Ở Rể (Chuế Tế)
-
Chương 689: Siêu việt đao phong (9)
Dịch giả: luongsonbac1102
"Tôn Tử binh pháp" nói: "Binh vô thường thế, thủy vô thường hình." (1)
Trên chiến trường tình huống phức tạp, thay đổi trong nháy mắt, tuy nói mỗi tình thế xảy ra đều sẽ có biện pháp ứng phó nhất định, nhưng đó chỉ là những quy luật cơ bản, muốn áp dụng quy luật một cách linh hoạt cho từng trường hợp, thật sự không phải dễ. Tướng loại kém thường chỉ biết cách bày trận ra sao, biết muốn đối phó với kỵ binh, thì bộ binh phải dùng rừng thương dày đặc mà chống đỡ, cung thủ đối phương bắn tên thì dùng thuẫn che chắn. Tướng loại trung bình có thể biết nguyên nhân vì sao phải làm điều này điều nọ, hiểu được phần lớn những biến đổi, cũng hiểu được vì sao xảy ra biến đổi như vậy, do đó biết được trong tình huống nào, bộ binh có thể phản xung phong đối với kỵ binh, biết làm thế nào dùng binh cầm thương đối phó với mưa tên của kẻ địch.
Cũng giống như quá trình trưởng thành của con người, khi còn nhỏ, ai cũng luôn tìm kiếm một đạo lý nhất định nào đó, tưởng rằng hiểu được một đạo lý, hiểu được một câu nói có ý nghĩa rõ ràng, là có thể tìm được phương hướng cho cuộc đời mình. Nhưng trên thực tế sự trưởng thành của con người lại không xảy ra theo hình thức như vậy. Bạn có thể tìm được vô số câu nói nghe có vẻ có lý, thậm chí mỗi một câu nói, đều tồn tại những câu nói tương tự nhưng có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại.
Rồi sau đó, người ta bắt đầu nhận thấy, khi người khác nói những lời như vậy, họ đã trải qua những điều gì, đã sống trong hoàn cảnh nào, rồi mới có thể nói được những điều khiến người khác có thể đồng cảm, từ đó họ có thể hiểu được vì sao những lời nói đầy trí tuệ của tiền nhân, lại có thể được lưu truyền. Cho đến lúc rốt cuộc người học có thể hiểu được điểm chủ yếu trong tư duy của rất nhiều người, có thể từ đó so sánh đối chiếu, học một biết mười, thì hắn mới có thể có được năng lực tự suy xét một cách độc lập, mà thoát ly khỏi mới sách vở khô khan, chỉ có như thế mới có thể tùy hoàn cảnh mà áp dụng danh ngôn.
Nguyên tắc là như thế. Trong phần lớn tình huống, cần nhất vẫn là có lực lượng, đặc biệt là trên chiến trường ở thời đại này, đội bên giao chiến, lực lượng và tinh thần chiến đấu thường khá chênh lệch nhau, rất nhiều tình huống trên chiến trường, cơ bản chỉ là dùng sức mạnh để đè ép mà thôi, nếu là lại kết hợp một chút với sự khắc chế binh chủng, thì cục diện sẽ rất tốt.
Việc đời đại thể là như thế, giống như ở đời sau, trong xã hội có rất nhiều người chỉ học thuộc lòng những câu danh ngôn, cách ngôn và những "phương thuốc" tâm linh, thậm chí có rất nhiều người chẳng thuộc bất kỳ câu danh ngôn, cách ngôn nào, cũng vẫn có thể sống được, thậm chí sống không tệ. Thế nhưng, những người học thuộc danh ngôn, sẽ có phương hướng, có mục đích, có sự nhận biết rõ ràng để nỗ lực gấp bội. Người hấp thu và tham khảo trí tuệ của người khác, cuối cùng hình thành nên hệ thống quy luật khách quan của bản thân mình, mới có thể đủ sức ứng phó với tất cả tình huống mới, mà nói một cách rất chân thực, người thật sự có thể leo lên tới tầng lớp cao nhất, vị trí cao nhất trong xã hội, ngoại trừ con ông cháu cha, chắc chắn đều là những người có được hệ thống quy luật khách quan hoàn chỉnh của riêng mình, không có ngoại lệ.
Trong trận chiến ở sông Triều Bạch, điều cần vận dụng chỉ là những thao tác thuần thục của binh pháp. Nhưng trong trận chiến ở thôn Hạ, về một ý nghĩa nào đó mà nói, điều được thử thách, chính là trí tuệ.
Dưới sự phong tỏa của Du mộc pháo, của những trận mưa tên và sự nghiền ép của trọng kỵ binh, Trương Lệnh Huy, Lưu Thuấn Nhân vẫn có thể tổ chức luân phiên tiến công ở khoảng cách xa, cho thấy bản lĩnh làm tướng của họ. Nhưng nếu đánh gần mà vẫn cứ tiếp tục đánh kiểu đó, thì một vạn người của họ, tuyệt nhiên chưa đủ để đánh dằng dai với quân phòng thủ thôn Hạ, nhất là dưới sự uy hiếp của tên, đạn pháo và trọng kỵ binh. Trong hoàn cảnh bất lợi, ý chí chiến đấu chắc chắn cũng không mạnh mẽ, một khi cứng rắn đối chọi, e rằng tất cả đều cùng chôn ở chỗ này.
Cũng nhờ Quách Dược Sư tới quá nhanh, mới có thể xoay chuyển được tình thế. Ngày 3 tháng Chạp, ông ta đột nhiên xuất thủ, thật sự thể hiện phẩm chất của một danh tướng. Trong khoảng thời gian ngắn, hiểu rõ hạn chế của hỏa khí, ông ta bèn dùng tên lửa để khắc chế, rồi cho tướng sĩ xung phong để kéo giãn cự ly, khi tới được dưới tường gỗ, mới phát động tiến công ráo riết. Một lượt tiến công không được, lập tức rút đi, trong một khoảng thời gian ngắn, thật sự khiến phía thôn Hạ phải xoay trái xoay phải, luống cuống tay chân.
Thế nhưng trong chiến tranh trí tuệ, không ai lại chỉ ứng phó bằng phương pháp không thay đổi. Khi quân phòng thủ thôn Hạ bắt đầu điều chỉnh việc bố trí và bắn của Du mộc pháo, nhất là nhằm vào Oán quân đang công thành mà bắn, tiếng nổ dữ dội và lửa khói do pháo sinh ra vẫn gây ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý chí chiến đấu của đối phương. Mấy cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của Quách Dược Sư, cho dù đã được cung thủ bắn tên lửa để áp chế, vẫn bị Du mộc pháo của thôn Hạ chọn đúng thời cơ bắn ra, đánh cho tan tành.
Sau đó Quách Dược Sư thay đổi sách lược, bắt đầu tấn công đột phá với quy mô lớn vào mặt phía đông của tường thành, vị trí được lựa chọn, là một đoạn tường đã từng có tám trăm người bị giết chết.
Trước kia Oán quân lựa chọn vị trí này làm điểm đột phá, là vì sự phòng ngự của đối phương ở đoạn tường này hơi yếu, nhưng sau khi đã tập kết đại quân hơn ba vạn người, Quách Dược Sư đã không còn phải lo lắng nhiều đến sự uy hiếp của đội trọng kỵ binh hơn trăm người, nên quyết định chọn nơi này làm đột phá khẩu.
Chiều ngày 4 tháng Chạp, đông đảo tướng sĩ Thường Thắng quân chen nhau giẫm đạp lên đầu người và thi thể, bắt đầu tiến công, các cung thủ cũng bắt đầu bắn tên lửa hết đợt này tới đợt khác vào xung quanh tường doanh. Quân phòng thủ thôn Hạ cũng đáp trả bằng cung tên. Tới chạng vạng, khi cuộc tấn công trở nên kịch liệt nhất, cửa bên hông doanh tường chợt mở ra, hơn trăm trọng kỵ xuất hiện, xếp thành hàng tề chỉnh. Một lúc sau, hai mươi mấy khẩu Du mộc pháo ở mặt nam tường doanh đồng thời bắn ra, với sự phối hợp của hàng loạt cung tên, phản công lại Oán quân, mà trọng kỵ chỉ là hư chiêu, sau đó không lâu, lại đóng cửa quay về.
Từ đó trở đi, đôi bên vẫn liên tục đấu trí và đấu dũng khí. Sức chiến đấu của binh lính Thường Thắng quân thật sự cao hơn quân phòng thủ thôn Hạ, đồng thời nhân số lên tới ba vạn sáu nghìn người, đó là ưu thế rất lớn. Tuy nhiên ngược lại, về sự biến hóa binh pháp, do bị ảnh hưởng của tình hình mặt phía bắc, chiến pháp sở trường của Quách Dược Sư là chắc chắn, chứ không phải là biến hóa đa dạng.
Mà phía thôn Hạ, do Vũ triều văn hóa hưng thịnh, trong chiến tranh, các loại binh thư lan tràn, rất thịnh hành. Những cuốn binh thư đó cũng không phải vô dụng, một khi đọc hiểu, dù sao cũng có thể thấu hiểu được tư duy hệ thống của một số trí giả. Tuy Tần Thiệu Khiêm hơi thô kệch, nhưng trên thực tế, được coi là nho tướng xuất thân, y chịu ảnh hưởng của phụ thân, cũng đọc thuộc nhiều binh thư, về chiến pháp cũng không hề bảo thủ không chịu thay đổi, chỉ là trước đó, cho dù chiến pháp có linh hoạt cỡ nào, mà binh dưới tay không thể sử dụng, thì cũng vô nghĩa. Nhưng tình thế lần này ở thôn Hạ, không giống như trước nữa.
Hàng loạt binh sĩ thật sự có thể sử dụng, đã thay thế cho hệ thống cồng kềnh, phù phiếm của Võ Thụy doanh, sự bố trí phòng thủ cũng trở nên vững chắc, phối hợp với sự hỗ trợ linh hoạt của Du mộc pháo. Cho dù sức chiến đấu của từng binh sĩ có phần thua kém binh sĩ Oán quân, nhưng trên chiến trường này, Tần Thiệu Khiêm lần đầu tiên phát huy ra sở học một đời, lần lượt đưa ra nhận định và những hành động phản công, chi viện đối với mỗi tình huống trên chiến trường và sử dụng mưu kế, làm cho sự phòng ngự của thôn Hạ giống như một ngọn lao sắt kiên cố không thể phá được. Khi bắt đầu dốc sức tấn công, Quách Dược Sư đã thật sự bị đánh cho liệng xiểng.
Tâm trạng của Quách Dược Sư giống như tâm trạng của Tông Vọng trong trận chiến trên sông Triều Bạch, có thể thoải mái hành động trong chiến trận, có thể đánh một trận thống khoái với anh hào trong thiên hạ, đặc biệt là khi trong quá khứ đều bị bó tay bó chân, chưa hề được thả lỏng. Trải qua cuộc đại chiến, trong lòng Tần Thiệu Khiêm vui sướng khôn tả. Tuy nhiên, trong tình hình chiến sự như thế này, trong lòng đôi bên đều có áp lực rất lớn.
Tình thế ở kinh thành như chỉ mành treo chuông, trong tình huống chiến cuộc ở Biện Lương diễn ra không ngừng, đối với rất nhiều người, cuộc chiến ở thôn Hạ là hết sức bất ngờ. Nhưng tất nhiên nó sẽ gây ra ảnh hưởng rất lớn đối với tình hình ở kinh thành. Mà ngay từ đầu, trận chiến này đã tỏ ra rất ác liệt, nếu muốn kết thúc, tuyệt đối cũng không phải là vì một bên nào đó đánh cho tới người cuối cùng mà kết thúc được.
Dù sao Quách Dược Sư cũng là hàng tướng, thực lực của Oán quân là do y tạo nên, y ra tay quyết đoán, dồn toàn lực tấn công thôn Hạ, là đạo làm tướng, nhưng tất nhiên, trong lòng y không muốn đội quân của mình chịu quá nhiều tổn thất trong cuộc chiến. Còn đối với bọn Tần Thiệu Khiêm và Ninh Nghị, đây lại là điều bọn họ mong đợi. Trên chiến trường này, một khi đập tan đội quân của Quách Dược Sư, thì cho dù Tông Vọng có dũng mãnh cỡ nào, có thể cũng phải lui binh cầu hòa.
Mà đối với Quách Dược Sư, quân thôn Hạ còn dũng mãnh hơn rất nhiều binh lính Vũ triều, nhưng suy cho cùng, đó cũng vẫn là quân đội Vũ triều, đội quân này cũng sẽ có chung tâm lý của kẻ thường xuyên chiến bại. Một khi mức độ ác liệt của cuộc chiến vượt quá giới hạn nào đó, nhất định đội quân này sẽ bị tan vỡ. Mà một khi tan vỡ, sự hỗn loạn sẽ xảy ra và điều mà quân phòng thủ thôn Hạ phải đối mặt, sẽ là bị tàn sát thẳng tay.
Đôi bên hầu như đều đang chờ đợi dấu hiệu bắt đầu tan vỡ của đối phương.
Nhưng lúc này, dường như cả đôi bên đều kiên cường vượt quá sức tưởng tượng.
Ngày 5 tháng Chạp, khẩu Du mộc pháo đầu tiên đang bắn chợt nổ nòng. Quách Dược Sư liền triển khai sách lược luân phiên tiến công với quy mô lớn hơn, binh lực của y rất đầy đủ, có thể dùng số lượng đông đảo để hạn chế Du mốc pháo bắn ra. Phía thôn Hạ phải giảm bớt việc sử dụng Du mộc pháo, bởi vậy trong nhất thời, tình thế bắt đầu nghiêng về phía Oán quân.
Ngày 6 tháng Chạp, lần đầu tiên Oán quân đánh vào tường doanh, Nhạc Phi dẫn quân tinh nhuệ tham gia chiến đấu, đồng thời cho hơn trăm trọng kỵ binh xuống ngựa, dùng ưu thế của áo giáp để tàn sát những binh sĩ Nữ Chân đột nhập vào tường doanh.
Ngày 7 tháng Chạp, bọn Ninh Nghị bắt đầu bận rộn chạy tới chạy lui trên chiến trường.
Lúc này hệ thống phòng ngự của thôn Hạ cơ bản chia làm năm đoạn là Giáp, Ất, Bính, Đinh và cửa chính của Trung đoạn. Ở Giáp đoạn của tường doanh, là hơn hai nghìn người dưới trướng của Lưu Thừa Tông. Ở Ất đoạn, tướng cầm đầu là Bàng Lục An, chỉ huy ba nghìn năm trăm người, Mao Nhất Sơn và cấp trên là Từ Lệnh Minh, cũng đang ở trên đoạn tường doanh này. Ở Trung đoạn, Lý Nghĩa chỉ huy hai nghìn người. Còn Hà Chí Thành dẫn ba nghìn quân, Tôn Nghiệp hai nghìn chia nhau phụ trách Binh đoạn và Đinh đoạn.
Tới ngày 8 tháng Chạp, với mức tổn thất ba nghìn người trong một vạn người, tỉ lệ tổn thất đã là ba mươi phần trăm, nhất là ở mặt phía đông tường doanh do Hà Chí Thành phụ trách, do bị tấn công mãnh liệt, số người chết và bị thương phải rời khỏi chiến trường, có lẽ đã vượt quá một phần ba, đó cũng là đoạn tường bị đột phá có số thương vong làm Ninh Nghị oán giận, bởi vì "đồng thoại nói không đúng". Lúc này đội dự bị với những binh lính còn đầy đủ sức lực cũng đã được đưa vào trận chiến, ở mặt đông nam, tất cả những binh lính có thể điều động, đều đã tập trung tới.
Tuy không thể tính chính xác, nhưng phía bọn Ninh Nghị cũng ít nhiều có thể suy đoán được, cho tới lúc này, số thương vong của Oán quân cũng đã sắp đạt tới hai phần mười, với hơn sáu nghìn người hoặc chết hoặc trọng thương không thể tham gia chiến đấu. Có thể hiểu được sự đau lòng của Quách Dược Sư, nhưng đối với trận này, rốt cuộc y muốn trả cái giá nào để giành thắng lợi, người khác không thể biết rõ được.
- Còn có thủ đoạn bịp bợm nào, giờ hết ra đi.
Ở khu vực sát chiến trường, Quách Dược Sư quan sát cuộc ác chiến ở chỗ vỡ của doanh tường phía xa xa, hầu như theo bản năng thốt ra những lời này. Ninh Nghị nghe tiếng gào thét kinh thiên động địa, nhìn thấy một bóng người trên vọng tháp phía xa xa, cũng nghiến răng:
- Có thể rồi.
Rồi hắn lấy từ trong người ra một lệnh tiễn pháo hoa.
Lúc này Hồng Đề đã giết về phía trước, chợt một mũi tên băng qua đoàn người, bay thẳng về phía Ninh Nghị, lập tức có một bóng người lao tới, xô vào người hắn.
"Phựt" một tiếng, từ rất xa, Quách Dược Sư và bọn Trương Lệnh Huy nhìn thấy một luồng sáng bay lên bầu trời, da đầu bọn họ đều tê dại, Trương Lệnh Huy liền kêu lên:
- Cho bọn họ rút về mau
Quách Dược Sư vung mạnh tay:
- Cung thủ áp sát! Kỵ binh áp sát! Tấn công tiếp ứng!
Quách Dược Sư không truyền lệnh rút lui, nhưng đương nhiên, phản ứng của ông ta cũng đã chậm. Ngay phía ngoài chỗ vỡ của tường doanh, từ dưới mặt đất, một cơn chấn động đột ngột truyền tới, hơi nóng và ánh sáng cuồn cuộn bay lên, tung lên bùn đất nóng rực. Nơi đó là một khu vực rộng hơn trượng, dài khoảng vài trường, lúc này đang đông nghịt Oán quân xung phong.
Vụ nổ mạnh hất tung máu tươi, bùn đất và tay chân người lên trời, tạo nên một bức màn ghê rợn, những quả chông sắt mang theo thịt nát văng ra bốn phía. Đó là hiệu quả của ba đám địa lôi đồng thời nổ tung, vốn được bí mật chôn ở dưới chỗ tường doanh bị vỡ cách đây mấy ngày. Đám Ninh Nghị từng thấp thỏm lo lắng ngòi nổ của chúng không hoạt động, nhưng cũng may là thời gian gần đây, máy đánh lửa đã có nhiều cải tiến có hiệu quả.
Vụ nổ đột ngột khiến hai, ba mươi người bị thương vong, nhưng điều quan trọng hơn là, nó đã chặn đường lui của những binh lính Oán quân vừa xâm nhập vào tuyến phòng ngự của phía thôn Hạ. Khi tiếng nổ mạnh vang lên, gần hai trăm binh sĩ đã vọt qua chỗ tường vỡ quay đầu lại nhìn lên, bức màn máu và bùn đất cao cao kia đã cắt đứt sự liên hệ giữa họ và đồng bạn.
Cho dù sự ngăn cách chỉ trong chốc lát, nhưng áp lực tâm lý mà vụ nổ gây ra, cũng đủ lớn,
Từ xa, Quách Dược Sư nhìn thấy tất cả, khuôn mặt run rẩy, Trương Lệnh Huy thì ngây người mà nhìn.
- Giết chúng!
Phía trong trường doanh, Ninh Nghị nửa người vấy máu, mặt mày hung dữ, dìu một binh sĩ cũng toàn thân đầy máu, vung đao hô to:
- Giết chúng, giết chúng đi!
Dưới màn trời, ánh đạo và làn sóng máu lan tràn tới.
****
Thành Biện Lương, lúc này đã sắp chạng vạng. Chiều nay, do thời gian phát động tấn công không thích hợp, quân Nữ Chân đã không tiếp tục tấn công khi bị ngăn trở, đối với phía phòng thủ thành Biện Lương, đây là lúc thu dọn chiến trường.
Một số quân coi giữ chính quy vẫn đang canh phòng trên tường thành, một số binh sĩ đi lên tường thành thu dọn thi thể. Thỉnh thoảng, từ trên tường thành vang lên tiếng nói chuyện, tiếng quát to, ngoài ra còn có những tiếng kêu la thảm thiết của những người bị thương. Không phải ai cũng chịu đựng được đau đớn.
Những người phụ trách hậu cần đã mang cơm, cháo và bánh màn thầu tới, có người mang lên tận tường thành, có người phát thức ăn ở mấy chỗ cố định. Xe ngựa chở thi thể đứng ở ven tường thành, từng chiếc từng chiếc chạy tới, chạy lui hết sức cẩn thận.
Cách tường thành không xa, bên cạnh doanh thương binh, một chiếc bục dài đã được dựng lên, xung quanh đốt đuốc sáng rực, nhiều binh sĩ đang tụ tập ở xung quanh. Trong số đó, có nhiều thương binh, cũng có người cầm bánh, bưng cơm, cháo, vẻ mặt mệt mỏi, tìm chỗ ngồi xuống gần đó
Tuy đang là thời chiến, khu vực gần tường thành bị quản lý chặt chẽ, nhưng tình thế phía này hơi buông lỏng, có thể là do được đại quan trong quân cho phép. Lúc này, có mấy người đi về phía này, họ mặc trang phục võ tướng thân vệ, cũng không làm gì khác thường, cho nên không ai ngăn cản.
Người cầm đầu bước đi trầm ổn, khuôn mặt kiến nghị, trông rất uy nghi. Vừa đi, y vừa nhìn tình huống xung quanh, thỉnh thoảng gật đầu, hoặc thấp giọng nói mấy câu với người đi theo.
Nếu đại quan trong quân nhận ra thân phận của y, có lẽ phản ứng đầu tiên sẽ là quỳ xuống.
- Đỗ Thành Hi, ta biết nỗi lo lắng của ngươi, nhưng hãy gạt bỏ ý nghĩ trong đầu ngươi đi, quân Nữ Chân công thành cho tới lúc trời tối đen mới ngừng lại, trẫm ta đã suy nghĩ kỹ càng mới tới đây, chỉ muốn quan sát mà thôi. Người xem, những thương binh kia, ta không sẽ tuyên dương, mà chỉ liếc nhìn, trong lòng hiểu rõ là được.
Lúc này, người âm thầm cải trang tới đây, chính là Cảnh Hàn Đế Chu Triết. Với quyền lực của mình, hoàng đế quyết tâm tới đây, đương nhiên Đỗ Thành Hỉ không thể ngăn được. Về mặt nào đó mà nói, tới đây quan sát chiến trường, mà không muốn tuyên dương những anh hùng chiến sĩ này, là hoàng đế muốn ghi tạc hình ảnh của họ vào lòng. Tuy xưa nay hoàng đế sống an nhàn sung sướng, nhưng lúc này nhìn thấy cảnh tượng đẫm máu, cũng không cảm thấy khó chịu, cùng lắm chỉ là thỉnh thoáng nhíu mày mà thôi.
Làm người đứng ở nơi cao nhất, tâm tình của Chu Triết cũng không suy sụp chỉ vì một chút máu tanh, cho dù lần đầu tiên nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ như vậy, nhưng vẫn thể hiện sự hàm dưỡng của một vị hoàng đế.
- Tuy nhiên cái bục bên cạnh doanh thương binh kia là để làm gì? Diễn tuồng sao?
- Thần nghĩ có thể là có một vị đại nhân nào đó muốn phát biểu, nhưng có vẻ không giống lắm
Đỗ Thành Hỉ nhìn sang:
- Để thần đi hỏi xem.
Đỗ Thành Hi chạy chầm chậm tới trước, Chu Triết thì đi thẳng về phía đám người bên kia, lúc này, họ đang cười nói ầm ĩ. Một lúc sau, Đỗ Thành Hỉ quay lại, tìm được Chu Triết trong đám người.
- Long Long công tử, là cô nương ở Phàn Lâu muốn biểu diễn cho bọn họ xem, đền đáp sự khổ cực của bọn họ, hình như có Sư Sư cô nương trong số đó
- Biểu diễn? Đúng là trò đùa!
Chu Triết nhíu mày, thấp giọng nói:
- Binh hung chiến nguy, cho kỹ nữ biểu diễn bên tường thành? Ai bày ra việc này vậy?
Nhưng Chu Triết thật sự không nghĩ tới việc chạy tới xem. Cũng vào lúc này, có người đứng trên bục gõ thanh la, trong nháy mắt, chung quanh hầu như yên lặng, có người hô lên:
- Đừng ồn ào nữa! Sư Sư cô nương tới!
- Có muốn Sư Sư cô nương ngừng biểu diễn không vậy
- Ngươi đừng ầm ĩ
Rốt cuộc xung quanh cũng yên lặng, Chu Triết chắp hai tay sau lưng, lại nhíu mày: -
- Làm cho Sư Sư cô nương ngừng biểu diễn, nàng cũng không tiếp khách được
Cái bục rất giản dị, người bước lên cũng rất giản dị. Chu Triết thấy một cô gái ăn mặc rất bình thường, dường như vừa vội vàng làm xong việc gì đó, tóc hơi rối, y phục rất mộc mạc, có lẽ vừa mới thay không lâu, tay ôm một cây đàn tranh. Nàng buông đàn xuống, khom người vái chào.
- Chào các vị huynh đệ, chào mọi người. Ta là Lý Sư Sư, vừa xong việc vội chạy tới, có lẽ không được tề chỉnh lắm, mong mọi người thông cảm. Ta rửa mặt rồi
Nàng mỉm cười, mọi người cũng bật cười. Giọng nàng không tệ, chỉ có điều, quá nửa các cô nương ở Phàn Lâu không biết dùng những lời lẽ như vậy để nói chuyện với người khác.
Chu Triết đi về phía đó, y mặc y phục quan quân, người khác không dám ngăn y lại. Y nghe cô nương kia nói:
- Thật sự ta không biết rõ là mọi người muốn xem cái gì, ta vốn định biểu diễn nhào lộn, nhưng lại không có sức. Ừm, ta sẽ không nói lung tung nữa, trước tiên xin đàn tặng mọi người một bản.
- Đàn tranh thì tươi sáng.
Chu Triết thấp giọng nói:
- Mặc dù tiếng đàn tranh tươi sáng, thích hợp với không khí chiến trường, nhưng ta lại muốn nghe nàng nói chuyện. Thực tế là làm trò khôi hài một lúc.
Cô gái ngồi xuống ở một đầu bục gỗ, trước hết quay đầu nhìn sang bên cạnh một chút, rồi thở phào nhẹ nhõm, ngón tay bắt đầu gãy đàn.
Tiếng đàn vừa vang lên, Chu Triết hơi ngẩng đầu, miệng hơi mấp máy:
- Khúc Lan Lăng Vương nhập trận.
+
(1) Binh vô thường thế, thủy vô thường hình: Việc binh không diễn ra theo những tình thế nhất định, cũng như nước không có hình dạng cố định. Ý nói trong việc dùng binh không có gì là bất biến không thay đổi, phải dùng biện pháp cụ thể để giải quyết tình huống cụ thể.
"Tôn Tử binh pháp" nói: "Binh vô thường thế, thủy vô thường hình." (1)
Trên chiến trường tình huống phức tạp, thay đổi trong nháy mắt, tuy nói mỗi tình thế xảy ra đều sẽ có biện pháp ứng phó nhất định, nhưng đó chỉ là những quy luật cơ bản, muốn áp dụng quy luật một cách linh hoạt cho từng trường hợp, thật sự không phải dễ. Tướng loại kém thường chỉ biết cách bày trận ra sao, biết muốn đối phó với kỵ binh, thì bộ binh phải dùng rừng thương dày đặc mà chống đỡ, cung thủ đối phương bắn tên thì dùng thuẫn che chắn. Tướng loại trung bình có thể biết nguyên nhân vì sao phải làm điều này điều nọ, hiểu được phần lớn những biến đổi, cũng hiểu được vì sao xảy ra biến đổi như vậy, do đó biết được trong tình huống nào, bộ binh có thể phản xung phong đối với kỵ binh, biết làm thế nào dùng binh cầm thương đối phó với mưa tên của kẻ địch.
Cũng giống như quá trình trưởng thành của con người, khi còn nhỏ, ai cũng luôn tìm kiếm một đạo lý nhất định nào đó, tưởng rằng hiểu được một đạo lý, hiểu được một câu nói có ý nghĩa rõ ràng, là có thể tìm được phương hướng cho cuộc đời mình. Nhưng trên thực tế sự trưởng thành của con người lại không xảy ra theo hình thức như vậy. Bạn có thể tìm được vô số câu nói nghe có vẻ có lý, thậm chí mỗi một câu nói, đều tồn tại những câu nói tương tự nhưng có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại.
Rồi sau đó, người ta bắt đầu nhận thấy, khi người khác nói những lời như vậy, họ đã trải qua những điều gì, đã sống trong hoàn cảnh nào, rồi mới có thể nói được những điều khiến người khác có thể đồng cảm, từ đó họ có thể hiểu được vì sao những lời nói đầy trí tuệ của tiền nhân, lại có thể được lưu truyền. Cho đến lúc rốt cuộc người học có thể hiểu được điểm chủ yếu trong tư duy của rất nhiều người, có thể từ đó so sánh đối chiếu, học một biết mười, thì hắn mới có thể có được năng lực tự suy xét một cách độc lập, mà thoát ly khỏi mới sách vở khô khan, chỉ có như thế mới có thể tùy hoàn cảnh mà áp dụng danh ngôn.
Nguyên tắc là như thế. Trong phần lớn tình huống, cần nhất vẫn là có lực lượng, đặc biệt là trên chiến trường ở thời đại này, đội bên giao chiến, lực lượng và tinh thần chiến đấu thường khá chênh lệch nhau, rất nhiều tình huống trên chiến trường, cơ bản chỉ là dùng sức mạnh để đè ép mà thôi, nếu là lại kết hợp một chút với sự khắc chế binh chủng, thì cục diện sẽ rất tốt.
Việc đời đại thể là như thế, giống như ở đời sau, trong xã hội có rất nhiều người chỉ học thuộc lòng những câu danh ngôn, cách ngôn và những "phương thuốc" tâm linh, thậm chí có rất nhiều người chẳng thuộc bất kỳ câu danh ngôn, cách ngôn nào, cũng vẫn có thể sống được, thậm chí sống không tệ. Thế nhưng, những người học thuộc danh ngôn, sẽ có phương hướng, có mục đích, có sự nhận biết rõ ràng để nỗ lực gấp bội. Người hấp thu và tham khảo trí tuệ của người khác, cuối cùng hình thành nên hệ thống quy luật khách quan của bản thân mình, mới có thể đủ sức ứng phó với tất cả tình huống mới, mà nói một cách rất chân thực, người thật sự có thể leo lên tới tầng lớp cao nhất, vị trí cao nhất trong xã hội, ngoại trừ con ông cháu cha, chắc chắn đều là những người có được hệ thống quy luật khách quan hoàn chỉnh của riêng mình, không có ngoại lệ.
Trong trận chiến ở sông Triều Bạch, điều cần vận dụng chỉ là những thao tác thuần thục của binh pháp. Nhưng trong trận chiến ở thôn Hạ, về một ý nghĩa nào đó mà nói, điều được thử thách, chính là trí tuệ.
Dưới sự phong tỏa của Du mộc pháo, của những trận mưa tên và sự nghiền ép của trọng kỵ binh, Trương Lệnh Huy, Lưu Thuấn Nhân vẫn có thể tổ chức luân phiên tiến công ở khoảng cách xa, cho thấy bản lĩnh làm tướng của họ. Nhưng nếu đánh gần mà vẫn cứ tiếp tục đánh kiểu đó, thì một vạn người của họ, tuyệt nhiên chưa đủ để đánh dằng dai với quân phòng thủ thôn Hạ, nhất là dưới sự uy hiếp của tên, đạn pháo và trọng kỵ binh. Trong hoàn cảnh bất lợi, ý chí chiến đấu chắc chắn cũng không mạnh mẽ, một khi cứng rắn đối chọi, e rằng tất cả đều cùng chôn ở chỗ này.
Cũng nhờ Quách Dược Sư tới quá nhanh, mới có thể xoay chuyển được tình thế. Ngày 3 tháng Chạp, ông ta đột nhiên xuất thủ, thật sự thể hiện phẩm chất của một danh tướng. Trong khoảng thời gian ngắn, hiểu rõ hạn chế của hỏa khí, ông ta bèn dùng tên lửa để khắc chế, rồi cho tướng sĩ xung phong để kéo giãn cự ly, khi tới được dưới tường gỗ, mới phát động tiến công ráo riết. Một lượt tiến công không được, lập tức rút đi, trong một khoảng thời gian ngắn, thật sự khiến phía thôn Hạ phải xoay trái xoay phải, luống cuống tay chân.
Thế nhưng trong chiến tranh trí tuệ, không ai lại chỉ ứng phó bằng phương pháp không thay đổi. Khi quân phòng thủ thôn Hạ bắt đầu điều chỉnh việc bố trí và bắn của Du mộc pháo, nhất là nhằm vào Oán quân đang công thành mà bắn, tiếng nổ dữ dội và lửa khói do pháo sinh ra vẫn gây ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý chí chiến đấu của đối phương. Mấy cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của Quách Dược Sư, cho dù đã được cung thủ bắn tên lửa để áp chế, vẫn bị Du mộc pháo của thôn Hạ chọn đúng thời cơ bắn ra, đánh cho tan tành.
Sau đó Quách Dược Sư thay đổi sách lược, bắt đầu tấn công đột phá với quy mô lớn vào mặt phía đông của tường thành, vị trí được lựa chọn, là một đoạn tường đã từng có tám trăm người bị giết chết.
Trước kia Oán quân lựa chọn vị trí này làm điểm đột phá, là vì sự phòng ngự của đối phương ở đoạn tường này hơi yếu, nhưng sau khi đã tập kết đại quân hơn ba vạn người, Quách Dược Sư đã không còn phải lo lắng nhiều đến sự uy hiếp của đội trọng kỵ binh hơn trăm người, nên quyết định chọn nơi này làm đột phá khẩu.
Chiều ngày 4 tháng Chạp, đông đảo tướng sĩ Thường Thắng quân chen nhau giẫm đạp lên đầu người và thi thể, bắt đầu tiến công, các cung thủ cũng bắt đầu bắn tên lửa hết đợt này tới đợt khác vào xung quanh tường doanh. Quân phòng thủ thôn Hạ cũng đáp trả bằng cung tên. Tới chạng vạng, khi cuộc tấn công trở nên kịch liệt nhất, cửa bên hông doanh tường chợt mở ra, hơn trăm trọng kỵ xuất hiện, xếp thành hàng tề chỉnh. Một lúc sau, hai mươi mấy khẩu Du mộc pháo ở mặt nam tường doanh đồng thời bắn ra, với sự phối hợp của hàng loạt cung tên, phản công lại Oán quân, mà trọng kỵ chỉ là hư chiêu, sau đó không lâu, lại đóng cửa quay về.
Từ đó trở đi, đôi bên vẫn liên tục đấu trí và đấu dũng khí. Sức chiến đấu của binh lính Thường Thắng quân thật sự cao hơn quân phòng thủ thôn Hạ, đồng thời nhân số lên tới ba vạn sáu nghìn người, đó là ưu thế rất lớn. Tuy nhiên ngược lại, về sự biến hóa binh pháp, do bị ảnh hưởng của tình hình mặt phía bắc, chiến pháp sở trường của Quách Dược Sư là chắc chắn, chứ không phải là biến hóa đa dạng.
Mà phía thôn Hạ, do Vũ triều văn hóa hưng thịnh, trong chiến tranh, các loại binh thư lan tràn, rất thịnh hành. Những cuốn binh thư đó cũng không phải vô dụng, một khi đọc hiểu, dù sao cũng có thể thấu hiểu được tư duy hệ thống của một số trí giả. Tuy Tần Thiệu Khiêm hơi thô kệch, nhưng trên thực tế, được coi là nho tướng xuất thân, y chịu ảnh hưởng của phụ thân, cũng đọc thuộc nhiều binh thư, về chiến pháp cũng không hề bảo thủ không chịu thay đổi, chỉ là trước đó, cho dù chiến pháp có linh hoạt cỡ nào, mà binh dưới tay không thể sử dụng, thì cũng vô nghĩa. Nhưng tình thế lần này ở thôn Hạ, không giống như trước nữa.
Hàng loạt binh sĩ thật sự có thể sử dụng, đã thay thế cho hệ thống cồng kềnh, phù phiếm của Võ Thụy doanh, sự bố trí phòng thủ cũng trở nên vững chắc, phối hợp với sự hỗ trợ linh hoạt của Du mộc pháo. Cho dù sức chiến đấu của từng binh sĩ có phần thua kém binh sĩ Oán quân, nhưng trên chiến trường này, Tần Thiệu Khiêm lần đầu tiên phát huy ra sở học một đời, lần lượt đưa ra nhận định và những hành động phản công, chi viện đối với mỗi tình huống trên chiến trường và sử dụng mưu kế, làm cho sự phòng ngự của thôn Hạ giống như một ngọn lao sắt kiên cố không thể phá được. Khi bắt đầu dốc sức tấn công, Quách Dược Sư đã thật sự bị đánh cho liệng xiểng.
Tâm trạng của Quách Dược Sư giống như tâm trạng của Tông Vọng trong trận chiến trên sông Triều Bạch, có thể thoải mái hành động trong chiến trận, có thể đánh một trận thống khoái với anh hào trong thiên hạ, đặc biệt là khi trong quá khứ đều bị bó tay bó chân, chưa hề được thả lỏng. Trải qua cuộc đại chiến, trong lòng Tần Thiệu Khiêm vui sướng khôn tả. Tuy nhiên, trong tình hình chiến sự như thế này, trong lòng đôi bên đều có áp lực rất lớn.
Tình thế ở kinh thành như chỉ mành treo chuông, trong tình huống chiến cuộc ở Biện Lương diễn ra không ngừng, đối với rất nhiều người, cuộc chiến ở thôn Hạ là hết sức bất ngờ. Nhưng tất nhiên nó sẽ gây ra ảnh hưởng rất lớn đối với tình hình ở kinh thành. Mà ngay từ đầu, trận chiến này đã tỏ ra rất ác liệt, nếu muốn kết thúc, tuyệt đối cũng không phải là vì một bên nào đó đánh cho tới người cuối cùng mà kết thúc được.
Dù sao Quách Dược Sư cũng là hàng tướng, thực lực của Oán quân là do y tạo nên, y ra tay quyết đoán, dồn toàn lực tấn công thôn Hạ, là đạo làm tướng, nhưng tất nhiên, trong lòng y không muốn đội quân của mình chịu quá nhiều tổn thất trong cuộc chiến. Còn đối với bọn Tần Thiệu Khiêm và Ninh Nghị, đây lại là điều bọn họ mong đợi. Trên chiến trường này, một khi đập tan đội quân của Quách Dược Sư, thì cho dù Tông Vọng có dũng mãnh cỡ nào, có thể cũng phải lui binh cầu hòa.
Mà đối với Quách Dược Sư, quân thôn Hạ còn dũng mãnh hơn rất nhiều binh lính Vũ triều, nhưng suy cho cùng, đó cũng vẫn là quân đội Vũ triều, đội quân này cũng sẽ có chung tâm lý của kẻ thường xuyên chiến bại. Một khi mức độ ác liệt của cuộc chiến vượt quá giới hạn nào đó, nhất định đội quân này sẽ bị tan vỡ. Mà một khi tan vỡ, sự hỗn loạn sẽ xảy ra và điều mà quân phòng thủ thôn Hạ phải đối mặt, sẽ là bị tàn sát thẳng tay.
Đôi bên hầu như đều đang chờ đợi dấu hiệu bắt đầu tan vỡ của đối phương.
Nhưng lúc này, dường như cả đôi bên đều kiên cường vượt quá sức tưởng tượng.
Ngày 5 tháng Chạp, khẩu Du mộc pháo đầu tiên đang bắn chợt nổ nòng. Quách Dược Sư liền triển khai sách lược luân phiên tiến công với quy mô lớn hơn, binh lực của y rất đầy đủ, có thể dùng số lượng đông đảo để hạn chế Du mốc pháo bắn ra. Phía thôn Hạ phải giảm bớt việc sử dụng Du mộc pháo, bởi vậy trong nhất thời, tình thế bắt đầu nghiêng về phía Oán quân.
Ngày 6 tháng Chạp, lần đầu tiên Oán quân đánh vào tường doanh, Nhạc Phi dẫn quân tinh nhuệ tham gia chiến đấu, đồng thời cho hơn trăm trọng kỵ binh xuống ngựa, dùng ưu thế của áo giáp để tàn sát những binh sĩ Nữ Chân đột nhập vào tường doanh.
Ngày 7 tháng Chạp, bọn Ninh Nghị bắt đầu bận rộn chạy tới chạy lui trên chiến trường.
Lúc này hệ thống phòng ngự của thôn Hạ cơ bản chia làm năm đoạn là Giáp, Ất, Bính, Đinh và cửa chính của Trung đoạn. Ở Giáp đoạn của tường doanh, là hơn hai nghìn người dưới trướng của Lưu Thừa Tông. Ở Ất đoạn, tướng cầm đầu là Bàng Lục An, chỉ huy ba nghìn năm trăm người, Mao Nhất Sơn và cấp trên là Từ Lệnh Minh, cũng đang ở trên đoạn tường doanh này. Ở Trung đoạn, Lý Nghĩa chỉ huy hai nghìn người. Còn Hà Chí Thành dẫn ba nghìn quân, Tôn Nghiệp hai nghìn chia nhau phụ trách Binh đoạn và Đinh đoạn.
Tới ngày 8 tháng Chạp, với mức tổn thất ba nghìn người trong một vạn người, tỉ lệ tổn thất đã là ba mươi phần trăm, nhất là ở mặt phía đông tường doanh do Hà Chí Thành phụ trách, do bị tấn công mãnh liệt, số người chết và bị thương phải rời khỏi chiến trường, có lẽ đã vượt quá một phần ba, đó cũng là đoạn tường bị đột phá có số thương vong làm Ninh Nghị oán giận, bởi vì "đồng thoại nói không đúng". Lúc này đội dự bị với những binh lính còn đầy đủ sức lực cũng đã được đưa vào trận chiến, ở mặt đông nam, tất cả những binh lính có thể điều động, đều đã tập trung tới.
Tuy không thể tính chính xác, nhưng phía bọn Ninh Nghị cũng ít nhiều có thể suy đoán được, cho tới lúc này, số thương vong của Oán quân cũng đã sắp đạt tới hai phần mười, với hơn sáu nghìn người hoặc chết hoặc trọng thương không thể tham gia chiến đấu. Có thể hiểu được sự đau lòng của Quách Dược Sư, nhưng đối với trận này, rốt cuộc y muốn trả cái giá nào để giành thắng lợi, người khác không thể biết rõ được.
- Còn có thủ đoạn bịp bợm nào, giờ hết ra đi.
Ở khu vực sát chiến trường, Quách Dược Sư quan sát cuộc ác chiến ở chỗ vỡ của doanh tường phía xa xa, hầu như theo bản năng thốt ra những lời này. Ninh Nghị nghe tiếng gào thét kinh thiên động địa, nhìn thấy một bóng người trên vọng tháp phía xa xa, cũng nghiến răng:
- Có thể rồi.
Rồi hắn lấy từ trong người ra một lệnh tiễn pháo hoa.
Lúc này Hồng Đề đã giết về phía trước, chợt một mũi tên băng qua đoàn người, bay thẳng về phía Ninh Nghị, lập tức có một bóng người lao tới, xô vào người hắn.
"Phựt" một tiếng, từ rất xa, Quách Dược Sư và bọn Trương Lệnh Huy nhìn thấy một luồng sáng bay lên bầu trời, da đầu bọn họ đều tê dại, Trương Lệnh Huy liền kêu lên:
- Cho bọn họ rút về mau
Quách Dược Sư vung mạnh tay:
- Cung thủ áp sát! Kỵ binh áp sát! Tấn công tiếp ứng!
Quách Dược Sư không truyền lệnh rút lui, nhưng đương nhiên, phản ứng của ông ta cũng đã chậm. Ngay phía ngoài chỗ vỡ của tường doanh, từ dưới mặt đất, một cơn chấn động đột ngột truyền tới, hơi nóng và ánh sáng cuồn cuộn bay lên, tung lên bùn đất nóng rực. Nơi đó là một khu vực rộng hơn trượng, dài khoảng vài trường, lúc này đang đông nghịt Oán quân xung phong.
Vụ nổ mạnh hất tung máu tươi, bùn đất và tay chân người lên trời, tạo nên một bức màn ghê rợn, những quả chông sắt mang theo thịt nát văng ra bốn phía. Đó là hiệu quả của ba đám địa lôi đồng thời nổ tung, vốn được bí mật chôn ở dưới chỗ tường doanh bị vỡ cách đây mấy ngày. Đám Ninh Nghị từng thấp thỏm lo lắng ngòi nổ của chúng không hoạt động, nhưng cũng may là thời gian gần đây, máy đánh lửa đã có nhiều cải tiến có hiệu quả.
Vụ nổ đột ngột khiến hai, ba mươi người bị thương vong, nhưng điều quan trọng hơn là, nó đã chặn đường lui của những binh lính Oán quân vừa xâm nhập vào tuyến phòng ngự của phía thôn Hạ. Khi tiếng nổ mạnh vang lên, gần hai trăm binh sĩ đã vọt qua chỗ tường vỡ quay đầu lại nhìn lên, bức màn máu và bùn đất cao cao kia đã cắt đứt sự liên hệ giữa họ và đồng bạn.
Cho dù sự ngăn cách chỉ trong chốc lát, nhưng áp lực tâm lý mà vụ nổ gây ra, cũng đủ lớn,
Từ xa, Quách Dược Sư nhìn thấy tất cả, khuôn mặt run rẩy, Trương Lệnh Huy thì ngây người mà nhìn.
- Giết chúng!
Phía trong trường doanh, Ninh Nghị nửa người vấy máu, mặt mày hung dữ, dìu một binh sĩ cũng toàn thân đầy máu, vung đao hô to:
- Giết chúng, giết chúng đi!
Dưới màn trời, ánh đạo và làn sóng máu lan tràn tới.
****
Thành Biện Lương, lúc này đã sắp chạng vạng. Chiều nay, do thời gian phát động tấn công không thích hợp, quân Nữ Chân đã không tiếp tục tấn công khi bị ngăn trở, đối với phía phòng thủ thành Biện Lương, đây là lúc thu dọn chiến trường.
Một số quân coi giữ chính quy vẫn đang canh phòng trên tường thành, một số binh sĩ đi lên tường thành thu dọn thi thể. Thỉnh thoảng, từ trên tường thành vang lên tiếng nói chuyện, tiếng quát to, ngoài ra còn có những tiếng kêu la thảm thiết của những người bị thương. Không phải ai cũng chịu đựng được đau đớn.
Những người phụ trách hậu cần đã mang cơm, cháo và bánh màn thầu tới, có người mang lên tận tường thành, có người phát thức ăn ở mấy chỗ cố định. Xe ngựa chở thi thể đứng ở ven tường thành, từng chiếc từng chiếc chạy tới, chạy lui hết sức cẩn thận.
Cách tường thành không xa, bên cạnh doanh thương binh, một chiếc bục dài đã được dựng lên, xung quanh đốt đuốc sáng rực, nhiều binh sĩ đang tụ tập ở xung quanh. Trong số đó, có nhiều thương binh, cũng có người cầm bánh, bưng cơm, cháo, vẻ mặt mệt mỏi, tìm chỗ ngồi xuống gần đó
Tuy đang là thời chiến, khu vực gần tường thành bị quản lý chặt chẽ, nhưng tình thế phía này hơi buông lỏng, có thể là do được đại quan trong quân cho phép. Lúc này, có mấy người đi về phía này, họ mặc trang phục võ tướng thân vệ, cũng không làm gì khác thường, cho nên không ai ngăn cản.
Người cầm đầu bước đi trầm ổn, khuôn mặt kiến nghị, trông rất uy nghi. Vừa đi, y vừa nhìn tình huống xung quanh, thỉnh thoảng gật đầu, hoặc thấp giọng nói mấy câu với người đi theo.
Nếu đại quan trong quân nhận ra thân phận của y, có lẽ phản ứng đầu tiên sẽ là quỳ xuống.
- Đỗ Thành Hi, ta biết nỗi lo lắng của ngươi, nhưng hãy gạt bỏ ý nghĩ trong đầu ngươi đi, quân Nữ Chân công thành cho tới lúc trời tối đen mới ngừng lại, trẫm ta đã suy nghĩ kỹ càng mới tới đây, chỉ muốn quan sát mà thôi. Người xem, những thương binh kia, ta không sẽ tuyên dương, mà chỉ liếc nhìn, trong lòng hiểu rõ là được.
Lúc này, người âm thầm cải trang tới đây, chính là Cảnh Hàn Đế Chu Triết. Với quyền lực của mình, hoàng đế quyết tâm tới đây, đương nhiên Đỗ Thành Hỉ không thể ngăn được. Về mặt nào đó mà nói, tới đây quan sát chiến trường, mà không muốn tuyên dương những anh hùng chiến sĩ này, là hoàng đế muốn ghi tạc hình ảnh của họ vào lòng. Tuy xưa nay hoàng đế sống an nhàn sung sướng, nhưng lúc này nhìn thấy cảnh tượng đẫm máu, cũng không cảm thấy khó chịu, cùng lắm chỉ là thỉnh thoáng nhíu mày mà thôi.
Làm người đứng ở nơi cao nhất, tâm tình của Chu Triết cũng không suy sụp chỉ vì một chút máu tanh, cho dù lần đầu tiên nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ như vậy, nhưng vẫn thể hiện sự hàm dưỡng của một vị hoàng đế.
- Tuy nhiên cái bục bên cạnh doanh thương binh kia là để làm gì? Diễn tuồng sao?
- Thần nghĩ có thể là có một vị đại nhân nào đó muốn phát biểu, nhưng có vẻ không giống lắm
Đỗ Thành Hỉ nhìn sang:
- Để thần đi hỏi xem.
Đỗ Thành Hi chạy chầm chậm tới trước, Chu Triết thì đi thẳng về phía đám người bên kia, lúc này, họ đang cười nói ầm ĩ. Một lúc sau, Đỗ Thành Hỉ quay lại, tìm được Chu Triết trong đám người.
- Long Long công tử, là cô nương ở Phàn Lâu muốn biểu diễn cho bọn họ xem, đền đáp sự khổ cực của bọn họ, hình như có Sư Sư cô nương trong số đó
- Biểu diễn? Đúng là trò đùa!
Chu Triết nhíu mày, thấp giọng nói:
- Binh hung chiến nguy, cho kỹ nữ biểu diễn bên tường thành? Ai bày ra việc này vậy?
Nhưng Chu Triết thật sự không nghĩ tới việc chạy tới xem. Cũng vào lúc này, có người đứng trên bục gõ thanh la, trong nháy mắt, chung quanh hầu như yên lặng, có người hô lên:
- Đừng ồn ào nữa! Sư Sư cô nương tới!
- Có muốn Sư Sư cô nương ngừng biểu diễn không vậy
- Ngươi đừng ầm ĩ
Rốt cuộc xung quanh cũng yên lặng, Chu Triết chắp hai tay sau lưng, lại nhíu mày: -
- Làm cho Sư Sư cô nương ngừng biểu diễn, nàng cũng không tiếp khách được
Cái bục rất giản dị, người bước lên cũng rất giản dị. Chu Triết thấy một cô gái ăn mặc rất bình thường, dường như vừa vội vàng làm xong việc gì đó, tóc hơi rối, y phục rất mộc mạc, có lẽ vừa mới thay không lâu, tay ôm một cây đàn tranh. Nàng buông đàn xuống, khom người vái chào.
- Chào các vị huynh đệ, chào mọi người. Ta là Lý Sư Sư, vừa xong việc vội chạy tới, có lẽ không được tề chỉnh lắm, mong mọi người thông cảm. Ta rửa mặt rồi
Nàng mỉm cười, mọi người cũng bật cười. Giọng nàng không tệ, chỉ có điều, quá nửa các cô nương ở Phàn Lâu không biết dùng những lời lẽ như vậy để nói chuyện với người khác.
Chu Triết đi về phía đó, y mặc y phục quan quân, người khác không dám ngăn y lại. Y nghe cô nương kia nói:
- Thật sự ta không biết rõ là mọi người muốn xem cái gì, ta vốn định biểu diễn nhào lộn, nhưng lại không có sức. Ừm, ta sẽ không nói lung tung nữa, trước tiên xin đàn tặng mọi người một bản.
- Đàn tranh thì tươi sáng.
Chu Triết thấp giọng nói:
- Mặc dù tiếng đàn tranh tươi sáng, thích hợp với không khí chiến trường, nhưng ta lại muốn nghe nàng nói chuyện. Thực tế là làm trò khôi hài một lúc.
Cô gái ngồi xuống ở một đầu bục gỗ, trước hết quay đầu nhìn sang bên cạnh một chút, rồi thở phào nhẹ nhõm, ngón tay bắt đầu gãy đàn.
Tiếng đàn vừa vang lên, Chu Triết hơi ngẩng đầu, miệng hơi mấp máy:
- Khúc Lan Lăng Vương nhập trận.
+
(1) Binh vô thường thế, thủy vô thường hình: Việc binh không diễn ra theo những tình thế nhất định, cũng như nước không có hình dạng cố định. Ý nói trong việc dùng binh không có gì là bất biến không thay đổi, phải dùng biện pháp cụ thể để giải quyết tình huống cụ thể.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook