Tháng Tư, tiết trời Paris ấm áp, dễ chịu. Tôi quay trở lại đây đã được hai tháng, tâm trạng cũng đã lắng dịu.

Sáng thứ Bảy, những con đường lát gạch đỏ sạch sẽ, người qua lại thưa thớt,tôi vác giá vẽ đến một cái hồ ở vùng ngoại ô để vẽ phong cảnh. Ở đó có một nhà thờ xây theo phong cách Gothic thời kỳ đầu, cuối tuần thường có rất nhiều người đến cầu nguyện, cạnh nhà thờ có một trường tiểu học cổ kính, trẻ em học ở đó đều là cư dân của thị trấn, hồn nhiên và vui tươi, đôi khi tôi cũng nhận lời giáo hội đi dạy miễn phí cho một vài đứa trẻ cách vẽ tranh sơn dầu cơ bản, thường là vào chiều thứ Năm, vì lúc đó rảnh rỗi hơn. Dựng xong giá vẽ, tôi lôi từ trong ba lô ra những vật dụng cần thiết, bắt đầu vẽ cảnh mặt trời mọc lung linh, rực rỡ.

Giữa chừng có một vài đứa trẻ chạy lại chơi đùa, nhưng không đến quá gần làm phiền tôi.

Một số cặp vợ chồng đã trải khăn trải bàn lên trên thảm cỏ để tận hưởng ánh nắng mặt trời hiếm hoi trong kỳ nghỉ cuối tuần.

Hai tiếng đồng hồ sau, tay phải cầm bảng màu đã mỏi đến mức không thể chịu nổi, tôi đành phải dừng vẽ, nghỉ ngơi một lát. Nghĩ đến năm ngày nữa phải sang Phần Lan, tôi bỗng cảm thấy lưu luyến thành phố phồn hoa mà tôi không mấy thích thú này.

Tuần trước, theo như luật bắt buộc của nước Pháp, tất cả các cử nhân khoa Luật của trường Đại học Descartes (*) đều phải đăng ký học thạc sĩ khoa Công pháp quốc tế của trường Đại học Helsinki, Phần Lan. Mặc dù vẫn còn nửa năm học thạc sĩ tâm lý ở trường Đại học Paris V, nhưng vì sức khỏe không tốt, với lại, nghe theo mệnh lệnh của cô, tôi sẽ phải sớm sang Phần Lan.

Buổi chiều quay về ký túc, từ xa tôi đã nhìn thấy bà Madan, mái tóc khô xác xơ bay trong gió, những vùng da sạm trên khuôn mặt nổi rõ dưới ánh mặt trời.

Bà Madan chạy đến và hôn lên má tôi, giọng rõ ràng đang kích động: “Ồ, An, cuối cùng cháu cũng về rồi, có một cậu người phương Đông rất đẹp trai đến tìm cháu, cậu ấy đợi cả buổi sáng rồi đấy!”

Ở đây tôi không hề quen anh chàng người phương Đông nào, dù cũng chỉ là giữa đường gặp nhau gật đầu chào xã giao, không thân đến mức tới tìm nhau.

“Cảm ơn bà Madan!” Tôi tiếp tục bước đi, trong lòng tự hỏi không biết người đó là ai.

Có lẽ đã đoán được anh chàng phương Đông tuấn tú đó là ai rồi, cho nên khi nhìn thấy anh ta, tôi cũng không cảm thấy quá ngạc nhiên.

Diệp Lận đang đứng dưới một gốc cây cổ thụ trước cổng ký túc, mặc bộ quần áo màu trắng tinh khiết, mái tóc hơi dài đã cắt ngắn, trông đầy sức sống.

“Đến Pháp khi nào thế?” Tôi bước đến gần anh và mở miệng trước, ngay cả bản thân cũng không ngờ mình lại có thể bình tĩnh đến thế, có lẽ tôi đã thật sự từ bỏ tất cả.

“Hôm qua.” Diệp Lận nhìn tôi một lúc mới lạnh nhạt nói: “Có rỗi không? Cùng đi ăn cơm.”

“Được.” Tôi nói, “Nhưng em phải cất đồ trước đã.” Tôi chỉ vào giá vẽ ở sau lưng.

“Anh đợi em.”

Tôi mỉm cười, gật đầu.

Quay về ký túc, cô bạn cùng phòng người Singapore mới chuyển đến đang ngồi chép lời bài hát, một người nữa thì không có trong phòng, tôi đi vào căn buồng ở giữa để cất giá vẽ.

“An, sáng nay có người đến tìm cậu, anh ta đợi cậu cả buổi sáng.”

“Ừm!” Tôi đi vào phòng tắm, rửa sạch những màu vẽ bám trên tay.

Người bạn cùng phòng xem ra rất thích nhắc đến chủ đề này, “Cậu đã gặp anh ta rồi à?”

“Ừm.”

“Mình cứ nghĩ anh ta đi rồi, nói thật lòng, anh ta rất đẹp trai, người thân của cậu à?”

“Không phải.” Rửa tay xong mới phát hiện trên ống tay áo cũng dính màu vẽ, tôi thấy hơi bực mình, bèn đi đến tủ quần áo lấy một chiếc áo khoác len rồi lại đi vào nhà tắm.

“Bạn trai à?”

“Không phải.” Tôi thường không thích những câu hỏi có ý dò xét thế này, cũng rất ít khi phản ứng, nhưng lần này lại trả lời lấp lửng.

“Ha ha, An, cho mình số điện thoại của anh ta đi!” Tôi thay áo xong bước ra, cô bạn cùng phòng đã cầm sẵn giấy bút đứng trước mặt tôi, có vẻ rất ưng phấn, “Nếu không phải là bạn trai của cậu, vậy mình theo đuổi được chứ?”

Tôi không nhịn được cười, nói sự thực để thức tỉnh cô ấy, “Anh ta chắc sắp về Trung Quốc rồi.”

“Khoảng cách không phải là vấn đề.” Cô bạn cùng phòng xua xua tay, ra chiều chẳng có gì quan trọng.

Tôi không ngờ cô ấy lại nói như thế, thật không giống như đang nói đùa, nhưng, “Mình không biết số điện thoại của anh ta.”

Cô bạn cùng phòng liếc tôi một cái, chau mày kêu lên: “À, đúng rồi! Lần trước Audrey chơi xấu, giở trộm điện thoại của cậu ra xem, chỉ thấy có mồi hai số điện thoại của cô và anh trai cậu.” Cô ấy có vẻ không vui, lấm bẩm một mình: “Khó khăn lắm mới thích được một người...”

“Mình đi đây.” Tôi không nói gì thêm nữa.

“Mặc bộ u phục màu đen như một chàng hoàng tử...” Đi đến cửa, tôi nghe thấy cô bạn cùng phòng nói câu đó.

u phục màu đen? Tôi chau mày, nhưng cũng không mấy để ý.

Tôi dẫn Diệp Lận đến một nhà hàng Ý cách trường Đại học Paris V không xa để ăn tối.

“Đồ ăn ở nhà hàng này được lắm!” Tôi nói.

“Em có hay đến không?”

“Ngày trước em làm thêm ở đây.” Nhấp một ngụm nước, tôi hỏi: “Anh đợi tuần diễn thời trang ở Pháp kết thúc thì về à?”

“Không, anh chỉ ở đây hai ngày thôi.” Khuôn mặt hiện lên dưới ánh đèn mờ có chút trầm tư.

“Mấy ngày gần đây bận quá, nếu không em sẽ đưa anh đi tham quan Paris.” Tôi thành thực nói.

Tiếp đó, hai người đều không nói gì nữa, yên lặng một lúc lâu. Cuối cùng, Diệp Lận cũng mở lời trước: “Anh sắp kết hôn rồi.”

“Ừm,” Tôi đảo đảo đĩa mì Ý, “Vậy thì chúc mừng anh.”

“Giản An Kiệt, anh ghét nhất em nói câu chúc mừng.” Diệp Lận ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt tỏ ra bướng bỉnh.

“Nhưng mà, Diệp Lận, em chỉ có thể chúc mừng anh.”

Tôi bình tĩnh nói một câu thành thực.

“Có phải anh đã hết cơ hội rồi không? Sáu năm trước... trong suốt sáu năm.” Diệp Lận nói với vẻ chán nản và tuyệt vọng.

Có lẽ thế, nhưng tất cả đã không còn quan trọng nữa. Em sẽ coi anh như một hình bóng đã từng xen vào cuộc đời em suốt sáu năm, vứt bỏ hết thảy những ký ức ảm đạm, với anh, chỉ lưu giữ lại sáu năm đó thôi. Sau này, có đôi khi nghĩ đến thì cũng chỉ cười thầm, đơn giản như vậy thôi cũng đủ mãn nguyện rồi.

Chia tay với Diệp Lận, tôi quay lại trường một mình. Bảy giờ tối, trong vườn trường người đi lại không nhiều, tôi men theo con đường nhỏ quen thuộc trở về ký túc xá, khi đi ngang qua khu giảng đường thì đột nhiên dừng lại.

Tịch Hy Thần đang đứng trước mặt tôi, khuôn mặt không chút biểu cảm.

Tôi hoàn toàn không muốn gặp con người này, ngay cả nghĩ cũng không muốn nghĩ tới.

Anh ta là một phần không thể chịu nổi trong ký ức của tôi, mỗi lần tôi ra đi trong sự thảm bại ê chề, anh ta đều chứng kiến.

Tôi lướt qua anh ta, hoàn toàn không thèm để ý đến.

Ngày hôm sau tỉnh dậy, tôi bắt đầu đóng gói hành lý. Mặc dù cô nói sẽ đến tận nơi đón, nhưng tôi nghĩ sáu năm ở đây đã mua không ít đồ, thật sự là cả một cái xe cũng không chở hết được, cho nên nhân lúc còn thời gian, tôi lọc ra những đồ không cần thiết hay không dùng được nữa để bỏ đi, những đồ dùng được thì đem tặng nhà thờ.

Lọc đồ mất khoảng hai mươi phút, tôi bồng thấy chiếc áo để ở ngăn cuối cùng trong tủ, thật xa lạ. Chiếc áo vest màu đen, không có bất kỳ hoa văn hay kẻ sọc nào, hàng hiệu nổi tiếng nên chắc rất đắt.

Trong đầu tôi bất giác hiện lên một ký ức mơ hồ, mưa như trút nước, đường phố tối tăm, u ám, làm thế nào cũng không nhớ được đường về nhà, tôi đứng trong mưa một tiếng đồng hồ, cuối cùng cơ thể không chịu nổi nữa, choáng váng ngã nhào xuống đất, lúc ấy nhớ láng máng có ai đó bế tôi chạy đi, sau đó là nằm viện.

Chiếc áo này có lẽ là của người ấy để lại, đắp lên người tôi rồi quên mang đi... Đang định ném nó trở lại tủ quần áo thì vô tình phát hiện bên trong túi áo phải hình như có vật gì đó, tôi tò mò lấy ra xem thì thấy có vài tờ euro và hai chiếc thẻ tín dụng. Người này bất cẩn quá chăng? Còn có một bức tranh được gấp lại gọn gàng, tôi bèn mở nó ra xem - Quảng trường Châtelet, buổi chiều mùa hè, đài phun nước, chim bồ câu, người đi bộ, quán cà phê ngoài trời...

Phía cuối bức tranh lưu lại một dòng chữ phóng khoáng, đẹp đẽ.

“Ngày Mười tám tháng Năm, trời âm u, quảng trường Châtelet. Cô ấy ngồi yên lặng ở đó ba tiếng đồng hồ.Tôi hy vọng cô ấy không biết tôi, như vậy tôi có thể có cơ hội đến ngồi bên cô ấy, ít nhất thì, nếu không phải là tôi, chắc chắn cô ấy sẽ không bỏ đi ngay...”

Cuối cùng là một chữ ký hơi mờ nhạt.

Những ngày tiếp theo rất bận rộn, giáo sư môn tâm lý học là bác sĩ Bemard lúc nào cũng thuyết phục tôi ở lại trường Descartes tiếp tục nghiên cứu, tôi đương nhiên từ chối hết lần này đến lần khác, đã đồng ý với cô thì không thể nuốt lời.

Buổi trưa, tôi vẫn tranh thủ chạy đến bảo tàng Grand Palais (**) xem triển lãm tranh. Những việc tranh thủ thời gian thế này trước đây cũng không ít. Hôm qua nghe nói triển lãm lần này trưng bày tranh sơn dầu của Monet, tôi đã thao thức suốt đêm. Từ viện bảo tàng về đã là năm giờ chiều. Trên đường về có một vài quán cà phê cao cấp và quán bar nằm rải rác, trước đây Christine thích uống rượu nên tôi cũng từng đến đây vài lần. Lúc này nhìn thấy dòng chữ “quán bar”, chẳng hiểu sao tôi lại muốn vào uống cho say, mặc dù bây giờ tâm trạng tôi rất bình thường, hơn nữa còn biết rõ rằng mình không thể uống rượu.

Thời điểm này quán bar rất thưa thớt, ngoài vài người pha rượu và nhân viên phục vụ ra, chỉ có một, hai vị khách không biết vì lý do gì mà ban ngày ban mặt cũng giống như tôi muốn mua cơn say. Ngồi trên ghế cao, tôi gọi một cốc rượu tequila, loại rượu này rất dễ say và cũng nhanh tỉnh.

“Người Trung Quốc? Hay người Nhật?” Pha rượu cho tôi là một anh chàng người ngoại quốc tóc nâu, mắt xanh.

“Người Trung Quốc.”

“Hey! Ông chủ của chúng tôi cũng là người Trung Quốc đấy!”

Tôi không bắt lời, việc đấy cũng chẳng có gì là lạ.

“Jeff, đến từ Mexico.” Nhân viên pha rượu không để ý đến vẻ lạnh nhạt của tôi, nhiệt tình tự giới thiệu về mình.

“Anastasia.” Ở nước ngoài, tôi rất ít khi dùng ba chữ “Giản An Kiệt”.

“Xin mời cô Anastasia xinh đẹp!” Jeff giơ cốc rượu tequila pha ngẫu hứng theo kiểu Mexico ra trước mặt tôi,

“Cô có đôi mắt rất đẹp, rất cuốn hút.”

“Cảm ơn!”

“Không thích à?” Một lúc sau, Jeff thấy tôi vẫn chưa uống thì không kìm được hỏi.

“Không, không phải thế.” Tôi gượng cười, “Tôi không biết uống rượu.”

“Ôi trời ơi! Cô không biết uống rượu mà lại vào quán bar!?” Điệu bộ của Jeff đầy khoa trương và hài hước.

Tôi cười, “Đúng thế, cho nên bây giờ tôi định đi ra đây.” Thực ra vừa nãy tôi vào đây cũng chỉ để chiều lòng mình, chứ không phải thực sự muốn uống rượu, chỉ vì cảm thấy nhàm chán nên muốn thử một lần cho biết cảm giác say là thế nào thôi.

“Tôi nghĩ tôi có thể pha cho cô một ly rượu không cồn.” Jeff nêu ý kiến.

“Vậy thì còn gì là rượu nữa!”

“Có lý. Anastasia...” Anh ta đột nhiên như nghĩ ra điều gì, “Anastasia, cái tên này hình như tôi đã từng nghe ở đâu rồi. Ha ha! Nhớ ra rồi, có một lần ông chủ chúng tôi say rượu...”

“Tôi nghĩ những người có cái tên này không ít.” Tên người nước ngoài quanh đi quấn lại cũng chỉ có chừng đó thôi.

“Ừm, cũng đúng.” Jeff tán đồng.

“Cám ơn về ly rượu của anh.” Tôi nhấp một ngụm coi như phép lịch sự tối thiểu, để tiền lên mặt quầy rồi bước

“Cô Anastasia, lần sau cô đến tôi sẽ mời cô nước hoa quả!” Giọng nói sang sảng của Jeff từ phía sau truyền đến.

Lần sau ư? Tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ đặt chân vào nơi này nữa.

Tiếng chuông nhà thờ bồng vang lên, đàn bồ câu trắng trên quảng trường giật mình bay đi, tôi nhìn theo chúng, ánh mắt lướt qua đỉnh các công trình kiến trúc Gothic, cho đến khi chúng bay về phía chân trời xa.

“Em uống rượu à?” Một giọng nói lạnh lùng cất lên, một khuôn mặt cực kỳ điển trai trong con mắt của số đông hiện ra trước mắt.

Tôi cúi đầu, bước về phía con đường đã đến khi nãy.

“Rốt cuộc em còn muốn bướng bỉnh đến bao giờ nữa?” Giọng nói bình tĩnh từ phía sau vọng đến.

Thế nào là bướng bỉnh, không muốn để ý đến thì gọi là bướng bỉnh, vậy thì hành động chạy đến đây của anh ta được gọi là gì? Bình chân như vại hay thừa cơ hãm hại

“Tại sao lần nào em cũng chỉ chạy trốn vào đồng hoang thế?”

Dù không để ý thì câu nói này của anh ta cũng đã chạm vào nỗi đau của tôi, anh ta là một người giảo hoạt, thật biết cách làm tôi đau đớn.

Tôi quay lại nhìn anh ta, “Tịch Hy Thần, rốt cuộc anh muốn làm gì?”

Tôi xưa nay không để ý đến anh ta, nhưng lại luôn bị thái độ của anh ta làm cho rối loạn đến mức không thể nhìn thẳng vào anh ta được, “Có một số điều cũng nên một vừa hai phải thôi, tôi đã không còn làm phiền các người, vì thế xin anh cũng đừng đến quấy rầy tôi nữa.”

Bên ngoài cửa sổ, sắc trời âm u, những hạt mưa không to không nhỏ cứ đều đều từng giọt chảy xuống những tán cây ngô đồng bên ngoài khu ký túc, vài cơn gió heo may thổi tới làm những trang giấy của quyển sách giáo khoa tiếng Pháp trên bàn học bay lật phật, trong phòng bao trùm một màu u tối.

“Haiz! Cậu ngủ rồi à?” Amelia hôm nay lại về sớm hơn tôi, thật hiếm có.

“Chưa ngủ.”

“Hey, hiếm khi cậu tiếp chuyện mình.” Cô ấy xoay người ngồi dậy, “Buổi chiều mình nhìn thấy cậu ở một quán bar.”

Tôi thở dài.

“Cậu đến đó làm gì? Hả? Làm gì?” Giọng cô ấy bắt đầu kích động, có chút ý đồ đen tối.

Tôi đã sống xa nhà nhiều năm, sớm đã quen với những kiểu người lòng dạ khó lường thế này, và cũng đã học được cách không quan tâm.

Tôi không trả lời, chỉ thấy cô ấy cười, nói: “Quán rượu đó mình thường hay lui tới, mình quen Jeff. Lần sau mình dẫn cậu đi, uống rượu sẽ được giảm giá. Hey, hôm nay mình đến giúp anh ấy dọn dẹp nhà cửa, cậu biết đấy, người Mexico có thể biến chuồng ngựa thành phòng ngủ, nhưng mình không thể chấp nhận được, bởi vì đôi lúc mình cũng ngủ lại đó.” Cô ấy vừa nói vừa nằm xuống rồi mỉm cười.

Tôi bò ra khỏi giường và bật đèn, cất quyển sách giáo khoa tiếng Pháp đang bị gió làm tung bay lật phật vào ngăn kéo, không ngủ được nên trở dậy xem sách, giở quyển sách từ vựng tiếng Phần Lan thông dụng ra xem, thật ra ở đó có thể dùng tiếng Anh để giao tiếp, nhưng giáo sư bên đó lại cố chấp giảng bài bằng tiếng mẹ đẻ, cho nên không thể không nhập thêm một ngôn ngữ nữa vào đầu. Còn nhớ trước đây học tiếng Pháp, mồi ngày tôi chỉ được ngủ năm tiếng, ngay cả khi đi ăn cũng lo lắng vác quyển từ vựng đi

“Hey, cậu bật đèn thì mình ngủ sao được!”

Tôi quay đầu lại nhìn, cô ấy đang nghịch điện thoại, “Khi nào cậu ngủ thì mình sẽ tắt đèn.”

“Được, vậy bây giờ mình ngủ đây.” Cô ấy bỏ điện thoại xuống nhìn tôi.

Tôi không so đo tính toán với cô ấy, có họa điên mới đi so đo với những người như thế này. Tôi tắt đèn rồi ra ngồi trước cửa sổ, gió hiu hiu thổi.

“Hey, thật ra mình rất thích cậu.” Amelia nói, “Cậu không bao giờ tranh giành cái gì với bọn mình.” Một lúc sau, tôi nghĩ cô ấy đã ngủ rồi thì lại nghe cô ấy cười, nói: “Cậu có biết ông chủ quán bar của Jeff không?”

“Không biết.”

“Thật không? Mình cứ nghĩ cậu biết anh ta, anh ta nhìn thấy cậu liền đuổi theo ngay. Thật tiếc là cậu không biết, một người Trung Quốc khá đẹp trai.”

Sáng hôm sau tỉnh dậy, trời vẫn còn lất phất mưa, hai viên đá cuội bên bệ cửa sổ bị mưa xối vào hơi lành lạnh, tôi nhặt lấy đem vào bàn chặn sách. Hôm nay phải tới phòng hành chính của trường để giải quyết một số thủ tục lặt vặt, sau đó đem một ít sách vở và quần áo gửi bưu điện sang Phần Lan trước.

Buổi chiều, khi tôi định ra bưu điện thì gặp Diệp Lận ở cổng trường. Anh đang ngồi trên chiếc ghế gỗ bên con đường gạch, tôi đi đến ngồi cạnh anh, hai người không nói câu gì, tận khi rời đi anh mới khẽ nói một câu tạm biệt.

Từ bưu điện đi ra, tôi không quay về trường ngay mà đi bộ về phía khu phố cổ, hai mươi phút sau đã đến khu lâu đài cổ mà trước đây tôi hay cùng Christine đến vẽ phong cảnh. Con đường hẹp quanh co, cây cối tầng tầng lớp lóp, khung cảnh hoang tàn, bản thân người Pháp đã lãng quên nơi này, khách du lịch cũng không mấy khi đến đây tham quan.

Vẻ đẹp tráng lệ và cổ kính của nơi đây, dù miêu tả thế nào cũng không thể lột tả hết được. Lần này tôi không có dụng cụ vẽ, lần trước tới đây mới chỉ vẽ được một nửa.

Tôi đi xuyên qua cổng vòm chạm trổ hoa văn màu trắng, một vài chỗ ở bên trong đã bị thời gian bào mòn nhìn không rõ hình ảnh ban đầu. Bước vào sâu trong sân thì chợt nhớ ra năm ngoái để quên chiếc vòng đeo tay thạch anh ở trên bức tường cổ, là món quà của Christine tặng, không biết bây giờ nó còn ở đó không.

Tôi chậm rãi tiến lên phía trước, lần tìm chiếc vòng thạch anh, trong đầu nhớ tất cả những hỷ nộ ái ố trước đây. Không biết bao lâu sau, một tiếng động lớn đột nhiên vang lên làm gián đoạn mạch suy nghĩ, cảnh vật tứ bề rung lên ầm ầm, khói đen bốc lên, đồ vật trong tòa nhà vỡ vụn, bay tứ tung, sau đó dưới chân tôi đột nhiên trống rỗng, tôi rơi thẳng xuống.

“Sụt lở.” Trong đầu tôi lập tức nảy ra từ này, nhưng còn chưa kịp hét lên, nỗi sợ hãi đã bao trùm toàn bộ cơ thể.

Khi sắc trời xanh lam hoàn toàn biến mất, một bóng đen bỗng nhảy tới.

Trong lúc mê man bất tỉnh, mùi rêu xanh ẩm mốc xộc vào mũi, bên tai văng vẳng tiếng nước chảy.

Tôi đau đớn mở mắt ra, trước mắt toàn một màu đen như tôi đã dự đoán. Sao chuyện này lại xảy ra chứ. Có lẽ Thượng đế đã an bài để tôi kết thúc cuộc đời bằng cách bị chôn sống như thế này, tự nhiên lại có suy nghĩ thật khôi hài, có lẽ Giản An Kiệt sẽ dùng cách này để biến mất khỏi thế gian, không để lại chút dấu vết.

Chân tay vừa cử động đã cảm thấy tê cứng, dần dần trở nên đau nhức, khắp người ê ẩm, nhất thời không biết rốt cuộc đau ở chỗ nào, chỉ thấy lạ là không cảm thấy quá đau như tưởng tượng.

Cảm giác dưới thân mình có gì đó khác lạ, không phải là một đống đổ nát ẩm ướt, mà ngược lại còn thấy ấm áp, phảng phất hương bạc hà quen thuộc.

Chạm tay vào thì nhận ra đó là chất liệu vải, tôi giật mình hoảng hốt, vùng vẫy định ngồi dậy thì đột nhiên chỗ thắt lưng bị giữ chặt, vừa ngóc đầu lên đã bị lôi trở lại, bên tai vẳng đến tiếng rên khe khẽ.

Cảm giác người ở bên dưới cũng dần dần hồi tỉnh, phần lưng bị ôm chặt đã được buông ra, tôi vội vàng xoay người ngồi sang một bên. Trong bóng tối, những viên đá vụn vỡ đâm vào cơ thể khiến tôi khó chịu, trái tim càng lúc càng đập nhanh hơn, sao có thể thế được?! Tại sao con người kia và tôi lại cùng lúc rơi vào chốn này?

“Em... không sao chứ?” Giọng nói lành lạnh vang lên, hơi khàn và nhỏ vì chưa hồi phục!

Mắt tôi đã từ từ quen với bóng tối, có thể nhìn rõ đây là một con đường lát gạch dài và hẹp, trước mặt bị bịt kín bởi một đống đổ nát, phía sau bao trùm một màu đen.

Có lẽ do chấn động nên tòa lâu đài đã lâu không được tu sửa này mới bị sụt lở, nhưng cũng may chỗ sụt xuống là đường hầm nên tôi mới thoát khỏi số mệnh bị chôn sống. Thế sự là thế, khiến người ta không biết nên khóc than hay vui mừng

Cũng như tôi đã không còn muốn đoán lý do tại sao anh ta lại xuất hiện ở đây, rơi xuống cùng tôi, làm tấm đệm lót cho tôi.

Bên cạnh vang lên một tiếng “póc” nhè nhẹ như thể đang gõ một cái gì đó, liền sau đó, một đốm lửa nhỏ lóe lên.

Sau đó, xung quanh đột nhiên sáng rực, không biết anh ta đã dùng cái gì để châm ngọn đuốc treo trên bức tường của đường hầm.

Mật đạo lộ ra trước mắt càng lúc càng rõ ràng hơn, những tảng đá lớn gồ ghề, lồi lõm phủ đầy rêu xanh và bị nước ngấm xuống bào mòn, còn có cả bó đuốc bằng bạc nguyên chất được chạm trổ xa hoa trên tường hầm, tất cả hiện lên như một bức tranh tuyệt đẹp theo lối kiến trúc Gothic thời Trung cổ.

Dưới ánh đuốc, tôi thấy tay Tịch Hy Thần nắm chặt một chiếc đồng hồ quả quýt tinh xảo, sợi dây xích bằng kim loại quấn quanh ngón tay nhẹ nhàng rủ xuống, phía cuối dường như có màu đen, trên nắp đồng hồ có một viên đá sapphire sáng lấp lánh, trông rất bắt mắt.

“Trước đây, trong một ngôi làng nhỏ trên núi có tên là Tân Vượng, khi đội ngũ thăm dò địa chất nói chuyện với già làng thì tình cờ phát hiện bọn họ buộc viên đá lửa màu xanh lam vào bao thuốc lá để châm thuốc, nhìn rất giống đá sapphire, sau quá trình giám định, chứng thực đó là loại đá sapphire có chất lượng tốt nhất ngày nay. Không ngờ bây giờ nó lại được khôi phục lại vai trò ban đầu.” Giọng anh ta đều đều, như thể không phải đang giải thích.

“Không có bật lửa à?” Sau khi giây phút kinh ngạc qua đi, tôi mới thấy ân hận vì mình đã tò mò một cách không cần thiết.

Ánh đuốc khẽ bập bùng trên khuôn mặt ảm đạm của anh ta, “Anh không hút thuốc.” Anh ta nói. Không biết tại sao một câu nói rất đồi bình thường bỗng dưng lại khiến tôi có cảm giác thật khác lạ.

“Ngôi trường tiểu học ở cạnh nhà thờ từng là trang viên của Công tước Mona d’Abel, nhà thờ cũng thuộc sản nghiệp của ông ta, cho nên có lẽ vì một lý do nào đó mà ông ta đã bí mật xây dựng mật đạo này. Các quý tộc thời ấy thường xây dựng mật đạo để làm nơi trú ngụ, phòng những trường hợp bất trắc.” Tịch Hy Thần lấy bó đuốc từ trên tường xuống, nhìn về phía con đường bị đám gạch đá vỡ bịt kín, “Hướng thông với nhà thờ đã bị bịt kín rồi, nhưng hướng khác nhất định sẽ có lối ra.” Chỉ qua vài ba câu nói của anh ta, chốn tử địa này dường như không còn gì đáng sợ nữa.

Gã đàn ông này vốn là người lạnh lùng, giỏi tính toán, thật giả lẫn lộn, khiến người ta không thể ý đồ thật là gì, trình bày mạch lạc như thế chắc không phải đến đây lần đầu, tôi dồn ép: “Xem ra anh rất quen thuộc nơi này.”

Tịch Hy Thần liếc tôi một cái rồi nói: “Đi thôi!” Nói xong liền giơ ngọn đuốc lên và đi về phía con đường gạch tăm tối.

Chú thích:

(*) Viện Đại học Paris (tiếng Pháp: Université de Paris) ra đời vào nửa sau thế kỷ XII nhưng năm 1970 được tổ chức lại thành mười ba trường đại học độc lập (Trường đại học Paris I - XIII). Trong đó, trường Đại học Descartes là trường Đại học Paris V. Viện Đại học Paris xưa nay vẫn là một trong những trường đại học nổi tiếng và danh giá nhất thế giới. Trường đã có năm mươi chín người đoạt giải Nobel trên cương vị các cựu sinh viên, các giáo sư giảng dạy cũng như nhiều nhà lý thuyết chính trị, khoa học, thần học và nghệ thuật xuất chúng theo truyền thống Pháp.

(**) Grand Palais (Cung điện lớn): một công trình lịch sử, nay là một bảo tàng của Paris, Pháp.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương