Nơi Cuối Đường... Anh Chờ Em
-
Chương 31
Kì nghỉ đông năm đó, Tô Thố lần đầu tiên không về nhà ăn Tết. Sở nghiên cứu cho phép nghỉ mấy ngày, cô co mình trong phòng ngủ một giấc đã đời, dường như muốn bù lại những lúc thiếu ngủ của một năm nay đến lúc thức dậy liền lên mạng, chúc tất cả những người quen biết năm mới vui vẻ, yêu cầu Tô Trí gửi ảnh cưới cho cô coi.
Đến đêm giao thừa, những sinh viên không về nhà ăn Tết đều cùng với các thầy cô giáo tại phòng hoạt động tổ chức một bữa liên hoan nhỏ. Tuy phòng hoạt động bố trí sơ sài, nhưng ánh sáng trong phòng lại đúng là nhẹ nhàng. Năm sáu mươi người cùng tập trung lại một chỗ, không phân biệt cấp bậc, trên dưới, bất luận giáo viên hay sinh viên đều cùng nhau hòa mình vào bữa tiệc, không khí tốt hiêm có, ngay cả đến giáo sư Triệu, trên mặt lúc nào cũng nở nụ cười. Tô Thố bưng một ly nước uống, đi tới chỗ ban công rộng lớn để giải khuây; lúc này cô mới phát hiện ra Thiệu Vĩ cũng ở đó, anh ấy đang nghiêng người dựa vào ban công, cánh tay thì vắt trên lan can, lặng lẽ nhìn vườn hoa ngoài ban công, chỉ còn sót lại vài cánh hoa. Đang lúc Tô Thố quay người định đi thì Thiệu Vĩ đã quay đầu lại, cười và vẫy tay ra hiệu cho cô, do ánh sáng đèn đường rọi xuống, cho nên nụ cười đó không thật sự thấy rõ. Cô lại do dự, hay là đi qua đó vậy. Trước đó, Tô Thố cũng chưa nói được với anh câu nào.
Thứ nhất là vì bận, thứ hai là vì cô không biết phải nói gì đây.
“Thiệu sư huynh.” Tô Thố cũng dựa vào ban công, khe khẽ gọi anh một tiếng.
“Vừa nhìn thấy anh là muốn đi liền sao?”
Tô Thố không trả lời.
“Lúc đầu không nói với em chính là sợ em đối với anh như thế này, tránh không kịp.” Thiệu Vĩ điềm nhiên như không rồi cười. “Anh cũng tự cho rằng mình thông minh, thiên văn địa lý không cái nào là không biết cả, nhưng khi mang chúng đến trước mặt em thì tất cả đều không có hiệu quả gì nữa.”
Thiệu Vĩ cười rộ lên, khóe mắt xuất hiện vài nếp nhăn nho nhỏ, tuy rằng không nhiều nhưng mỗi đường đều rất sâu, lan tới tận phần tóc mai.
Tô Thố chăm chú nhìn những nếp nhăn đó, chậm rãi nói: “Sư huynh ơi, anh cũng nên tìm một người bạn gái đi thôi. Anh tìm bạn gái còn không dễ lắm sao?”
“Tiểu sư muội, có lúc em cũng thật nhẫn tâm quá đó,” thần sắc của Thiệu Vĩ liền biến đổi, khóe môi khẽ giật, cuối cùng biến hóa thành một nụ cười có đủ cả đau đớn và chua xót, “Có thời gian anh sẽ tìm. Có thời gian em cũng giúp anh để tâm một chút nhé.” Lúc này có người cao giọng gọi bọn họ vào phòng. Không có ai theo dõi bữa tiệc liên hoan, chiếc tivi với màn hình sắc nét trong phòng đã tắt rồi. Thầy cô đã đi hết rồi, chỉ còn lại khoảng hơn ba mươi nghiên cứu sinh, họ đang bàn luận sôi nổi, phải làm gì với thời gian còn lại của tối nay, Thiệu Vĩ không cần biết đến nhận định của mọi người, liếc nhìn sang Tô Thố, cười rồi đưa ra ý kiến là khiêu vũ, mọi người đều đồng loạt khen ý kiến hay đó. Hiệu quả của máy phát nhạc không tốt lắm, lại đúng lúc trong phòng hoạt động có một chiếc piano, có người nói: “Đáng tiếc quá, nếu có người biết chơi đàn thì hay biết mấy.”
Một hồi lâu vẫn không có người trả lời, chiếc piano nhiều năm tuổi được cất kín ở một xó, ánh đèn không thể chiếu tới đó, lộ ra vẻ hiu quạnh, một làn ánh sáng chiếu trên nắp đàn màu đen, như có mà như không, tia ánh sáng đó làm cho Tô Thố thất thần mãi đến khi Thiệu Vĩ vỗ nhẹ vào vai cô, cô vừa quay đầu lại thì thấy mọi người đều tỏ ra mong đợi và có chút luyến tiếc, thế là cô dừng bước lại, gật nhẹ rồi nói: “Tôi biết”, vừa hết lời thì nhìn thấy nét mặt quá đỗi vui mừng của mọi người, lại lập tức bổ sung thêm một câu: “Nhưng mà đã nhiều năm rồi tôi không chơi, tay đều cứng đơ rồi, rồi lại nhiều khúc phổ cũng nhớ không chính xác nữa.”
“Đừng lo lắng, ở đây có nè.” Thiệu Vĩ lục ra từ tủ sách ở đằng sau cây đàn piano, được một chồng khúc phổ, anh vừa đập đập bụi trên sách vừa nói: “Cũng không biết là lúc nào, nhưng mà chắc vẫn dùng được đó.”
“Chúng đều là của giáo sư Triệu, chồng của giáo sư trước đây là một nhạc công chơi đàn piano. Năm đó chúng tôi nói là phải tham gia hoạt động, nên cần khúc phổ, Giáo sư Triệu liền dẫn chúng tôi đến nhà cô ấy, phòng cô ấy hình như vẫn còn mấy cái tủ nữa,” một người khác đi tới, xem qua mấy quyển khúc phổ, “Tiểu Tô thử chọn một ca khúc mà bạn biết đàn đi.”
Tất cả những quyển sách nhạc trong tủ đều có chút gì đó kì diệu. Từ Frederic Chopin đến Beethoven, toàn bộ đều có, Tô Thố khom lưng, xem từng quyển một, quyển đặt trên cùng chính là Lương Chú, mỗi chương nhạc đều có. Tay Tô Thố run lên, bắt đầu cầm, rồi gác lên trên khung, bắt đầu thử nhạc, âm sắc rất chuẩn, cứ như là hôm qua đã có nhân tài điều chỉnh qua rồi, đích thực đã nhiều năm rồi không chơi. Nhưng mà “Lương Chúc” là bản nhạc quen thuộc mà cô đã từng chơi qua rất nhiều, sau khi chơi qua vài đoạn nhỏ liền lấy lại cảm hứng, tư tưởng tình cảm không thể làm chủ, mà dường như bị kéo theo âm hưởng của ca khúc. Khi mỗi một nốt nhạc dưới tay cô nhảy ra, giống như kim đồng hồ đang xích quay trở lại từng chút. Cô đi ngược thời gian, truy tìm những dấu vết đã qua. Lúc đầu dừng lại ở cánh cổng của kì nghỉ hè đại học năm thứ ba, tiếng dây đàn violon quanh quẩn ở đó không đi, lớn tiếng ca hát, sau đó lại trở về, trở về. Cuối cùng trở lại cái thời cấp ba đã sớm không còn tồn tại nữa rồi.
Mọi thứ trong đó sớm đã bị năm tháng pha loãng chỉ còn lại những mảnh ghép, nhưng những mảnh nhỏ ấy đều là hình ảnh của chúng. Trước khi khai giảng một ngày, cô ở bên ngoài phòng nhạc nghe thấy âm thành du dương của tiếng đàn piano, thế là nhẹ nhàng đẩy cửa vào; một thiếu niên tuấn tú ngồi trước cây đàn, hai tay trượt trên phím đàn như nhảy múa, chơi hết một khúc, thiếu niên ngẩng đầu nhìn cô, mỉm cười cới cô, cô hướng về phía cậu rồi đi qua.
Tối hôm đó, hầu hết mọi người quyết định ở lại phòng hoạt động cả đêm; khi không còn ai khiêu vũ nữa, cô trở về kí túc xá. Thực sự sau khi trở về lại phát hiện cơn buồn ngủ bỗng không cánh mà bay. Nếu đã không ngủ được, Tô Thố lại co mình trong chăn đọc một đoạn luận văn, là một đoạn văn mới nhất về trọng lượng ion phản ứng hạt nhân vỡ ra của một vị học giả vật lý cực kì nổi tiếng, làm chấn động thế giới trong kì này.
Cầm đoạn văn này đọc không biết bao nhiêu lần, Tô Thố cầm lấy chiếc di động bên cạnh gối lên và mở máy, vừa mới mở máy lên điện thoại reo liền, nhìn chằm chằm vào số điện thoại thật lâu, cô ấn nút nghe máy.
“A Thố.” Âm thanh dịu dàng quen thuộc đó nói: “Dạo này khỏe không?”
Tô Thố đột nhiên phát hiện chữ trên luận văn vặn vẹo, cô dù nhìn thế nào cũng nhìn không rõ, cô cầm chắc điện thoại, cắn môi không nói được một lời. Mới đầu bên kia cũng không sốt ruột, nhưng đầu dây bên này lại im lặng quá lâu để lộ ra điều gì đó mơ mơ hồ hồ không ổn, giọng nói bắt đầu khẩn trương: “A Thố sao rồi, tại sao không nói chuyện, không xảy ra chuyện gì chứ.”
“Không có.” Tô Thố khôi phục lại trạng thái bình thường: “Trần sư huynh, em không sao.”
Sau một năm tròn Trần Tử Gia lại được nghe giọng nói véo von này, tim của anh rớt lại vào trong bụng, chỉ cảm thấy toàn thân thả lỏng: “Không có gì thì tốt rồi.” Cố gắng cười, Tô Thố nhìn thấy rõ ràng thời gian trên máy tính đã không giờ một phút rồi.
“Anh vẫn là người đầu tiên chúc mừng năm mới em sao.” Trần Tử Gia ngậm cười nói : “Anh gọi điện rất nhiều lần, may mà cuối cùng em cũng mở máy rồi.”
Ngữ khí của Tô Thố mười phần đùa giỡn : “Vừa nãy em xem ảnh cưới của Tô Trí, cũng nhìn thấy anh, thật không ngờ anh ấy lại có gan để anh làm phù rể.”
“Em chọc anh à?” Trần Tử Gia cười nói : “ Bọn anh năm đó đã nói rõ rồi ai kết hôn trước sẽ cho đối phương làm phù rể, đây cũng là lần đầu tiên anh làm phù rể cho người khác, không có kinh nghiệm, lần sau sẽ tốt hơn nhiều.”
Tô Thố vui cười : “Anh yên tâm đi. Dự tính là trên thế giới này sẽ không có người thứ hai để anh làm phù rể đâu. Anh đi đâu để tích lũy kinh nghiệm chứ. Còn không bằng đi theo người ta học hỏi kinh nghiệm làm chú rể.”
“Thật không.” Trần Tử Gia chỉ cười : “Lại không kết hôn, học để làm gì.”
“Anh ___” Tiếng nói của Tô Thố nghẹn lại trong cổ họng, cô muốn nói chuyện nhưng một chữ cũng nói không ra. May mà lúc này điện thoại báo rằng có một cuộc gọi đến. Cô liền cúp máy.
Cuộc gọi đến là của Tô Trí, ở nước Pháp đang là buổi chiều, bên đó cực kì náo nhiệt, vui vẻ ca hát, cười nói không ngừng, Tô Thố nghe thấy người nghe bắt đầu mỉm cười.
Thời điểm xuân về hoa nở đã bước sang tháng tư, hạng mục cuối cùng cũng hoàn thành, nhóm của Tô Thố mỗi người được nghỉ phép mười ngày. Khi ăn cơm ở nhà ăn, mọi người phấn khởi hỏi nhau: “ Đến Tây Tạng chơi thấy sao?” “đến Cửu Trại Câu chơi thế nào?” khi hỏi đến Tô Thố cô do dự một lúc, rồi lịch sự từ chối.
Khi cô thu dọn hành lí, Thiệu Vĩ đến tìm cô, nhìn thấy Tô Thố sắp xếp sách đầy cả chiếc túi, ngạc nhiên hỏi: “Chuẩn bị ra ngoài à? Đi đâu vậy? Mang nhiều sách thế để làm gì?”
“Là phải ra ngoài.” Tô Thố trả lời, sau đó ngay tức khắc thu dọn quần áo.
“Anh đi cùng em,” Thiệu Vĩ nhấc nhấc túi xách của cô “thật là nặng.”
Lời nói quả quyết như vậy khiến cho Tô Thố sửng sốt nhìn anh, liên tục lắc đầu : “Chỗ đó rất xa, anh không muốn đi đâu.”
Thiệu Vĩ đã cầm lấy túi xách của cô, cười xảo trá: “Đã có nơi lí thú, anh đương nhiên phải đi chứ.”
Tô Thố nghiêng đầu nhìn anh, thêm một người đi cũng không phải chuyện xấu. Sáng sớm tinh mơ hai người xuất phát. Buổi trưa đã đi tới một huyện thành nhỏ nằm ở phía tây trong tỉnh, sau đó từ huyện thành lại đón xe khách tới tới thị trấn, rồi lại từ thị trấn bắt xe vận tải xuống nông thôn. Con đường này là đường đất đá ghập ghềnh, nhấp nhô, một bên là vách núi dựng đứng, bên phải là rừng cây um tùm. Sau khi đi được khoảng chừng hơn mười cây số, dường như không còn cách nào đi tiếp được. Con đường xóc nảy khiến cho ruột, dạ dày của họ như xoắn lại thành hình tròn. Cuối cùng sau khi đi hai tiếng đồng hồ trên đường núi họ đã tới một sơn thôn nhỏ tên Tề Gia Truân, thời gian đã là tám giờ tối rồi.
Hai người mệt gần chết, Thiệu Vĩ ban đầu còn vẫn còn kể truyện cười, sau này mệt đến nỗi nửa câu cũng không buồn nói. Lặng lẽ bước đi, vừa không hỏi mục đích cũng không hỏi còn bao lâu nữa mới tới.
Sau khi Tô Thố dừng lại trước một căn nhà nhỏ anh thở phào nhẹ nhõm. Dưới bầu trời đầy sao, ngọn núi lớn xa xa cũng chỉ là một vùng đen tuyệt đối, thích ứng lâu hầu như có thể nhìn rõ kết cấu của những ngôi nhà đất này, còn có thể nhìn thấy ánh đèn từ khe cửa trong căn nhà xuyên qua từng tia, lúc ẩn lúc hiện không rõ ràng.
Tô Thố đi về hướng có ánh sáng, tiến lên gõ cửa, rất nhanh liền có người bước ra mở cửa. Cô gái trẻ tuổi mở cửa đeo một đôi kính, nhìn thấy Tô Thố cô biểu lộ ra nụ cười vui mừng khôn xiết, nắm lấy tay Tô Thố dẫn vào nhà. Nhờ vào ánh đèn, cô nhìn thấy đằng sau Tô Thố có một người con trai, mặt mày sáng sủa, cô vô cùng sửng sốt nhìn Tô Thố với ánh mắt thăm dò.
Tô Thố cười rồi giới thiệu hai người với nhau: “Đây là cô giáo Thái Ngọc, giáo viên duy nhất của trường tiểu học Tề Gia Truân, đây là Thiệu Vĩ sư huynh của mình.”
Thiệu Vĩ tiến lên bắt tay cô, cái bắt tay ấy khiến cho anh lấy làm lạ. Anh nhìn thấy bàn tay của đối phương so với tuổi tác không tương xứng, bàn tay đầy những vết chai, sờ trúng rất cộm. Anh thản nhiên đánh giá về cô giáo nơi thôn quê này, tướng mạo thì không được xuất sắc cho lắm, nhưng thần sắc lại rất kiên định, đôi mắt thì trong veo.
Thái Ngọc mời hai người ngồi xuống rồi nói: “Đi đường lâu như vậy, chắc hẳn rất mệt.”
“Thật là xa.” Thiệu Vĩ cười, chỉ Tô Thố: “Nhìn nơi này chỗ nào cũng giống nhau, không hiểu tại sao em lại nhớ được đường.”
Ngôi nhà này đơn sơ đến nỗi khiến cho Thiệu Vĩ phải giật mình, bức tường đất mờ nhạt, vừa chạm vào liền bụi rơi lắc rắc, cả căn phòng vừa là phòng sách lại còn là phòng ngủ nữa, trên chiếc bàn không nhìn ra màu sắc gì đặt lên toàn sách và vở bài tập, ánh sáng của đèn bàn thì ảm đạm, bốn bức tường vừa thô sơ lại bị hủy hoại không một chút lưu tình, còn chiếc giường không được đặt ở nơi sáng sủa, ánh đèn không thể chiếu tới góc tăm tối đó.
“Không có gì ngon để chiêu đãi.” Thái Ngọc bưng cho hai người hai chén nước nóng, nụ cười có chút áy náy. “Tô Thố mình không biết là cậu dẫn thêm người tới.”
“Là tự anh đòi theo tới.” Thiệu Vĩ đứng dậy, mở cử sổ rồi nhìn ra ngoài, “đây rốt cuộc là nơi nào?”
“Trường tiểu học Hi Vọng Tề Gia Truân ở vùng núi.” Thái Ngọc giải thích, “anh xem đằng kia là sân thể dục, sáng sớm ngày mai anh sẽ nhìn thấy những đứa trẻ tới đó học.”
Tháng tư, sáng sớm thời tiết có chút lạnh, ở giữa núi, đưa mắt quan sát, đều là những dãy núi trùng trùng điệp điệp, không khí trong lành, không mang một chút tạp chất, phong cảnh tuy đẹp nhưng cái giá phải trả lại lớn, nó hẻo lánh đến nỗi khó có thể tưởng tượng được, dường như sắp bị thế giới lãng quên. Tô Thố và Thái Ngọc dậy từ rất sớm, khi Thái Ngọc đang bận bịu trong bếp, thì Tô Thố lại đứng trên cái sân thể dục không hề giống những cái sân khác, ngắm nhìn những dãy núi phía xa. Ngay tại vùng núi hầu như hoàn toàn cách biệt với thế giới, lại có thể tồn tại một ngôi trường tiểu học Hi Vọng chỉ có một giáo viên và số học sinh thì không quá hai mươi người.
“ Chào buổi sáng.” Thiệu Vĩ đứng ngay bên cạnh Tô Thố.
Tô Thố cũng gật đầu chào: “ Chào buổi sáng, sư huynh.”
Tối qua Thiệu Vĩ ngủ trên đất cho nên ngủ không ngon giấc, cũng may bình thường bọn họ đều thức đêm nên thành thói quen, trên mặt một chút cũng không thể nhìn ra. Anh nhìn cô, cười nói : “Làm sao mà em biết được chỗ này? Em và Thái Ngọc hình như rất gần gũi?” Câu nói vừa dứt, anh nhìn thấy khuôn mặt mỉm cười của Tô Thố, liền nói bổ sung: “Anh biết, quả thực câu hỏi của anh rất nhiều. Nếu em không muốn nói, có thể không cần nói đâu em.”
“Không có gì là không thể kể.” Tô Thố nhớ lại nói: “ Lúc học đại học, em đã từng giúp đỡ hai đứa trẻ nơi đây học, cô ấy viết thư cảm ơn, rồi bọn em quen nhau. Sau khi phổ cập giáo dục, em liền mua sách gửi đến đây. Mấy năm nay, bọn em thường xuyên viết thư, lúc đó cũng rất thân thiết; ba năm trước em đến học nghiên cứu sinh, cách đây cũng gần, liền tới thăm cô ấy.”
“Tiểu sư muội, em thật khiến anh hổ thẹn.” Thiệu Vĩ thở dài, có lúc thấy tin tức trên báo cũng có đề cập, nhưng bọn anh đều không để tâm chuyện đó.”
Tô Thố ra hiệu cho Thiệu Vĩ quan sát dáng vẻ bận bịu đó: “ Sư huynh, anh cũng đang nói em à. So với Thái Ngọc em là gì chứ? Anh biết cô ấy dạy học ở đây mấy năm rồi không? Từ sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông đến giờ, mười năm, tròn mười năm. Hầu như một mình cô ấy gánh vác cái trường này, sinh viên trợ giảng cũng đã tới nhưng đều là đến rồi đi. Trường học này lúc ban đầu, anh cho rằng nó có điều kiện thế này không? Lúc đó trên vách tường của lớp học, chỗ nào cũng thủng, mùa hè dột mưa mùa đông dột tuyết, cô ấy chỉ có thể dùng bùn đắp lên vách, trát lên nóc nhà mới có thể lên lớp được, nhưng bao năm nửa câu than phiền cũng không hề có.
Thiệu Vĩ quay đầu quan sát lớp học. Một cái sân nhỏ, mấy gian phòng học, chuông treo ngay dưới hiên nhà của một phòng học, sân thể dục ở giữa, còn có một cột cờ.
Những đứa trẻ không đồng lứa khoảng chừng hơn mười tuổi, lúc này phải trèo đèo lội suối lên lớp, chúng hầu như đến từ nhiều thôn khác nhau, ăn mặc rất giản dị, bộ dạng thật thà chất phác. Nhìn thấy Tô Thố, bọn chúng đứa nào cũng vui mừng khôn xiết, niềm nở chạy tới, mỗi đứa mỗi miệng gọi nghe giòn tan: “ Cô giáo Tô.”
Tô Thố ngồi chồm hổm, khuôn mặt tươi cười nhìn đám nhỏ.
Thiệu Vĩ ôm cánh tay đứng dậy, nhìn thấy nụ cười trên khuôn mặt Tô Thố dưới ánh sáng mặt trời như để lộ ra niềm hạnh phúc vô bờ. Tuy anh rất mệt nhưng nụ cười và thần sắc ấy, từ trước tới giờ anh chưa từng thấy qua, nhìn rồi nhìn, trong lòng anh xuất hiện nỗi phiền muộn khó tả, vui mừng chua sót đều có đủ cả, nhưng chỉ giấu kín trong lòng, không thể nói ra.
Một đứa bé trai khoảng độ mười tuổi nhảy tới trước mặt Tô Thố, từ trong chiếc túi xách cũ lấy ra một quyển sách toán học, vui mừng hỏi cô, “ đề bài này làm thế nào ạ?”
Lật lật sách, Tô Thố có chút kinh ngạc: “ Tiểu Phi, em không phải học lớp ba à? sao lại coi sách của lớp sáu?”
Đứa trẻ tên Tề Tiểu Phi, tướng mạo đoan trang, đôi mắt sáng ngời, ngoại trừ quần áo cũ nát, một chút cũng không giống là lớn lên ở nơi sơn thôn cằn cỗi này, rõ ràng nhìn không giống với những đứa trẻ khác, cậu trề môi : “Toán lớp ba đơn giản quá, em đã sớm coi hết rồi.”
Vẻ mặt đó khiến cho Tô Thố nhớ đến một người, cô bật cười, nghiêng đầu nhìn Thiệu Vĩ ở bên cạnh đang thất thần, liền chỉ tay về phía anh : “Tiểu Phi, vấn đề này nên đi hỏi chú đứng bên cạnh này, cô nói cho em biết, chú Thiệu là nhà toán học rất nổi tiếng của nước ta đó, cho nên nhất định giảng hay hơn cô.”
Những đứa trẻ lớn hơn một chút đã biết ba chữ nhà toán học đại diện cho nhân vật tài ba, lập tức sáp tới chỗ Thiệu Vĩ, quấn quýt lấy anh hỏi đông hỏi tây ; Tề Tiểu Phi lại không qua đó, vẫn ở bên cạnh Tô Thố hỏi : “Thật sao?”
Tô Thố nhéo cái mũi cậu : “Đương nhiên, cô giáo Tô đã bao giờ lừa em đâu, đúng không. Trình độ toán học của chú Thiệu cực kì lợi hại, không tin em kiểm tra chú ấy xem, tùy ý hỏi vài câu toán học, chú ấy đều biết.”
“Lợi hại như vậy a.” Khuôn mặt nhỏ bé của Tề Tiểu Gia cứng lại, dùng ngữ khí cực kì hoài nghi hỏi: “Nếu mà chú ấy không biết làm thì sao ạ ?”
Tô Thố giả vờ suy nghĩ một lúc: “Nếu mà không được em liền nhéo mũi của chú ấy đi.”
Thiệu Vĩ nghe thấy dự tính của Tô Thố và đứa trẻ, ngay sau đó dở khóc dở cười, nhưng phiền muộn vừa rồi không cánh mà bay, trong lòng ấm áp hẳn lên, nhìn thấy đôi mắt ngây thơ của đám trẻ, đột nhiên thấu hiểu tại sao Tô Thố lại luôn đến đây, anh mỉm cười nghĩ, thuyết pháp Khang Đức cũng chưa hẳn chính xác, trên thế giới ngoại trừ sao trời và phẩm chất loài người chuẩn tắc, còn có đôi mắt trẻ thơ cũng kì diệu như vậy.”
Đến đêm giao thừa, những sinh viên không về nhà ăn Tết đều cùng với các thầy cô giáo tại phòng hoạt động tổ chức một bữa liên hoan nhỏ. Tuy phòng hoạt động bố trí sơ sài, nhưng ánh sáng trong phòng lại đúng là nhẹ nhàng. Năm sáu mươi người cùng tập trung lại một chỗ, không phân biệt cấp bậc, trên dưới, bất luận giáo viên hay sinh viên đều cùng nhau hòa mình vào bữa tiệc, không khí tốt hiêm có, ngay cả đến giáo sư Triệu, trên mặt lúc nào cũng nở nụ cười. Tô Thố bưng một ly nước uống, đi tới chỗ ban công rộng lớn để giải khuây; lúc này cô mới phát hiện ra Thiệu Vĩ cũng ở đó, anh ấy đang nghiêng người dựa vào ban công, cánh tay thì vắt trên lan can, lặng lẽ nhìn vườn hoa ngoài ban công, chỉ còn sót lại vài cánh hoa. Đang lúc Tô Thố quay người định đi thì Thiệu Vĩ đã quay đầu lại, cười và vẫy tay ra hiệu cho cô, do ánh sáng đèn đường rọi xuống, cho nên nụ cười đó không thật sự thấy rõ. Cô lại do dự, hay là đi qua đó vậy. Trước đó, Tô Thố cũng chưa nói được với anh câu nào.
Thứ nhất là vì bận, thứ hai là vì cô không biết phải nói gì đây.
“Thiệu sư huynh.” Tô Thố cũng dựa vào ban công, khe khẽ gọi anh một tiếng.
“Vừa nhìn thấy anh là muốn đi liền sao?”
Tô Thố không trả lời.
“Lúc đầu không nói với em chính là sợ em đối với anh như thế này, tránh không kịp.” Thiệu Vĩ điềm nhiên như không rồi cười. “Anh cũng tự cho rằng mình thông minh, thiên văn địa lý không cái nào là không biết cả, nhưng khi mang chúng đến trước mặt em thì tất cả đều không có hiệu quả gì nữa.”
Thiệu Vĩ cười rộ lên, khóe mắt xuất hiện vài nếp nhăn nho nhỏ, tuy rằng không nhiều nhưng mỗi đường đều rất sâu, lan tới tận phần tóc mai.
Tô Thố chăm chú nhìn những nếp nhăn đó, chậm rãi nói: “Sư huynh ơi, anh cũng nên tìm một người bạn gái đi thôi. Anh tìm bạn gái còn không dễ lắm sao?”
“Tiểu sư muội, có lúc em cũng thật nhẫn tâm quá đó,” thần sắc của Thiệu Vĩ liền biến đổi, khóe môi khẽ giật, cuối cùng biến hóa thành một nụ cười có đủ cả đau đớn và chua xót, “Có thời gian anh sẽ tìm. Có thời gian em cũng giúp anh để tâm một chút nhé.” Lúc này có người cao giọng gọi bọn họ vào phòng. Không có ai theo dõi bữa tiệc liên hoan, chiếc tivi với màn hình sắc nét trong phòng đã tắt rồi. Thầy cô đã đi hết rồi, chỉ còn lại khoảng hơn ba mươi nghiên cứu sinh, họ đang bàn luận sôi nổi, phải làm gì với thời gian còn lại của tối nay, Thiệu Vĩ không cần biết đến nhận định của mọi người, liếc nhìn sang Tô Thố, cười rồi đưa ra ý kiến là khiêu vũ, mọi người đều đồng loạt khen ý kiến hay đó. Hiệu quả của máy phát nhạc không tốt lắm, lại đúng lúc trong phòng hoạt động có một chiếc piano, có người nói: “Đáng tiếc quá, nếu có người biết chơi đàn thì hay biết mấy.”
Một hồi lâu vẫn không có người trả lời, chiếc piano nhiều năm tuổi được cất kín ở một xó, ánh đèn không thể chiếu tới đó, lộ ra vẻ hiu quạnh, một làn ánh sáng chiếu trên nắp đàn màu đen, như có mà như không, tia ánh sáng đó làm cho Tô Thố thất thần mãi đến khi Thiệu Vĩ vỗ nhẹ vào vai cô, cô vừa quay đầu lại thì thấy mọi người đều tỏ ra mong đợi và có chút luyến tiếc, thế là cô dừng bước lại, gật nhẹ rồi nói: “Tôi biết”, vừa hết lời thì nhìn thấy nét mặt quá đỗi vui mừng của mọi người, lại lập tức bổ sung thêm một câu: “Nhưng mà đã nhiều năm rồi tôi không chơi, tay đều cứng đơ rồi, rồi lại nhiều khúc phổ cũng nhớ không chính xác nữa.”
“Đừng lo lắng, ở đây có nè.” Thiệu Vĩ lục ra từ tủ sách ở đằng sau cây đàn piano, được một chồng khúc phổ, anh vừa đập đập bụi trên sách vừa nói: “Cũng không biết là lúc nào, nhưng mà chắc vẫn dùng được đó.”
“Chúng đều là của giáo sư Triệu, chồng của giáo sư trước đây là một nhạc công chơi đàn piano. Năm đó chúng tôi nói là phải tham gia hoạt động, nên cần khúc phổ, Giáo sư Triệu liền dẫn chúng tôi đến nhà cô ấy, phòng cô ấy hình như vẫn còn mấy cái tủ nữa,” một người khác đi tới, xem qua mấy quyển khúc phổ, “Tiểu Tô thử chọn một ca khúc mà bạn biết đàn đi.”
Tất cả những quyển sách nhạc trong tủ đều có chút gì đó kì diệu. Từ Frederic Chopin đến Beethoven, toàn bộ đều có, Tô Thố khom lưng, xem từng quyển một, quyển đặt trên cùng chính là Lương Chú, mỗi chương nhạc đều có. Tay Tô Thố run lên, bắt đầu cầm, rồi gác lên trên khung, bắt đầu thử nhạc, âm sắc rất chuẩn, cứ như là hôm qua đã có nhân tài điều chỉnh qua rồi, đích thực đã nhiều năm rồi không chơi. Nhưng mà “Lương Chúc” là bản nhạc quen thuộc mà cô đã từng chơi qua rất nhiều, sau khi chơi qua vài đoạn nhỏ liền lấy lại cảm hứng, tư tưởng tình cảm không thể làm chủ, mà dường như bị kéo theo âm hưởng của ca khúc. Khi mỗi một nốt nhạc dưới tay cô nhảy ra, giống như kim đồng hồ đang xích quay trở lại từng chút. Cô đi ngược thời gian, truy tìm những dấu vết đã qua. Lúc đầu dừng lại ở cánh cổng của kì nghỉ hè đại học năm thứ ba, tiếng dây đàn violon quanh quẩn ở đó không đi, lớn tiếng ca hát, sau đó lại trở về, trở về. Cuối cùng trở lại cái thời cấp ba đã sớm không còn tồn tại nữa rồi.
Mọi thứ trong đó sớm đã bị năm tháng pha loãng chỉ còn lại những mảnh ghép, nhưng những mảnh nhỏ ấy đều là hình ảnh của chúng. Trước khi khai giảng một ngày, cô ở bên ngoài phòng nhạc nghe thấy âm thành du dương của tiếng đàn piano, thế là nhẹ nhàng đẩy cửa vào; một thiếu niên tuấn tú ngồi trước cây đàn, hai tay trượt trên phím đàn như nhảy múa, chơi hết một khúc, thiếu niên ngẩng đầu nhìn cô, mỉm cười cới cô, cô hướng về phía cậu rồi đi qua.
Tối hôm đó, hầu hết mọi người quyết định ở lại phòng hoạt động cả đêm; khi không còn ai khiêu vũ nữa, cô trở về kí túc xá. Thực sự sau khi trở về lại phát hiện cơn buồn ngủ bỗng không cánh mà bay. Nếu đã không ngủ được, Tô Thố lại co mình trong chăn đọc một đoạn luận văn, là một đoạn văn mới nhất về trọng lượng ion phản ứng hạt nhân vỡ ra của một vị học giả vật lý cực kì nổi tiếng, làm chấn động thế giới trong kì này.
Cầm đoạn văn này đọc không biết bao nhiêu lần, Tô Thố cầm lấy chiếc di động bên cạnh gối lên và mở máy, vừa mới mở máy lên điện thoại reo liền, nhìn chằm chằm vào số điện thoại thật lâu, cô ấn nút nghe máy.
“A Thố.” Âm thanh dịu dàng quen thuộc đó nói: “Dạo này khỏe không?”
Tô Thố đột nhiên phát hiện chữ trên luận văn vặn vẹo, cô dù nhìn thế nào cũng nhìn không rõ, cô cầm chắc điện thoại, cắn môi không nói được một lời. Mới đầu bên kia cũng không sốt ruột, nhưng đầu dây bên này lại im lặng quá lâu để lộ ra điều gì đó mơ mơ hồ hồ không ổn, giọng nói bắt đầu khẩn trương: “A Thố sao rồi, tại sao không nói chuyện, không xảy ra chuyện gì chứ.”
“Không có.” Tô Thố khôi phục lại trạng thái bình thường: “Trần sư huynh, em không sao.”
Sau một năm tròn Trần Tử Gia lại được nghe giọng nói véo von này, tim của anh rớt lại vào trong bụng, chỉ cảm thấy toàn thân thả lỏng: “Không có gì thì tốt rồi.” Cố gắng cười, Tô Thố nhìn thấy rõ ràng thời gian trên máy tính đã không giờ một phút rồi.
“Anh vẫn là người đầu tiên chúc mừng năm mới em sao.” Trần Tử Gia ngậm cười nói : “Anh gọi điện rất nhiều lần, may mà cuối cùng em cũng mở máy rồi.”
Ngữ khí của Tô Thố mười phần đùa giỡn : “Vừa nãy em xem ảnh cưới của Tô Trí, cũng nhìn thấy anh, thật không ngờ anh ấy lại có gan để anh làm phù rể.”
“Em chọc anh à?” Trần Tử Gia cười nói : “ Bọn anh năm đó đã nói rõ rồi ai kết hôn trước sẽ cho đối phương làm phù rể, đây cũng là lần đầu tiên anh làm phù rể cho người khác, không có kinh nghiệm, lần sau sẽ tốt hơn nhiều.”
Tô Thố vui cười : “Anh yên tâm đi. Dự tính là trên thế giới này sẽ không có người thứ hai để anh làm phù rể đâu. Anh đi đâu để tích lũy kinh nghiệm chứ. Còn không bằng đi theo người ta học hỏi kinh nghiệm làm chú rể.”
“Thật không.” Trần Tử Gia chỉ cười : “Lại không kết hôn, học để làm gì.”
“Anh ___” Tiếng nói của Tô Thố nghẹn lại trong cổ họng, cô muốn nói chuyện nhưng một chữ cũng nói không ra. May mà lúc này điện thoại báo rằng có một cuộc gọi đến. Cô liền cúp máy.
Cuộc gọi đến là của Tô Trí, ở nước Pháp đang là buổi chiều, bên đó cực kì náo nhiệt, vui vẻ ca hát, cười nói không ngừng, Tô Thố nghe thấy người nghe bắt đầu mỉm cười.
Thời điểm xuân về hoa nở đã bước sang tháng tư, hạng mục cuối cùng cũng hoàn thành, nhóm của Tô Thố mỗi người được nghỉ phép mười ngày. Khi ăn cơm ở nhà ăn, mọi người phấn khởi hỏi nhau: “ Đến Tây Tạng chơi thấy sao?” “đến Cửu Trại Câu chơi thế nào?” khi hỏi đến Tô Thố cô do dự một lúc, rồi lịch sự từ chối.
Khi cô thu dọn hành lí, Thiệu Vĩ đến tìm cô, nhìn thấy Tô Thố sắp xếp sách đầy cả chiếc túi, ngạc nhiên hỏi: “Chuẩn bị ra ngoài à? Đi đâu vậy? Mang nhiều sách thế để làm gì?”
“Là phải ra ngoài.” Tô Thố trả lời, sau đó ngay tức khắc thu dọn quần áo.
“Anh đi cùng em,” Thiệu Vĩ nhấc nhấc túi xách của cô “thật là nặng.”
Lời nói quả quyết như vậy khiến cho Tô Thố sửng sốt nhìn anh, liên tục lắc đầu : “Chỗ đó rất xa, anh không muốn đi đâu.”
Thiệu Vĩ đã cầm lấy túi xách của cô, cười xảo trá: “Đã có nơi lí thú, anh đương nhiên phải đi chứ.”
Tô Thố nghiêng đầu nhìn anh, thêm một người đi cũng không phải chuyện xấu. Sáng sớm tinh mơ hai người xuất phát. Buổi trưa đã đi tới một huyện thành nhỏ nằm ở phía tây trong tỉnh, sau đó từ huyện thành lại đón xe khách tới tới thị trấn, rồi lại từ thị trấn bắt xe vận tải xuống nông thôn. Con đường này là đường đất đá ghập ghềnh, nhấp nhô, một bên là vách núi dựng đứng, bên phải là rừng cây um tùm. Sau khi đi được khoảng chừng hơn mười cây số, dường như không còn cách nào đi tiếp được. Con đường xóc nảy khiến cho ruột, dạ dày của họ như xoắn lại thành hình tròn. Cuối cùng sau khi đi hai tiếng đồng hồ trên đường núi họ đã tới một sơn thôn nhỏ tên Tề Gia Truân, thời gian đã là tám giờ tối rồi.
Hai người mệt gần chết, Thiệu Vĩ ban đầu còn vẫn còn kể truyện cười, sau này mệt đến nỗi nửa câu cũng không buồn nói. Lặng lẽ bước đi, vừa không hỏi mục đích cũng không hỏi còn bao lâu nữa mới tới.
Sau khi Tô Thố dừng lại trước một căn nhà nhỏ anh thở phào nhẹ nhõm. Dưới bầu trời đầy sao, ngọn núi lớn xa xa cũng chỉ là một vùng đen tuyệt đối, thích ứng lâu hầu như có thể nhìn rõ kết cấu của những ngôi nhà đất này, còn có thể nhìn thấy ánh đèn từ khe cửa trong căn nhà xuyên qua từng tia, lúc ẩn lúc hiện không rõ ràng.
Tô Thố đi về hướng có ánh sáng, tiến lên gõ cửa, rất nhanh liền có người bước ra mở cửa. Cô gái trẻ tuổi mở cửa đeo một đôi kính, nhìn thấy Tô Thố cô biểu lộ ra nụ cười vui mừng khôn xiết, nắm lấy tay Tô Thố dẫn vào nhà. Nhờ vào ánh đèn, cô nhìn thấy đằng sau Tô Thố có một người con trai, mặt mày sáng sủa, cô vô cùng sửng sốt nhìn Tô Thố với ánh mắt thăm dò.
Tô Thố cười rồi giới thiệu hai người với nhau: “Đây là cô giáo Thái Ngọc, giáo viên duy nhất của trường tiểu học Tề Gia Truân, đây là Thiệu Vĩ sư huynh của mình.”
Thiệu Vĩ tiến lên bắt tay cô, cái bắt tay ấy khiến cho anh lấy làm lạ. Anh nhìn thấy bàn tay của đối phương so với tuổi tác không tương xứng, bàn tay đầy những vết chai, sờ trúng rất cộm. Anh thản nhiên đánh giá về cô giáo nơi thôn quê này, tướng mạo thì không được xuất sắc cho lắm, nhưng thần sắc lại rất kiên định, đôi mắt thì trong veo.
Thái Ngọc mời hai người ngồi xuống rồi nói: “Đi đường lâu như vậy, chắc hẳn rất mệt.”
“Thật là xa.” Thiệu Vĩ cười, chỉ Tô Thố: “Nhìn nơi này chỗ nào cũng giống nhau, không hiểu tại sao em lại nhớ được đường.”
Ngôi nhà này đơn sơ đến nỗi khiến cho Thiệu Vĩ phải giật mình, bức tường đất mờ nhạt, vừa chạm vào liền bụi rơi lắc rắc, cả căn phòng vừa là phòng sách lại còn là phòng ngủ nữa, trên chiếc bàn không nhìn ra màu sắc gì đặt lên toàn sách và vở bài tập, ánh sáng của đèn bàn thì ảm đạm, bốn bức tường vừa thô sơ lại bị hủy hoại không một chút lưu tình, còn chiếc giường không được đặt ở nơi sáng sủa, ánh đèn không thể chiếu tới góc tăm tối đó.
“Không có gì ngon để chiêu đãi.” Thái Ngọc bưng cho hai người hai chén nước nóng, nụ cười có chút áy náy. “Tô Thố mình không biết là cậu dẫn thêm người tới.”
“Là tự anh đòi theo tới.” Thiệu Vĩ đứng dậy, mở cử sổ rồi nhìn ra ngoài, “đây rốt cuộc là nơi nào?”
“Trường tiểu học Hi Vọng Tề Gia Truân ở vùng núi.” Thái Ngọc giải thích, “anh xem đằng kia là sân thể dục, sáng sớm ngày mai anh sẽ nhìn thấy những đứa trẻ tới đó học.”
Tháng tư, sáng sớm thời tiết có chút lạnh, ở giữa núi, đưa mắt quan sát, đều là những dãy núi trùng trùng điệp điệp, không khí trong lành, không mang một chút tạp chất, phong cảnh tuy đẹp nhưng cái giá phải trả lại lớn, nó hẻo lánh đến nỗi khó có thể tưởng tượng được, dường như sắp bị thế giới lãng quên. Tô Thố và Thái Ngọc dậy từ rất sớm, khi Thái Ngọc đang bận bịu trong bếp, thì Tô Thố lại đứng trên cái sân thể dục không hề giống những cái sân khác, ngắm nhìn những dãy núi phía xa. Ngay tại vùng núi hầu như hoàn toàn cách biệt với thế giới, lại có thể tồn tại một ngôi trường tiểu học Hi Vọng chỉ có một giáo viên và số học sinh thì không quá hai mươi người.
“ Chào buổi sáng.” Thiệu Vĩ đứng ngay bên cạnh Tô Thố.
Tô Thố cũng gật đầu chào: “ Chào buổi sáng, sư huynh.”
Tối qua Thiệu Vĩ ngủ trên đất cho nên ngủ không ngon giấc, cũng may bình thường bọn họ đều thức đêm nên thành thói quen, trên mặt một chút cũng không thể nhìn ra. Anh nhìn cô, cười nói : “Làm sao mà em biết được chỗ này? Em và Thái Ngọc hình như rất gần gũi?” Câu nói vừa dứt, anh nhìn thấy khuôn mặt mỉm cười của Tô Thố, liền nói bổ sung: “Anh biết, quả thực câu hỏi của anh rất nhiều. Nếu em không muốn nói, có thể không cần nói đâu em.”
“Không có gì là không thể kể.” Tô Thố nhớ lại nói: “ Lúc học đại học, em đã từng giúp đỡ hai đứa trẻ nơi đây học, cô ấy viết thư cảm ơn, rồi bọn em quen nhau. Sau khi phổ cập giáo dục, em liền mua sách gửi đến đây. Mấy năm nay, bọn em thường xuyên viết thư, lúc đó cũng rất thân thiết; ba năm trước em đến học nghiên cứu sinh, cách đây cũng gần, liền tới thăm cô ấy.”
“Tiểu sư muội, em thật khiến anh hổ thẹn.” Thiệu Vĩ thở dài, có lúc thấy tin tức trên báo cũng có đề cập, nhưng bọn anh đều không để tâm chuyện đó.”
Tô Thố ra hiệu cho Thiệu Vĩ quan sát dáng vẻ bận bịu đó: “ Sư huynh, anh cũng đang nói em à. So với Thái Ngọc em là gì chứ? Anh biết cô ấy dạy học ở đây mấy năm rồi không? Từ sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông đến giờ, mười năm, tròn mười năm. Hầu như một mình cô ấy gánh vác cái trường này, sinh viên trợ giảng cũng đã tới nhưng đều là đến rồi đi. Trường học này lúc ban đầu, anh cho rằng nó có điều kiện thế này không? Lúc đó trên vách tường của lớp học, chỗ nào cũng thủng, mùa hè dột mưa mùa đông dột tuyết, cô ấy chỉ có thể dùng bùn đắp lên vách, trát lên nóc nhà mới có thể lên lớp được, nhưng bao năm nửa câu than phiền cũng không hề có.
Thiệu Vĩ quay đầu quan sát lớp học. Một cái sân nhỏ, mấy gian phòng học, chuông treo ngay dưới hiên nhà của một phòng học, sân thể dục ở giữa, còn có một cột cờ.
Những đứa trẻ không đồng lứa khoảng chừng hơn mười tuổi, lúc này phải trèo đèo lội suối lên lớp, chúng hầu như đến từ nhiều thôn khác nhau, ăn mặc rất giản dị, bộ dạng thật thà chất phác. Nhìn thấy Tô Thố, bọn chúng đứa nào cũng vui mừng khôn xiết, niềm nở chạy tới, mỗi đứa mỗi miệng gọi nghe giòn tan: “ Cô giáo Tô.”
Tô Thố ngồi chồm hổm, khuôn mặt tươi cười nhìn đám nhỏ.
Thiệu Vĩ ôm cánh tay đứng dậy, nhìn thấy nụ cười trên khuôn mặt Tô Thố dưới ánh sáng mặt trời như để lộ ra niềm hạnh phúc vô bờ. Tuy anh rất mệt nhưng nụ cười và thần sắc ấy, từ trước tới giờ anh chưa từng thấy qua, nhìn rồi nhìn, trong lòng anh xuất hiện nỗi phiền muộn khó tả, vui mừng chua sót đều có đủ cả, nhưng chỉ giấu kín trong lòng, không thể nói ra.
Một đứa bé trai khoảng độ mười tuổi nhảy tới trước mặt Tô Thố, từ trong chiếc túi xách cũ lấy ra một quyển sách toán học, vui mừng hỏi cô, “ đề bài này làm thế nào ạ?”
Lật lật sách, Tô Thố có chút kinh ngạc: “ Tiểu Phi, em không phải học lớp ba à? sao lại coi sách của lớp sáu?”
Đứa trẻ tên Tề Tiểu Phi, tướng mạo đoan trang, đôi mắt sáng ngời, ngoại trừ quần áo cũ nát, một chút cũng không giống là lớn lên ở nơi sơn thôn cằn cỗi này, rõ ràng nhìn không giống với những đứa trẻ khác, cậu trề môi : “Toán lớp ba đơn giản quá, em đã sớm coi hết rồi.”
Vẻ mặt đó khiến cho Tô Thố nhớ đến một người, cô bật cười, nghiêng đầu nhìn Thiệu Vĩ ở bên cạnh đang thất thần, liền chỉ tay về phía anh : “Tiểu Phi, vấn đề này nên đi hỏi chú đứng bên cạnh này, cô nói cho em biết, chú Thiệu là nhà toán học rất nổi tiếng của nước ta đó, cho nên nhất định giảng hay hơn cô.”
Những đứa trẻ lớn hơn một chút đã biết ba chữ nhà toán học đại diện cho nhân vật tài ba, lập tức sáp tới chỗ Thiệu Vĩ, quấn quýt lấy anh hỏi đông hỏi tây ; Tề Tiểu Phi lại không qua đó, vẫn ở bên cạnh Tô Thố hỏi : “Thật sao?”
Tô Thố nhéo cái mũi cậu : “Đương nhiên, cô giáo Tô đã bao giờ lừa em đâu, đúng không. Trình độ toán học của chú Thiệu cực kì lợi hại, không tin em kiểm tra chú ấy xem, tùy ý hỏi vài câu toán học, chú ấy đều biết.”
“Lợi hại như vậy a.” Khuôn mặt nhỏ bé của Tề Tiểu Gia cứng lại, dùng ngữ khí cực kì hoài nghi hỏi: “Nếu mà chú ấy không biết làm thì sao ạ ?”
Tô Thố giả vờ suy nghĩ một lúc: “Nếu mà không được em liền nhéo mũi của chú ấy đi.”
Thiệu Vĩ nghe thấy dự tính của Tô Thố và đứa trẻ, ngay sau đó dở khóc dở cười, nhưng phiền muộn vừa rồi không cánh mà bay, trong lòng ấm áp hẳn lên, nhìn thấy đôi mắt ngây thơ của đám trẻ, đột nhiên thấu hiểu tại sao Tô Thố lại luôn đến đây, anh mỉm cười nghĩ, thuyết pháp Khang Đức cũng chưa hẳn chính xác, trên thế giới ngoại trừ sao trời và phẩm chất loài người chuẩn tắc, còn có đôi mắt trẻ thơ cũng kì diệu như vậy.”
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook