Nửa Chén Rượu
-
Chương 2: Cánh ưng cô độc
Lúc bắt tay vào khắc bia ta mới phát hiện không đủ đá nên bèn đi mua, xuống dưới lầu thì bị đạo sĩ mù xem bói ngăn lại: “Nhạn cô nương, sắp tới cô có tai ương dính máu.”
Đạo sĩ mù làm ăn rất khấm khá, ngày nào trước gian hàng cũng đông nghẹt người. Lần này ông bỏ qua chuyện tính mệnh cho phân nửa khách đang chờ để chạy đến cản ta, đúng là làm khó ông ấy. Có lẽ ông ấy không cam lòng chuyện dựa vào đoán mệnh kiếm được đầy bồn đầy bát, nức tiếng thần bói gần xa mà vẫn không moi được một văn tiền từ chỗ ta.
Ta hỏi, “Phải tốn tiền giải xui?”
“Không cần,” Đạo sĩ mù nói, “Tâm lặng như nước là đủ.”
Nói rồi ông quay người tiếp tục làm ăn, không đòi ta dù chỉ một đồng.
Đá xanh ở chợ Tây vẫn giữ nguyên giá, một khối ba lượng bạc.
Lúc quay về ta thấy đồ tể họ Phương đang vung dao chặt thịt trước quầy hàng. Phương nương tử mặc áo vải đay đứng sau hắn không xa, ôm cô con gái út chừng bốn năm tuổi, nhìn chồng không chớp mắt.
Đêm xuống mưa to ào ào.
Mới đầu chỉ là mưa phùn tí tách, trong chốc lát gió nổi mây vần, mây đen cuồn cuộn như sắp nứt.
Ta đóng cái ô giấy dầu bị gió thổi xiêu vẹo, đi vào một quán rượu nhỏ ven đường tránh mưa.
Trong quán rải rác khách uống rượu, ngồi đằng sau ta là một thiếu niên mặc áo đen, lưng đeo đàn ba dây, đang cúi đầu chạm rãi lau Mi Tiêm Đao trong tay.
Sắc trời tối sầm, ánh đao lấp lánh.
Dáng người thiếu niên thẳng tắp, mơ hồ nhìn thấy vài vết máu nhàn nhạt trên vạt áo, cây đàn ba dây trên lưng giống như một thanh kiếm đâm thẳng về phía bầu trời.
Thiếu niên gọi phục vụ đang run rẩy không dám đến gần, nhỏ giọng nói, “Một vò Thiêu Đao Tử.”
Một vò Thiêu Đao Tử được mang lên, chén sứ trắng trước mặt hắn nhanh chóng được đổ đầy.
Trên con đường vắng vẻ trước quán rượu chợt xuất hiện mấy chục người mặc áo đen che mặt, cầm đao kiếm trong tay chậm rãi tiến về phía quán rượu. Ba vị khách uống rượu đang ngồi ngay ngắn xung quanh thiếu niên chợt rút kiếm đứng dậy, chậm rãi đi về phía hắn.
Quay về ta phải đến đưa bạc cho đạo sĩ mù mới được, đúng là gặp phải tai ương dính máu.
Thiếu niên đứng dậy đặt đàn ba dây lên bàn, ngửa đầu uống một ngụm rượu nhưng không uống cạn mà để lại một nửa rượu trong chén. Hắn đặt chén sứ trắng xuống, cầm Mi Tiêm Đao bước thẳng vào màn mưa ào ào.
Trong chốc lát ánh đao bóng kiếm lóe lên, tất cả mọi người đều ra tay.
Ba vị khách uống rượu đứng sau lưng thiếu niên dẫn đầu cuộc chiến, họ lao thẳng về phía lưng của người kia, chỉ thoáng chốc trường kiếm trong tay đã bị Mi Tiêm Đao đánh bay, ngực trúng một đao, ngã ngửa về sau.
Chỉ một thoáng trì trệ, thiếu niên đã bị mấy chục người áo đen vây quanh, ánh đao nhanh chóng bị chôn vùi trong bóng kiếm.
Mặc dù đám người mặc áo đen vây giết thiếu niên che mặt nhưng đều sử dụng kiếm pháp của mấy môn phái chính đạo lớn, có vài người bị Mi Tiêm Đao chém rách áo ngoài, để lộ màu áo trắng phiêu dật ở bên trong.
Đao của thiếu niên cực nhanh cực chuẩn, ánh đao giống như cánh yến xé toạc màn mưa đêm.
Ta cứ tưởng đao của Tiết Vô Y đã là đao nhanh nhất mà ta từng thấy.
Rất nhiều năm sau ấy, dù gương mặt hắn đã phai nhòa trong trí nhớ thì ta vẫn nhớ như in đao của hắn. Sắc bén nhưng không lạnh lùng, nhanh nhưng không ma mị, nó khiến ta nghĩ đến một con hạc lẻ loi băng qua hồ nước lúc đầu thu.
Ngày trước ta từng si mê bóng đao ánh kiếm nhưng ông lão không cho phép ta chạm vào vũ khí. Thậm chí mỗi khi có đao khách đánh nhau trong ngõ hẹp ông cũng không cho ta ra xem, chỉ dạy ta khinh công và quyền thuật đơn giản dễ hiểu.
“Nhạn Cửu, nếu con là một sát thủ, chắc chắn sẽ là một sát thủ cực kỳ xuất sắc.” Ông nói, “Con luôn hờ hững với người và chuyện bên ngoài, chỉ si mê mỗi đao kiếm lạnh lùng, nhưng một sát thủ giỏi chưa chắc đã là một người tốt. Nhạn Cửu, ta không mong con biến thành người như thế.”
Ta không hiểu: “Con chỉ thích võ mà thôi chứ không muốn trở thành một sát thủ.”
“Một khi chạm vào đao kiếm, con chắc chắn sẽ trở thành một sát thủ.” Ông lão nhìn vào mắt ta bảo, “Con soi gương nhìn xem ánh mắt mình sáng cỡ nào, chính bản thân con cũng không biết từ trong xương cốt của mình, con thích sống trong cảnh nguy hiểm biết bao nhiêu.”
Cố gắng của ông lão là đúng.
Cũng bởi vậy mà ta trở thành đồng đạo với Tiết Vô Y, sẽ hào hứng đàm luận chuyện giang hồ hỗn loạn với y, sẽ đứng trong quán rượu nhỏ nhìn chằm chằm ánh đao máu chảy giữa màn mưa to mà chẳng mảy may sợ hãi.
Nửa canh giờ sau, con đường trước quán rượu nhỏ lại vắng vẻ như cũ.
Người cuối cùng ngạc nhiên nhìn thi thể đồng môn nằm trên mặt đất và máu tươi chảy lênh láng khắp nơi, gã rút kiếm giận dữ mắng mỏ: “Thạch Thu Phong, mi ruồng bỏ sư môn, vong ân phụ nghĩa, nói xấu chính đạo, chẳng những không biết hối cải mà còn sát hại đồng môn… đúng là lòng lang dạ sói, trời đất không dung!”
Thạch Thu Phong, hóa ra hắn chính là “Thanh Bạch Nhãn” Thạch Thu Phong.
Hình như Thạch Thu Phong hơi sững sờ, chỉ trong thoáng chốc ấy, có ba tên áo đen lao ra từ lầu hai của quán rượu, ba thanh kiếm ngắm nhắm thẳng đến lưng hắn.
Thạch Thu Phong để mặc đệ tử chính đạo ở phía trước đâm vào cánh tay trái của mình, nghiêng người tránh thoát toàn bộ sát chiêu ở phía sau rồi đá bay đệ tử chính đạo, cúi người né phi đao sau lưng.
Ba tên áo đen này không giống với đám đệ tử chính đạo lúc trước, thân pháp chúng xảo trá tàn nhẫn, ám khí đầy mình, tất cả đều là sát thủ đi lại trên mũi đao.
Thạch Thu Phong bỏ đao đi quyền, chỉ trong thời gian uống hết một chén trà đã bóp nát cổ họng ba tên thích khách. Lúc ngã xuống, khăn che mặt của một trong ba tên rơi ra, đúng là gương mặt thật thà chất phác của đồ tể họ Phương mà ta vừa nhìn thấy trước đó.
Nhỏ thì ẩn nấp trong nhà trong chợ, lớn thì ẩn mình trong triều. Sát thủ ẩn náu giữa phố xá dưới thân phận người bình thường, gào to buôn bán đều là chuyện giết người. Không thể tin tưởng bất kỳ ai, dù là phụ nữ mang thai yếu đuối nhất cũng có thể khiến ngươi lặng lẽ biến mất giữa phố phường huyên náo.
Nửa người Thạch Thu Phong đẫm máu, hắn xách đao chậm rãi đi về quán rượu nhỏ, ngửa đầu uống nốt nửa chén rượu còn lại. Hắn khoác đàn ba dây định rời đi, chợt nhìn thấy phục vụ đứng co quắp cạnh bàn. Hình như nhớ ra điều gì đó, hắn móc một khối bạc vụn từ trong ngực ra đưa cho phục vụ.
Phục vụ sợ hãi, tay run run nhận lấy bạc: “Khách… khách quan đi… thong thả.”
Khoảnh khắc Thạch Thu Phong xoay người, trong tay áo phục vụ lóe lên một luồng sáng lạnh.
Lúc này Thạch Thu Phong chưa hồi phục sức lực, dù hắn có khinh công cái thế cũng chẳng thể né được chiêu này. Ta bốc nắm đũa trên bàn đánh bay ám khí, đũa không găm vào ngực phục vụ mà đóng đinh gã vào chân bàn.
Thạch Thu Phong quay đầu bình tĩnh nhìn ta.
Ta cười cười: “Ta đánh cược với người khác, người kia cược ngươi không sống quá tối nay.”
“Vậy còn ngươi?”
“Ta cược ngươi sống không quá đêm mai.”
Hắn cười, “Các ngươi chắc chắn sẽ thua.”
Thạch Thu Phong cất Mi Tiêm Đao, xé vạt áo băng bó vết thương, “Muốn đánh cược tiếp không? Nếu như ta sống qua đêm mai, ngươi phải bảo đảm cho ta ba ngày không chết.”
Hắn rất thông minh, không giống như những gì ta nghĩ. Ta vốn cho rằng hắn là một thanh niên sức trâu, chỉ biết đấm đá lung tung hoặc là một tên hận đời.
Ta thấy vết thương trên người hắn vẫn đang chảy máu ồ ạt: “Cánh tay trái của ngươi đã bị phế, cánh tay phải bị thương nặng, còn gãy hai cái xương sườn.”
“Ta biết.” Hắn đeo đàn ba dây, quay đầu bình tĩnh nhìn ta, “Ngươi có cược hay không?”
Đôi mắt của hắn đen láy trong veo, khiến ta nhớ đến Tiết Vô Y ngày mới gặp cách đây hơn mười năm. Khi ấy y cũng đeo đại đao tổ truyền nghênh ngang tiến vào thành Trường An, thiếu niên mặc áo vải đay tuyên bố muốn hành hiệp trượng nghĩa.
“Được.” Ta đáp.
Thời gian ở thành Trường An chẳng mấy thú vị, dù sao ta cũng phải kiếm chút việc vui để làm.
Trước khi hắn đi, ta hỏi hắn một chuyện mà ta luôn thấy khó hiểu, “Vì sao ngươi giết ba thích khách kia mà chỉ làm những đệ tử chính đạo kia bị thương?”
“Người đáng chết không phải bọn họ mà là những Chưởng môn, Tông chủ kia.” Hắn nói.
Đàn ba dây hắn đeo trên lưng trông giống như một thanh kiếm đâm thẳng lên trời.
Lúc ra khỏi quán rượu ta mới phát hiện mưa đã tạnh.
Khi ta đưa bia mộ đến nhà họ Phương, bầu không khí trong nhà tràn ngập sợ hãi, Phương nương tử hoảng loạn khóc lóc hỏi ta có nhìn thấy người chồng đi cả đêm không về không.
Gương mặt nàng đẫm nước mắt: “Chàng nói là đi mua miếng đậu hũ về xay nước đậu cho A Niếp uống, sao mãi không thấy về?”
Trong thành Trường An, mỗi ngày đều có người chết vì đủ loại lý do, trong đó chết không để lại dấu vết là nhanh nhất. Những thích khách trung thành với thế lực khắp nơi nở rộ trong góc tối nhất và cũng héo tàn trong góc tối hẻo lánh nhất. Không ai quan tâm mạng của thích khách, thậm chí còn không cho phép bọn họ được người nhà tưởng nhớ sau khi chết.
Ta quay đi thì bị con gái lớn nhà họ Phương gọi lại.
“Tỷ biết cha muội xảy ra chuyện gì đúng không?” Cô bé không khóc, chỉ mở to đôi mắt nai long lanh nhìn ta, “Đáng lẽ cha muội phải đến chỗ tỷ lấy bia mộ của đại ca, bây giờ tỷ lại tự mình đưa đến.”
Ta không trả lời.
“Cha muội sao rồi? Ông ấy ở đâu?” Cô bé lại hỏi, đôi mắt dần ảm đạm.
Cô bé không hỏi ta thêm gì nữa, quay người ôm lấy em gái bị bỏ nằm bên cạnh đang khóc nỉ non, nhẹ nhàng an ủi người mẹ đang tuyệt vọng, khóc lóc đau khổ.
Sau khi Tiết Vô Y biết ta đánh cược với Thạch Thu Phong thì trầm mặc hồi lâu, y bảo, “Đây là rắc rối cô mang về, xảy ra chuyện thì đừng đến tìm ta.”
“Ngươi cảm thấy hắn có thể thắng không?”
“Có lẽ.” Y nói, “Mọi chuyện luôn có ngoại lệ.”
Lúc rời đi Tiết Vô Y ném cho ta một cái túi gấm: “Tiểu thư ốm yếu nhà họ Hoài gửi thư mời cô đến gặp.”
Trong túi gấm là một lá thư ngắn, nét chữ triện hoa mai* mạnh mẽ mộc mạc: Giờ Thân một khắc, tầng chín của tháp Đại Nhạn.
Chữ triện hoa mai là kiểu viết chữ triện nhưng lồng thêm hoa mai vào chữ, trong hoa có chữ trong chữ có hoa. Nhìn từ xa thì chữ triện như đang bay múa, nhìn gần lại giống như hoa mai đang nở rộ.
Tháp Đại Nhạn cao những mười tầng, nghe nói đứng trên đỉnh tháp có thể chạm vào mây xanh. Đây vốn là một Phật tháp bị bỏ hoang, mấy năm trước được gia chủ nhà họ Hoài vung tiền thu mua, tặng cho cô con gái duy nhất là Hoài Ngọc để tĩnh dưỡng.
Gia chủ nhà họ Hoài – Hoài Vô Nhai lớn lên trong dân gian, thành danh từ thuở thiếu niên, mấy năm trước đã lâm râm mưu đồ trên giang hồ, bây giờ lão mặc sức làm mưa làm gió, cả giang hồ to như thế đều nằm trong lòng bàn tay lão. Đáng tiếc dưới gối lão chỉ có một cô con gái là Hoài Ngọc, mới mười bảy tuổi, ốm yếu bẩm sinh, chưa nói đến kế thừa y bát nhà họ Hoài mà chỉ e ngay cả luyện võ cũng không thể, nhưng Hoài Vô Nhai vẫn khăng khăng không chịu lập đại đệ tử làm người thừa kế.
Lúc ta nhìn thấy Hoài Ngọc ở tháp Đại Nhạn, nàng đang ngồi trên xe lăn, nghiêng người dựa vào cửa sổ, lặng lẽ nhìn ra ngoài. Tóc nàng dài đến eo, mặc xiêm y màu trắng, thân mình gầy gò ốm yếu giống như một đóa hoa trắng sắp lụi tàn trong gió rét chập chờn.
Thấy ta đến một mình, nàng hơi thất vọng, “Tiết đại hiệp không đến sao?”
Ba tháng trước Tiết Vô Y vô tình cứu được Hoài Ngọc bị kẻ thù của nhà họ Hoài bắt cóc. Y không muốn dính líu đến nhà họ Hoài nên đồng ý với ba yêu cầu của Hoài Ngọc, đổi lại nàng sẽ không để lộ chuyện này ra ngoài.
Với khả năng của Tiết Vô Y thì giết người bịt miệng chẳng có gì khó khăn, không ngờ hai lần trước Hoài Ngọc đều chỉ bảo Tiết Vô Y tìm người khắc bia cho những đệ tử nhà họ Hoài chết mà không có ai đến nhận, bị vứt xác nơi đồng hoang.
Đây là yêu cầu cuối cùng Tiết Vô Y đồng ý với Hoài Ngọc.
Ta cho rằng nàng sẽ xin Tiết Vô Y làm gì đó cho mình hoặc là yêu cầu Tiết Vô Y cưới mình, bởi lúc nàng nhìn Tiết Vô Y đôi mắt sáng ngời, thẳng thắn tươi đẹp giống như có đóa hoa nở rộ trên gương mặt tái nhợt, khiến ta nhìn thấy cũng chẳng thể kìm lòng. Không ngờ cuối cùng nàng vẫn mời ta đến khắc bia.
Ba cỗ quan tài đá trắng được xếp song song trên mặt đất.
Hoài Ngọc không nhắc đến Tiết Vô Y nữa, chỉ nhìn ta mỉm cười, “Nhạn cô nương, đêm qua ba đệ tử này được cha ta phái ra ngoài, chẳng biết đi làm gì nữa. Sau khi chết không có ai đến nhận xác nên bị ném vào bãi tha ma, phiền cô nương khắc bia cho họ.”
Ta mở nắp quan tài ra, trong đó có một cái xác đúng là đồ tể họ Phương bị Thạch Thu Phong giết chết và biến mất đêm qua.
Hai phe đen trắng vốn cùng một gốc, như ruột thịt chẳng thể chia lìa. Nếu Hoài Ngọc biết ba thi thể này vốn không phải là đệ tử nhà họ Hoài mà là ba thích khách mà cha nàng mời đến đối phó với Thạch Thu Phong thì sẽ nghĩ gì nữa.
Ta ngẩng đầu nhìn nàng: “Hoài cô nương, lần này ta không lấy tiền công.”
“Vì sao?” Nàng hỏi.
Có lẽ vì gương mặt thật thà chân chất của đồ tể họ Phương lúc đến gặp ta xin bia ngày hôm qua, cũng có thể là vì bỗng dưng nhớ đến đôi mắt thoáng chốc ảm đạm của cô con gái lớn nhà họ Phương.
“Chỉ là cảm niệm tấm lòng của cô nương mà thôi.” Ta nói.
Hoài Ngọc cười, nụ cười nhẹ nhàng yếu ớt.
Ta giúp nàng đẩy xe lăn đến trước cửa sổ, chợt nhớ ra đây là lần cuối cùng Tiết Vô Y đồng ý với yêu cầu của nàng, sau này chúng ta sẽ không còn gặp lại đại tiểu thư nhà họ Hoài nữa. Nếu có gặp thì không phải tôn trọng nhau như người lạ mà là rút đao khiêu chiến với kẻ địch.
Ta cúi đầu nhìn bả vai gầy gò của nàng: “Cô nương có biết, Tiết Vô Y chỉ là một thích khách chứ chẳng phải đại hiệp gì đó không?”
“Ta biết.” Hoài Ngọc không quay đầu lại, giọng nói điềm nhiên như băng vỡ, “Nhưng ai nói thích khách không thể là đại hiệp, đại hiệp không thể là thích khách?
Ta bật thốt lên: “Thế còn lệnh tôn thì sao?”
“Cha ta?” Nàng cười, “Cha là người tốt nhất trên đời.”
“Tốt hơn cả Tiết Vô Y?”
“Ừ.” Đôi mắt nàng tỏa sáng.
Mắt Hoài Ngọc chợt sáng ngời, nụ cười đẹp đến nỗi ta cũng phải động lòng. Nó khiến ta nghĩ đến ngọc lưu ly được các quý nhân cất giữ trong cửa son, phải cầm nhẹ để khẽ, mong manh dễ vỡ, đẹp không gì sánh bằng.
Ta bỗng thấy hâm mộ nàng, ta không nhớ mình đã từng tin tưởng ai như thế chưa, có lẽ đã từng như thế với ông lão hoặc có lẽ không. Hoài Vô Nhai làm mưa làm gió trên giang hồ, khiến bao người không được sống yên thân, nhưng lại dùng tòa tháp Đại Nhạn này ngăn cách và bảo vệ con gái từng ly từng tí.
Trên cái bàn bên cạnh còn đặt một bức tranh vẽ dở và hai bức tranh chữ. Bút mực và màu vẽ được bày biện trên bàn, trong nghiên mực còn có mực chưa khô.
Ta nhớ đến nét chữ triện hoa mai xinh đẹp trên lá thư nàng để trong túi gấm, bây giờ có rất ít cô nương luyện loại chữ khó như vậy những khi rảnh rỗi. Ở góc tường đặt một cây đàn đã gãy làm đôi, dây đàn đứt rơi lả tả trên mặt đất.
Hoài Ngọc điều khiển xe lăn đến góc tường, khẽ vuốt ve đoạn đàn trên đầu gối.
“Cha nói ta là con gái của Hoài Vô Nhai, sao lại thích những món đồ nhìn thì hay nhưng chẳng dùng được của đám tiểu thư khuê các.”
Ta nhìn gương mặt tái nhợt của nàng hỏi, “Cây đàn này do lệnh tôn đập gãy?”
“Không.” Nàng cười, “Là ta đập gãy.”
Nàng đặt đoạn đàn xuống góc tường, không nhìn thêm chút nào nữa.
“Cha bảo ta nhìn ngắm giang hồ nhiều hơn, ông bảo ta không thể luyện võ cũng chẳng sao, chỉ cần nắm giữ giang hồ là được, những cái khác ông sẽ sắp xếp cho ta.” Hoài Ngọc đẩy cửa sổ ra, đứng trên tầng chín của tháp Đại Nhạn quan sát khung cảnh rộn ràng dưới tháp.
Gió nổi lên, mái tóc dài của nàng bay bay theo gió.
“Nhưng mà Nhạn cô nương, rốt cuộc giang hồ trông như thế nào?” Nàng hỏi, đôi mắt lại sáng ngời, “Có thật sự thoải mái tự do như trong sách nói không? Ta đã từng hỏi Tiết đại hiệp nhưng huynh ấy không trả lời. Ta thấy huynh ấy đi đến tự nhiên, vượt nóc băng tường rất thoải mái.”
Kỳ thật Hoài Ngọc hiểu giang hồ, lúc nàng nói “Ai bảo thích khách không thể là đại hiệp, đai hiệp không phải là thích khách” thì ta đã biết, thật ra nàng hiểu rất rõ. Huống hồ vốn chẳng có định nghĩa chính xác về giang hồ, người giang hồ trông như thế nào, giang hồ thế nào mới là giang hồ.
Chuông đồng treo bên mái hiên bị gió thổi ngân vang, đứng ở nơi cao như thế nhưng dường như bầu trời còn cao hơn, xa hơn khi ở dưới mặt đất.
“Ta thích cánh ưng cô độc trên sa mạc rộng lớn.” Lúc nàng nói lời này, đôi mắt nàng trong veo ngời sáng.
Ta nhớ lại, bức tranh vẽ dở đặt trên bàn đúng là vẽ một con chim ưng đang giương cánh.
“Vì sao?” Ta hỏi.
“Tự do, vui vẻ.”
“Sai rồi, chim ưng không tự do cũng chẳng vui vẻ.”
“Vì sao?”
“Chim ưng không thể bay khỏi vùng trời này, không thoát khỏi cung tiễn của người săn ưng cũng chẳng thoát khỏi cảnh bị đói khi đông về.”
“Thật sao?” Hoài Ngọc khẽ cười, nhìn bầu trời xanh trong như vừa được gột rửa ngoài cửa sổ, “Nhưng ta rất muốn được bay lượn một lần giống như cánh ưng cô độc, chắc chắc là rất vui vẻ tự do.”
“Nhạn cô nương có biết vì sao ta chưa bao giờ lên tầng cao nhất của tháp Đại Nhạn không?” Nàng quay đầu nhìn ta cười, ánh mặt trời ngoài cửa sổ phớt qua nụ cười của nàng, trông nhợt nhạt mà lại trong veo, “Ta sợ nếu như mình thật sự chạm tới trời xanh thì sẽ không kìm lòng được mà bay đi, chẳng quay về nữa.”
Ta và nàng đều biết nàng sẽ không làm vậy, bởi vì nàng là con gái của Hoài Vô Nhai.
“Hôm qua cuối cùng cha ta cũng đã quyết định để Đại sư huynh làm người thừa kế, sau này cha sẽ cho ta ra ngoài nhiều hơn.” Lúc gần đi Hoài Ngọc đã nói với ta như vậy, khi nói những lời này trong mắt nàng chẳng có vẻ không cam lòng hay phẫn hận mà chỉ có thoải mái sau khi được giải thoát.
Nàng nhẹ giọng hỏi, “Chúng ta sẽ còn gặp mặt chứ?”
Không đợi ta trả lời, nàng đã giành nói trước, “Giữ gìn sức khỏe.”
Hết chương 2.
Đạo sĩ mù làm ăn rất khấm khá, ngày nào trước gian hàng cũng đông nghẹt người. Lần này ông bỏ qua chuyện tính mệnh cho phân nửa khách đang chờ để chạy đến cản ta, đúng là làm khó ông ấy. Có lẽ ông ấy không cam lòng chuyện dựa vào đoán mệnh kiếm được đầy bồn đầy bát, nức tiếng thần bói gần xa mà vẫn không moi được một văn tiền từ chỗ ta.
Ta hỏi, “Phải tốn tiền giải xui?”
“Không cần,” Đạo sĩ mù nói, “Tâm lặng như nước là đủ.”
Nói rồi ông quay người tiếp tục làm ăn, không đòi ta dù chỉ một đồng.
Đá xanh ở chợ Tây vẫn giữ nguyên giá, một khối ba lượng bạc.
Lúc quay về ta thấy đồ tể họ Phương đang vung dao chặt thịt trước quầy hàng. Phương nương tử mặc áo vải đay đứng sau hắn không xa, ôm cô con gái út chừng bốn năm tuổi, nhìn chồng không chớp mắt.
Đêm xuống mưa to ào ào.
Mới đầu chỉ là mưa phùn tí tách, trong chốc lát gió nổi mây vần, mây đen cuồn cuộn như sắp nứt.
Ta đóng cái ô giấy dầu bị gió thổi xiêu vẹo, đi vào một quán rượu nhỏ ven đường tránh mưa.
Trong quán rải rác khách uống rượu, ngồi đằng sau ta là một thiếu niên mặc áo đen, lưng đeo đàn ba dây, đang cúi đầu chạm rãi lau Mi Tiêm Đao trong tay.
Sắc trời tối sầm, ánh đao lấp lánh.
Dáng người thiếu niên thẳng tắp, mơ hồ nhìn thấy vài vết máu nhàn nhạt trên vạt áo, cây đàn ba dây trên lưng giống như một thanh kiếm đâm thẳng về phía bầu trời.
Thiếu niên gọi phục vụ đang run rẩy không dám đến gần, nhỏ giọng nói, “Một vò Thiêu Đao Tử.”
Một vò Thiêu Đao Tử được mang lên, chén sứ trắng trước mặt hắn nhanh chóng được đổ đầy.
Trên con đường vắng vẻ trước quán rượu chợt xuất hiện mấy chục người mặc áo đen che mặt, cầm đao kiếm trong tay chậm rãi tiến về phía quán rượu. Ba vị khách uống rượu đang ngồi ngay ngắn xung quanh thiếu niên chợt rút kiếm đứng dậy, chậm rãi đi về phía hắn.
Quay về ta phải đến đưa bạc cho đạo sĩ mù mới được, đúng là gặp phải tai ương dính máu.
Thiếu niên đứng dậy đặt đàn ba dây lên bàn, ngửa đầu uống một ngụm rượu nhưng không uống cạn mà để lại một nửa rượu trong chén. Hắn đặt chén sứ trắng xuống, cầm Mi Tiêm Đao bước thẳng vào màn mưa ào ào.
Trong chốc lát ánh đao bóng kiếm lóe lên, tất cả mọi người đều ra tay.
Ba vị khách uống rượu đứng sau lưng thiếu niên dẫn đầu cuộc chiến, họ lao thẳng về phía lưng của người kia, chỉ thoáng chốc trường kiếm trong tay đã bị Mi Tiêm Đao đánh bay, ngực trúng một đao, ngã ngửa về sau.
Chỉ một thoáng trì trệ, thiếu niên đã bị mấy chục người áo đen vây quanh, ánh đao nhanh chóng bị chôn vùi trong bóng kiếm.
Mặc dù đám người mặc áo đen vây giết thiếu niên che mặt nhưng đều sử dụng kiếm pháp của mấy môn phái chính đạo lớn, có vài người bị Mi Tiêm Đao chém rách áo ngoài, để lộ màu áo trắng phiêu dật ở bên trong.
Đao của thiếu niên cực nhanh cực chuẩn, ánh đao giống như cánh yến xé toạc màn mưa đêm.
Ta cứ tưởng đao của Tiết Vô Y đã là đao nhanh nhất mà ta từng thấy.
Rất nhiều năm sau ấy, dù gương mặt hắn đã phai nhòa trong trí nhớ thì ta vẫn nhớ như in đao của hắn. Sắc bén nhưng không lạnh lùng, nhanh nhưng không ma mị, nó khiến ta nghĩ đến một con hạc lẻ loi băng qua hồ nước lúc đầu thu.
Ngày trước ta từng si mê bóng đao ánh kiếm nhưng ông lão không cho phép ta chạm vào vũ khí. Thậm chí mỗi khi có đao khách đánh nhau trong ngõ hẹp ông cũng không cho ta ra xem, chỉ dạy ta khinh công và quyền thuật đơn giản dễ hiểu.
“Nhạn Cửu, nếu con là một sát thủ, chắc chắn sẽ là một sát thủ cực kỳ xuất sắc.” Ông nói, “Con luôn hờ hững với người và chuyện bên ngoài, chỉ si mê mỗi đao kiếm lạnh lùng, nhưng một sát thủ giỏi chưa chắc đã là một người tốt. Nhạn Cửu, ta không mong con biến thành người như thế.”
Ta không hiểu: “Con chỉ thích võ mà thôi chứ không muốn trở thành một sát thủ.”
“Một khi chạm vào đao kiếm, con chắc chắn sẽ trở thành một sát thủ.” Ông lão nhìn vào mắt ta bảo, “Con soi gương nhìn xem ánh mắt mình sáng cỡ nào, chính bản thân con cũng không biết từ trong xương cốt của mình, con thích sống trong cảnh nguy hiểm biết bao nhiêu.”
Cố gắng của ông lão là đúng.
Cũng bởi vậy mà ta trở thành đồng đạo với Tiết Vô Y, sẽ hào hứng đàm luận chuyện giang hồ hỗn loạn với y, sẽ đứng trong quán rượu nhỏ nhìn chằm chằm ánh đao máu chảy giữa màn mưa to mà chẳng mảy may sợ hãi.
Nửa canh giờ sau, con đường trước quán rượu nhỏ lại vắng vẻ như cũ.
Người cuối cùng ngạc nhiên nhìn thi thể đồng môn nằm trên mặt đất và máu tươi chảy lênh láng khắp nơi, gã rút kiếm giận dữ mắng mỏ: “Thạch Thu Phong, mi ruồng bỏ sư môn, vong ân phụ nghĩa, nói xấu chính đạo, chẳng những không biết hối cải mà còn sát hại đồng môn… đúng là lòng lang dạ sói, trời đất không dung!”
Thạch Thu Phong, hóa ra hắn chính là “Thanh Bạch Nhãn” Thạch Thu Phong.
Hình như Thạch Thu Phong hơi sững sờ, chỉ trong thoáng chốc ấy, có ba tên áo đen lao ra từ lầu hai của quán rượu, ba thanh kiếm ngắm nhắm thẳng đến lưng hắn.
Thạch Thu Phong để mặc đệ tử chính đạo ở phía trước đâm vào cánh tay trái của mình, nghiêng người tránh thoát toàn bộ sát chiêu ở phía sau rồi đá bay đệ tử chính đạo, cúi người né phi đao sau lưng.
Ba tên áo đen này không giống với đám đệ tử chính đạo lúc trước, thân pháp chúng xảo trá tàn nhẫn, ám khí đầy mình, tất cả đều là sát thủ đi lại trên mũi đao.
Thạch Thu Phong bỏ đao đi quyền, chỉ trong thời gian uống hết một chén trà đã bóp nát cổ họng ba tên thích khách. Lúc ngã xuống, khăn che mặt của một trong ba tên rơi ra, đúng là gương mặt thật thà chất phác của đồ tể họ Phương mà ta vừa nhìn thấy trước đó.
Nhỏ thì ẩn nấp trong nhà trong chợ, lớn thì ẩn mình trong triều. Sát thủ ẩn náu giữa phố xá dưới thân phận người bình thường, gào to buôn bán đều là chuyện giết người. Không thể tin tưởng bất kỳ ai, dù là phụ nữ mang thai yếu đuối nhất cũng có thể khiến ngươi lặng lẽ biến mất giữa phố phường huyên náo.
Nửa người Thạch Thu Phong đẫm máu, hắn xách đao chậm rãi đi về quán rượu nhỏ, ngửa đầu uống nốt nửa chén rượu còn lại. Hắn khoác đàn ba dây định rời đi, chợt nhìn thấy phục vụ đứng co quắp cạnh bàn. Hình như nhớ ra điều gì đó, hắn móc một khối bạc vụn từ trong ngực ra đưa cho phục vụ.
Phục vụ sợ hãi, tay run run nhận lấy bạc: “Khách… khách quan đi… thong thả.”
Khoảnh khắc Thạch Thu Phong xoay người, trong tay áo phục vụ lóe lên một luồng sáng lạnh.
Lúc này Thạch Thu Phong chưa hồi phục sức lực, dù hắn có khinh công cái thế cũng chẳng thể né được chiêu này. Ta bốc nắm đũa trên bàn đánh bay ám khí, đũa không găm vào ngực phục vụ mà đóng đinh gã vào chân bàn.
Thạch Thu Phong quay đầu bình tĩnh nhìn ta.
Ta cười cười: “Ta đánh cược với người khác, người kia cược ngươi không sống quá tối nay.”
“Vậy còn ngươi?”
“Ta cược ngươi sống không quá đêm mai.”
Hắn cười, “Các ngươi chắc chắn sẽ thua.”
Thạch Thu Phong cất Mi Tiêm Đao, xé vạt áo băng bó vết thương, “Muốn đánh cược tiếp không? Nếu như ta sống qua đêm mai, ngươi phải bảo đảm cho ta ba ngày không chết.”
Hắn rất thông minh, không giống như những gì ta nghĩ. Ta vốn cho rằng hắn là một thanh niên sức trâu, chỉ biết đấm đá lung tung hoặc là một tên hận đời.
Ta thấy vết thương trên người hắn vẫn đang chảy máu ồ ạt: “Cánh tay trái của ngươi đã bị phế, cánh tay phải bị thương nặng, còn gãy hai cái xương sườn.”
“Ta biết.” Hắn đeo đàn ba dây, quay đầu bình tĩnh nhìn ta, “Ngươi có cược hay không?”
Đôi mắt của hắn đen láy trong veo, khiến ta nhớ đến Tiết Vô Y ngày mới gặp cách đây hơn mười năm. Khi ấy y cũng đeo đại đao tổ truyền nghênh ngang tiến vào thành Trường An, thiếu niên mặc áo vải đay tuyên bố muốn hành hiệp trượng nghĩa.
“Được.” Ta đáp.
Thời gian ở thành Trường An chẳng mấy thú vị, dù sao ta cũng phải kiếm chút việc vui để làm.
Trước khi hắn đi, ta hỏi hắn một chuyện mà ta luôn thấy khó hiểu, “Vì sao ngươi giết ba thích khách kia mà chỉ làm những đệ tử chính đạo kia bị thương?”
“Người đáng chết không phải bọn họ mà là những Chưởng môn, Tông chủ kia.” Hắn nói.
Đàn ba dây hắn đeo trên lưng trông giống như một thanh kiếm đâm thẳng lên trời.
Lúc ra khỏi quán rượu ta mới phát hiện mưa đã tạnh.
Khi ta đưa bia mộ đến nhà họ Phương, bầu không khí trong nhà tràn ngập sợ hãi, Phương nương tử hoảng loạn khóc lóc hỏi ta có nhìn thấy người chồng đi cả đêm không về không.
Gương mặt nàng đẫm nước mắt: “Chàng nói là đi mua miếng đậu hũ về xay nước đậu cho A Niếp uống, sao mãi không thấy về?”
Trong thành Trường An, mỗi ngày đều có người chết vì đủ loại lý do, trong đó chết không để lại dấu vết là nhanh nhất. Những thích khách trung thành với thế lực khắp nơi nở rộ trong góc tối nhất và cũng héo tàn trong góc tối hẻo lánh nhất. Không ai quan tâm mạng của thích khách, thậm chí còn không cho phép bọn họ được người nhà tưởng nhớ sau khi chết.
Ta quay đi thì bị con gái lớn nhà họ Phương gọi lại.
“Tỷ biết cha muội xảy ra chuyện gì đúng không?” Cô bé không khóc, chỉ mở to đôi mắt nai long lanh nhìn ta, “Đáng lẽ cha muội phải đến chỗ tỷ lấy bia mộ của đại ca, bây giờ tỷ lại tự mình đưa đến.”
Ta không trả lời.
“Cha muội sao rồi? Ông ấy ở đâu?” Cô bé lại hỏi, đôi mắt dần ảm đạm.
Cô bé không hỏi ta thêm gì nữa, quay người ôm lấy em gái bị bỏ nằm bên cạnh đang khóc nỉ non, nhẹ nhàng an ủi người mẹ đang tuyệt vọng, khóc lóc đau khổ.
Sau khi Tiết Vô Y biết ta đánh cược với Thạch Thu Phong thì trầm mặc hồi lâu, y bảo, “Đây là rắc rối cô mang về, xảy ra chuyện thì đừng đến tìm ta.”
“Ngươi cảm thấy hắn có thể thắng không?”
“Có lẽ.” Y nói, “Mọi chuyện luôn có ngoại lệ.”
Lúc rời đi Tiết Vô Y ném cho ta một cái túi gấm: “Tiểu thư ốm yếu nhà họ Hoài gửi thư mời cô đến gặp.”
Trong túi gấm là một lá thư ngắn, nét chữ triện hoa mai* mạnh mẽ mộc mạc: Giờ Thân một khắc, tầng chín của tháp Đại Nhạn.
Chữ triện hoa mai là kiểu viết chữ triện nhưng lồng thêm hoa mai vào chữ, trong hoa có chữ trong chữ có hoa. Nhìn từ xa thì chữ triện như đang bay múa, nhìn gần lại giống như hoa mai đang nở rộ.
Tháp Đại Nhạn cao những mười tầng, nghe nói đứng trên đỉnh tháp có thể chạm vào mây xanh. Đây vốn là một Phật tháp bị bỏ hoang, mấy năm trước được gia chủ nhà họ Hoài vung tiền thu mua, tặng cho cô con gái duy nhất là Hoài Ngọc để tĩnh dưỡng.
Gia chủ nhà họ Hoài – Hoài Vô Nhai lớn lên trong dân gian, thành danh từ thuở thiếu niên, mấy năm trước đã lâm râm mưu đồ trên giang hồ, bây giờ lão mặc sức làm mưa làm gió, cả giang hồ to như thế đều nằm trong lòng bàn tay lão. Đáng tiếc dưới gối lão chỉ có một cô con gái là Hoài Ngọc, mới mười bảy tuổi, ốm yếu bẩm sinh, chưa nói đến kế thừa y bát nhà họ Hoài mà chỉ e ngay cả luyện võ cũng không thể, nhưng Hoài Vô Nhai vẫn khăng khăng không chịu lập đại đệ tử làm người thừa kế.
Lúc ta nhìn thấy Hoài Ngọc ở tháp Đại Nhạn, nàng đang ngồi trên xe lăn, nghiêng người dựa vào cửa sổ, lặng lẽ nhìn ra ngoài. Tóc nàng dài đến eo, mặc xiêm y màu trắng, thân mình gầy gò ốm yếu giống như một đóa hoa trắng sắp lụi tàn trong gió rét chập chờn.
Thấy ta đến một mình, nàng hơi thất vọng, “Tiết đại hiệp không đến sao?”
Ba tháng trước Tiết Vô Y vô tình cứu được Hoài Ngọc bị kẻ thù của nhà họ Hoài bắt cóc. Y không muốn dính líu đến nhà họ Hoài nên đồng ý với ba yêu cầu của Hoài Ngọc, đổi lại nàng sẽ không để lộ chuyện này ra ngoài.
Với khả năng của Tiết Vô Y thì giết người bịt miệng chẳng có gì khó khăn, không ngờ hai lần trước Hoài Ngọc đều chỉ bảo Tiết Vô Y tìm người khắc bia cho những đệ tử nhà họ Hoài chết mà không có ai đến nhận, bị vứt xác nơi đồng hoang.
Đây là yêu cầu cuối cùng Tiết Vô Y đồng ý với Hoài Ngọc.
Ta cho rằng nàng sẽ xin Tiết Vô Y làm gì đó cho mình hoặc là yêu cầu Tiết Vô Y cưới mình, bởi lúc nàng nhìn Tiết Vô Y đôi mắt sáng ngời, thẳng thắn tươi đẹp giống như có đóa hoa nở rộ trên gương mặt tái nhợt, khiến ta nhìn thấy cũng chẳng thể kìm lòng. Không ngờ cuối cùng nàng vẫn mời ta đến khắc bia.
Ba cỗ quan tài đá trắng được xếp song song trên mặt đất.
Hoài Ngọc không nhắc đến Tiết Vô Y nữa, chỉ nhìn ta mỉm cười, “Nhạn cô nương, đêm qua ba đệ tử này được cha ta phái ra ngoài, chẳng biết đi làm gì nữa. Sau khi chết không có ai đến nhận xác nên bị ném vào bãi tha ma, phiền cô nương khắc bia cho họ.”
Ta mở nắp quan tài ra, trong đó có một cái xác đúng là đồ tể họ Phương bị Thạch Thu Phong giết chết và biến mất đêm qua.
Hai phe đen trắng vốn cùng một gốc, như ruột thịt chẳng thể chia lìa. Nếu Hoài Ngọc biết ba thi thể này vốn không phải là đệ tử nhà họ Hoài mà là ba thích khách mà cha nàng mời đến đối phó với Thạch Thu Phong thì sẽ nghĩ gì nữa.
Ta ngẩng đầu nhìn nàng: “Hoài cô nương, lần này ta không lấy tiền công.”
“Vì sao?” Nàng hỏi.
Có lẽ vì gương mặt thật thà chân chất của đồ tể họ Phương lúc đến gặp ta xin bia ngày hôm qua, cũng có thể là vì bỗng dưng nhớ đến đôi mắt thoáng chốc ảm đạm của cô con gái lớn nhà họ Phương.
“Chỉ là cảm niệm tấm lòng của cô nương mà thôi.” Ta nói.
Hoài Ngọc cười, nụ cười nhẹ nhàng yếu ớt.
Ta giúp nàng đẩy xe lăn đến trước cửa sổ, chợt nhớ ra đây là lần cuối cùng Tiết Vô Y đồng ý với yêu cầu của nàng, sau này chúng ta sẽ không còn gặp lại đại tiểu thư nhà họ Hoài nữa. Nếu có gặp thì không phải tôn trọng nhau như người lạ mà là rút đao khiêu chiến với kẻ địch.
Ta cúi đầu nhìn bả vai gầy gò của nàng: “Cô nương có biết, Tiết Vô Y chỉ là một thích khách chứ chẳng phải đại hiệp gì đó không?”
“Ta biết.” Hoài Ngọc không quay đầu lại, giọng nói điềm nhiên như băng vỡ, “Nhưng ai nói thích khách không thể là đại hiệp, đại hiệp không thể là thích khách?
Ta bật thốt lên: “Thế còn lệnh tôn thì sao?”
“Cha ta?” Nàng cười, “Cha là người tốt nhất trên đời.”
“Tốt hơn cả Tiết Vô Y?”
“Ừ.” Đôi mắt nàng tỏa sáng.
Mắt Hoài Ngọc chợt sáng ngời, nụ cười đẹp đến nỗi ta cũng phải động lòng. Nó khiến ta nghĩ đến ngọc lưu ly được các quý nhân cất giữ trong cửa son, phải cầm nhẹ để khẽ, mong manh dễ vỡ, đẹp không gì sánh bằng.
Ta bỗng thấy hâm mộ nàng, ta không nhớ mình đã từng tin tưởng ai như thế chưa, có lẽ đã từng như thế với ông lão hoặc có lẽ không. Hoài Vô Nhai làm mưa làm gió trên giang hồ, khiến bao người không được sống yên thân, nhưng lại dùng tòa tháp Đại Nhạn này ngăn cách và bảo vệ con gái từng ly từng tí.
Trên cái bàn bên cạnh còn đặt một bức tranh vẽ dở và hai bức tranh chữ. Bút mực và màu vẽ được bày biện trên bàn, trong nghiên mực còn có mực chưa khô.
Ta nhớ đến nét chữ triện hoa mai xinh đẹp trên lá thư nàng để trong túi gấm, bây giờ có rất ít cô nương luyện loại chữ khó như vậy những khi rảnh rỗi. Ở góc tường đặt một cây đàn đã gãy làm đôi, dây đàn đứt rơi lả tả trên mặt đất.
Hoài Ngọc điều khiển xe lăn đến góc tường, khẽ vuốt ve đoạn đàn trên đầu gối.
“Cha nói ta là con gái của Hoài Vô Nhai, sao lại thích những món đồ nhìn thì hay nhưng chẳng dùng được của đám tiểu thư khuê các.”
Ta nhìn gương mặt tái nhợt của nàng hỏi, “Cây đàn này do lệnh tôn đập gãy?”
“Không.” Nàng cười, “Là ta đập gãy.”
Nàng đặt đoạn đàn xuống góc tường, không nhìn thêm chút nào nữa.
“Cha bảo ta nhìn ngắm giang hồ nhiều hơn, ông bảo ta không thể luyện võ cũng chẳng sao, chỉ cần nắm giữ giang hồ là được, những cái khác ông sẽ sắp xếp cho ta.” Hoài Ngọc đẩy cửa sổ ra, đứng trên tầng chín của tháp Đại Nhạn quan sát khung cảnh rộn ràng dưới tháp.
Gió nổi lên, mái tóc dài của nàng bay bay theo gió.
“Nhưng mà Nhạn cô nương, rốt cuộc giang hồ trông như thế nào?” Nàng hỏi, đôi mắt lại sáng ngời, “Có thật sự thoải mái tự do như trong sách nói không? Ta đã từng hỏi Tiết đại hiệp nhưng huynh ấy không trả lời. Ta thấy huynh ấy đi đến tự nhiên, vượt nóc băng tường rất thoải mái.”
Kỳ thật Hoài Ngọc hiểu giang hồ, lúc nàng nói “Ai bảo thích khách không thể là đại hiệp, đai hiệp không phải là thích khách” thì ta đã biết, thật ra nàng hiểu rất rõ. Huống hồ vốn chẳng có định nghĩa chính xác về giang hồ, người giang hồ trông như thế nào, giang hồ thế nào mới là giang hồ.
Chuông đồng treo bên mái hiên bị gió thổi ngân vang, đứng ở nơi cao như thế nhưng dường như bầu trời còn cao hơn, xa hơn khi ở dưới mặt đất.
“Ta thích cánh ưng cô độc trên sa mạc rộng lớn.” Lúc nàng nói lời này, đôi mắt nàng trong veo ngời sáng.
Ta nhớ lại, bức tranh vẽ dở đặt trên bàn đúng là vẽ một con chim ưng đang giương cánh.
“Vì sao?” Ta hỏi.
“Tự do, vui vẻ.”
“Sai rồi, chim ưng không tự do cũng chẳng vui vẻ.”
“Vì sao?”
“Chim ưng không thể bay khỏi vùng trời này, không thoát khỏi cung tiễn của người săn ưng cũng chẳng thoát khỏi cảnh bị đói khi đông về.”
“Thật sao?” Hoài Ngọc khẽ cười, nhìn bầu trời xanh trong như vừa được gột rửa ngoài cửa sổ, “Nhưng ta rất muốn được bay lượn một lần giống như cánh ưng cô độc, chắc chắc là rất vui vẻ tự do.”
“Nhạn cô nương có biết vì sao ta chưa bao giờ lên tầng cao nhất của tháp Đại Nhạn không?” Nàng quay đầu nhìn ta cười, ánh mặt trời ngoài cửa sổ phớt qua nụ cười của nàng, trông nhợt nhạt mà lại trong veo, “Ta sợ nếu như mình thật sự chạm tới trời xanh thì sẽ không kìm lòng được mà bay đi, chẳng quay về nữa.”
Ta và nàng đều biết nàng sẽ không làm vậy, bởi vì nàng là con gái của Hoài Vô Nhai.
“Hôm qua cuối cùng cha ta cũng đã quyết định để Đại sư huynh làm người thừa kế, sau này cha sẽ cho ta ra ngoài nhiều hơn.” Lúc gần đi Hoài Ngọc đã nói với ta như vậy, khi nói những lời này trong mắt nàng chẳng có vẻ không cam lòng hay phẫn hận mà chỉ có thoải mái sau khi được giải thoát.
Nàng nhẹ giọng hỏi, “Chúng ta sẽ còn gặp mặt chứ?”
Không đợi ta trả lời, nàng đã giành nói trước, “Giữ gìn sức khỏe.”
Hết chương 2.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook