Quan Trừng
-
Chương 13
Trong căn phòng sát vách, đã quá lâu A Âm không hút âm khí và oán khí, hôm nay lại phải chạy gấp giữa trưa, bây giờ ngay cả sức hóa thành khói về Âm Ti nàng cũng không có.
Quỷ muốn sinh sống lâu dài ở nhân gian không phải chuyện đơn giản.
Đây là niềm mơ ước hão huyền lớn nhất thế gian mới đúng.
Nàng cũng không thể truyền âm, chỉ có thể gửi gắm hy vọng vào quỷ đồng loại linh lực thâm hậu đi ngang qua, nghe thấy tiếng cầu cứu bằng ngôn ngữ quỷ của nàng, dìu nàng đi một quãng đường. Nếu không thì chỉ đành chờ sau khi chết, Tạ Tất An và Phạm Vô Cứu đi tìm quỷ đưa nàng đến Âm Ti, ném nàng ở Vọng Hương Đài chờ uống canh Mạnh Bà là được.
Ban ngày Quỷ Sứ trốn trong một ngôi mộ dưới lòng đất ở ngoại ô phía Bắc thành ăn trộm, có con quỷ nát bét trong mộ nói: Thành Trường An âm u mấy ngày cuối cùng cũng quang đãng, Quỷ sai A Âm truy đuổi Ngũ Thông ngoài phố, hao tổn rất nhiều linh lực.
Hắn khinh thường A Âm chủ động nhận nhiệm vụ bắt ác quỷ vì tiểu hòa thượng. Quỷ sai đều làm việc theo danh sách phân công, họ cũng chỉ bắt linh hồn của người phàm đã hết tuổi thọ. Ác quỷ và lệ quỷ chạy trốn là trách nhiệm của ngục tốt Địa Ngục, bọn họ canh giữ lũ quỷ này lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, nàng ta đi góp vui làm gì? Hắc Bạch Vô Thường còn có pháp khí mang theo, hai tay nàng ta trống trơn, nhất định là không dễ dàng.
Hắn cứ nghĩ A Âm không chịu được sẽ chủ động đi tìm hắn nhưng không ngờ đến nửa đêm vẫn không thấy gì. Bên trong phủ họ Trần xem như xa hoa, xà nhà nằm khá êm, lúc Quỷ Sứ nằm trên xà nhà trong khuê phòng của Trần Hoài Nhu đã nghĩ thế.
Mãi đến khi nghe thấy A Âm dựa vào sức người nói tiếng quỷ, lẩm bẩm cầu cứu, hắn treo ngược người, đung đưa trước cửa sổ, ấy thế mà người ở trong không có phản ứng gì, đúng là kỳ lạ đến cực điểm.
Hắn vội vàng đá văng cửa sổ chui vào, nhìn thấy A Âm nằm trên đất, vải trùm đầu đã rơi ra, cả người mẩn đỏ giống như thiếu nữ dân gian, làn da không có chỗ nào lành lặn, bởi vì đau đớn nàng đã cào cấu chính mình, trên đôi gò má còn có vết móng tay.
Quỷ Sứ hoảng sợ: “Ngươi cũng quá thảm rồi.”
A Âm nhìn thấy hắn thì cảm động như gặp được thần linh, “Ta sắp không xong rồi…”
“Ngươi đúng là rất yếu, mấy hôm nay ta đã bảo ngươi đừng ôm đồm chuyện này, mới đây có rất nhiều ngục tốt ở Địa Ngục bị thương, nói gì đến một Quỷ sai như ngươi. Còn nữa, Vương Tiểu Lang ở thành Trường An trêu chọc tiểu hòa thượng à? Bây giờ Tạ Tất An vô cùng tức giận, ngươi sửa lại danh sách quỷ hắn bắt, hắn đã nói sẽ không tha cho ngươi.”
Quỷ Sức đặt đủ loại thuốc bổ lên bàn, vẻ mặt trào phúng, “Thuốc bổ của nhân gian, ngươi ăn có tác dụng không? Ta đã nói…”
Nàng không lừa Trúc Hàn, người buôn bán bỏ mình kỳ lạ kia thực sự không phải do nàng giết, chỉ là lúc đi lấy pháp khí của Chung Quỳ, thấy Hắc Bạch Vô Thường ngủ gà ngủ gật nên nàng đã sửa lại tên, chỉ là chuyện nhỏ mà thôi. Ai bảo kẻ kia mồm miệng bẩn thỉu.
Lần nào hai người họ gặp nhau cũng trách mắng lẫn nhau, hắn để mặc A Âm ngã xuống đất, định mắng mỏ một trận nhưng bây giờ A Âm đang rất khó chịu, chỉ mong hắn mau đưa nàng đến bất kỳ nơi nào có âm khí, cánh rừng dưới chân chùa Bàn Nhược là tốt nhất, có quan tài nàng nằm đã năm trăm năm.
Nàng túm móng vuốt màu xanh của hắn, run rẩy nói, “Im lặng, ta rất khó chịu…”
Quỷ Sứ thở dài, “Ta kéo ngươi về rừng.”
A Âm lắc đầu, “Người ta đã hơi cứng lại, ta sợ không đợi được đến lúc đó.”
Nửa đêm canh ba, tiểu hòa thượng bước nhẹ chân, lén lút đuổi theo quỷ lùn da xanh.
Quỷ Sứ biết có người đi theo mình, từ trước đến giờ chỉ có quỷ lén ở chung với người, người muốn ở chung với quỷ mà không bị phát giác là chuyện không thể nào. Hắn đến bếp sau của phủ họ Trần, trong chuồng có nuôi gà sống, bởi vì tiểu sư phụ Trúc Hàn đến mà nó được sống lâu hơn mấy ngày. Hắn không cần lấy dao, cứ thế lao thẳng vào chuồng gà. Dáng người hắn nhỏ nhắn, chẳng lớn hơn gà bao nhiêu, hắn ra tay cực kỳ hung ác, tay trái bóp cổ gà, tự nhủ: “Là một con gà mái, rất tốt.”
Một cái tay khác chọc vào hốc mắt, vèo một cái, trong không gian yên tĩnh vang lên tiếng máu thịt tách rời, mắt gà bị móc ra. Con gà mái kia kêu lên một tiếng, liều mạng giãy giụa nhưng vô dụng. Trúc Hàn đứng cạnh bờ tường nhìn thấy cảnh này thì thảng thốt, nhịp tim đập loạn, bàn tay cũng run run.
Quỷ Sứ đặt hai con ngươi vào trong đĩa, gà đã sắp chết, buông cổ nó ra nó cũng không vùng vẫy nữa. Hắn tiện thể moi tim, xé cánh, bàn tay với những móng tay bén nhọn luồn sâu vào trong…
Trúc Hàn đứng sững người, lưng đổ đầy mồ hôi, Quỷ Sứ không ăn vậy người ăn tất nhiên là A Âm. Thấy Quỷ Sứ bưng cái đĩa đi xa, chàng vội vàng chạy về phòng của mình, dựa vào cửa thở dồn dập, sững sờ hồi lâu vẫn cảm thấy khó tin.
Quỷ Sứ cười trộm, tiểu hòa thượng quả nhiên là người ngây thơ trong sáng.
A Âm ăn mắt và quả tim sống đẫm máu xong, miệng và giữa ngón tay đều là máu tanh nồng, nàng ngồi im một lúc rồi lặng lẽ hóa thành làn khói dán vào lưng Quỷ Sứ. Quỷ Sứ đẩy cửa ra, bay vụt lên xà nhà, biến mất không còn bóng dáng.
Trúc Hàn nghe thấy tiếng “kẽo kẹt” thì mở cửa đi theo nhưng chỉ nhìn thấy bóng lưng của Quỷ Sứ và khói bụi quẩn quanh .
Chàng biết, đó là A Âm.
Nhịp tim vẫn dồn dập như cũ nhưng Trúc Hàn thoáng thấy yên lòng, chàng thật sự không hiểu là vì sao.
Bước vào gian phòng dành cho khách nơi A Âm ở, giường chiếu sạch sẽ, không có dấu vết người từng nằm, trên bàn đặt một đống thuốc bổ lộn xộn, trên mặt đất có một cái đĩa và một bãi máu gà. Chàng lặng lẽ đặt thuốc bổ về chỗ cũ, rồi lau sạch đĩa và máu trên mặt đất, sau đó nhẹ nhàng khép cửa sổ lại.
Không ai biết đêm qua đã xảy ra chuyện gì, chỉ nghĩ là Thiên sĩ bắt quỷ không từ mà biệt lúc đêm khuya. Tiểu hòa thượng tụng kinh suốt đêm, chàng cả đêm không ngủ vì thấy khó hiểu trước hành động và sự lo lắng hoang mang trong lòng mình.
Trong rừng, Quỷ Sứ ném A Âm vào quan tài, xung quanh có âm khí và oán khí rất nồng, nàng hút được không ít.
Quỷ da xanh vịn vào quan tài trêu chọc: “Tiểu hòa thượng của ngươi nhìn thấy ta đưa ngươi đi.”
Nàng hóa thành người, nằm ngửa bảo: “May khi nãy ta là khói.”
Trong mắt nàng tràn ngập cảm giác may mắn và cả chút đau thương khó nói thành lời, A Âm kéo ống tay áo lau vệt máu bên môi. Quỷ Sứ thấy dáng vẻ này của nàng thì sao lại không hiểu, hắn kìm lại câu nói “Nhưng hắn tận mắt nhìn thấy ta moi tim moi mắt gà cho ngươi”.
Hắn ngập ngừng một lúc lâu cuối cùng hỏi một câu vô vị: “Lát nữa ta sẽ đưa chùy truy hồn về Địa Phủ, pháp khí của Chung phán quan quá hung ác. Rõ ràng Ngũ Thông kia không còn sót lại chút cặn nào, sao ngươi lại đưa tịnh bình cho hắn siêu độ?”
Nàng cười cô đơn, vừa nhắc đến người ấy, tức thì gương mặt như được lây nhiễm linh khí và tình cảm, “Chàng tin Phật Tổ thì ta sẽ để chàng tin. Giúp chàng yên lòng, ta cũng thấy yên tâm.”
Không ngờ A Âm suy nghĩ thông thấu như vậy, muốn giữ gìn tín ngưỡng và trái tim trong sáng lương thiện của tiểu hòa thượng, nhưng nàng không biết “cách làm ngược đời” nhìn có vẻ tốt này lại phản tác dụng.
Quỷ Sứ mỉa mai, “Ồ, quỷ Âm Ma La khiến cả Âm Ti sợ hãi biến thành thiện nam tín nữ.”
Trúc Hàn ở lại phủ họ Trần nửa tháng, đàm luận Phật pháp với bà nội Trần và giảng kinh văn cho Trần Hoài Nhu nghe. Ngày ngày cứ thế trôi qua nhưng vẫn không thấy bóng dáng nữ tử mặc áo xám cười duyên xuất hiện. Đợi đến hôm chuẩn bị từ biệt, trong lòng chàng có một giọng nói khẳng định rằng nàng sẽ không quay lại.
Lúc đến gọn gàng, lúc quay về cũng chỉ có thêm một cái tịnh bình mà A Âm để lại. Trước khi đi, Trần Hoài Bồ tự mình đưa tiễn còn nhắc đến A Âm.
“A Âm cô nương đúng là tốt bụng, tiếc là lại âm thầm ra đi. Ta nghe Hoài Nhu nói, trên mặt nàng ấy nổi ban đỏ, cũng không biết bây giờ thế nào rồi.”
Chàng thờ ơ đáp lời, “Trần thống lĩnh quan tâm, tiểu tăng cũng rất lo lắng nhưng ta cũng không biết A Âm thí chủ đang ở đâu.”
“Nàng ấy không chỉ có vẻ ngoài xinh đẹp quyến rũ mà lại có sự gan dạ không thua kém đàn ông, phong thái giục ngựa hiên ngang khiến người ta khó mà quên được…”
Tiểu hòa thượng nhíu mày hỏi: “Ý của thí chủ là?”
Tính tình Trần Hoài Bồ cởi mở, nghe vậy thì bật cười: “Khen ngợi mà thôi. Với thân phận của ta, không thể tự làm chủ hôn sự được, tất nhiên sẽ làm nàng lỡ dở.”
“Trần thống lĩnh tự mình biết mình, đúng là bậc đại trí tuệ.”
Chàng giẫm lên ghế đẩu lên xe ngựa, “Tạm biệt.”
Để lại Trần Hoài Bồ vẫn đứng nguyên tại chỗ suy ngẫm về câu nói cuối cùng kia, hắn luôn cảm thấy có chỗ nào đó quái dị nhưng lại không nói rõ được.
Cây phong đỏ trong chùa Bàn Nhược rụng lá, lá cây không héo úa và rơi lả tả như ở phủ họ Trần mà khắp nơi dày đặc màu hồng chanh đẹp đẽ.
Trúc Hàn quay về chùa, nhìn thấy cảnh đẹp nhưng không có lòng thưởng thức. Đầu tiên chàng đến chính điện gặp trụ trì, sau đó về phòng nghỉ ngơi. Tất cả đều đã xong nhưng đứng trong phòng, không hiểu sao chàng lại thở dài, đồng thời cảm thấy hơi trống trải.
Không nói lời từ biệt đã đi, mấy chữ “gặp lại sau bao ngày xa cách” tràn ngập xa xôi và mong đợi xa xỉ.
Nàng đúng là rất xấu, không để lại chữ nào đã đi, dù bây giờ đã an toàn hay chưa cũng không cho chàng hay, đúng là lạnh lùng dứt khoát. Phải chăng nàng đã quên, còn có chuyện nàng hỏi nhưng chàng chưa trả lời, chẳng lẽ nàng không muốn biết nữa sao?
Dù là vấn đề nào thì tiểu hòa thượng cũng lén ghi nhớ hết. Là câu hỏi mà nàng từng bảo rất muốn biết đáp án, chính chàng cũng tò mò “vui hay không vui”, chàng vẫn chưa đáp lại. Tạm thời chàng vẫn chưa ngộ ra đáp án, mà dù ngộ ra thì cũng không có ai đến nhận “lời giải” này. Chàng thậm chí không biết phải đi đâu tìm nàng.
Sư phụ thường xuyên hỏi thăm việc học, chẳng hạn như gần đây đang lĩnh ngộ điều gì. Trúc Hàn nhíu mày, nghiêm túc đáp: “Như thế nào là vui vẻ.”
Pháp sư Thành Thiện sững sỡ trước câu trả lời của chàng, ông bỗng cảm thấy đầy hứng thú, “Vì sao con có thắc mắc này?”
“Sư phụ chỉ nói đại ái là tấm lòng bác ái của Phật Tổ, ngài yêu tăng lữ, yêu người đời, vậy nên Phật Tổ độ hóa tăng lữ, tăng lữ độ hóa người đời. Nhưng tình yêu giữa người và người, thì tính là gì?”
Hòa thượng già đáp rất nhanh: “Là tiểu ái.”
“Quan Trừng không biết đến tiểu ái thì sao hiểu được thế nào là đại ái?”
May là bây giờ không có ai ở đây, vẻ mặt Thành Thiện không vui, “Con xuống núi một chuyến đã động tình?”
Tiểu hòa thượng đỏ mặt: “Xin người chỉ rõ giúp con.”
“Tiểu ái đều là hư ảo mê man, có được tình yêu vĩ đại của Phật Tổ chỉ định là bậc đại trí tuệ.”
Trúc Hàn chắp tay trước ngực, vẫn ngước nhìn tượng Phật ở giữa đại điện thủ thế Kim Cang Quyền, cầm Trí Quyền Ấn với vẻ thành kính như cũ, sau khi pháp sư Thành Thiện rời đi, chàng quỳ gối, nhìn Phật hỏi: “Quan Trừng không độ được ác quỷ Ngũ Thông, Địa Tạng Vương Bồ Tát không độ được lệ quỷ. Tiểu tăng còn không hiểu tiểu ái, làm sao gánh nổi trách nhiệm to lớn như yêu người đời, càng không nói đến chuyện độ hóa.”
Tiểu hòa thượng nghi ngờ rất lâu, cuối cùng vẫn mở tịnh bình ra, xác nhận bên trong không có gì, chàng lại bình tĩnh vui mừng.
Lần này Phật Tổ không xuất hiện, không trách móc nặng nề cũng không vặn hỏi chàng. Trong lòng Trúc Hàn thầm lo lắng, chẳng lẽ gần đây chàng không dốc lòng lễ Phật nên Phật Tổ không để ý đến chàng nữa. Nghĩ đến đây không hiểu sao chàng bỗng thấy suy sụp.
A Âm phớt lờ chàng, Phật Tổ cũng lờ chàng đi, lòng tiểu hòa thượng tràn ngập nỗi băn khoăn phức tạp, vì muốn tìm ra đáp án vui hay không vui mà tim loạn cào cào.
Cầm chổi ra ngoài sân quét lá phong rụng đầy đất, chàng cảm thấy so với hôm mới về chùa Bàn Nhược, lá phong rụng trên mặt đất càng dày hơn.
Ý thu nồng đượm, đêm thu thăm thẳm, ánh trăng não nề làm lạnh áo tăng nhân.
Lòng chàng thầm cảm thán: Mùa thu năm nay dài quá đỗi.
Đêm đến, nằm trong chăn bông mới thay, vẫn là tư thế ngay ngắn, chàng hiếm khi nhớ đến cô nương xấu xa kia. Hình như có gió lạnh ùa vào chăn rồi hóa thành mỹ nhân lạnh lẽo thướt tha, giữ cái đầu trọc của chàng, bảo chàng là bảo bối của mình…
Tiểu hòa thượng thay đổi tư thế quen thuộc, chuyển sang nằm nghiêng cuộn mình, chăn mền xoay loạn, trong lòng bỗng nhức nhối từng cơn khó hiểu.
Nhẫn nhịn một lúc lâu, cuối cùng chàng nghẹn ngào như con thú nhỏ, khẽ nói: “Vui vẻ.”
Giọng nói ấy như nhiễm phần lạnh lẽo của đêm thu vắng lặng, “Nàng đi đâu mà chẳng báo cho ta biết, bây giờ nàng có khỏe không…”
Chàng giống như một món đồ bị vứt bỏ, quỷ Âm Ma La ném chàng đi, Phật Tổ cũng bỏ đi. Trái tim không có chỗ dựa chợt nhói lên từng cơn, mùa thu này vừa dài vừa lạnh, tiểu hòa thượng khó chịu vô cùng.
Kinh Hoa Nghiêm có giảng: “Ứng thức nhất thiết tâm thức như huyễn, ứng tri thế gian chư hành như mộng.”*
Hai câu này mang ý nghĩa hãy tự nhắc nhở bản thân đang sống trong thế giới như mơ, như thế thì sẽ giảm bớt một số chấp niệm của bản thân với thế giới này.
(Mình định tìm bản dịch Tiếng Việt của hai câu này nhưng mà quyển Kinh Hoa Nghiêm dài quá, đọc hoài không thấy nó nằm ở đâu nên mình lên tra baidu và thấy cách giải nghĩa này và edit túm nghĩa lại, sai sót ở đâu mọi người bỏ quá nhé ^^)
Quỷ muốn sinh sống lâu dài ở nhân gian không phải chuyện đơn giản.
Đây là niềm mơ ước hão huyền lớn nhất thế gian mới đúng.
Nàng cũng không thể truyền âm, chỉ có thể gửi gắm hy vọng vào quỷ đồng loại linh lực thâm hậu đi ngang qua, nghe thấy tiếng cầu cứu bằng ngôn ngữ quỷ của nàng, dìu nàng đi một quãng đường. Nếu không thì chỉ đành chờ sau khi chết, Tạ Tất An và Phạm Vô Cứu đi tìm quỷ đưa nàng đến Âm Ti, ném nàng ở Vọng Hương Đài chờ uống canh Mạnh Bà là được.
Ban ngày Quỷ Sứ trốn trong một ngôi mộ dưới lòng đất ở ngoại ô phía Bắc thành ăn trộm, có con quỷ nát bét trong mộ nói: Thành Trường An âm u mấy ngày cuối cùng cũng quang đãng, Quỷ sai A Âm truy đuổi Ngũ Thông ngoài phố, hao tổn rất nhiều linh lực.
Hắn khinh thường A Âm chủ động nhận nhiệm vụ bắt ác quỷ vì tiểu hòa thượng. Quỷ sai đều làm việc theo danh sách phân công, họ cũng chỉ bắt linh hồn của người phàm đã hết tuổi thọ. Ác quỷ và lệ quỷ chạy trốn là trách nhiệm của ngục tốt Địa Ngục, bọn họ canh giữ lũ quỷ này lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, nàng ta đi góp vui làm gì? Hắc Bạch Vô Thường còn có pháp khí mang theo, hai tay nàng ta trống trơn, nhất định là không dễ dàng.
Hắn cứ nghĩ A Âm không chịu được sẽ chủ động đi tìm hắn nhưng không ngờ đến nửa đêm vẫn không thấy gì. Bên trong phủ họ Trần xem như xa hoa, xà nhà nằm khá êm, lúc Quỷ Sứ nằm trên xà nhà trong khuê phòng của Trần Hoài Nhu đã nghĩ thế.
Mãi đến khi nghe thấy A Âm dựa vào sức người nói tiếng quỷ, lẩm bẩm cầu cứu, hắn treo ngược người, đung đưa trước cửa sổ, ấy thế mà người ở trong không có phản ứng gì, đúng là kỳ lạ đến cực điểm.
Hắn vội vàng đá văng cửa sổ chui vào, nhìn thấy A Âm nằm trên đất, vải trùm đầu đã rơi ra, cả người mẩn đỏ giống như thiếu nữ dân gian, làn da không có chỗ nào lành lặn, bởi vì đau đớn nàng đã cào cấu chính mình, trên đôi gò má còn có vết móng tay.
Quỷ Sứ hoảng sợ: “Ngươi cũng quá thảm rồi.”
A Âm nhìn thấy hắn thì cảm động như gặp được thần linh, “Ta sắp không xong rồi…”
“Ngươi đúng là rất yếu, mấy hôm nay ta đã bảo ngươi đừng ôm đồm chuyện này, mới đây có rất nhiều ngục tốt ở Địa Ngục bị thương, nói gì đến một Quỷ sai như ngươi. Còn nữa, Vương Tiểu Lang ở thành Trường An trêu chọc tiểu hòa thượng à? Bây giờ Tạ Tất An vô cùng tức giận, ngươi sửa lại danh sách quỷ hắn bắt, hắn đã nói sẽ không tha cho ngươi.”
Quỷ Sức đặt đủ loại thuốc bổ lên bàn, vẻ mặt trào phúng, “Thuốc bổ của nhân gian, ngươi ăn có tác dụng không? Ta đã nói…”
Nàng không lừa Trúc Hàn, người buôn bán bỏ mình kỳ lạ kia thực sự không phải do nàng giết, chỉ là lúc đi lấy pháp khí của Chung Quỳ, thấy Hắc Bạch Vô Thường ngủ gà ngủ gật nên nàng đã sửa lại tên, chỉ là chuyện nhỏ mà thôi. Ai bảo kẻ kia mồm miệng bẩn thỉu.
Lần nào hai người họ gặp nhau cũng trách mắng lẫn nhau, hắn để mặc A Âm ngã xuống đất, định mắng mỏ một trận nhưng bây giờ A Âm đang rất khó chịu, chỉ mong hắn mau đưa nàng đến bất kỳ nơi nào có âm khí, cánh rừng dưới chân chùa Bàn Nhược là tốt nhất, có quan tài nàng nằm đã năm trăm năm.
Nàng túm móng vuốt màu xanh của hắn, run rẩy nói, “Im lặng, ta rất khó chịu…”
Quỷ Sứ thở dài, “Ta kéo ngươi về rừng.”
A Âm lắc đầu, “Người ta đã hơi cứng lại, ta sợ không đợi được đến lúc đó.”
Nửa đêm canh ba, tiểu hòa thượng bước nhẹ chân, lén lút đuổi theo quỷ lùn da xanh.
Quỷ Sứ biết có người đi theo mình, từ trước đến giờ chỉ có quỷ lén ở chung với người, người muốn ở chung với quỷ mà không bị phát giác là chuyện không thể nào. Hắn đến bếp sau của phủ họ Trần, trong chuồng có nuôi gà sống, bởi vì tiểu sư phụ Trúc Hàn đến mà nó được sống lâu hơn mấy ngày. Hắn không cần lấy dao, cứ thế lao thẳng vào chuồng gà. Dáng người hắn nhỏ nhắn, chẳng lớn hơn gà bao nhiêu, hắn ra tay cực kỳ hung ác, tay trái bóp cổ gà, tự nhủ: “Là một con gà mái, rất tốt.”
Một cái tay khác chọc vào hốc mắt, vèo một cái, trong không gian yên tĩnh vang lên tiếng máu thịt tách rời, mắt gà bị móc ra. Con gà mái kia kêu lên một tiếng, liều mạng giãy giụa nhưng vô dụng. Trúc Hàn đứng cạnh bờ tường nhìn thấy cảnh này thì thảng thốt, nhịp tim đập loạn, bàn tay cũng run run.
Quỷ Sứ đặt hai con ngươi vào trong đĩa, gà đã sắp chết, buông cổ nó ra nó cũng không vùng vẫy nữa. Hắn tiện thể moi tim, xé cánh, bàn tay với những móng tay bén nhọn luồn sâu vào trong…
Trúc Hàn đứng sững người, lưng đổ đầy mồ hôi, Quỷ Sứ không ăn vậy người ăn tất nhiên là A Âm. Thấy Quỷ Sứ bưng cái đĩa đi xa, chàng vội vàng chạy về phòng của mình, dựa vào cửa thở dồn dập, sững sờ hồi lâu vẫn cảm thấy khó tin.
Quỷ Sứ cười trộm, tiểu hòa thượng quả nhiên là người ngây thơ trong sáng.
A Âm ăn mắt và quả tim sống đẫm máu xong, miệng và giữa ngón tay đều là máu tanh nồng, nàng ngồi im một lúc rồi lặng lẽ hóa thành làn khói dán vào lưng Quỷ Sứ. Quỷ Sứ đẩy cửa ra, bay vụt lên xà nhà, biến mất không còn bóng dáng.
Trúc Hàn nghe thấy tiếng “kẽo kẹt” thì mở cửa đi theo nhưng chỉ nhìn thấy bóng lưng của Quỷ Sứ và khói bụi quẩn quanh .
Chàng biết, đó là A Âm.
Nhịp tim vẫn dồn dập như cũ nhưng Trúc Hàn thoáng thấy yên lòng, chàng thật sự không hiểu là vì sao.
Bước vào gian phòng dành cho khách nơi A Âm ở, giường chiếu sạch sẽ, không có dấu vết người từng nằm, trên bàn đặt một đống thuốc bổ lộn xộn, trên mặt đất có một cái đĩa và một bãi máu gà. Chàng lặng lẽ đặt thuốc bổ về chỗ cũ, rồi lau sạch đĩa và máu trên mặt đất, sau đó nhẹ nhàng khép cửa sổ lại.
Không ai biết đêm qua đã xảy ra chuyện gì, chỉ nghĩ là Thiên sĩ bắt quỷ không từ mà biệt lúc đêm khuya. Tiểu hòa thượng tụng kinh suốt đêm, chàng cả đêm không ngủ vì thấy khó hiểu trước hành động và sự lo lắng hoang mang trong lòng mình.
Trong rừng, Quỷ Sứ ném A Âm vào quan tài, xung quanh có âm khí và oán khí rất nồng, nàng hút được không ít.
Quỷ da xanh vịn vào quan tài trêu chọc: “Tiểu hòa thượng của ngươi nhìn thấy ta đưa ngươi đi.”
Nàng hóa thành người, nằm ngửa bảo: “May khi nãy ta là khói.”
Trong mắt nàng tràn ngập cảm giác may mắn và cả chút đau thương khó nói thành lời, A Âm kéo ống tay áo lau vệt máu bên môi. Quỷ Sứ thấy dáng vẻ này của nàng thì sao lại không hiểu, hắn kìm lại câu nói “Nhưng hắn tận mắt nhìn thấy ta moi tim moi mắt gà cho ngươi”.
Hắn ngập ngừng một lúc lâu cuối cùng hỏi một câu vô vị: “Lát nữa ta sẽ đưa chùy truy hồn về Địa Phủ, pháp khí của Chung phán quan quá hung ác. Rõ ràng Ngũ Thông kia không còn sót lại chút cặn nào, sao ngươi lại đưa tịnh bình cho hắn siêu độ?”
Nàng cười cô đơn, vừa nhắc đến người ấy, tức thì gương mặt như được lây nhiễm linh khí và tình cảm, “Chàng tin Phật Tổ thì ta sẽ để chàng tin. Giúp chàng yên lòng, ta cũng thấy yên tâm.”
Không ngờ A Âm suy nghĩ thông thấu như vậy, muốn giữ gìn tín ngưỡng và trái tim trong sáng lương thiện của tiểu hòa thượng, nhưng nàng không biết “cách làm ngược đời” nhìn có vẻ tốt này lại phản tác dụng.
Quỷ Sứ mỉa mai, “Ồ, quỷ Âm Ma La khiến cả Âm Ti sợ hãi biến thành thiện nam tín nữ.”
Trúc Hàn ở lại phủ họ Trần nửa tháng, đàm luận Phật pháp với bà nội Trần và giảng kinh văn cho Trần Hoài Nhu nghe. Ngày ngày cứ thế trôi qua nhưng vẫn không thấy bóng dáng nữ tử mặc áo xám cười duyên xuất hiện. Đợi đến hôm chuẩn bị từ biệt, trong lòng chàng có một giọng nói khẳng định rằng nàng sẽ không quay lại.
Lúc đến gọn gàng, lúc quay về cũng chỉ có thêm một cái tịnh bình mà A Âm để lại. Trước khi đi, Trần Hoài Bồ tự mình đưa tiễn còn nhắc đến A Âm.
“A Âm cô nương đúng là tốt bụng, tiếc là lại âm thầm ra đi. Ta nghe Hoài Nhu nói, trên mặt nàng ấy nổi ban đỏ, cũng không biết bây giờ thế nào rồi.”
Chàng thờ ơ đáp lời, “Trần thống lĩnh quan tâm, tiểu tăng cũng rất lo lắng nhưng ta cũng không biết A Âm thí chủ đang ở đâu.”
“Nàng ấy không chỉ có vẻ ngoài xinh đẹp quyến rũ mà lại có sự gan dạ không thua kém đàn ông, phong thái giục ngựa hiên ngang khiến người ta khó mà quên được…”
Tiểu hòa thượng nhíu mày hỏi: “Ý của thí chủ là?”
Tính tình Trần Hoài Bồ cởi mở, nghe vậy thì bật cười: “Khen ngợi mà thôi. Với thân phận của ta, không thể tự làm chủ hôn sự được, tất nhiên sẽ làm nàng lỡ dở.”
“Trần thống lĩnh tự mình biết mình, đúng là bậc đại trí tuệ.”
Chàng giẫm lên ghế đẩu lên xe ngựa, “Tạm biệt.”
Để lại Trần Hoài Bồ vẫn đứng nguyên tại chỗ suy ngẫm về câu nói cuối cùng kia, hắn luôn cảm thấy có chỗ nào đó quái dị nhưng lại không nói rõ được.
Cây phong đỏ trong chùa Bàn Nhược rụng lá, lá cây không héo úa và rơi lả tả như ở phủ họ Trần mà khắp nơi dày đặc màu hồng chanh đẹp đẽ.
Trúc Hàn quay về chùa, nhìn thấy cảnh đẹp nhưng không có lòng thưởng thức. Đầu tiên chàng đến chính điện gặp trụ trì, sau đó về phòng nghỉ ngơi. Tất cả đều đã xong nhưng đứng trong phòng, không hiểu sao chàng lại thở dài, đồng thời cảm thấy hơi trống trải.
Không nói lời từ biệt đã đi, mấy chữ “gặp lại sau bao ngày xa cách” tràn ngập xa xôi và mong đợi xa xỉ.
Nàng đúng là rất xấu, không để lại chữ nào đã đi, dù bây giờ đã an toàn hay chưa cũng không cho chàng hay, đúng là lạnh lùng dứt khoát. Phải chăng nàng đã quên, còn có chuyện nàng hỏi nhưng chàng chưa trả lời, chẳng lẽ nàng không muốn biết nữa sao?
Dù là vấn đề nào thì tiểu hòa thượng cũng lén ghi nhớ hết. Là câu hỏi mà nàng từng bảo rất muốn biết đáp án, chính chàng cũng tò mò “vui hay không vui”, chàng vẫn chưa đáp lại. Tạm thời chàng vẫn chưa ngộ ra đáp án, mà dù ngộ ra thì cũng không có ai đến nhận “lời giải” này. Chàng thậm chí không biết phải đi đâu tìm nàng.
Sư phụ thường xuyên hỏi thăm việc học, chẳng hạn như gần đây đang lĩnh ngộ điều gì. Trúc Hàn nhíu mày, nghiêm túc đáp: “Như thế nào là vui vẻ.”
Pháp sư Thành Thiện sững sỡ trước câu trả lời của chàng, ông bỗng cảm thấy đầy hứng thú, “Vì sao con có thắc mắc này?”
“Sư phụ chỉ nói đại ái là tấm lòng bác ái của Phật Tổ, ngài yêu tăng lữ, yêu người đời, vậy nên Phật Tổ độ hóa tăng lữ, tăng lữ độ hóa người đời. Nhưng tình yêu giữa người và người, thì tính là gì?”
Hòa thượng già đáp rất nhanh: “Là tiểu ái.”
“Quan Trừng không biết đến tiểu ái thì sao hiểu được thế nào là đại ái?”
May là bây giờ không có ai ở đây, vẻ mặt Thành Thiện không vui, “Con xuống núi một chuyến đã động tình?”
Tiểu hòa thượng đỏ mặt: “Xin người chỉ rõ giúp con.”
“Tiểu ái đều là hư ảo mê man, có được tình yêu vĩ đại của Phật Tổ chỉ định là bậc đại trí tuệ.”
Trúc Hàn chắp tay trước ngực, vẫn ngước nhìn tượng Phật ở giữa đại điện thủ thế Kim Cang Quyền, cầm Trí Quyền Ấn với vẻ thành kính như cũ, sau khi pháp sư Thành Thiện rời đi, chàng quỳ gối, nhìn Phật hỏi: “Quan Trừng không độ được ác quỷ Ngũ Thông, Địa Tạng Vương Bồ Tát không độ được lệ quỷ. Tiểu tăng còn không hiểu tiểu ái, làm sao gánh nổi trách nhiệm to lớn như yêu người đời, càng không nói đến chuyện độ hóa.”
Tiểu hòa thượng nghi ngờ rất lâu, cuối cùng vẫn mở tịnh bình ra, xác nhận bên trong không có gì, chàng lại bình tĩnh vui mừng.
Lần này Phật Tổ không xuất hiện, không trách móc nặng nề cũng không vặn hỏi chàng. Trong lòng Trúc Hàn thầm lo lắng, chẳng lẽ gần đây chàng không dốc lòng lễ Phật nên Phật Tổ không để ý đến chàng nữa. Nghĩ đến đây không hiểu sao chàng bỗng thấy suy sụp.
A Âm phớt lờ chàng, Phật Tổ cũng lờ chàng đi, lòng tiểu hòa thượng tràn ngập nỗi băn khoăn phức tạp, vì muốn tìm ra đáp án vui hay không vui mà tim loạn cào cào.
Cầm chổi ra ngoài sân quét lá phong rụng đầy đất, chàng cảm thấy so với hôm mới về chùa Bàn Nhược, lá phong rụng trên mặt đất càng dày hơn.
Ý thu nồng đượm, đêm thu thăm thẳm, ánh trăng não nề làm lạnh áo tăng nhân.
Lòng chàng thầm cảm thán: Mùa thu năm nay dài quá đỗi.
Đêm đến, nằm trong chăn bông mới thay, vẫn là tư thế ngay ngắn, chàng hiếm khi nhớ đến cô nương xấu xa kia. Hình như có gió lạnh ùa vào chăn rồi hóa thành mỹ nhân lạnh lẽo thướt tha, giữ cái đầu trọc của chàng, bảo chàng là bảo bối của mình…
Tiểu hòa thượng thay đổi tư thế quen thuộc, chuyển sang nằm nghiêng cuộn mình, chăn mền xoay loạn, trong lòng bỗng nhức nhối từng cơn khó hiểu.
Nhẫn nhịn một lúc lâu, cuối cùng chàng nghẹn ngào như con thú nhỏ, khẽ nói: “Vui vẻ.”
Giọng nói ấy như nhiễm phần lạnh lẽo của đêm thu vắng lặng, “Nàng đi đâu mà chẳng báo cho ta biết, bây giờ nàng có khỏe không…”
Chàng giống như một món đồ bị vứt bỏ, quỷ Âm Ma La ném chàng đi, Phật Tổ cũng bỏ đi. Trái tim không có chỗ dựa chợt nhói lên từng cơn, mùa thu này vừa dài vừa lạnh, tiểu hòa thượng khó chịu vô cùng.
Kinh Hoa Nghiêm có giảng: “Ứng thức nhất thiết tâm thức như huyễn, ứng tri thế gian chư hành như mộng.”*
Hai câu này mang ý nghĩa hãy tự nhắc nhở bản thân đang sống trong thế giới như mơ, như thế thì sẽ giảm bớt một số chấp niệm của bản thân với thế giới này.
(Mình định tìm bản dịch Tiếng Việt của hai câu này nhưng mà quyển Kinh Hoa Nghiêm dài quá, đọc hoài không thấy nó nằm ở đâu nên mình lên tra baidu và thấy cách giải nghĩa này và edit túm nghĩa lại, sai sót ở đâu mọi người bỏ quá nhé ^^)
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook