Quan Trừng
-
Chương 10
Sáng sớm ngày hôm sau, Trần Hoài Bồ dùng cơm xong thì đi vào triều từ sớm, Trúc Hàn đến bên ngoài phòng của Trần Hoài Nhu tụng kinh. Trần Hoài Nhu là tiểu thư khuê các có tri thức hiểu lễ nghĩa, cho dù bây giờ nàng ta nổi loạn tế quỷ, cũng không làm ra những hành động quá phận. Hoặc có lẽ là tính tình nàng ta mềm yếu nên không nhiều lời, chỉ trốn trong căn phòng mờ tối của mình như cũ.
Nàng ta tế quỷ, Trúc Hàn tụng kinh.
Đến giờ, có người hầu đi vào trong thay hoa quả tươi, trong phòng vang lên những tiếng động nhỏ ngắn ngủi rồi yên tĩnh trở lại, căn phòng văng vẳng mùi chết chóc.
Tiểu hòa thượng chăm chú tụng kinh, Phạn âm vô hình lượn lờ, dần dần bao trùm xà nhà, giống như đang âm thầm đối kháng với thứ gì đó. Trong bóng tối, tia sáng màu vàng và tia sáng đen va chạm với nhau.
Đến khi Trần Hoài Bồ quay về nhà, trong phủ có thêm một vị khách mới đến. Sáng sớm hôm nay vị khách này đến đưa bái thiếp, tuyên bố mình là Thiên sĩ bắt quỷ, mấy hôm nay nhìn thấy dị tượng ở phủ họ Trần, đoán là có yêu ma làm loạn.
Mặc dù Trần Hoài Bồ tôn trọng lựa chọn thờ cúng của muội muội nhưng tận trong đáy lòng vẫn chán ghét ma quỷ, vậy nên hắn cung kính mời Thiên sĩ vào phủ, bụng thầm cảm thấy may mắn vì đối phương ăn mặc khiêm tốn, áo bào màu xám gọn gàng, chỉ là dung mạo quá lộng lẫy, làn da mịn màng giống hệt con gái.
Rõ ràng hắn là chủ nhà mà phải chạy trước chạy sau không ngừng, hắn nhỏ giọng thông báo với Trúc Hàn, trong phủ mới có một Thiên sĩ bắt quỷ tinh thông Âm Dương Ngũ Hành đến. Trúc Hàn cũng không để ý, Phật pháp chỉ có thể độ hóa người đời, bắt quỷ tất nhiên không nằm trong khả năng của chàng, vậy nên chàng cũng không so đo chuyện này.
Mãi đến khi tiếng bước chân mang theo luồng gió vang lên trong viện kinh động đến hòa thượng. Chàng mở mắt, thứ đầu tiên đập vào mắt chàng là vòng eo nhỏ nhắn thắt đai lưng màu xám khói. Mặc dù Trúc Hàn không nhìn kỹ cũng chẳng có chuyện sờ qua nhưng Trúc Hàn biết vòng eo ấy không giống eo của đàn ông. Đạo gia tinh thông âm dương thuật sĩ, chẳng lẽ người này không phải đàn ông?
Lại nhìn lên trên, người ấy buộc tóc. Chàng thở phào nhẹ nhõm, trong lòng tự trách mình quá độc đoán, nếu đang ở thời Ngụy Tấn thì mới đặt nặng khí khái. Chàng nhắm mắt tiếp tục gõ mõ, lẩm bẩm tụng kinh.
Cũng giống như hôm qua dẫn Trúc Hàn vào trong nhìn lén hành động của muội muội, hôm nay Trần Hoài Bồ cũng làm vậy nhưng người này lại công khai đi vào, Trần Hoài Bồ không giữ được, thuật sĩ này hành động mau lẹ còn hơn cả người xuất thân nhà binh như hắn.
Thuật sĩ đứng bên cạnh Trần Hoài Nhu, nhìn thiếu nữ đang ở tuổi hoa đẹp nhất nhưng sắc mặt lại tiều tụy, trông tinh thần không được tốt. Người ấy phát ra giọng nam khàn khàn, hỏi Trần Hoài Nhu: “Tết Trung Nguyên có vui không?”
Lúc đầu Trần Hoài Nhu nhíu mày không vui vì có hơi thở lạ đến gần, nghe thấy câu nói này thì nàng ta đột nhiên quay đầu nhìn người đang bước đến.
“Ngươi là người phương nào?”
Đáp: “Người bắt quỷ.”
Hắn không nói gì nữa, cùng với Trần Hoài Bồ ra khỏi căn phòng tràn ngập cảm giác u ám khó chịu này, để lại một mình Trần Hoài Nhu ngồi tại chỗ nghi ngờ và khó hiểu. Lần này Trần Hoài Bồ cảm thấy thuật sĩ này quả thực có mấy phần tài năng, thái độ càng thêm kính trọng. Thuật sĩ đi tay không, không cầm theo bất kỳ pháp khí nào, chỉ nói muốn đi dạo xung quanh một vòng, không cần Trần Hoài Bồ đi theo.
Lần này ở hậu viện biến thành cảnh tượng một hòa thượng một đạo sĩ ở chung, hòa thượng mặc áo cà sa, đạo sĩ lại trông không giống đạo sĩ.
Thuật sĩ kia làm bộ đi lại hai vòng rồi bước đến cạnh Trúc Hàn. Tiểu hòa thượng ngừng tụng kinh, nhạy bén mở mắt ra, giọng nói lạnh như băng: “Đạo trưởng có chuyện gì?”
A Âm nhíu mày không hiểu, “Đạo trưởng?”
Trúc Hàn nghe thấy giọng nói quen thuộc, bởi vì đang giữ tư thế tĩnh tọa, chàng liền ngẩng đầu nhìn gương mặt đẹp đẽ, ngũ quan như đao khắc kia, nhưng đó không phải là gương mặt của A Âm. Hôm nay môi nàng không to son, cũng không dùng phấn, mặc dù bờ môi trắng bệch, nhưng trái lại càng thêm tuấn tú trong veo.
“Ngươi vào phủ làm gì?” Chàng nhìn qua rồi mở miệng chất vấn, chợt nhận ra khi nãy nàng nói giọng nam, “Sao lại nói giọng đàn ông?”
A Âm biến trở về giọng nữ, “Ta đến bắt quỷ.”
Nàng giải thích cho chàng hiểu: “Ta nói được rất nhiều giọng, tất cả đều học lúc nghỉ ngơi trong quan tài.”
Tiểu hòa thượng gật đầu, hơi sững sờ thán phục. Nhưng A Âm lại hỏi chàng: “Sao chàng gọi ta là đạo trưởng?”
Trúc Hàn thấp giọng hừ một cái, “Trần thống lĩnh nói với ta có một thuật sĩ tinh thông Âm Dương Ngũ Hành đến, không phải là ngươi sao?”
“Là ta.”
“Thế không phải là đạo sĩ à?”
“Ta không phải, tên tuổi ấy là bịa đặt thôi.”
Chàng im lặng không nói gì.
A Âm nhỏ giọng lầm bầm: “Đúng là hẹp hòi, đệ tử Phật giáo cũng chia phe phái đối địch với nhau.”
Lần này đến phiên Trúc Hàn uất ức, “Ta đâu có đối địch với ai?”
“Chàng có.”
“…”
Hai người biến thành hai đứa trẻ cãi nhau, nhưng đây là chuyện cực kỳ ấu trĩ, nhất thời cả hai rơi vào cảnh xấu hổ. Trúc Hàn vừa định dùng im lặng đối phó, không tranh luận với nàng nữa thì có hai thị nữ đến mời hai người ra sảnh chính dùng cơm trưa.
A Âm lại chuyển sang trả lời bằng giọng nam, còn mỉm cười dịu dàng và nháy mắt với thị nữ mấy cái khiến thị nữ đỏ mặt chạy đi. Trúc Hàn im lặng đứng nhìn, chân mày cau lại.
Nàng nhìn thấy thì hỏi, “Lại nhíu mày, chẳng lẽ chàng ghen với cả con gái?”
Chàng đứng dậy vuốt ve vạt áo, đầu mày giãn ra, vẻ mặt cứng ngắc quay qua chỗ khác, không chớp mắt bước thẳng về viện trước.
“Chàng trai” với gương mặt đẹp đẽ khẽ nhoẻn cười, tung tăng chạy theo sau chàng.
Ngồi vào bàn, cả bàn toàn là thức ăn chay. Trần Hoài Bồ tươi cười làm lễ với A Âm, “Đạo trưởng, bởi vì lo sư phụ Trúc Hàn…”
Nàng cũng chẳng để ý, “Không sao không sao, ta ăn gì cũng được.”
Trúc Hàn nhìn lén nàng vài lần, biểu cảm nghiêm túc, chỉ thấy cả người nàng chẳng có bao nhiêu thịt, dáng vẻ yếu đuối, thật sự là nên ăn nhiều thịt. Nhưng chàng không nói ra miệng.
Trong chùa lúc ăn cơm không được nói chuyện, chàng im lặng ngồi ăn, tai lắng nghe A Âm và Trần Hoài Bồ trò chuyện. Đã lâu rồi Trần Hoài Nhu không đến sảnh chính dùng cơm, đến giờ ăn đều đưa cơm vào phòng ngủ, thậm chí cũng không biết đã bao lâu nàng ta chưa nhìn thấy ánh sáng.
A Âm giải thích với Trần Hoài Bồ: “Trần thống lĩnh, ta cũng không phải người của Đạo môn, ta chỉ tinh thông bắt quỷ mà thôi. Ta chưa nói rõ với ngài, là lỗi sai của ta.”
Mí mắt Trúc Hàn giật giật, lặng lẽ liếc nhìn động tác gắp thức ăn của nàng, mới biết được câu “ăn gì cũng như nhau” của nàng là thật. Nàng gắp thức ăn mà chẳng nhìn, gắp được cái gì cũng bỏ vào miệng. Trong lòng chàng cảm thấy khó hiểu, thoáng thất thần, chẳng lẽ quỷ không thích ăn cơm sao? Nàng chỉ đang làm bộ mà thôi.
“… Bây giờ con quỷ kia không ở trong khuê phòng của muội muội ngài, ta ngửi được mùi, lại đi thăm dò ở Quỷ giới, có thể xác định nhà ngài có ác quỷ ghé thăm…”
“.. . Còn chọc phải nó ở đâu thì mong ngài nhớ lại xem, lần cuối cùng muội muội ngài ra khỏi cửa là lúc nào? Đi đến đâu…”
“… Tiểu sư phụ Trúc Hàn… tụng kinh… bảo vệ… Không cần phải lo lắng… Bắt được quỷ, nút thắt trong lòng lệnh muội cần phải…”
Chàng thất thần, ngây ngốc nuốt đồ ăn trong chén xuống, mãi đến khi ăn xong hạt cơm cuối cùng, chàng buông chén xuống, đối diện với hai đôi mắt đang nhìn về phía mình.
“Hử?” Vẻ mặt Trúc Hàn tràn ngập khó hiểu, còn lau miệng.
Trần Hoài Bồ và A Âm trao đổi ánh mắt, không ai lên tiếng nữa, im lặng ăn cơm.
Sau đó, Trúc Hàn về hậu viện, A Âm đuổi theo, gọi chàng đi ra khỏi phủ.
“Sao phải ra khỏi phủ?”
Nàng mở một tờ giấy ra, bên trên vẽ một cái mặt nạ, nhưng không phải cái mặt nạ có màu hoa văn mà Trúc Hàn nhặt được ở ngoài sân.
Đó là cái mặt nạ mà Trần Hoài Nhu cúng tế.
“Đến thôn Vu Lan, tìm chủ của cái mặt nạ này.”
Cửa sau của phủ họ Trần lặng lẽ mở ra, một hòa thượng và một thiếu niên đi ra ngoài, cửa khép lại, họ trò chuyện trên đường đi. Bây giờ đang là giờ Ngọ, đường phố rất nhộn nhịp, dân chúng bình thường nhìn thấy hòa thượng khoác áo cà sa, quanh người tỏa ra vẻ nghiêm túc chính trực thì đều không nhịn được ngắm thêm vài lần. Nhưng nhìn cô gái… không chàng trai xinh đẹp bên cạnh, tuy mặc trang phục đàn ông nhưng gương mặt quá đẹp, khiến người ta không thể bỏ qua được.
Vậy nên trên đường đi, những ánh mắt chú ý đến họ chưa từng ngắt quãng. A Âm đã quen rồi, mỗi lần nàng đến Trường An đều như vậy, mặc trang phục nữ còn có nhiều người nhìn hơn. Nhưng tiểu hòa thượng không quen, mày càng lúc càng nhíu sâu, bước đi càng lúc càng nhanh, chỉ hận không thể nhanh chóng ra khỏi thành Trường An.
Lúc đầu A Âm không biết, nhưng tai nàng rất thính, khi nghe thấy mấy lời bẩn thỉu hèn hạ suy đoán hòa thượng phá giới lọt vào tai, nàng lạnh lùng quay đầu, ghi nhớ những kẻ kia, trong ánh mắt hiện lên chút sắc xanh lam nhàn nhạt.
Đến thôn Vu Lan, người dân trong thôn chất phác hơn rất nhiều, hơn nữa họ bận bịu nhiều việc nên đa số đều cúi đầu, không rảnh bận tâm xem ai đến. Tiểu hòa thượng cầm tờ giấy hỏi thăm lần lượt, nhưng không ai biết chủ của tấm mặt nạ này là ai.
A Âm bật cười.
“Sao ngươi lại cười?”
Nàng nén cười bảo, “Quan Trừng ngốc nghếch của ta, chàng hỏi như vậy thì phải hỏi đến khi nào? Không chỉ có chúng ta không nhận ra mặt nạ mà cả người dân trong thông cũng vậy.”
Chàng nghiêm túc khẽ gật đầu, như đã đồng ý.
Nàng kéo tay áo chàng, đi thẳng đến rạp hát duy nhất trong thôn.
Bước qua cánh cổng lớn cũ nát giống như bước vào vườn trừ tà của thôn Vu Lan. Trên bãi đất trống treo đủ loại đạo cụ diễn kịch, có một người đàn ông ngồi trên ghế đẩu, quanh người bày rất nhiều mặt nạ xua tà, tay đang cầm bút vẽ hoa văn.
Trúc Hàn tiến lên, giơ tờ giấy cung kính hỏi: “Thí chủ có biết hoa văn trên này không?”
Người đàn ông kia nghiêng đầu hỏi, “Hoa xanh giữa trán, chín cánh đảo ngược. Các ngươi làm ra mặt nạ của Thất Lang thế nào? Tranh này vẽ khá giống, tỉ mỉ hơn chút nữa là có thể gia nhập vào đoàn chúng ta.”
Người đàn ông nhìn A Âm ở phía sau, A Âm lễ phép chắp tay trước ngực thi lễ, “Ngài quá khen rồi.”
Người đàn ông ngồi đáp lễ, mặc dù trong lòng cảm thấy vẻ ngoài của thiếu niên mặc áo xám hơi giống con gái nhưng gương mặt vẫn hiện lên vẻ khen ngợi.
“Trước khi buổi Lễ trừ tà đêm Trung Nguyên kết thúc, Thất Lang đã về Cự Châu, bây giờ không ở Trường An. Mùng 1 tháng 10 trình diễn múa trừ tà ở Cự Châu xong, Bát Bá mới quay về. Đến hôm đó thôn Vu Lan sẽ tổ chức một buổi lễ lớn nữa, nếu hai người rảnh rỗi thì đến xem.”
“Thất Lang tuổi không lớn lắm đã được chọn làm người nhảy đứng đầu gánh hát, có rất nhiều người lớn không vui, nhưng hắn thông minh, lúc trước mặt nạ đều được đan từ sợi tre nên rất xấu, hắn lại nghĩ ra cách dùng vỏ trúc. Tay nghề vẽ mặt nạ của hắn cũng…”
Ra khỏi vườn, hai người không đi đường Chu Tước nữa mà chọn một con đường hẹp quanh co về phủ họ Trần.
Trên đường đi Trúc Hàn không chịu được nàng quấn quýt hỏi han, chàng dịu dàng giải thích: “Trong gánh hát đuổi tà có Bát Bá, qua đời sẽ chọn một người mới, là một trong mấy vị am hiểu về nhảy múa đuổi tà ma.”
“Vậy Trần Hoài Nhu cúng tế mặt nạ của Thất Lang làm gì?”
Trúc Hàn khó xử, “Chẳng lẽ không phải do quỷ gây rối sao? Ngươi còn hỏi ta?”
“Tiểu sư phụ không độ quỷ à? Chẳng phải Phật pháp độ hết thảy khổ ải sao?”
Chàng quay đầu, vẻ mặt rất kiêu ngạo, “Ta không độ được.”
A Âm ồ một tiếng, “Chàng nói không độ được, ta còn đang chờ chàng đến độ ta đấy.”
Tiểu hòa thượng dừng lại, chăm chú nghe nàng nói.
Kết quả sau khi hai đôi mắt đối diện với nhau, nàng lại nói: “Độ ta một đời.”
Trong đôi mắt nàng tràn ngập tình cảm chân thành tha thiết, nhìn thẳng vào mắt chàng.
Sau đó, trái tim không yên phận của chàng lại đập loạn xạ.
Người tuyệt tình nhất thành Trường An dứt khoát xoay người đi về phủ họ Trần, trong lòng có một giọng nói thầm khuyên bảo: Đừng để ý đến nữ quỷ không biết xấu hổ này.
Tiến vào phủ họ Trần, chàng đến bên ngoài gian phòng của Trần Hoài Nhu tụng kinh, nàng cũng đi theo. Mãi đến khi nàng đứng cạnh bồ đoàn, Trúc Hàn vừa định hỏi nàng đi theo mình làm gì thì nghe thấy trong phòng liên tục vang lên tiếng động. Có thị nữ lo lắng hỏi han, lại bị thiếu nữ bên trong lạnh lùng khiển trách, đuổi ra ngoài.
Hai người vội vàng đi vào, trông thấy căn phòng lộn xộn, rất nhiều vật trang trí quý giá vỡ nát. Quần áo trên người Trần Hoài Nhu hơi xộc xệch, nàng ta ôm ngực, thấy Trúc Hàn và A Âm tiến vào thì định đẩy người ra ngoài nhưng chỉ chớp mắt sau đã ngã vào lòng Trúc Hàn, không còn sức lực.
Nàng ta tế quỷ, Trúc Hàn tụng kinh.
Đến giờ, có người hầu đi vào trong thay hoa quả tươi, trong phòng vang lên những tiếng động nhỏ ngắn ngủi rồi yên tĩnh trở lại, căn phòng văng vẳng mùi chết chóc.
Tiểu hòa thượng chăm chú tụng kinh, Phạn âm vô hình lượn lờ, dần dần bao trùm xà nhà, giống như đang âm thầm đối kháng với thứ gì đó. Trong bóng tối, tia sáng màu vàng và tia sáng đen va chạm với nhau.
Đến khi Trần Hoài Bồ quay về nhà, trong phủ có thêm một vị khách mới đến. Sáng sớm hôm nay vị khách này đến đưa bái thiếp, tuyên bố mình là Thiên sĩ bắt quỷ, mấy hôm nay nhìn thấy dị tượng ở phủ họ Trần, đoán là có yêu ma làm loạn.
Mặc dù Trần Hoài Bồ tôn trọng lựa chọn thờ cúng của muội muội nhưng tận trong đáy lòng vẫn chán ghét ma quỷ, vậy nên hắn cung kính mời Thiên sĩ vào phủ, bụng thầm cảm thấy may mắn vì đối phương ăn mặc khiêm tốn, áo bào màu xám gọn gàng, chỉ là dung mạo quá lộng lẫy, làn da mịn màng giống hệt con gái.
Rõ ràng hắn là chủ nhà mà phải chạy trước chạy sau không ngừng, hắn nhỏ giọng thông báo với Trúc Hàn, trong phủ mới có một Thiên sĩ bắt quỷ tinh thông Âm Dương Ngũ Hành đến. Trúc Hàn cũng không để ý, Phật pháp chỉ có thể độ hóa người đời, bắt quỷ tất nhiên không nằm trong khả năng của chàng, vậy nên chàng cũng không so đo chuyện này.
Mãi đến khi tiếng bước chân mang theo luồng gió vang lên trong viện kinh động đến hòa thượng. Chàng mở mắt, thứ đầu tiên đập vào mắt chàng là vòng eo nhỏ nhắn thắt đai lưng màu xám khói. Mặc dù Trúc Hàn không nhìn kỹ cũng chẳng có chuyện sờ qua nhưng Trúc Hàn biết vòng eo ấy không giống eo của đàn ông. Đạo gia tinh thông âm dương thuật sĩ, chẳng lẽ người này không phải đàn ông?
Lại nhìn lên trên, người ấy buộc tóc. Chàng thở phào nhẹ nhõm, trong lòng tự trách mình quá độc đoán, nếu đang ở thời Ngụy Tấn thì mới đặt nặng khí khái. Chàng nhắm mắt tiếp tục gõ mõ, lẩm bẩm tụng kinh.
Cũng giống như hôm qua dẫn Trúc Hàn vào trong nhìn lén hành động của muội muội, hôm nay Trần Hoài Bồ cũng làm vậy nhưng người này lại công khai đi vào, Trần Hoài Bồ không giữ được, thuật sĩ này hành động mau lẹ còn hơn cả người xuất thân nhà binh như hắn.
Thuật sĩ đứng bên cạnh Trần Hoài Nhu, nhìn thiếu nữ đang ở tuổi hoa đẹp nhất nhưng sắc mặt lại tiều tụy, trông tinh thần không được tốt. Người ấy phát ra giọng nam khàn khàn, hỏi Trần Hoài Nhu: “Tết Trung Nguyên có vui không?”
Lúc đầu Trần Hoài Nhu nhíu mày không vui vì có hơi thở lạ đến gần, nghe thấy câu nói này thì nàng ta đột nhiên quay đầu nhìn người đang bước đến.
“Ngươi là người phương nào?”
Đáp: “Người bắt quỷ.”
Hắn không nói gì nữa, cùng với Trần Hoài Bồ ra khỏi căn phòng tràn ngập cảm giác u ám khó chịu này, để lại một mình Trần Hoài Nhu ngồi tại chỗ nghi ngờ và khó hiểu. Lần này Trần Hoài Bồ cảm thấy thuật sĩ này quả thực có mấy phần tài năng, thái độ càng thêm kính trọng. Thuật sĩ đi tay không, không cầm theo bất kỳ pháp khí nào, chỉ nói muốn đi dạo xung quanh một vòng, không cần Trần Hoài Bồ đi theo.
Lần này ở hậu viện biến thành cảnh tượng một hòa thượng một đạo sĩ ở chung, hòa thượng mặc áo cà sa, đạo sĩ lại trông không giống đạo sĩ.
Thuật sĩ kia làm bộ đi lại hai vòng rồi bước đến cạnh Trúc Hàn. Tiểu hòa thượng ngừng tụng kinh, nhạy bén mở mắt ra, giọng nói lạnh như băng: “Đạo trưởng có chuyện gì?”
A Âm nhíu mày không hiểu, “Đạo trưởng?”
Trúc Hàn nghe thấy giọng nói quen thuộc, bởi vì đang giữ tư thế tĩnh tọa, chàng liền ngẩng đầu nhìn gương mặt đẹp đẽ, ngũ quan như đao khắc kia, nhưng đó không phải là gương mặt của A Âm. Hôm nay môi nàng không to son, cũng không dùng phấn, mặc dù bờ môi trắng bệch, nhưng trái lại càng thêm tuấn tú trong veo.
“Ngươi vào phủ làm gì?” Chàng nhìn qua rồi mở miệng chất vấn, chợt nhận ra khi nãy nàng nói giọng nam, “Sao lại nói giọng đàn ông?”
A Âm biến trở về giọng nữ, “Ta đến bắt quỷ.”
Nàng giải thích cho chàng hiểu: “Ta nói được rất nhiều giọng, tất cả đều học lúc nghỉ ngơi trong quan tài.”
Tiểu hòa thượng gật đầu, hơi sững sờ thán phục. Nhưng A Âm lại hỏi chàng: “Sao chàng gọi ta là đạo trưởng?”
Trúc Hàn thấp giọng hừ một cái, “Trần thống lĩnh nói với ta có một thuật sĩ tinh thông Âm Dương Ngũ Hành đến, không phải là ngươi sao?”
“Là ta.”
“Thế không phải là đạo sĩ à?”
“Ta không phải, tên tuổi ấy là bịa đặt thôi.”
Chàng im lặng không nói gì.
A Âm nhỏ giọng lầm bầm: “Đúng là hẹp hòi, đệ tử Phật giáo cũng chia phe phái đối địch với nhau.”
Lần này đến phiên Trúc Hàn uất ức, “Ta đâu có đối địch với ai?”
“Chàng có.”
“…”
Hai người biến thành hai đứa trẻ cãi nhau, nhưng đây là chuyện cực kỳ ấu trĩ, nhất thời cả hai rơi vào cảnh xấu hổ. Trúc Hàn vừa định dùng im lặng đối phó, không tranh luận với nàng nữa thì có hai thị nữ đến mời hai người ra sảnh chính dùng cơm trưa.
A Âm lại chuyển sang trả lời bằng giọng nam, còn mỉm cười dịu dàng và nháy mắt với thị nữ mấy cái khiến thị nữ đỏ mặt chạy đi. Trúc Hàn im lặng đứng nhìn, chân mày cau lại.
Nàng nhìn thấy thì hỏi, “Lại nhíu mày, chẳng lẽ chàng ghen với cả con gái?”
Chàng đứng dậy vuốt ve vạt áo, đầu mày giãn ra, vẻ mặt cứng ngắc quay qua chỗ khác, không chớp mắt bước thẳng về viện trước.
“Chàng trai” với gương mặt đẹp đẽ khẽ nhoẻn cười, tung tăng chạy theo sau chàng.
Ngồi vào bàn, cả bàn toàn là thức ăn chay. Trần Hoài Bồ tươi cười làm lễ với A Âm, “Đạo trưởng, bởi vì lo sư phụ Trúc Hàn…”
Nàng cũng chẳng để ý, “Không sao không sao, ta ăn gì cũng được.”
Trúc Hàn nhìn lén nàng vài lần, biểu cảm nghiêm túc, chỉ thấy cả người nàng chẳng có bao nhiêu thịt, dáng vẻ yếu đuối, thật sự là nên ăn nhiều thịt. Nhưng chàng không nói ra miệng.
Trong chùa lúc ăn cơm không được nói chuyện, chàng im lặng ngồi ăn, tai lắng nghe A Âm và Trần Hoài Bồ trò chuyện. Đã lâu rồi Trần Hoài Nhu không đến sảnh chính dùng cơm, đến giờ ăn đều đưa cơm vào phòng ngủ, thậm chí cũng không biết đã bao lâu nàng ta chưa nhìn thấy ánh sáng.
A Âm giải thích với Trần Hoài Bồ: “Trần thống lĩnh, ta cũng không phải người của Đạo môn, ta chỉ tinh thông bắt quỷ mà thôi. Ta chưa nói rõ với ngài, là lỗi sai của ta.”
Mí mắt Trúc Hàn giật giật, lặng lẽ liếc nhìn động tác gắp thức ăn của nàng, mới biết được câu “ăn gì cũng như nhau” của nàng là thật. Nàng gắp thức ăn mà chẳng nhìn, gắp được cái gì cũng bỏ vào miệng. Trong lòng chàng cảm thấy khó hiểu, thoáng thất thần, chẳng lẽ quỷ không thích ăn cơm sao? Nàng chỉ đang làm bộ mà thôi.
“… Bây giờ con quỷ kia không ở trong khuê phòng của muội muội ngài, ta ngửi được mùi, lại đi thăm dò ở Quỷ giới, có thể xác định nhà ngài có ác quỷ ghé thăm…”
“.. . Còn chọc phải nó ở đâu thì mong ngài nhớ lại xem, lần cuối cùng muội muội ngài ra khỏi cửa là lúc nào? Đi đến đâu…”
“… Tiểu sư phụ Trúc Hàn… tụng kinh… bảo vệ… Không cần phải lo lắng… Bắt được quỷ, nút thắt trong lòng lệnh muội cần phải…”
Chàng thất thần, ngây ngốc nuốt đồ ăn trong chén xuống, mãi đến khi ăn xong hạt cơm cuối cùng, chàng buông chén xuống, đối diện với hai đôi mắt đang nhìn về phía mình.
“Hử?” Vẻ mặt Trúc Hàn tràn ngập khó hiểu, còn lau miệng.
Trần Hoài Bồ và A Âm trao đổi ánh mắt, không ai lên tiếng nữa, im lặng ăn cơm.
Sau đó, Trúc Hàn về hậu viện, A Âm đuổi theo, gọi chàng đi ra khỏi phủ.
“Sao phải ra khỏi phủ?”
Nàng mở một tờ giấy ra, bên trên vẽ một cái mặt nạ, nhưng không phải cái mặt nạ có màu hoa văn mà Trúc Hàn nhặt được ở ngoài sân.
Đó là cái mặt nạ mà Trần Hoài Nhu cúng tế.
“Đến thôn Vu Lan, tìm chủ của cái mặt nạ này.”
Cửa sau của phủ họ Trần lặng lẽ mở ra, một hòa thượng và một thiếu niên đi ra ngoài, cửa khép lại, họ trò chuyện trên đường đi. Bây giờ đang là giờ Ngọ, đường phố rất nhộn nhịp, dân chúng bình thường nhìn thấy hòa thượng khoác áo cà sa, quanh người tỏa ra vẻ nghiêm túc chính trực thì đều không nhịn được ngắm thêm vài lần. Nhưng nhìn cô gái… không chàng trai xinh đẹp bên cạnh, tuy mặc trang phục đàn ông nhưng gương mặt quá đẹp, khiến người ta không thể bỏ qua được.
Vậy nên trên đường đi, những ánh mắt chú ý đến họ chưa từng ngắt quãng. A Âm đã quen rồi, mỗi lần nàng đến Trường An đều như vậy, mặc trang phục nữ còn có nhiều người nhìn hơn. Nhưng tiểu hòa thượng không quen, mày càng lúc càng nhíu sâu, bước đi càng lúc càng nhanh, chỉ hận không thể nhanh chóng ra khỏi thành Trường An.
Lúc đầu A Âm không biết, nhưng tai nàng rất thính, khi nghe thấy mấy lời bẩn thỉu hèn hạ suy đoán hòa thượng phá giới lọt vào tai, nàng lạnh lùng quay đầu, ghi nhớ những kẻ kia, trong ánh mắt hiện lên chút sắc xanh lam nhàn nhạt.
Đến thôn Vu Lan, người dân trong thôn chất phác hơn rất nhiều, hơn nữa họ bận bịu nhiều việc nên đa số đều cúi đầu, không rảnh bận tâm xem ai đến. Tiểu hòa thượng cầm tờ giấy hỏi thăm lần lượt, nhưng không ai biết chủ của tấm mặt nạ này là ai.
A Âm bật cười.
“Sao ngươi lại cười?”
Nàng nén cười bảo, “Quan Trừng ngốc nghếch của ta, chàng hỏi như vậy thì phải hỏi đến khi nào? Không chỉ có chúng ta không nhận ra mặt nạ mà cả người dân trong thông cũng vậy.”
Chàng nghiêm túc khẽ gật đầu, như đã đồng ý.
Nàng kéo tay áo chàng, đi thẳng đến rạp hát duy nhất trong thôn.
Bước qua cánh cổng lớn cũ nát giống như bước vào vườn trừ tà của thôn Vu Lan. Trên bãi đất trống treo đủ loại đạo cụ diễn kịch, có một người đàn ông ngồi trên ghế đẩu, quanh người bày rất nhiều mặt nạ xua tà, tay đang cầm bút vẽ hoa văn.
Trúc Hàn tiến lên, giơ tờ giấy cung kính hỏi: “Thí chủ có biết hoa văn trên này không?”
Người đàn ông kia nghiêng đầu hỏi, “Hoa xanh giữa trán, chín cánh đảo ngược. Các ngươi làm ra mặt nạ của Thất Lang thế nào? Tranh này vẽ khá giống, tỉ mỉ hơn chút nữa là có thể gia nhập vào đoàn chúng ta.”
Người đàn ông nhìn A Âm ở phía sau, A Âm lễ phép chắp tay trước ngực thi lễ, “Ngài quá khen rồi.”
Người đàn ông ngồi đáp lễ, mặc dù trong lòng cảm thấy vẻ ngoài của thiếu niên mặc áo xám hơi giống con gái nhưng gương mặt vẫn hiện lên vẻ khen ngợi.
“Trước khi buổi Lễ trừ tà đêm Trung Nguyên kết thúc, Thất Lang đã về Cự Châu, bây giờ không ở Trường An. Mùng 1 tháng 10 trình diễn múa trừ tà ở Cự Châu xong, Bát Bá mới quay về. Đến hôm đó thôn Vu Lan sẽ tổ chức một buổi lễ lớn nữa, nếu hai người rảnh rỗi thì đến xem.”
“Thất Lang tuổi không lớn lắm đã được chọn làm người nhảy đứng đầu gánh hát, có rất nhiều người lớn không vui, nhưng hắn thông minh, lúc trước mặt nạ đều được đan từ sợi tre nên rất xấu, hắn lại nghĩ ra cách dùng vỏ trúc. Tay nghề vẽ mặt nạ của hắn cũng…”
Ra khỏi vườn, hai người không đi đường Chu Tước nữa mà chọn một con đường hẹp quanh co về phủ họ Trần.
Trên đường đi Trúc Hàn không chịu được nàng quấn quýt hỏi han, chàng dịu dàng giải thích: “Trong gánh hát đuổi tà có Bát Bá, qua đời sẽ chọn một người mới, là một trong mấy vị am hiểu về nhảy múa đuổi tà ma.”
“Vậy Trần Hoài Nhu cúng tế mặt nạ của Thất Lang làm gì?”
Trúc Hàn khó xử, “Chẳng lẽ không phải do quỷ gây rối sao? Ngươi còn hỏi ta?”
“Tiểu sư phụ không độ quỷ à? Chẳng phải Phật pháp độ hết thảy khổ ải sao?”
Chàng quay đầu, vẻ mặt rất kiêu ngạo, “Ta không độ được.”
A Âm ồ một tiếng, “Chàng nói không độ được, ta còn đang chờ chàng đến độ ta đấy.”
Tiểu hòa thượng dừng lại, chăm chú nghe nàng nói.
Kết quả sau khi hai đôi mắt đối diện với nhau, nàng lại nói: “Độ ta một đời.”
Trong đôi mắt nàng tràn ngập tình cảm chân thành tha thiết, nhìn thẳng vào mắt chàng.
Sau đó, trái tim không yên phận của chàng lại đập loạn xạ.
Người tuyệt tình nhất thành Trường An dứt khoát xoay người đi về phủ họ Trần, trong lòng có một giọng nói thầm khuyên bảo: Đừng để ý đến nữ quỷ không biết xấu hổ này.
Tiến vào phủ họ Trần, chàng đến bên ngoài gian phòng của Trần Hoài Nhu tụng kinh, nàng cũng đi theo. Mãi đến khi nàng đứng cạnh bồ đoàn, Trúc Hàn vừa định hỏi nàng đi theo mình làm gì thì nghe thấy trong phòng liên tục vang lên tiếng động. Có thị nữ lo lắng hỏi han, lại bị thiếu nữ bên trong lạnh lùng khiển trách, đuổi ra ngoài.
Hai người vội vàng đi vào, trông thấy căn phòng lộn xộn, rất nhiều vật trang trí quý giá vỡ nát. Quần áo trên người Trần Hoài Nhu hơi xộc xệch, nàng ta ôm ngực, thấy Trúc Hàn và A Âm tiến vào thì định đẩy người ra ngoài nhưng chỉ chớp mắt sau đã ngã vào lòng Trúc Hàn, không còn sức lực.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook