thảm lên đó không?
- Tôi thấy nó như thế và không hề đụng đến thứ gì cả - Ông Yow đáp lại từ đằng sau cánh cửa sắt - Tôi đâu dại gì di chuyển một tấm thảm đầy bụi. Chính Raspail làm việc đó. Tôi chỉ ghi nhận là chiếc xe ở đó. Mấy người dọn nhà đã đẩy cây dương cầm vào sát tường, phủ một tấm bạt lên đó, chất thêm vài thùng các tông rồi bỏ đi. Tôi trả tiền họ theo giờ. Mấy thùng các tông đó đầy cả sách và bản nhạc.
Tấm thảm thật dày và rất nặng; khi cô kéo nó xuống, bụi bay mịt mù trong ánh đèn pin. Cô nhảy mũi hai lần. Nhón trên đầu bàn chân, cô hất nó lên mui xe. Rèm cửa kính được kéo lại. Cô phải chồm người qua mấy cái thùng để chạm vào nắm tay cầm đầy bụi của cánh cửa. Cô thử mở nó ra. Không được. Cửa sau không có khóa. Phải di chuyển khá nhiều thùng giấy để mở được cánh cửa nhưng cô không đủ chỗ để dịch chuyển nó nữa. Tấm rèm ở cửa sau vẫn còn hở.
Clarice phải chồm người trên các thùng để có thể rọi đèn và nhìn vào bên trong. Cô chỉ thấy được ánh phản chiếu của chính cô cho đến khi cô chụp bàn tay kia quanh cây đèn pin. Một làn ánh sáng nhỏ, chiếu xuyên qua cửa kính, di chuyển trên cái băng sau. Một cuốn album mở ra đang nằm trên đó. Cô thấy tấm bưu thiếp của ngày Lễ Tình Nhân với những màu xỉn vì ánh sáng tối quá, dán trên trang album. Đây là loại bưu thiếp xưa có ren bằng giấy.
- Cám ơn ông thật nhiều, bác sĩ Lecter - Khi cô thốt lên câu này, hơi thở làm cho bụi bay lên và dính trên cửa kính. Khi dịch chuyển, ánh sáng cho thấy một cái mền được cuốn tròn, nằm dưới sàn xe, và trên đó là một đôi giày dạ hội. Cao hơn một chút là đôi tất ngắn bằng lụa đen, và trên chút nữa là một cái quần ximôkinh với đôi chân trong đó.
Ổ khóa được mở ra trong bàn tay cô và nó rất nặng, dính đầy nhớt. Cái kia có nhiều thời gian để thấm hơn, cũng dễ dàng bung ra.
Cánh cửa cuốn vẫn trơ lì. Clarice cố hết sức mình để kéo nó lên cho đến mức mắt nổ đom đóm. Yow xuống giúp một tay nhưng do ông này bị thoái vị nên cũng không giúp được gì nhiều.
- Chúng ta có thể trở lại vào tuần sau, với thằng con tôi và vài người thợ nữa - Ông đề nghị. - Bởi vì tôi không thích về nhà quá muộn đâu.
Clarice không tin mình có thể trở lại đây; bởi vì quá dễ để Crawford gọi một cú điện thoại và vụ này sẽ qua tay một nhân viên của ông ta tại Baltimore ngay.
- Tôi sẽ cố một lần nữa xem sao. Ông có con đội nào không?
Để con đội ngay dưới tay cầm, Clarice ấn thật mạnh xuống tay quay. Với một tiếng rít chói tai, cánh cửa nhích lên được một phân. Tiếp đến cô đẩy lên thêm được hai phân nữa, và hai phân nữa; đến lúc này cô mới lấy chiếc bánh dự phòng để chặn ngay giữa và dùng con đội của cô và cái của ông Yow để chặn ở hai đầu rãnh trượt của cánh cửa.
Thao tác luân phiên trên hai con đội, cuối cùng cô cũng đẩy được cánh cửa lên hơn năm mươi phân, nhưng sau đó cánh cửa kẹt cứng và không gì có thể lay chuyển được nữa.
Ông Yow nhìn qua khoảng trống đó, nhưng ông không thể cúi người lâu hơn vài giây được.
- Trong đó hôi mùi chuột quá - Ông nhận xét - Người ta đã bảo đảm với tôi là sẽ đặt thuốc chuột kia mà. Tôi nhớ điều này được ghi trong hợp đồng. Không có bọn gặm nhấm, nhưng tôi nghe tiếng chuột, cô có nghe thấy không?
- Có chứ. Trong ánh sáng của ngọn đèn pin, cô nhìn thấy nhiều thùng các tông và một cái bánh xe với thân được sơn trắng lòi ra dưới một tấm bạt.
Cô cho chiếc xe Plymouth lui lại cho đến khi ánh đèn pha rọi ngay dưới cánh cửa rồi lấy một tấm thảm lót chân bằng cao su ra.
- Cô vào trong đó sao?
- Tôi phải vào nhìn xem qua mới được.
Ông rút khăn tay ra.
- Tôi có thể nào đề nghị cô nên cột các ống quần ở ngay mắt cá của cô lại được không? Để chuột không thể chui vào ấy mà.
- Xin cám ơn ông, đúng là một ý kiến tuyệt vời. Nếu cánh cửa sập xuống hoặc có bất cứ chuyên gì khác xảy ra xin ông gọi giùm số này - cô vừa nói vừa cười - Đó là số của văn phòng chúng tôi tại Baltimore. Họ biết tôi đang ở đây cùng ông và nếu một lâu sau họ không nhận được tin tức gì của tôi, họ sẽ lo đấy. Ông hiểu không?
- Đương nhiên là hiểu rồi. - Ông ta đưa cho cô chùm chìa khóa của chiếc Packard.
Clarice trải tấm thảm xuống nền đất ướt trước cánh cửa, và buộc thật chắc hai ống quần bằng cái khăn tay của cô cùng cái của ông Yow đưa, cô nằm xuống đó và bao kín các ống kính của cái máy chụp hình tang vật. Mùi chuột và ẩm mốc xông nồng nặc lên mũi cô. Thật phi lý, nhưng ngay lúc này cô lại nghĩ đến một châm ngôn Latinh.
Đó là phương châm của các bác sĩ thời La Mã, được ông thầy pháp y cô viết trên bảng trong ngày đầu tiên của khóa học: Primum non nocere. (Trước hết, không được làm hại.)
Họ sẽ không nói thế trong cái ga ra đầy những chuột chết tiệt này.
Và đột nhiên cô nghe lại lời nói của cha cô đã nói với cô “Nếu con không thể chơi mà không cằn nhằn, tốt hơn con nên vô nhà đi”.
Clarice cài kỹ tất cả các nút áo lại, thụt cổ xuống và bắt đầu trườn dưới cánh cửa. Cô đến ngay phía sau chiếc Packard. Chiếc xe đậu ở bên trái gần sát tường. Bên phải, nhiều chồng thùng các tông được chất kín những khoảng còn trống. Clarice phải trườn tiếp cho đến khi đầu cô ra được chỗ trống giữa chiếc xe các thùng giấy. Cô dùng đèn pin để rọi khắp nơi và thấy có đầy mạng nhện.
Tốt rồi. Con nguy hiểm nhất là nàng góa phụ đen và nó không ở ngoài trời như thế này đâu. Mũi chích của mấy con này không để lại dấu vết gì đâu mà phải sợ.
Có vẻ còn chỗ trống ở chỗ thanh chống sốc sau. Cô mới lách người để có thể đứng thẳng người lên và mặt cô ở ngang tầm với cái bánh xe được sơn trắng bên hông. Có thể đọc được hiệu GOODYEAR HAI CHIM ƯNG. Thật cẩn trọng, cô dùng tay quơ mấy mạng nhện đi. Có phải người ta có cảm giác như thế này khi phải mang một khăn voan trên đầu không?
- Cô ổn chứ cô Starling? - Yow lên tiếng hỏi.
- Tốt rồi - Tiếng nói của cô làm cho đám chuột chạy lung tung và một con chui vào trong cây đàn dương cầm, chạy trên các dây nốt cao. Ánh đèn pha xe hơi chiếu sáng từ chân cho đến mắt cá của cô.
- Hình như cô tìm được cây dương cầm rồi thì phải? - Ông Yow la lên.
- Không phải tôi.
- À!
Chiếc xe vừa cao vừa dài. Một chiếc limouzin đời 1938, căn cứ theo bảng kiểm kê của Yow. Một tấm thảm bao phủ nó, mặt có lông nằm ở dưới. Cô chiếu đèn pin dọc trên đó.
- Có phải ông đã phủ tấm thảm lên đó không?
- Tôi thấy nó như thế và không hề đụng đến thứ gì cả - Ông Yow đáp lại từ đằng sau cánh cửa sắt - Tôi đâu dại gì di chuyển một tấm thảm đầy bụi. Chính Raspail làm việc đó. Tôi chỉ ghi nhận là chiếc xe ở đó. Mấy người dọn nhà đã đẩy cây dương cầm vào sát tường, phủ một tấm bạt lên đó, chất thêm vài thùng các tông rồi bỏ đi. Tôi trả tiền họ theo giờ. Mấy thùng các tông đó đầy cả sách và bản nhạc.
Tấm thảm thật dày và rất nặng; khi cô kéo nó xuống, bụi bay mịt mù trong ánh đèn pin. Cô nhảy mũi hai lần. Nhón trên đầu bàn chân, cô hất nó lên mui xe. Rèm cửa kính được kéo lại. Cô phải chồm người qua mấy cái thùng để chạm vào nắm tay cầm đầy bụi của cánh cửa. Cô thử mở nó ra. Không được. Cửa sau không có khóa. Phải di chuyển khá nhiều thùng giấy để mở được cánh cửa nhưng cô không đủ chỗ để dịch chuyển nó nữa. Tấm rèm ở cửa sau vẫn còn hở.
Clarice phải chồm người trên các thùng để có thể rọi đèn và nhìn vào bên trong. Cô chỉ thấy được ánh phản chiếu của chính cô cho đến khi cô chụp bàn tay kia quanh cây đèn pin. Một làn ánh sáng nhỏ, chiếu xuyên qua cửa kính, di chuyển trên cái băng sau. Một cuốn album mở ra đang nằm trên đó. Cô thấy tấm bưu thiếp của ngày Lễ Tình Nhân với những màu xỉn vì ánh sáng tối quá, dán trên trang album. Đây là loại bưu thiếp xưa có ren bằng giấy.
- Cám ơn ông thật nhiều, bác sĩ Lecter - Khi cô thốt lên câu này, hơi thở làm cho bụi bay lên và dính trên cửa kính. Khi dịch chuyển, ánh sáng cho thấy một cái mền được cuốn tròn, nằm dưới sàn xe, và trên đó là một đôi giày dạ hội. Cao hơn một chút là đôi tất ngắn bằng lụa đen, và trên chút nữa là một cái quần ximôkinh với đôi chân trong đó.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook