“Anh ta là ai, Venetia?”

Venetia giật mình. Cô quay sang em trai. “Sao em lại hét vào tai chị thế?”

Con tàu đang tiến đến hú còi văng vẳng, có thể là con tàu chờ Millie và Helena về nhà. Những người bảo vệ đề nghị đám đông trên sân ga tránh xa đường ray, để nhường chỗ cho những người sắp xuống tàu.

“Bởi vì, chị thân yêu,” Fitz nói bằng giọng bình thường. “Em đã hỏi chị câu hỏi này ba lần rồi và chị vẫn không nghe thấy.”

Cô yếu ớt mỉm cười. “Xin lỗi. Em đang nói gì nhỉ?”

“Anh ta là ai, người đàn ông chị đang nghĩ đến ý? Em đã quan sát kể từ khi chị quay lại, Chị hầu như không ăn. Chị chưa bao giờ thêu được hơn hai mũi. Một phút chị cúi đầu mỉm cười, phút sau đó chị cố gắng để không bật khóc. Và chớ quên rằng, sáng nay em đứng cạnh ghế chị đúng năm phút, và chị hầu như không có chút ý niệm nào là em đang đứng ở đó.”

Cuối cùng anh phải đập vào vai chị mình, giật cô ra khỏi giấc mơ ban ngày sống động đến phi thường. Trong giấc mơ, món ăn đầu tiên của bữa tiệc mừng sinh nhật Christian nguội dần khi họ âu yếm nhu ở trên bàn.

Nếu khách sạn Claridge không bị phá đi để xây dựng lại, cô đã thuê một phòng ở đó trong suốt mùa lễ hội, và Fitz sẽ không biết được những triệu chứng của bệnh đau tim này. Nhưng vì khách sạn vẫn đang xây, và họ lại cần thêm một cặp mắt để theo dõi Helena, cô chấp nhận lời mời đến ở lại nhà của Fitz.

“Tất cả là do lo lắng cho Helena thôi. Chị đang rối bời,” cô mệt mỏi nói.

Fitz đã nói đúng về một điều: Mọi lúc cô gần như đều muốn bật khóc.

Đôi khi chuyến vượt biển trên tàu Rhodesia dường như xa xôi như chuyện ngày xửa ngày xưa, cái thời mà ngọn hải đăng vĩ đại ở Alexandria vẫn còn dẫn đường cho các thủy thủ. Đôi khi cô tự hỏi liệu có phải cô đã không tưởng tượng ra người đàn ông đã yêu cô vì con người cô, chứ không phải diện mạo của cô hay không.

Hằng đêm những ký ức về từng nụ hôn của anh bùng cháy trong cô. Mỗi sáng thức dậy cô vươn tay tìm anh, chỉ để nhớ ra rằng anh sẽ không bao giờ là của cô lần nữa. Sự cô đơn, bấy lâu nay vẫn lá một tình trạng có thể chịu đựng được, đã bắt đầu bóp nghẹt cô như một cây leo phát triển nhanh đang đàn áp thân cây chủ.

Như thể không nghe thấy cô, Fitz nói. “Em biết anh ta không phải là người Mỹ, chị đã tìm kiếm đống báo Debrett cũ của Millie.”

Cô có thể đọc thuộc lòng bài báo dài về công tước Lexington.

“Vậy anh ta là ai? Và tại sao anh ta chưa phá cửa nhà em để cầu hôn chị?”

Cô không muốn nói dối Fitz. Nhưng cô cũng không thể giãi bày chuyện đã xảy ra trên tàu Rhodesia.

“Chẳng mấy chốc Millie và Helena sẽ kể với em chuyện gì đã xảy ra với chị. Chuyện không giống như em nghĩ đâu.”

Cô nghi ngờ rằng Millie đã phải nói gì đó với Fitz trong những lá thư qua lại gần như hàng ngày của họ, vì Fitz đã không một lần hỏi Venetia tại sao cô bỏ hai người kia ở lại và quay về một mình.

Fitz đặt tay lên vai cô. “Em xin lỗi nếu chuyện không phải như em nghĩ. Em thích nghĩ rằng chị đang yêu. Chị đã khép mình quá lâu rồi.”

Mắt cô nhức nhối. Cô chớp mắt để kìm lại nước mắt. “Ồ, nhìn kìa. Chị nghĩ rằng đó là tàu chở họ.”

*

* *

Venetia đề nghị tất cả bọn họ đến khách sạn Savoy ăn trưa. Một ý tưởng ác độc: Bây giờ cô có thể tái hiện những chi tiết về bữa tối cô sẽ không bao giờ có cùng với Christian thật tỉ mỉ.

Và vì khách sạn có rất nhiều phòng ăn tối riêng, ngày nào đó cô có thể yêu cầu một chuyến tham quan đến phòng ăn tối anh đã đặc biệt chọn cho cô, để sự bài trí bữa tiệc tưởng tượng của cô không những thật chi tiết, mà còn giống chính xác với thực tế.

Bữa trưa của gia đình diễn ra tốt đẹp. Millie và Helena thuật lại những tuần lễ ở Mỹ. Fitz kể cho họ nghe những tin tức liên quan đến bạn bè và người quen. Venetia mải mê nghi nhớ những họa tiết của giấy dán tường và hoa văn hình vòng hoa trên cán dĩa.

Không ai hỏi những câu hỏi tiềm tàng nguy hiểm và gây bối rối. Helena đã ngập ngừng hỏi han sức khỏe của Venetia, nói rằng cô có vẻ bơ phờ bất thường. À, những trái tim đổ vỡ không gây ồn ào, nhưng sự mệt mỏi và yếu ớt là tất nhiên. Venetia lẩm bẩm điều gì đó về việc thức muộn đọc sách vào đêm hôm qua.

Cô quay lại cỗ xe độc mã của Fitz, xe đang chạy ra khỏi lề đường thì cô nhìn thấy Christian bước xuống xe ngựa. Anh mặc đúng chiếc áo khoác ngoài màu xám mà anh đã mặc trong lần đi dạo đầu tiên và cầm đúng chiếc ba-toong cán nạm ngà đó. Nhưng anh đã gầy đi, má anh đã hóp lại. Và mắt anh có những quầng thâm mờ mờ, như thể anh cũng đã không thể ngủ được vào buổi đêm.

Cơn nhức nhối trong trái tim cô biến thành một nỗi đau buốt giá. Anh ở đây, ở Luân Đôn. Và nếu cô rời khỏi bữa trưa chậm hơn một phút, họ đã chạm mặt nhau.

Cô sợ hãi đợi Millie hay Helena lên tiếng. Nhưng Millie đang nghiêng đầu về phía chồng mình, mê mải lắng nghe anh phân tích về vấn đề gì đó trong nhà. Và Helena đang nhìn ra ngoài xe, răng cắn vào môi dưới. Không ai nhìn thấy anh.

Sự lơ đãng của cô bốc hơi; một nguồn năng lượng không thể kìm nén rung lên trong cô. Khi cỗ xe chạy đến một khúc ngoặt và anh biến mất khỏi tầm nhìn, tất cả những gì cô có thể làm là không nhảy khỏi cỗ xe đang chuyển động này.

Nhìn thấy anh đúng là một cơn sốc. Một cơn phấn khích như điện giật. Và một sự trống rỗng, vì bây giờ anh lại biến mất.

*

* *

Helena nhìn chằm chằm vào lưng Venetia khi chị cô đang bỏ đi.

Ở sân ga, chị cô trong thật mệt mỏi. Lúc ở khách sạn Savoy, chị cô đã nhìn chằm chằm vào ly uống rượu và những đường viền trần nhà như thể bị thôi miên, hầu như không chú ý đến những chuyện đang diễn ra. Nhưng bây giờ, khi họ đang bước lên cửa chính, chị cô đã chạy ngược lại, lẩm bẩm những lời vô nghĩa về việc để quên quạt ở khách sạn.

Chị cô đã không mang theo quạt. Mà thực ra nếu có, chị ấy có thể cử người đi lấy về. Helena chỉ có thể nghĩ ra được một lý do duy nhất cho hành vi kỳ lạ của Venetia – cho đến ngày hôm nay, chị cô vẫn không thể chịu được việc đời tư của mình bị soi mói ở Harvard.

Và đó là lỗi của Helena, ít nhất là một phần.

“Và đây là bà Wilson cùng với cô hầu gái mới của em,” Fitz nói.

Cô ngẩng phắt đầu lên. “Em có hầu gái từ lúc nào thế?”

“Từ ngày hôm qua, anh tin là thế. Venetia nói em cần.”

Cô hầu gái đi theo bà Wilson vào phòng khách trạc tuổi Helena, trông đĩnh đạc và sắc sảo. Cô ta không có vẻ gì giống như người dễ dàng bị mua chuộc bằng cách cho nghỉ buổi chiều, hay bỏ đi chơi với một anh chàng nào đó nếu có sự khuyến khích nho nhỏ. Không, cô hầu gái này thể hiện rõ mồn một hình ảnh của một nữ quản gia đầy trách nhiệm trong tương lai.

“Susie Burns, thưa bà chủ, thưa cô,” bà Wilson nói.

Cô hầu gái nhún gối chào Millie, sau đó chào Helena.

“Hành lý của cô Fitzhugh lẽ ra phải ở trong phòng rồi,” Millie nói với Susie. “Cô hầu gái của tôi sẽ chỉ cho cô biết cách sắp xếp đồ đạc như thế nào.”

Trước khi Susie có thể nói “Vâng, thưa cô,” Cobble, người quản gia đi vào phòng và thông báo, “Ngài Hastings.”

Và người đàn ông chịu trách nhiệm cho mọi chuyện lao vào phòng.

Trong đầu Helena, Hastings vẫn là một tên vô lại gầy gò, lùn tịt mà Fitz đã đưa về nhà lần đầu tiên khi họ lên mười bốn tuổi. Đôi khi cô thừa nhận rằng hắn ta không còn lùn và gầy gò nữa, nhưng hắn ta vẫn và luôn là một tên vô lại.

“Bà Easterbrook đi đâu mà vội vàng thế? Cô ấy gần như xô tôi sang một bên,” Hastings nói, hiên ngang đi về phía Millie. “Và gặp lại em sau một thời gian dài như thế thật là tuyệt, quý bà Fitz. Em trông quyến rũ đến lạ thường.”

Hắn ta nắm lấy tay Millie và lần lượt hôn lên hai mu bàn tay. Millie mỉm cười. “Không bao giờ sánh được với anh, Hastings à.”

Helena chẳng thể nào thấy được sự quyến rũ của hắn ta. Hắn ta là một kẻ lăng nhăng không biết xấu hổ, một kẻ phóng đãng, lười biếng và, cô phát hiện ra khi đã quá muộn, một kẻ phản bội.

Hắn ta quay sang cô. “Cô Fitzhugh, tôi nhớ em làm sao khi em săn đuổi những nữ học giả khắp nước Mỹ. Em chắc phải thấy họ buồn tẻ lắm.”

“Cho phép tôi nhắc anh nhớ rằng tôi cũng học hành quá nhiều và buồn tẻ như họ, thưa quý ngài.”

“Bậy bà nhảm nhí nào, tất nhiên không phải em. Chúng ta đều biết rằng em đi đến trường Lady Margaret Hall chỉ là cho đúng mốt mà thôi.”

Hắn ta có một biệt tài là không bao giờ phải nói quá hai câu mà không khiến cô muốn với lấy một dụng cụ sắc nhọn.

Cobble đã biến mất khỏi phòng khách. Bà Wilson và Susie cũng kín đáo bỏ đi.

“Susie, cứ để hành lý của tôi ở nguyên đó. Là những chiếc váy tôi không mang theo trước đi nhé.”

Thông thường, chủ nhân không bao giờ nói chuyện với người làm khi đang có sự hiện diện của khách khứa, việc đó khiến cho người khách có ấn tượng là người làm trong nhà không biết việc của mình. Nhưng Helena hy vọng sẽ giấu những lá thư bí mật của Andrew ở nơi kín đáo hơn trước khi có người sắp xếp đồ đạc của cô.

“Vâng, thưa cô,” Susie nói.

Mệnh lệnh của cô không thoát khỏi sự chú ý của Fitz và Millie. Họ trao nhau một cái nhìn.

“Em có muốn đi một vòng trong vườn với tôi không, cô Fitzhugh?” Hastings hỏi.

Đây là sự mở đầu mà cô cần. “Tất nhiên. Để tôi thay sang một đôi giày thoải mái hơn đã.”

Nếu Hastings có thể tự do đi lại trong nhà nhờ vào tình bạn bao năm với Fitz, Helena cũng không cần phải khách sáo. Cô chạy vội lên phòng, cử Susie ra ngoài mua thứ gì đó không cần thiết, mở khóa rương quần áo và gom lấy những lá thư của Andrew. Sáng mai cô sẽ mang chúng đến văn phòng của công ty; bây giờ cô khóa chúng trong ngăn kéo cạnh giường.

Hastings đã đợi ở chân cầu thang khi cô đi xuống.

“Thư tình,” hắn ta lẩm bẩm. “Nhận được thì vui đấy, duy trì sự tồn tại tự nhiên của chúng lại thật phiền phức.”

Cô giả vờ không nghe thấy. “Thật vui là anh tìm thấy thời gian ghé thăm chúng tôi trong thời khóa biểu tán gái và lang chạ bận bịu của mình, Hastings.”

Hắn ta đưa tay ra cho cô; cô phớt lờ và đi trước.

Phía sau dinh thự Fitzhugh là một khu vườn riêng được các ngôi nhà liền kề dùng chung. Trong một vài tuần nữa, những cây tiêu huyền sẽ đâm chồi nảy lộc, mang đến bóng râm xanh mát lốm đốm chấm sáng. Nhưng bây giờ những chiếc lá chỉ là những nụ xanh bé xíu quá e thẹn để mờ bung ra. Những con chim sẻ nhảy từ cành cây trơ trụi này sang cành cây trơ trụi khác, mổ vào những viên sét bọc hạt cây từ năm ngoái. Một đài phun nước ba tầng kiểu Ý lấp lánh trong ánh mặt trời.

“Ồ, này Penny,” Hastings hào hứng gọi.

“Hastings, anh bạn già,” ngài Vere, một trong những người hàng xóm của họ trả lời, anh ta đang ngồi trên mép đài phun nước. “Một ngày tuyệt vời trong tháng Mười, đúng không?”

“Giờ đang là tháng Tư, Penny.”

“Vậy sao?” Ngài Vere có vẻ lúng túng. “Năm nay hay năm ngoái?”

“Năm nay, tất nhiên.”

“Hừm,” ngài Vere cáu kỉnh, “Tôi không biết mình làm gì ở đây trong tháng Tư. Ai cũng biết rằng tháng Tư lúc nào cũng mưa. Chúc một ngày tốt lành, Hastings. Chúc một ngày tốt lành, cô Fitzhugh.”

Hastings nhìn theo ngài Vere quay trở lại nhà. “Em nên đồng ý khi anh ta cầu hôn năm ngoái. Nếu em là quý bà Vere, việc em ngủ đêm với ai là chuyện của riêng em chứ chẳng phải của ai khác.”

Tất nhiên, tiếp cận với chủ đề này theo cách trơ tráo như thế đúng là kiểu của Hastings. “Tôi không kết hôn với người không biết bây giờ là tháng mấy.”

“Nhưng em vui vẻ ăn nằm với một người đàn ông ve vãn những cô gái trong trắng.”

Cô phớt lờ lời khiêu khích đó. Đây là hành động đạo đức giả ở mức độ cao nhất, khi một người đàn ông ngủ với mọi thứ chuyển động lại chỉ trích một người chấp nhận mạo hiểm vì tình yêu. “Và bây giờ anh vui chứ khi đặt gia đình tôi trong hoàn cảnh như thế này?”

“Em sẽ làm gì trong hoàn cảnh của tôi? Nếu em gái của người bạn thân nhất ngấp nghé bên bờ vực bị hủy hoại danh tiếng?”

“Tiết kiệm lời nói cường điệu của anh đi. Tôi chưa bao giờ ngấp nghé bờ vực bị hủy hoại. Và nếu đó là em gái người bạn thân nhất của tôi, chắc chắn tôi sẽ không chơi trò hai mang.”

Hastings nhướng mày. “Cho phép tôi nhắc lại cho em nhớ, cô Fitzhugh. Tôi hứa không tiết lộ danh tính người tình lén lút của em để đổi lại một nụ hôn. Tôi không hứa sẽ giữ kín những hành động sai trái đó với gia đình em.”

“Cũng thế thôi,” cô nói, dành cho hắn ta nụ cười giả tạo nhất,” Anh là con lợn dối trá.”

“Thừa nhận đi, em thích nụ hôn đó.”

“Tôi thà ăn một con sên sống còn hơn chịu đựng chuyện đó một lần nữa.”

“Ồ, ồ,” hắn ta lẩm bẩm, mắt sáng lên vẻ suy tính. “Có hay không có vỏ?”

Cô búng ngón tay. “Tiết kiệm những gì anh nghĩ là sự hài hước để dành cho cô nàng nào đó nhẹ dạ cả tin hơn đi. Anh muốn gì ở tôi, Hastings?”

“Tôi chưa bao giờ muốn gì ở em, cô Fitzhugh, tôi chỉ muốn được phục vụ em mà thôi.”

Cô khịt mũi, đây là lời nói của tên nhóc đã từng cố gắng dụ cô vào tủ búp-phê và ăn trộm những nụ hôn.

“Nhận thấy tôi là người giới thiệu Andrew Martin với em,” hắn ta tiếp tục. “Tôi cảm thấy có trách nhiệm nặng nề đối với hạnh phúc của em. Trước nguy cơ gây tổn hại đến sức khỏe của mình, tôi đã quyết định xung phong chăm sóc những nhu cầu của em.”

Cô đã phải kiềm chế từ giây phút hắn ta đến, nhưng cô không thể kiềm chế thêm được nữa: Mắt cô đảo tròn theo đúng ý muốn của chúng. “Lòng vị tha của anh thật đáng kinh ngạc, Hastings. Tôi sốc vì anh vẫn chưa được phong thánh đấy.”

“Tôi rất đồng tình với ý kiến của em, cô Fitzhugh thân mến.” Hắn ta nghiêng người và hạ thấp giọng. “Niềm đam mê của một quý cô chưa chồng có thể gạt bỏ mọi luật lệ và nhảy lên giường với một người đàn ông? Nhu cầu của em có thể sẽ làm tôi què quặt.”

Một luồng hơi nóng lan trên cổ họng cô. Cô bước nhanh hơn và giọng lạnh đi. “Tôi cảm động bởi sự hy sinh tự nguyện của anh. Dù sao tôi vẫn phải từ chối lời đề nghị rộng rãi và hào hiệp này thôi.”

Hắn ta bám sát cô. “Thật không may mắn, cô Fitzhugh. Vì tôi là một lựa chọn tốt hơn trong vấn đề này, vẫn chưa là chồng của một người đàn bà khác.”

“Quá tệ là một không có điểm gì khác đến tán dương mình, thưa ngài.”

“Như tôi nghĩ, em vẫn chưa hoàn toàn hiểu ra. Thôi được rồi, nếu em không nghĩ đến mình, hãy nghĩ đến người em yêu. Mẹ anh ta không phải là người vị tha và anh ta luôn co rúm người lại vì sợ bà ta nghĩ xấu về mình. Tưởng tượng xem bà ta phản ứng như thế nào khi biết rằng con mình đã làm hại một trinh nữ?”

Andrew luôn kính nể và sợ mẹ mình đến chết khiếp, không thể tranh cãi điều đó.

“Đừng lừa dối mình mà nghĩ rằng bởi vì mẹ anh ta không phản đối em, bà ta sẽ tha thứ cho hành động đó của anh ta. Bà ta sẽ không tha thứ và sẽ nghiền nát anh ta bằng sự khinh miệt.”

Helena cắn má trong. “Bọn tôi không định để lộ chuyện này.”

“Tôi chắc là em không định thế, nhưng em đã cân nhắc kỹ về thiên hướng đánh hơi ra mọi điều sai trái của bà Monteth chưa?”

Mà Monteth là chị gái của vợ Andrew, một người luôn tự cho là mình đúng đắn, sống để vạch trần những sai lầm và điểm yếu của những người sống quanh mình.

“Nếu em yêu anh ta, hãy để anh ta yên.” Giọng nói rề rà của Hastings đã trở nên cứng rắn, cô vẫn còn ngạc nhiên vì giọng hắn ta có thể biến đổi nhanh như thế, từ nuông chiều mềm mỏng sang cứng rắn lạnh lùng. “Hoặc là, hãy nhớ lời tôi, em sẽ khiến anh ta sống trong khổ sở suốt phần đời còn lại.”

Hắn ta cúi đầu chào. “Giờ tôi đã xong việc. Chúc em một ngày tốt lành, cô Fitzhugh.”

Trước khi bước lên bậc thềm vào nhà hắn ta quay lại, một nụ cười chế giễu trên môi, đúng y như hình ảnh của một kẻ trác táng. “Và đề phòng trường hợp em tò mò, lời đề nghị của tôi vẫn có hiệu lực.”

*

* *

“Cậu bé yêu quý của tôi,” nữ công tước quả phụ của Lexington, người vừa đến Luân Đôn cùng Christian nói.

“Con nhận ra giọng điệu đó đấy, mẹ kế,” vẫn đứng trước cửa sổ, anh trả lời. “Mẹ đã biết được một mẩu chuyện tầm phào đặc biệt ngon lành nào đó.”

Trẻ con nô đùa trong công viên nhỏ bên kia đường, thả diều, cho vịt ăn và chơi trò trốn tìm. Một cậu bé lén thoát khỏi cô gia sư đi kèm để cho con ngựa đang đóng cương vào một cỗ xe hai bánh đỗ gần lề đường ăn táo.

“Và một tin đồn rất, rất hiếm. Tin đồn liên quan đến con.”

“Con biết rồi.” Hy vọng rằng tin tức sẽ không lan truyền cho đến sau khi anh có thời gian nắm chắc bàn tay người anh yêu là quá nhiều.

Cô gia sư trách mắng và giật tay cậu bé khỏi con ngựa, không nghi ngờ gì là đang dọa dẫm cậu bé về những con bọ chét và những thứ không mong muốn khác chắc chắn thường đi cùng với một con vật như thế. Có phải tấm rèm cửa của cỗ xe lay động? Sau khi đọc hết tờ bào, lúc này, tên đánh xe đang rút thứ gì đó giống như là một nắm tiền nhàu nát khủng khiếp ra từ áo khoác.

“Từ khi chúng ta đến Luân Đôn vào sáng nay, mẹ đã nhận được không phải một, không phải hai, mà là ba lá thư khác nhau về cuộc tình nóng bỏng của con trong chuyến vượt biển. Trước mặt bàn dân thiên hạ, ngạc nhiên chưa.”

Ít nhất bây giờ anh có thể nói về cô. “Vâng, mọi chuyện đúng là thế.”

Có phải những ngón tay đi găng siết lấy mép rèm trên chiếc xe ngựa cho thuê?

“Chắc chắn không phải mọi chuyện. Có vài tin đồn rằng con đã kết hôn với cô ta.”

Anh quay lại. “Điều đó thì không đúng. Nhưng không phải chưa từng thử.”

Đang chỉnh sửa lại bình hoa tu-líp đặt trên chiếc bàn chân quỳ, nữ công tước dừng khựng lại giữa chừng. Bà cũng quay lại – một phụ nữ xinh đẹp mới vừa qua tuổi bốn mươi, chỉ hơn Christian mười ba tuổi. Nhưng thay vì buột miệng ra lời phản ứng ngay lập tức, bà ngồi xuống chiếc ghế Louis XIV và cố ý chỉnh váy thật kỹ lưỡng. “Con đã cầu hôn?”

“Vâng.”

“Con không hề nói một chút nào về chuyện đó.”

“Tình huống có phần nào phức tạp. Con không muốn mẹ lo lắng.”

“Và mẹ sẽ lo lắng ít đi khi được biết theo cách này.”

Anh cúi đầu để bà biết rằng anh đã nhận thấy sự trách móc. “Con xin lỗi.”

“Kể cho mẹ nghe đi nào, tình huống phức tạp là như thế nào? Khi công tước Lexington cầu hôn, quý cô may mắn đó chấp nhận. Thế là hết.”

Giá như đơn giản như thế. “Cô ấy đã dùng tên giả.”

Vừa đặt chân đến Anh, anh đã thu xếp để gặp những người quen thuộc với giới quý tộc

Đức. Nhà Seidlitz là một dòng tộc nổi tiếng người Phổ. Nhà Hardenberg là dòng dõi quý tộc Silesia. Nhưng không hề có dấu tích gì về nam tước von Seidlitz – Hardenberg, vì thế không hề có một nữ nam tước von Seidlitz – Hardenberg nào. Dường như đó không phải là tên thật, và vì thế có xé nát cả lục địa châu Âu cũng không có hy vọng tìm thấy.

Nữ công tước quả phụ hít mạnh vào. “Tên giả?”

“Và con chưa bao giờ nhìn thấy mặt cô ấy.”

Bà chớp mắt, chết sững.

“Thật là, Christian.” Bà gõ ngón tay lên thành ghế. “Có đến hàng trăm quý cô trẻ danh giá phù hợp ở đây và con cầu hôn với người con thậm chí không thể nhận ra nếu con đi qua cô ta trên đường hay sao?”

“Cô ấy là người con yêu.” Điều đó lẽ ra đã đủ lý lẽ nhưng theo cách nào đó nó không có vẻ gì phù hợp, dựa trên tất cả những điều còn chưa biết. “Mẹ sẽ yêu quý cô ấy – cô ấy biết đặt con ở đúng chỗ của mình.”

Nữ công tước vẫn chưa bị thuyết phục. “Mẹ muốn gặp cô ấy và tự mình đánh giá.”

“Con sẽ sắp xếp ngay khi con có thể thuyết phục cô ấy chấp nhận lời cầu hôn.”

“Và bao giờ con có thể làm được việc ấy?”

“Vào ngày sinh nhật của con, con hy vọng thế. Cô ấy đã đồng ý ăn tối cùng con ở khách sạn Savoy.”

Nữ công tước đứng lên. “Con biết là mẹ tin tưởng sự đánh giá của con, Christian. Mẹ đã tin tưởng sự đánh giá của con kể từ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau. Nhưng nếu mẹ không chỉ ra sự bất thường đặc biệt của tình huống này thì mẹ sẽ là người bất cẩn. Con đã đặt mình vào một tình cảnh rất mạo hiểm, và mẹ không chỉ ám chỉ thanh thế hay của cải của con đâu.”

Anh xứng đáng bị cảnh báo như thế. “Con e rằng trái tim con đã hoàn toàn bị chiếm hữu. Con sẽ đau khổ nếu không cưới được cô ấy.”

“Con có thể cũng đau khổ nhường ấy trong một cuộc hôn nhân, đến lúc đó thì đã quá muộn.”

“Bây giờ đã là quá muộn. Nếu con không thể có cô ấy, con sẽ không lấy ai.”

Bà thở dài. “Con chắc về việc này chứ?”

“Chắc.”

Một tiếng vọng của điều gì đó kêu lanh canh bên trong anh khi anh đưa ra câu trả lời rõ ràng đến thế, có lẽ là sợ hãi. Anh cũng đã chắc chắn như thế khi gặp bà Easterbrook lần đầu tiên, rằng cô ta nắm giữ chìa khóa hạnh phúc của anh.

“Hãy cẩn thận, con yêu quý,” nữ công tước nói. “Chỉ nên lặp lại lời cầu hôn nếu cô ta chứng tỏ là xứng đáng.”

Anh cố gắng làm giảm nhẹ sự nặng nề của câu chuyện. “Vậy đây là lời của người đã nói rằng sẽ hạnh phúc nếu bắt được con cưới bất kỳ cô gái nào còn sống.”

“Chỉ vì cô gái này có sức mạnh làm con bị tổn thương con yêu. Chỉ vì thế mà thôi.”

*

* *

Vì tất cả những tấm bạt của cỗ xe ngựa đã thả xuống để che Venetia khỏi tầm nhìn, không khí trong xe vốn đã bốc mùi thuốc lá và rượu gin, nay càng trở nên khó chịu hơn với từng phút trôi qua. Sự tập trung của cô không thể bớt đi.

Hình ảnh người cô yêu đã khiến cô mê sảng. Cô không thể lý luận. Cô không thể nghĩ ngợi. Điều quan trọng duy nhất là cô có thể nhìn thấy anh lần nữa. Cô không biết mình hy vọng đạt được điều gì khi làm thế, nhưng sức hút của lực kéo cô về phía anh lớn hơn tất cả sức lực cô có thể gom góp lại để tránh xa anh.

Cô quyết định đi bộ từ nhà Fitz. Đâu đó dọc đường cô nhận ra đi bộ đến khách sạn Savoy quá xa, vì thế cô vẫy tay một chiếc xe ngựa hai bánh.

Xe ngựa đến khách sạn Savoy đúng lúc công tước trèo vào xe và ra về. Cô đi theo anh về đến nhà, một dinh thự có kiến trúc theo kiểu tân cổ điển mà cô vốn không thích. Có lẽ nếu những bức tường làm bằng kính thì cô sẽ không khó chịu nhiều như thế. Khi đó cô có thể nhìn thấy anh đi lại trong nhà, làm bất cứ điều gì khi anh không làm cô điên cuồng yêu anh.

Nhưng cô không nhìn thấy gì. Những gia sư trong công viên đang dần nghi ngờ chiếc xe ngựa. Và chẳng mấy chốc sẽ có cảnh sát đến và hỏi người đánh xe xem anh ta nghĩ gì mà lại la cà bên ngoài nhà của các công tước và bá tước. Cô không thể đứng ở đây mãi.

Một cái nhìn thoáng qua nữa thôi. Cô chỉ muốn nhìn lướt qua một một lần nữa.

Chúa đang lắng nghe. Một cỗ xe ngựa gắn gia huy nhà Lexington đi đến lề đường. Một phút sau, anh bước ra khỏi cửa chính và trèo vào xe.

Cô đã thấy được anh. Nhưng việc đó giống như nhận được một hạt gạo khi cô đã bị bỏ đói cả tuần.

“Đi theo chiếc xe đó,” cô bảo người đánh xe. “Và đừng để mất dấu.”

Một cái nhìn nữa. Chỉ một lần nữa khi anh xuống xe ở điểm đến.

“Thưa cô, cô sẽ có được ngài ấy sớm hơn nếu cô để ngài ấy nhìn thấy cô,” người đánh xe nói.

Cô ước sao tình huống này là như thế. “Nhanh lên.”

Xe ngựa của anh rẽ sang hướng Tây. Cô nghĩ anh đang đi đến câu lạc bộ ở phố St. Jame, nhưng cỗ xe không dừng lại cho đến khi chạy đến đường Cromwell, ngay trước tòa lâu đài tráng lệ của vương quốc các loài vật, Bảo tàng lịch sử tự nhiên Anh quốc.

Nơi trưng bày bộ xương khủng long của cô!

Cô quăng một nắm tiền xu cho người đánh xe, nhảy xuống, và rủa chiếc váy hẹp khiến cô không thể đi thật nhanh.

Anh bước lên bậc thềm cửa trước và đi qua những mái vòm Roman xinh đẹp để vào Bảo tàng. Phần trưng bày chính ở đại sảnh trung tâm là một bộ xương gần như hoàn chỉnh, chỉ thiếu ba đốt sống của một con cá nhà táng dài mười lăm mét. Trước đây cô chưa bao giờ đến thăm Bảo tàng mà không dừng lại để chiêm ngưỡng bộ xương này, nhưng bây giờ cô chỉ dáo dác tìm kiếm anh.

Cô mong anh đi đến chái đông, nơi trưng bày chim và cá. Hoặc bảo anh lên tầng trên. Nhưng không, hiện giờ anh đang lách qua những nhóm khách tham quan đang tụ tập trước bộ xương cá heo và tiến đến chái đông, nơi trưng bày bộ sư tập hóa thạch.

May mắn là phòng triển lãm chào đón những khách tham quan lần đầu tiên bước vào chái đông trưng bày những động vật có vú: Voi răng mấu khổng lồ Mỹ, voi ma mút khai quật ở Essex đang được bảo tồn toàn vẹn, Unitatherium[1], lợn biển miền bắc, những động vật đã bị săn bắn đến tuyệt chủng vào cuối thế kỷ trước. Có lẽ đó là tất cả những gì anh có ý định xem xét trong chiều hôm nay. Hoặc là những hóa thạch vượn người và người đặt trong lồng trưng bày xếp theo hàng dọc theo bức tường phía Nam. Hoặc là những giống chim tuyệt chủng ở cuối gian trưng bày, những giống chim không bay được rất hay được chú ý, cũng như trứng của chim voi, một loại chim được cho rằng có trọng lượng lên đến nửa tấn.

[1] Một loại động vật ăn cỏ có hình dáng giống tê giác.

Nhưng anh chỉ dành cho những sinh vật kỳ diệu được thu thập từ khắp nơi trên thế giới một cái nhìn lướt qua rồi tiến thẳng đến phòng triển lãm chạy song song với phòng trưng bày những động vật có vú, nơi lưu trữ những di tích của loài bò sát.

Cô vẫn chưa mất hy vọng hoàn toàn. Có rất nhiều phòng trưng bày nhánh, nằm vuông góc với phòng trưng bày bò sát, chứa đầy những động vật quý hiếm. Có lẽ... có lẽ....

Có lẽ không. Anh đi chậm lại, dừng trước một bộ xương thằn lằn sọ của vùng Karoo, Nam Phi, và sau đó nghiêng người để đọc tấm bảng nhỏ ghi tên của người phát hiện và quyên tặng.

Trái tim cô đập thình thịch. Tên cô đang nằm trên tấm bảng cách nơi anh đứng chưa đến mười lăm mét. Mặc dù anh không thể nhận ra sự liên hệ đó ngay lập tức, nhưng nếu sau đó anh phát hiện ra rằng cô cũng vượt biển Đại Tây Dương trong cùng khoảng thời gian với anh, thì anh sẽ nhận ra rằng sự trùng hợp này là quá lớn, cho dù anh không sẵn lòng nghĩ rằng nữ nam tước von Seidlitz - Hardenberg và bà Easterbrook cùng là một người.

Anh rời khỏi con thằn lằn sọ. Dọc bức tường phía nam của căn phòng trưng bày là những con thằn lằn biển lớn: Thằn lằn đầu rắn và thằn lằn cá. Tựa vào bức tường phía bắc là những sinh vật đất liền.

Như thể bị lôi kéo bởi một chiếc la bàn, anh sải bước về bức tường phía bắc.

*

* *

Ngay cả Christian cũng không biết tại sao anh lại lăng xăng ở Bảo tàng lịch sử tự nhiên Anh quốc này, thậm chí cũng chẳng phải là đang có một con rồng Swabia được trưng bày, theo như trí nhớ của anh. Lẽ ra anh phải kiểm tra bảo tàng fur Naturkunde ở Berlin hoặc Viện nghiên cứu địa chất cổ đại và khảo cổ học nằm trong đại học Ludwig-Maximillians ở Munich.

Nhưng có điều gì đó lôi kéo anh đến đây. Có lẽ vì cô đã đến Luân Đôn. Và nếu cô đã đến, chẳng lẽ cô không muốn xem bộ sưu tập khủng long lớn nhất nước Anh hay sao?

Hôm nay là một ngày nắng chói chang và phòng trưng bày không đông đúc. Hiện chỉ có nửa tá những chàng trai trẻ trông như sinh viên đại học; một cặp trung niên mập mạp và ăn diện xa hoa; một cô gia sư với hai đứa trẻ mà cô ta cứ phải nhắc nhở chúng giữ im lặng hết lần này đến lần khác mỗi khi giọng chúng trở nên quá phấn khích.

Xuất phát từ một hy vọng hoàn toàn vô lý, anh nhìn về phía cô gia sư nhiều lần. Anh nảy ra ý nghĩ rằng có lẽ nữ nam tước là một người thấp kém nhất trong những người bình dân, và vì thế cô không nghĩ rằng mình xứng đáng có một mối quan hệ với một công tước. Nhưng anh không hề lo lắng về điều đó. Là một công tước với dòng dõi tám trăm năm tuổi có ý nghĩa gì nếu anh không thể kết hôn như mình mong muốn?

Cô gia sư là một phụ nữ khoảng ba mươi có khuôn mặt nghiêm trang, cô ta không thích thú gì với sự chú ý của anh. Cô ta trao cho anh một ánh mắt sắc bén và quả quyết quay sự chú ý về với nhiệm vụ của mình, nói với hai đứa trẻ rằng nếu chúng muốn chiêm ngưỡng mọi thứ trước khi đến giờ về nhà dùng trả, tốt hơn hết chúng nên đi xem những con cá hóa thạch.

Cô ta ngẩng cao đầu đến mức mũi gần như hướng thẳng lên trần nhà. Cô ta đẩy lũ trẻ ra ngoài. Trong lúc cô gia sư làm thế, một phụ nữ khác bước vào phòng trưng bày từ đầu bên kia. Cô ta dừng lại để nhìn ngắm những hóa thạch thằn lằn bay được trưng bày trên tường.

Trái tim anh lộn nhào. Cô ta mặc váy và áo khoác màu xám nhạt đơn giản, không giống như những chiếc váy xếp nếp mềm mại, mơ mộng anh vẫn nhìn thấy ở nữ nam tước. Nhưng nhìn từ đằng sau lưng, chiều cao, dáng vóc và cái kiểu quần áo ôm lấy người cô ta – nếu anh giữ một chiếc váy của nữ nam tước, nó sẽ vừa với cô ta một cách hoàn hảo.

Cô ta quay người lại.

Thế giới ngừng lại. Những năm qua biến mất. Và anh lại là cậu bé mười chín tuổi trên sân chơi cri-kê, nhìn chằm chằm vào cô ta với một mũi tên trong trái tim.

Bà Easterbrook.

Francis Bacon đã từng viết, “Không có vẻ đẹp mỹ miều nào lại không có vài sự lạ lùng trong tỷ lệ.” Người đàn ông đó ắt hẳn nghĩ đến bà Easterbrook. Mũi của cô ta hơi dài. Hình dáng bất thường của mi dưới khiến điểm rộng nhất của mắt cô ta không phải là ở giữa, mà xa hơn về phía đuôi mắt. Và chắc chắn đôi mắt đó trông sẽ hoàn toàn lố bịch nếu chúng được đặt cách xa nhau thêm ly nữa thôi. Nhưng cùng với gò má cao và đôi môi đầy đặn, tất cả những điều đó lại chỉ mang đến một ấn tượng choáng ngợp.

Anh muốn đúc khuôn dáng người của cô ta. Anh muốn cắm một bộ com-pa chính xác và đo lường từng khoảng cách giữa những đường nét của cô ta. Anh muốn những nhà hóa học giỏi nhất thế giới phân tích máu và mồ hôi của cô ta – chắc hẳn bên trong người cô ta phải có thứ gì đó khác biệt có thể nhận thấy khiến anh phản ứng đột ngột với cô ta như thế, như thể anh bị uống phải một thứ thuốc phiện mà khoa học chưa tìm ra tên.

Nhưng hơn tất cả mọi thứ, anh muốn...

Anh giật mình quay lại với lý trí: Anh là người đã ràng buộc mình với người khác. Nữ nam tước rất có thể không đáp lại sự cam kết đó, nhưng anh mong đợi nhiều hơn ở mình khi anh đưa ra lời hứa đó.

“Những con súc vật bẩn thỉu, đúng không?” Bà Easterbrook mê hồn nói, đặt chiếc túi xuống mép của một chiếc lồng trưng bày.

Anh liếc nhìn chiếc lồng bên cạnh mình. Trước đó anh đang đứng gần lồng trưng bày một con rùa biển khổng lồ, nhưng lúc này anh đang đứng trước một con thằn lằn cá voi. Anh hẳn đã đờ đẫn, trôi giạt về phía cô ta.

“Ngẫu nhiên tôi lại nghĩ chúng là những vật mẫu đẹp đẽ, đặc biệt là cái này.”

Cô ta liếc nhìn anh, ánh mắt ve vuốt da anh. “Chà,” cô ta nói, “Béo lùn và xấu xí.”

Cô ta đứng quá gần khiến họ gần như chạm vào nhau, nhưng lời nói đến với anh chỉ văng vẳng, như thể bị giảm đi bởi sương mù và khoảng cách. Và khi anh quay đầu đi để không nhìn thẳng vào cô ta, anh bắt đầu nhận thấy một mùi hương hoa nhài tinh tế nhưng suy đồi.

“Nếu cô không thích những tạo vật của Chúa, thưa cô,” anh nói cộc lốc, “Có lẽ cô không nên tham quan một Bảo tàng lịch sử tự nhiên.”

*

* *

Nói xong, người cô yêu quay gót và bỏ đi.

Trong một phút ngắn ngủi, khi họ tiến đến nhau, không khí đã rung lên với những mong đợi. Thật quen thuộc, cảm giác được rút ngắn khoảng cách giữa họ. Bây giờ, anh sẽ mỉm cười và đưa tay ra cho cô. Họ sẽ đứng bên nhau và ngắm nhìn khám phá tuyệt vời của cô. Và không có gì, không có gì có thể tách rời họ lần nữa.

Sau đó cô chú ý đến biểu hiện của anh: Biểu hiện của một người đàn ông mộng du. Một người đàn ông bị bỏ bùa, ý chí bị khuất phục, năng lực bị tước bỏ.

Anh đã không cường điệu.

Phản ứng như thế ở một người đàn ông thường làm cô hổ thẹn – điều đó khẳng định rằng cô là một kẻ quái dị. Nhưng cô yêu phản ứng đó đến từ anh. Cô muốn anh trố mắt nhìn cô không chớp mắt. Điều đó không thay đổi được sự thật là anh yêu cô vì chính con người cô.

Và có lẽ, chỉ có lẽ mà thôi, cô có thể sử dụng diện mạo như một mồi nhử, để kéo anh lại, và giữ anh trong tầm tay cho đến khi anh nhận ra mình không phải không thích cô. Rằng, thật ra, anh thích cô rất nhiều và thật mãnh liệt.

Nhưng sau đó anh choàng tỉnh, và giật lùi lại. Mắt anh hiện rõ vẻ tự trách móc. Anh nghĩ giây phút ngắn ngủi anh quên mất mình, quên mất nữ nam tước là không thể tha thứ được.

Quá nhiều cho niềm hy vọng rằng anh sẽ cho phép kéo dài sự giao tiếp giữa họ. Cô cảm thấy mình giống như một cánh đồng đã thu hoạch, mùa màng đã đi qua, và phía trước không còn lại gì ngoài một mùa đông dài trơ trọi.

Chầm chậm cô nhấc chiếc túi đã đặt ngay lên trên tấm bảng viết, Hóa thạch thằn lằn cá voi được cô Fitzhugh của dinh thự Hampton, Oxfordshire quyên tặng. Cô đã khai quật bộ xương này ở Lyme Regis, Devon, năm 1883.

Cô nói với anh rằng con khủng long của cô là một con rồng Swabia vì thằn lằn cá voi là một hóa thạch thường chỉ tìm thấy ở Anh và cô không muốn tiết lộ xuất xứ người Anh của mình. Cô nhìn vào cái đầu to, đôi chân dày và bộ xương chắc chắn của nó, luôn luôn là biểu tượng của niềm phấn khích được khai phá và những triển vọng bất tận của tuổi trẻ.

“Thưa cô,” một anh chàng, khoảng hơn hai mươi tuổi xuất hiện bên cạnh cô, ai đó cô chưa hề gặp trước đây.

“Thưa cô, bạn tôi và tôi, chúng tôi chèo thuyền đến Oxford. Và chúng tôi tự hỏi... Chúng tôi tự hỏi cô có kế hoạch tham gia cuộc đua thuyền Henley không?”

Bà Easterbrook xinh đẹp lại gây chú ý lần nữa, hiển nhiên là thế.

“Tôi chúc ngài gặp nhiều may mắn nhất, thưa ngài,” cô nói, “Nhưng e rằng tôi sẽ không ở đó.”

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương