Mặt Nạ Máu
-
Chương 19: Thăm dò doanh trại
Nói Thiệu Đông Tử tứ chi phát triển quả không ngoa. Sau khi có được khẩu súng cũ này, Thiệu Đông Tử lại định tháo bỏ băng vải trên tay mình, cầm súng diễu võ giương oai.
Tạ Nam nghi ngờ hỏi cậu ta có phải đang thừa cơm hay không. Thấy vậy Thiệu Đông Tử lập tức phản pháo, muốn cho Tạ Nam thành gấu trúc một mốt làm kỷ niệm.
Hai người đang tranh cãi ồn ào thì Giáo sư Khương bước đến ấn mạnh vào vai hai người, ý bảo đừng làm ồn nữa.
Ngón tay chỉ chỉ về phía sau khe cửa, có bóng người thấp thoáng, hình như đang bám vào cửa nhìn vào bên trong.
Lập tức ngừng nói, ba người khom lưng nấp vào sau giường, quan sát xem người ngoài cổng có động tĩnh gì.
Ánh sáng trong phòng lờ mờ nên người bên ngoài nhất thời không nhìn rõ tình hình bên trong ra sao. Người đó lại cố gắng trèo lên trên cổng, tìm một lỗ hổng to hơn, cố gắng quan sát động tĩnh bên trong.
Tiếng thở phì phò từ ngoài cổng vọng vào, khiến người nghe có cảm giác như có tiếng mèo cào lên tấm sắt trơn bóng. Cổ họng người đó tựa chiếc còi hoạt động quá độ.
Không biết người đó đến làm gì. Thiệu Đông Tử nấp sau giường bắt đầu vụng về nhồi thuốc súng, tuy nói là không có đạn, nhưng chí ít như Giáo sư Khương nói dạo người cũng tốt.
Tạ Nam thấy con mắt của người ngoài cổng như sắp rơi mất, ánh mắt thù hận nhìn chằm chằm vào bên trong. Do không nhìn thấy người, nên sự di chuyển của tên đó cũng có vẻ mệt mỏi.
Mấy phút trôi qua, cuối cùng Thiệu Đông Tử cũng đã nhồi xong thuốc súng, lại tiện thể tìm một hòn đá rồi đặt súng lên tiện cho việc ngắm bắn, sau đó chui qua gầm giường, hướng mũi súng ra cổng, để phòng người kia xông vào trong đe dọa.
Có điều người ngoài cổng đã ngồi bệt xuống, sau đó từ từ bỏ đi.
Đợi thêm một lát nữa, đến khi tiếng thở khiến người ta thấy rùng rợn hoàn toàn im bặt, Tạ Nam mới chậm rãi ló đầu ra, bước chầm chậm ra cổng chặn thêm một thanh gỗ.
“Liệu có phải là người đêm qua đã giam chúng ta trong tòa tháp cổ bỏ hoang không?” Tạ Nam thì thầm.
“Tôi nghĩ không phải đâu, bởi đêm qua tôi không nghe thấy hơi thở như thế này”.
Nói rồi Giáo sư Khương bảo Thiệu Đông Tử bỏ thuốc ra, tránh gậy ông đập lưng ông.
Thiệu Đông Tử bò từ gầm giường, trên người dính đầy mạng nhện, rồi đổ thuốc súng ra ngoài, sau đó gập lại cho vào trong túi. Miệng vẫn hiếu thắng nói nếu người kia đi vào thì sẽ dùng súng bắn cho một phát.
Tạ Nam bước đến, đặt tay lên vai Thiệu Đông Tử, ít nhiều để đồng cảm và khẳng định sự dũng mãnh của cậu ta rồi nói một câu khiến Thiệu Đông Tử nổi da gà.
“Người anh em, là tôi không tốt, làm liên lụy đến cậu”.
Thiệu Đông Tử ngạc nhiên nhìn Tạ Nam, sau đó cầm tay cậu ta bỏ xuống, tỉ tê nói:
“Tớ đâu phải nhìn như bề ngoài! Còn nữa, nếu có chuyện gì, tốt nhất hãy bàn bạc với Giáo sư Khương, còn tớ thế nào cũng được”.
Thiệu Đông Tử cho rằng chắc chắn tên Tạ Nam định xin xỏ nhờ vả hay xin lỗi đã làm sai chuyện gì đây chứ từ trước đến nay tên này chưa từng cố làm ngược thói đời như thế bao giờ.
“Có chuyện gì thì nói nhé, đừng làm mấy hành động kinh tởm này”.
Thiệu Đông Tử đập đập lên vai mình, như sợ trúng phải độc dược của Tạ Nam vậy.
Tạ Nam thấy ý đồ của mình bị bại lộ liền thật thà nói ra suy nghĩ của bản thân. Chả là tối nay cậu ta muốn đi thám thính ngôi nhà cao tầng kia.
“Không hiểu sao, tôi cảm thấy tòa nhà kia hình như có liên quan gì đó. Có điều theo lời giáo sư nói thì đó cũng chẳng là việc tốt lành gì, nhưng trực giác khiến tôi cảm thấy phải đi vào chỗ đó xem sao”.
Giáo sư Khương cúi đầu suy nghĩ, rồi cũng đồng ý, nhưng trong lòng vẫn mơ hồ có cảm giác lo lắng. Chỗ đó quá nguy hiểm, nhưng cấu trúc của tòa nhà này lại làm ông rất hiếu kỳ, muốn xem bên trong rốt cuộc có thứ gì.
Thấy Giáo sư Khương cho phép, Thiệu Đông Tử không hề kiêng dè cũng đồng ý theo. Dù sao đã mang theo súng, cũng khiến tinh thần cậu ta sung mãn kỳ lạ, gào lên một tiếng: “Mưa gió bão bùng mạnh nữa lên, hô hô, hô hô”.
Đầu tên Thiệu Đông Tử này chứa cái gì thế không biết, cậu ta điên thật rồi, Tạ Nam thầm nghĩ.
Chuẩn bị một lúc, Thiệu Đông Tử nhấc thanh gỗ chắn trước cổng ra, kéo then cửa, thò đầu ra nhìn xung quanh không có người mới vẫy gọi Tạ Nam và Giáo sư Khương đi ra.
Ánh nắng mặt trời lúc bốn năm giờ chiều, nhuộm lên toàn bộ ngói đen gạch xanh trong thị trấn Phổ một màu vàng khác thường, giống như cả thị trấn đang khoác lên một chiếc áo vàng vậy. Không gian đó khiến ba người vừa chui từ trong ngôi nhà tối om ra nhất thời hoa mắt, gần như không phân biệt được phương hướng.
Ánh mặt trời chói lóa, Thiệu Đông Tử giơ cao ba lô lên che nắng rồi hỏi Tạ Nam đi đâu trước.
“Cậu không đói sao? Đi ăn cơm trước đã!”
Thiệu Đông Tử một lòng nhiệt tình nhưng không ngờ kết quả lại là bị kích động đến mức chỉ biết nhe răng nhếch mép mà cười khổ sở. Bây giờ mà Tạ Nam nói thêm một câu nữa có lẽ đến tuyến thượng thận cũng không chống chọi được nữa là.
Thấy Thiệu Đông Tử chợt sững người, Tạ Nam bước đến nhắc nhở: “Không ăn cơm thì làm sao hỏi được ông chủ, không hỏi ông chủ thì sao biết nguồn gốc của tòa nhà này?”
“À?” Thiệu Đông Tử còn chưa định thần, Giáo sư Khương ghé lại, bình thản nói một câu: “Chàng trai này, chỉ có lòng nhiệt tình cách mạng thôi thì chưa đủ”.
Thiệu Đông Tử như sắp nổi đóa lên, thế này là thế nào?
Tuy nghĩ như thế, nhưng ăn một bữa cơm vẫn là một chủ ý không tồi, Thiệu Đông Tử nghĩ đến cái bụng đói meo của mình rồi vội đuổi theo hai người.
Ở thị trấn Phổ có rất nhiều quán ăn nhỏ, đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn nữa, không có thực đơn cũng không có tên món ăn cụ thể. Ngoài hai món có tên ra, còn lại đều gọi theo ý của khách hàng.
Dù gọi món bí ngô xào dăm bông thì chủ cửa hàng cũng sẽ làm theo cách của người Tương Tây mà khiến khách hàng hài lòng.
Có điều Tạ Nam và Giáo sư Khương đã tìm mấy quán nhưng đều không vào ăn, mà chỉ đến để hỏi món.
Thiệu Đông Tử không chịu được nữa, liền chất vấn Tạ Nam muốn đi thám thính tòa nhà mà lại rề rà không ăn cơm là thế nào.
“Cậu thì biết cái cóc khô gì, tớ muốn tìm quán ăn của một người dân gốc của thị trấn Phổ, không nghe khẩu âm thì làm sao mà biết được?” Tạ Nam vẫn dựa vào ký ức của mình để nhận biết khẩu âm. Bố cậu vốn là người ở đây nên về mặt khẩu âm đương nhiên không có vấn đề gì.
Nghĩ đến đây, trong lòng Tạ Nam cơ hồ lại nảy ra được một chút hình ảnh gì đó, có vẻ Tạ Mạc Văn đang ngày càng tới gần rồi.
Tìm một quán ăn, Tạ Nam ra hiệu bằng ánh mắt, bảo hai người kia đừng nói gì, chỉ có Tạ Nam đi gọi món, dù sao thì vào lúc này, người nơi khác đến luôn bị cảnh giác.
“Ông chủ, cho mấy món chính của nhà hàng, ngoài ra thêm mấy món phụ, ông xem rồi cho loại rượu ngon nhé!”
Chỉ có mấy món chính mà ba người cũng không thể ăn hết.
Ông chủ hiếm khi gặp người nào hào phóng như vậy, vội vàng chuẩn bị các món ăn rất chu đáo, từng món từng món được đưa đến.
Tạ Nam rớt rượu ra một chiếc cốc, rồi mời ông chủ một ly sau đó hỏi thẳng chuyện tòa nhà cao tầng kia.
Mặt ông chủ lập tức biến sắc, lại quay mắt nhìn đại khách quáy gọi một bàn đầy đồ ăn, đành cạn ly rượu mời, bắt đầu nói:
“Lão đệ nhìn cậu cũng thấy là người ở đây, đoán là vừa trở về, không biết chuyện đang xảy ra, thực ra là…”
Thấy ông chủ quán ăn có vẻ khó nói, Giáo sư Khương càng làm ra vẻ hiền tử, Thiệu Đông Tử cũng ngậm miệng, đợi ông chủ cửa hàng mở lời.
Ông chủ đưa mắt nhìn xung quanh không có người, vội đóng cửa phòng lại, ra vẻ thần bí bắt đầu nói với ba người.
Tòa nhà cao tầng này vốn là từ đường của nhà họ Trương, qua nhiều năm không tu sửa đã mất hết hình dáng ban đầu. Vậy mà chẳng hiểu từ đâu ra, gần đây lại xuất hiện hậu duệ đã đi xa nhiều năm của gia tộc Trương, hình như có rất nhiều tiền, còn trở về từ Nhật Bản nữa, nên mới lấy lại mảnh đất này từ tay nhà nước, xây dựng tòa nhà kia.
Nghe nói các con thuyền đào vàng trên sông Nguyên đều là của người này. Đúng là người biết nhìn xa trông rộng, biết theo đuổi con đường đào vàng, thế nào cũng đào ra đồ tốt, còn có cả kim cương nữa.
Đang lúc nổi hứng, ông chủ lại tự rót cho mình một cốc rượu, uống một hơi nói: “Mọi người hỏi cái này à, thì tốt nhất là đừng nên hỏi, bởi sau khi tòa nhà kia mọc lên thì cuộc sống ở đây không còn yên bình nữa, rất nhiều người không dám đến gần đâu!”
“Vì sao không dám đến gần ạ?” Ba người cùng bê cốc rượu lên. Ông chủ thấy thế cùng ngồi xuống, sảng khoái nâng cốc, uống hai ba cốc liền rồi lại nói.
Chỉ là ông nhà kia biết một vài tin đồn, có điều theo ông ta nói nỗi lo sợ là do mấy ngày trước có một thiếu niên mang theo tà vật đến đây, trong thị trấn không biết vì sao chết liền mấy người, việc tang ma đều làm qua quýt cho xong.
Biết là nói mình, Tạ Nam đưa tay sờ sờ khuôn mặt đầy râu, biết rõ chuyện là không may xảy ra.
Ông chủ giống như bị kìm nén quá lâu, ôm bình rượu trên bàn vào tay, uống hết cốc này đến cốc khác, thêm muối thêm mắm kể lại câu chuyện Tạ Nam đến thị trấn Phổ mấy ngày trước.
Thiệu Đông Tử cắn tăm ngồi nghe, thật không ngờ một mình Tạ Nam lại gây ra sóng to gió lớn đến vậy, sự việc chấn động như thế mà lại không có mình, thật là đáng tiếc.
Lúc nói đến Đường Sinh Bình, ông chủ cửa hàng cũng đã uống khá nhiều rồi, mặt đỏ như Quan Công, bám vào vai Tạ Nam, đem chuyện về thi thể ly kỳ, thi thể của Đường Sinh Bình và vợ ông ta, kể lại.
Tạ Nam nghe xong mới biết thì ra bà Đường kia là vợ Đường Sinh Bình, nhưng bây giờ bà ấy đã chết rồi, còn có thể tìm ai để hỏi đây?
Một bàn đầy thức ăn nhưng không ai động đến mấy. Đúng lúc trời đã tối ba người bước ra khỏi quán ăn, ông chủ khi ấy cũng đã say rượu, gọi to tạm biệt Tạ huynh đệ, nhưng ông ta đâu biết rằng Tạ huynh đệ đang đi đến chỗ tà môn mà mình đã nói.
Trong đêm tối cái ngõ hiện ra sâu thăm thẳm, vì không có đèn đường, nên nó càng trở nên tĩnh mịch, cảm giác như có thể nuốt chửng con người.
Tạ Nam và Thiệu Đông Tử đã uống mấy chén với ông chủ kia, lắc la lắc lư đi về phía trước. Giáo sư Khương lo lắng lúc này đến tòa nhà cao tầng thì không phù hợp, nhưng Tạ Nam và Thiệu Đông Tử cứ bá vai nhau chẳng hề để ý, đi thẳng đến tòa nhà đó.
Dưới những cánh cửa sổ, vẫn chẳng có ánh đèn, hình như không có ai ở bên trong.
Ở chỗ rẽ, bất chợt có một bóng người xông ra, nắm lấy Tạ Nam. Móng tay sắc nhọn cứa vào da thịt, đau đớn khiến cậu ta tỉnh cả rượu, người vừa lao tới dùng giọng nói thê lương kêu lên một tiếng, rồi thoáng hiện ra dưới ánh đèn yếu ớt.
Tạ Nam nhận ra người này, chính là người bà điếc trong nhà Hầu Tam.
Thiệu Đông Tử đang định ra tay thì Tạ Nam ngăn lại, rồi giải thích cho cậu ta lai lịch của bà lão này. Nếu cậu đoán không nhầm, người lúc chiều rình mò chính là bà ta, mà còn bám theo họ đến tận bây giờ.
Con ngươi của bà lão như lồi ra ngoài, cơ hồ đã hoàn toàn mất hết lý trí. Cái chết bất ngờ của Hầu Tam nhất định khiến bà ấy đau buồn tuyệt vọng ghê gớm và đương nhiên chuyện này lại đổ lên đầu Tạ Nam, và lần này chính là đến để báo thù rồi.
Cánh tay khô héo kia hoàn toàn không giống với cánh tay của người già, nó giống như chiếc kìm thép đang kẹp chặt lấy Tạ Nam vậy. Móng tay sắc nhọn như đâm vào tay, khiến tay của Tạ Nam tóe máu, mọi thứ vẫn tiếp tục, cơ hồ như bà lão đã đến con đường cùng rồi.
“Mày hại chết cháu tao!”, giọng nói sắc lạnh toát ra nơi yết hầu. Bà lão trừng trừng mắt nhìn Tạ Nam, hàm răng đen bóng bị rụng mấy cái lộ ra như là muốn nuốt chửng cậu.
Giáo sư Khương thấy tình hình như vậy vội kêu dừng tay, sau đó bước đến đối diện với bà lão bắt đầu thuyết giáo. Nhưng Giáo sư Khương đâu biết bà lão này đã bị điếc, không nghe được Giáo sư Khương nói gì, bà còn giơ mạnh cánh tay còn lại ra, kẹp chặt cổ Giáo sư Khương.
Sau đó dùng hết sức đẩy Giáo sư Khương ngã xuống đất.
Bà già thất thập cổ lai hy mà lại có sức mạnh như vậy khiến ba người không kịp trở tay. Cánh tay Tạ Nam từ từ trở nên tím tái, móng tay cũng đã cắm vào da thịt Tạ Nam.
Thiệu Đông Tử đi ra sau lưng bà lão gào to: “Chuyện này không liên quan đến chúng tôi, chúng tôi cũng là người bị hại”.
Câu nói đó gần như gào thẳng vào lỗ tai bà lão, cũng khiến bà lão ngừng tay, nhưng vẫn nhìn ba người với ánh mắt cảnh giác.
“Họ Tạ kia! Cậu là kẻ hại người!”
Bà lão xông vào Tạ Nam gào lên.
Tạ Nam vừa xoa xao cánh tay đã bị bóp đến tím tái của mình vừa đáp lại một tiếng, bất đắc dĩ lùi lại phía sau. Bà lão này lấy đâu ra sức mạnh khủng khiếp như thế chứ khiến cánh tay mình như bị tê dại.
Bà lão quay đầu nhìn Thiệu Đông Tử. Thiệu Đông Tử vội ra hiệu giải thích Hầu Tam bị người kia hại chết, chân tay khua loạn lên, còn bà lão dường như cũng không vì thế mà dừng tay.
“Tạ Nam! Có phải bà ta không hiểu tiếng phổ thông phải không?”
Thiệu Đông Tử lo lắng, chỉ tòa nhà cao tầng kia, kêu lên như người câm, sau đó làm một động tác đỡ cổ, cuối cùng nghiêng nghiêng đầu, làm bộ giống khuôn mặt ma.
Ý của Thiệu Đông Tử là, chúng tôi phải đến tòa nhà kia, không thể bị bà bóp chết ở đây được, nhưng lại làm ba lão hiểu nhầm sang ý khác thì phải.
Bà lão nhìn tòa nhà cao tầng kia, hỏi: “Là những người kia hại cháu trai của tôi?”
Tạ Nam đang định giải thích thì Thiệu Đông Tử vội lấy người chắn trước mặt, gật đầu xác nhận.
Thật kỳ lạ, bà lão lại nhe răng cười, giống như đã hiểu ra điều gì. Ánh mắt tối sầm lại, rồi trở nên đục ngầu.
Đưa mắt nhìn mấy người một lần nữa, sau đó quay lưng bỏ đi. Dáng người lụ khụ, sức lực và khí thế khiến người ta sợ hãi trước đó đều đã nhanh chóng biến mất.
Nhưng miệng vẫn lẩm bẩm: “Hầu Tam à, cái mạng của cháu, đã chết theo người kia rồi!”
Bóng người vẫn khom khom kia biến mất ở đằng xa, thì ba người vẫn ngơ ngác đứng nguyên tại chỗ đến nửa ngày. Tại sao nói đến tòa nhà cao tầng kia lại khiến bà lão có bộ dạng như thế.
Thiệu Đông Tử hừ một tiếng, nói to không quan tâm nữa, đúng thật là xúi quẩy, chúng ta lên đường!
Trời cũng đã về khuya, ba người tiếp tục đi về phía trước. Tòa nhà kia càng ngày càng gần khiến dây thần kinh của ba người cũng căng lên và siết chặt hơn. Trong các khe tường tiếng dế đang gọi nhau, dần dần kết thành một tràng dài giống như hiệu lệnh mở đường vậy, đồng thanh kêu lên ở hai bên.
Con đường dẫn đến tòa nhà kia không còn xa nữa, nhưng trong thị trấn không quy củ mà đường ngõ phức tạp này, hình như khó khăn hơn rất nhiều. Ngoài ánh đèn còn sót lại trong một vài căn nhà và âm thanh lẻ tẻ vọng lại thì mọi thứ đều như sắp chìm vào giấc ngủ.
Càng tiến gần đến tòa nhà, bóng người càng thưa thớt, còn khoảng nửa đường nữa thì mọi thứ đều đã yên ắng đến rợn người. Cái bóng của tòa nhà cao tầng hiện lên ở một chỗ gần đó, đường nét cũng khắc sâu trên nền trời.
Cả tòa nhà tối om, như không có người ở.
Tình hình này khiến Tạ Nam vô cùng thật vọng, nếu chỉ là tòa nhà trống, khả năng sẽ chẳng có manh mối gì.
Thiệu Đông Tử đi đầu tiên, muốn tiến đến gần xem xem, nhưng thấy chính giữa phố đặt một cái ghế kiểu tay vịn thời nhà Nguyên, yếu ớt nổi lên dưới ánh trăng.
Đặt một cái ghế cổ như thế ở chỗ này, đúng là một chuyện ly kỳ. Giáo sư Khương quan sát cái ghế từ đằng xa, tạo hình rắn chắc, phần tựa chạm khắc đá cũng khá tinh xảo.
Vì là giáo sư của khoa Lịch sử nên đối với những thứ cổ vật như thế này luôn mang lại hứng thú cho ông. Giáo sư Khương chăm chú quan sát rồi tiến gần đến chỗ đó lúc nào chẳng hay. Không để ý đến sự ngạc nhiên của Tạ Nam và Thiệu Đông Tử, giáo sư đi vòng quanh ghế, miệng không ngớt khen ngợi:
“Một vật quá đẹp, phần tựa được làm bằng đá cẩm thạch đã chọn lựa tinh xảo, giống một bức tranh sơn thủy, phần tay vịn cũng được làm bằng gỗ hảo hạng. Nhưng đặt ở đây đúng thật là phí”.
Tạ Nam nhớ lại bài ca dao từng nghe lúc nhỏ:
Chiếc ghế Hoàng đế đặt trên phố, quân tử qua đường chớ lại gần. Mất đi lý trí mà ngồi lên, ba hồn bảy vía sẽ rơi mất.
Nếu nói đây chính là chiếc ghế Hoàng đế trong bài ca dao đó, nếu Giáo sư Khương không nhịn được mà ngồi lên đó thì phiền phức to rồi.
Dùng thủ đoạn độc ác như một chiêu lừa bịp này để trả thù kẻ tham lam ngông cuồng, tuy không thường gặp nhưng hôm nay chiếc ghế đó để ở đây thì rõ ràng là một cái bẫy.
Còn chưa kịp nói, thì Giáo sư Khương đã khom người định ngồi lên, Tạ Nam nhanh chóng đưa tay ra đẩy Giáo sư Khương từ đằng sau, rồi tay cậu ấn xuống ghế.
Tay vừa chạm vào ghế, Tạ Nam liền nằm bò trên cái tựa lưng, sợ hãi nhìn xem tay mình sẽ xảy ra chuyện gì.
Trên ghế dính một ít hơi sương, ươn ướt, man mát, cảm giác này thậm chí còn hơi khoan khoái. Tạ Nam đang định rút tay lại, nhưng cảm giác man mát kia trong nháy mắt đã trở nên lạnh giá. Các mạch máu từ lòng bàn tay truyền đi khắp cơ thể đã bị đông cứng lại, truyền đến tận tim gan.
Cảm giác giống như bị thương này bất thình lình xảy ra, tuôn trào mạnh mẽ, sau đó từ trái tim bơm đi khắp cơ thể. Tạ Nam mím chặt môi, răng đánh vào nhau cầm cập.
Giáo sư Khương và Thiệu Đông Tử đưa mắt nhìn Tạ Nam nhưng lại sợ hãi lùi về phía sau giống như đang mặc kệ Tạ Nam mà quay lưng bỏ chạy vậy.
Có điều Tạ Nam cảm giác như mình đang lái cái ghế này tiến về phía trước.
Cậu có thể nhận thấy sắc mặt mình trở nên xanh xao, bởi trên tay đang dần dần xuất hiện một lớp sương mỏng, rồi tản ra thành những sợi màu trắng.
Ở trong tình trạng này chắc hẳn mọi người nghĩ mình sẽ cứ nằm bò ở đây, sau đó biến thành một miếng thịt đông chờ ánh nắng mặt trời để tan ra.
Tạ Nam cảm thấy mọi thứ ngày càng trở nên mờ mờ ảo ảo, cảm giác như chiếc ghế đang lao vun vút trên đường cao tốc vậy.
Phải chăng giống như lời của bài ca dao, Tạ Nam đã bị bắt mất hồn. Cảm giác lo lắng sợ hãi đang dâng lên trong lòng cậu.
Bây giờ, tựa như cậu có thể nhìn thấy ba hồn bảy vía của mình từng cái từng cái đang cố gắng giãy giụa thoát ra khỏi xác, bị hút ra từ đỉnh đầu.
Cơ hồ phía sau xuất hiện một lực kéo Tạ Nam lại, lôi cậu ra khỏi chiếc ghế.
Tạ Nam bỗng thấy cánh tay đông cứng trên ghế đã bị kéo đứt, bàn tay vẫn còn bám trên ghế, cơ thể đã nằm trên đất.
Không có cảm giác đau đớn, chỉ có thể thấy cánh tay vỡ toác của mình hươ hươ vô ích trong không trung.
Hồn vía cuối cùng lơ lửng như khói sương thoát khỏi cơ thể, bay về phía các vì sao.
Trước mắt tối đen, không thấy gì cả.
Tạ Nam nghi ngờ hỏi cậu ta có phải đang thừa cơm hay không. Thấy vậy Thiệu Đông Tử lập tức phản pháo, muốn cho Tạ Nam thành gấu trúc một mốt làm kỷ niệm.
Hai người đang tranh cãi ồn ào thì Giáo sư Khương bước đến ấn mạnh vào vai hai người, ý bảo đừng làm ồn nữa.
Ngón tay chỉ chỉ về phía sau khe cửa, có bóng người thấp thoáng, hình như đang bám vào cửa nhìn vào bên trong.
Lập tức ngừng nói, ba người khom lưng nấp vào sau giường, quan sát xem người ngoài cổng có động tĩnh gì.
Ánh sáng trong phòng lờ mờ nên người bên ngoài nhất thời không nhìn rõ tình hình bên trong ra sao. Người đó lại cố gắng trèo lên trên cổng, tìm một lỗ hổng to hơn, cố gắng quan sát động tĩnh bên trong.
Tiếng thở phì phò từ ngoài cổng vọng vào, khiến người nghe có cảm giác như có tiếng mèo cào lên tấm sắt trơn bóng. Cổ họng người đó tựa chiếc còi hoạt động quá độ.
Không biết người đó đến làm gì. Thiệu Đông Tử nấp sau giường bắt đầu vụng về nhồi thuốc súng, tuy nói là không có đạn, nhưng chí ít như Giáo sư Khương nói dạo người cũng tốt.
Tạ Nam thấy con mắt của người ngoài cổng như sắp rơi mất, ánh mắt thù hận nhìn chằm chằm vào bên trong. Do không nhìn thấy người, nên sự di chuyển của tên đó cũng có vẻ mệt mỏi.
Mấy phút trôi qua, cuối cùng Thiệu Đông Tử cũng đã nhồi xong thuốc súng, lại tiện thể tìm một hòn đá rồi đặt súng lên tiện cho việc ngắm bắn, sau đó chui qua gầm giường, hướng mũi súng ra cổng, để phòng người kia xông vào trong đe dọa.
Có điều người ngoài cổng đã ngồi bệt xuống, sau đó từ từ bỏ đi.
Đợi thêm một lát nữa, đến khi tiếng thở khiến người ta thấy rùng rợn hoàn toàn im bặt, Tạ Nam mới chậm rãi ló đầu ra, bước chầm chậm ra cổng chặn thêm một thanh gỗ.
“Liệu có phải là người đêm qua đã giam chúng ta trong tòa tháp cổ bỏ hoang không?” Tạ Nam thì thầm.
“Tôi nghĩ không phải đâu, bởi đêm qua tôi không nghe thấy hơi thở như thế này”.
Nói rồi Giáo sư Khương bảo Thiệu Đông Tử bỏ thuốc ra, tránh gậy ông đập lưng ông.
Thiệu Đông Tử bò từ gầm giường, trên người dính đầy mạng nhện, rồi đổ thuốc súng ra ngoài, sau đó gập lại cho vào trong túi. Miệng vẫn hiếu thắng nói nếu người kia đi vào thì sẽ dùng súng bắn cho một phát.
Tạ Nam bước đến, đặt tay lên vai Thiệu Đông Tử, ít nhiều để đồng cảm và khẳng định sự dũng mãnh của cậu ta rồi nói một câu khiến Thiệu Đông Tử nổi da gà.
“Người anh em, là tôi không tốt, làm liên lụy đến cậu”.
Thiệu Đông Tử ngạc nhiên nhìn Tạ Nam, sau đó cầm tay cậu ta bỏ xuống, tỉ tê nói:
“Tớ đâu phải nhìn như bề ngoài! Còn nữa, nếu có chuyện gì, tốt nhất hãy bàn bạc với Giáo sư Khương, còn tớ thế nào cũng được”.
Thiệu Đông Tử cho rằng chắc chắn tên Tạ Nam định xin xỏ nhờ vả hay xin lỗi đã làm sai chuyện gì đây chứ từ trước đến nay tên này chưa từng cố làm ngược thói đời như thế bao giờ.
“Có chuyện gì thì nói nhé, đừng làm mấy hành động kinh tởm này”.
Thiệu Đông Tử đập đập lên vai mình, như sợ trúng phải độc dược của Tạ Nam vậy.
Tạ Nam thấy ý đồ của mình bị bại lộ liền thật thà nói ra suy nghĩ của bản thân. Chả là tối nay cậu ta muốn đi thám thính ngôi nhà cao tầng kia.
“Không hiểu sao, tôi cảm thấy tòa nhà kia hình như có liên quan gì đó. Có điều theo lời giáo sư nói thì đó cũng chẳng là việc tốt lành gì, nhưng trực giác khiến tôi cảm thấy phải đi vào chỗ đó xem sao”.
Giáo sư Khương cúi đầu suy nghĩ, rồi cũng đồng ý, nhưng trong lòng vẫn mơ hồ có cảm giác lo lắng. Chỗ đó quá nguy hiểm, nhưng cấu trúc của tòa nhà này lại làm ông rất hiếu kỳ, muốn xem bên trong rốt cuộc có thứ gì.
Thấy Giáo sư Khương cho phép, Thiệu Đông Tử không hề kiêng dè cũng đồng ý theo. Dù sao đã mang theo súng, cũng khiến tinh thần cậu ta sung mãn kỳ lạ, gào lên một tiếng: “Mưa gió bão bùng mạnh nữa lên, hô hô, hô hô”.
Đầu tên Thiệu Đông Tử này chứa cái gì thế không biết, cậu ta điên thật rồi, Tạ Nam thầm nghĩ.
Chuẩn bị một lúc, Thiệu Đông Tử nhấc thanh gỗ chắn trước cổng ra, kéo then cửa, thò đầu ra nhìn xung quanh không có người mới vẫy gọi Tạ Nam và Giáo sư Khương đi ra.
Ánh nắng mặt trời lúc bốn năm giờ chiều, nhuộm lên toàn bộ ngói đen gạch xanh trong thị trấn Phổ một màu vàng khác thường, giống như cả thị trấn đang khoác lên một chiếc áo vàng vậy. Không gian đó khiến ba người vừa chui từ trong ngôi nhà tối om ra nhất thời hoa mắt, gần như không phân biệt được phương hướng.
Ánh mặt trời chói lóa, Thiệu Đông Tử giơ cao ba lô lên che nắng rồi hỏi Tạ Nam đi đâu trước.
“Cậu không đói sao? Đi ăn cơm trước đã!”
Thiệu Đông Tử một lòng nhiệt tình nhưng không ngờ kết quả lại là bị kích động đến mức chỉ biết nhe răng nhếch mép mà cười khổ sở. Bây giờ mà Tạ Nam nói thêm một câu nữa có lẽ đến tuyến thượng thận cũng không chống chọi được nữa là.
Thấy Thiệu Đông Tử chợt sững người, Tạ Nam bước đến nhắc nhở: “Không ăn cơm thì làm sao hỏi được ông chủ, không hỏi ông chủ thì sao biết nguồn gốc của tòa nhà này?”
“À?” Thiệu Đông Tử còn chưa định thần, Giáo sư Khương ghé lại, bình thản nói một câu: “Chàng trai này, chỉ có lòng nhiệt tình cách mạng thôi thì chưa đủ”.
Thiệu Đông Tử như sắp nổi đóa lên, thế này là thế nào?
Tuy nghĩ như thế, nhưng ăn một bữa cơm vẫn là một chủ ý không tồi, Thiệu Đông Tử nghĩ đến cái bụng đói meo của mình rồi vội đuổi theo hai người.
Ở thị trấn Phổ có rất nhiều quán ăn nhỏ, đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn nữa, không có thực đơn cũng không có tên món ăn cụ thể. Ngoài hai món có tên ra, còn lại đều gọi theo ý của khách hàng.
Dù gọi món bí ngô xào dăm bông thì chủ cửa hàng cũng sẽ làm theo cách của người Tương Tây mà khiến khách hàng hài lòng.
Có điều Tạ Nam và Giáo sư Khương đã tìm mấy quán nhưng đều không vào ăn, mà chỉ đến để hỏi món.
Thiệu Đông Tử không chịu được nữa, liền chất vấn Tạ Nam muốn đi thám thính tòa nhà mà lại rề rà không ăn cơm là thế nào.
“Cậu thì biết cái cóc khô gì, tớ muốn tìm quán ăn của một người dân gốc của thị trấn Phổ, không nghe khẩu âm thì làm sao mà biết được?” Tạ Nam vẫn dựa vào ký ức của mình để nhận biết khẩu âm. Bố cậu vốn là người ở đây nên về mặt khẩu âm đương nhiên không có vấn đề gì.
Nghĩ đến đây, trong lòng Tạ Nam cơ hồ lại nảy ra được một chút hình ảnh gì đó, có vẻ Tạ Mạc Văn đang ngày càng tới gần rồi.
Tìm một quán ăn, Tạ Nam ra hiệu bằng ánh mắt, bảo hai người kia đừng nói gì, chỉ có Tạ Nam đi gọi món, dù sao thì vào lúc này, người nơi khác đến luôn bị cảnh giác.
“Ông chủ, cho mấy món chính của nhà hàng, ngoài ra thêm mấy món phụ, ông xem rồi cho loại rượu ngon nhé!”
Chỉ có mấy món chính mà ba người cũng không thể ăn hết.
Ông chủ hiếm khi gặp người nào hào phóng như vậy, vội vàng chuẩn bị các món ăn rất chu đáo, từng món từng món được đưa đến.
Tạ Nam rớt rượu ra một chiếc cốc, rồi mời ông chủ một ly sau đó hỏi thẳng chuyện tòa nhà cao tầng kia.
Mặt ông chủ lập tức biến sắc, lại quay mắt nhìn đại khách quáy gọi một bàn đầy đồ ăn, đành cạn ly rượu mời, bắt đầu nói:
“Lão đệ nhìn cậu cũng thấy là người ở đây, đoán là vừa trở về, không biết chuyện đang xảy ra, thực ra là…”
Thấy ông chủ quán ăn có vẻ khó nói, Giáo sư Khương càng làm ra vẻ hiền tử, Thiệu Đông Tử cũng ngậm miệng, đợi ông chủ cửa hàng mở lời.
Ông chủ đưa mắt nhìn xung quanh không có người, vội đóng cửa phòng lại, ra vẻ thần bí bắt đầu nói với ba người.
Tòa nhà cao tầng này vốn là từ đường của nhà họ Trương, qua nhiều năm không tu sửa đã mất hết hình dáng ban đầu. Vậy mà chẳng hiểu từ đâu ra, gần đây lại xuất hiện hậu duệ đã đi xa nhiều năm của gia tộc Trương, hình như có rất nhiều tiền, còn trở về từ Nhật Bản nữa, nên mới lấy lại mảnh đất này từ tay nhà nước, xây dựng tòa nhà kia.
Nghe nói các con thuyền đào vàng trên sông Nguyên đều là của người này. Đúng là người biết nhìn xa trông rộng, biết theo đuổi con đường đào vàng, thế nào cũng đào ra đồ tốt, còn có cả kim cương nữa.
Đang lúc nổi hứng, ông chủ lại tự rót cho mình một cốc rượu, uống một hơi nói: “Mọi người hỏi cái này à, thì tốt nhất là đừng nên hỏi, bởi sau khi tòa nhà kia mọc lên thì cuộc sống ở đây không còn yên bình nữa, rất nhiều người không dám đến gần đâu!”
“Vì sao không dám đến gần ạ?” Ba người cùng bê cốc rượu lên. Ông chủ thấy thế cùng ngồi xuống, sảng khoái nâng cốc, uống hai ba cốc liền rồi lại nói.
Chỉ là ông nhà kia biết một vài tin đồn, có điều theo ông ta nói nỗi lo sợ là do mấy ngày trước có một thiếu niên mang theo tà vật đến đây, trong thị trấn không biết vì sao chết liền mấy người, việc tang ma đều làm qua quýt cho xong.
Biết là nói mình, Tạ Nam đưa tay sờ sờ khuôn mặt đầy râu, biết rõ chuyện là không may xảy ra.
Ông chủ giống như bị kìm nén quá lâu, ôm bình rượu trên bàn vào tay, uống hết cốc này đến cốc khác, thêm muối thêm mắm kể lại câu chuyện Tạ Nam đến thị trấn Phổ mấy ngày trước.
Thiệu Đông Tử cắn tăm ngồi nghe, thật không ngờ một mình Tạ Nam lại gây ra sóng to gió lớn đến vậy, sự việc chấn động như thế mà lại không có mình, thật là đáng tiếc.
Lúc nói đến Đường Sinh Bình, ông chủ cửa hàng cũng đã uống khá nhiều rồi, mặt đỏ như Quan Công, bám vào vai Tạ Nam, đem chuyện về thi thể ly kỳ, thi thể của Đường Sinh Bình và vợ ông ta, kể lại.
Tạ Nam nghe xong mới biết thì ra bà Đường kia là vợ Đường Sinh Bình, nhưng bây giờ bà ấy đã chết rồi, còn có thể tìm ai để hỏi đây?
Một bàn đầy thức ăn nhưng không ai động đến mấy. Đúng lúc trời đã tối ba người bước ra khỏi quán ăn, ông chủ khi ấy cũng đã say rượu, gọi to tạm biệt Tạ huynh đệ, nhưng ông ta đâu biết rằng Tạ huynh đệ đang đi đến chỗ tà môn mà mình đã nói.
Trong đêm tối cái ngõ hiện ra sâu thăm thẳm, vì không có đèn đường, nên nó càng trở nên tĩnh mịch, cảm giác như có thể nuốt chửng con người.
Tạ Nam và Thiệu Đông Tử đã uống mấy chén với ông chủ kia, lắc la lắc lư đi về phía trước. Giáo sư Khương lo lắng lúc này đến tòa nhà cao tầng thì không phù hợp, nhưng Tạ Nam và Thiệu Đông Tử cứ bá vai nhau chẳng hề để ý, đi thẳng đến tòa nhà đó.
Dưới những cánh cửa sổ, vẫn chẳng có ánh đèn, hình như không có ai ở bên trong.
Ở chỗ rẽ, bất chợt có một bóng người xông ra, nắm lấy Tạ Nam. Móng tay sắc nhọn cứa vào da thịt, đau đớn khiến cậu ta tỉnh cả rượu, người vừa lao tới dùng giọng nói thê lương kêu lên một tiếng, rồi thoáng hiện ra dưới ánh đèn yếu ớt.
Tạ Nam nhận ra người này, chính là người bà điếc trong nhà Hầu Tam.
Thiệu Đông Tử đang định ra tay thì Tạ Nam ngăn lại, rồi giải thích cho cậu ta lai lịch của bà lão này. Nếu cậu đoán không nhầm, người lúc chiều rình mò chính là bà ta, mà còn bám theo họ đến tận bây giờ.
Con ngươi của bà lão như lồi ra ngoài, cơ hồ đã hoàn toàn mất hết lý trí. Cái chết bất ngờ của Hầu Tam nhất định khiến bà ấy đau buồn tuyệt vọng ghê gớm và đương nhiên chuyện này lại đổ lên đầu Tạ Nam, và lần này chính là đến để báo thù rồi.
Cánh tay khô héo kia hoàn toàn không giống với cánh tay của người già, nó giống như chiếc kìm thép đang kẹp chặt lấy Tạ Nam vậy. Móng tay sắc nhọn như đâm vào tay, khiến tay của Tạ Nam tóe máu, mọi thứ vẫn tiếp tục, cơ hồ như bà lão đã đến con đường cùng rồi.
“Mày hại chết cháu tao!”, giọng nói sắc lạnh toát ra nơi yết hầu. Bà lão trừng trừng mắt nhìn Tạ Nam, hàm răng đen bóng bị rụng mấy cái lộ ra như là muốn nuốt chửng cậu.
Giáo sư Khương thấy tình hình như vậy vội kêu dừng tay, sau đó bước đến đối diện với bà lão bắt đầu thuyết giáo. Nhưng Giáo sư Khương đâu biết bà lão này đã bị điếc, không nghe được Giáo sư Khương nói gì, bà còn giơ mạnh cánh tay còn lại ra, kẹp chặt cổ Giáo sư Khương.
Sau đó dùng hết sức đẩy Giáo sư Khương ngã xuống đất.
Bà già thất thập cổ lai hy mà lại có sức mạnh như vậy khiến ba người không kịp trở tay. Cánh tay Tạ Nam từ từ trở nên tím tái, móng tay cũng đã cắm vào da thịt Tạ Nam.
Thiệu Đông Tử đi ra sau lưng bà lão gào to: “Chuyện này không liên quan đến chúng tôi, chúng tôi cũng là người bị hại”.
Câu nói đó gần như gào thẳng vào lỗ tai bà lão, cũng khiến bà lão ngừng tay, nhưng vẫn nhìn ba người với ánh mắt cảnh giác.
“Họ Tạ kia! Cậu là kẻ hại người!”
Bà lão xông vào Tạ Nam gào lên.
Tạ Nam vừa xoa xao cánh tay đã bị bóp đến tím tái của mình vừa đáp lại một tiếng, bất đắc dĩ lùi lại phía sau. Bà lão này lấy đâu ra sức mạnh khủng khiếp như thế chứ khiến cánh tay mình như bị tê dại.
Bà lão quay đầu nhìn Thiệu Đông Tử. Thiệu Đông Tử vội ra hiệu giải thích Hầu Tam bị người kia hại chết, chân tay khua loạn lên, còn bà lão dường như cũng không vì thế mà dừng tay.
“Tạ Nam! Có phải bà ta không hiểu tiếng phổ thông phải không?”
Thiệu Đông Tử lo lắng, chỉ tòa nhà cao tầng kia, kêu lên như người câm, sau đó làm một động tác đỡ cổ, cuối cùng nghiêng nghiêng đầu, làm bộ giống khuôn mặt ma.
Ý của Thiệu Đông Tử là, chúng tôi phải đến tòa nhà kia, không thể bị bà bóp chết ở đây được, nhưng lại làm ba lão hiểu nhầm sang ý khác thì phải.
Bà lão nhìn tòa nhà cao tầng kia, hỏi: “Là những người kia hại cháu trai của tôi?”
Tạ Nam đang định giải thích thì Thiệu Đông Tử vội lấy người chắn trước mặt, gật đầu xác nhận.
Thật kỳ lạ, bà lão lại nhe răng cười, giống như đã hiểu ra điều gì. Ánh mắt tối sầm lại, rồi trở nên đục ngầu.
Đưa mắt nhìn mấy người một lần nữa, sau đó quay lưng bỏ đi. Dáng người lụ khụ, sức lực và khí thế khiến người ta sợ hãi trước đó đều đã nhanh chóng biến mất.
Nhưng miệng vẫn lẩm bẩm: “Hầu Tam à, cái mạng của cháu, đã chết theo người kia rồi!”
Bóng người vẫn khom khom kia biến mất ở đằng xa, thì ba người vẫn ngơ ngác đứng nguyên tại chỗ đến nửa ngày. Tại sao nói đến tòa nhà cao tầng kia lại khiến bà lão có bộ dạng như thế.
Thiệu Đông Tử hừ một tiếng, nói to không quan tâm nữa, đúng thật là xúi quẩy, chúng ta lên đường!
Trời cũng đã về khuya, ba người tiếp tục đi về phía trước. Tòa nhà kia càng ngày càng gần khiến dây thần kinh của ba người cũng căng lên và siết chặt hơn. Trong các khe tường tiếng dế đang gọi nhau, dần dần kết thành một tràng dài giống như hiệu lệnh mở đường vậy, đồng thanh kêu lên ở hai bên.
Con đường dẫn đến tòa nhà kia không còn xa nữa, nhưng trong thị trấn không quy củ mà đường ngõ phức tạp này, hình như khó khăn hơn rất nhiều. Ngoài ánh đèn còn sót lại trong một vài căn nhà và âm thanh lẻ tẻ vọng lại thì mọi thứ đều như sắp chìm vào giấc ngủ.
Càng tiến gần đến tòa nhà, bóng người càng thưa thớt, còn khoảng nửa đường nữa thì mọi thứ đều đã yên ắng đến rợn người. Cái bóng của tòa nhà cao tầng hiện lên ở một chỗ gần đó, đường nét cũng khắc sâu trên nền trời.
Cả tòa nhà tối om, như không có người ở.
Tình hình này khiến Tạ Nam vô cùng thật vọng, nếu chỉ là tòa nhà trống, khả năng sẽ chẳng có manh mối gì.
Thiệu Đông Tử đi đầu tiên, muốn tiến đến gần xem xem, nhưng thấy chính giữa phố đặt một cái ghế kiểu tay vịn thời nhà Nguyên, yếu ớt nổi lên dưới ánh trăng.
Đặt một cái ghế cổ như thế ở chỗ này, đúng là một chuyện ly kỳ. Giáo sư Khương quan sát cái ghế từ đằng xa, tạo hình rắn chắc, phần tựa chạm khắc đá cũng khá tinh xảo.
Vì là giáo sư của khoa Lịch sử nên đối với những thứ cổ vật như thế này luôn mang lại hứng thú cho ông. Giáo sư Khương chăm chú quan sát rồi tiến gần đến chỗ đó lúc nào chẳng hay. Không để ý đến sự ngạc nhiên của Tạ Nam và Thiệu Đông Tử, giáo sư đi vòng quanh ghế, miệng không ngớt khen ngợi:
“Một vật quá đẹp, phần tựa được làm bằng đá cẩm thạch đã chọn lựa tinh xảo, giống một bức tranh sơn thủy, phần tay vịn cũng được làm bằng gỗ hảo hạng. Nhưng đặt ở đây đúng thật là phí”.
Tạ Nam nhớ lại bài ca dao từng nghe lúc nhỏ:
Chiếc ghế Hoàng đế đặt trên phố, quân tử qua đường chớ lại gần. Mất đi lý trí mà ngồi lên, ba hồn bảy vía sẽ rơi mất.
Nếu nói đây chính là chiếc ghế Hoàng đế trong bài ca dao đó, nếu Giáo sư Khương không nhịn được mà ngồi lên đó thì phiền phức to rồi.
Dùng thủ đoạn độc ác như một chiêu lừa bịp này để trả thù kẻ tham lam ngông cuồng, tuy không thường gặp nhưng hôm nay chiếc ghế đó để ở đây thì rõ ràng là một cái bẫy.
Còn chưa kịp nói, thì Giáo sư Khương đã khom người định ngồi lên, Tạ Nam nhanh chóng đưa tay ra đẩy Giáo sư Khương từ đằng sau, rồi tay cậu ấn xuống ghế.
Tay vừa chạm vào ghế, Tạ Nam liền nằm bò trên cái tựa lưng, sợ hãi nhìn xem tay mình sẽ xảy ra chuyện gì.
Trên ghế dính một ít hơi sương, ươn ướt, man mát, cảm giác này thậm chí còn hơi khoan khoái. Tạ Nam đang định rút tay lại, nhưng cảm giác man mát kia trong nháy mắt đã trở nên lạnh giá. Các mạch máu từ lòng bàn tay truyền đi khắp cơ thể đã bị đông cứng lại, truyền đến tận tim gan.
Cảm giác giống như bị thương này bất thình lình xảy ra, tuôn trào mạnh mẽ, sau đó từ trái tim bơm đi khắp cơ thể. Tạ Nam mím chặt môi, răng đánh vào nhau cầm cập.
Giáo sư Khương và Thiệu Đông Tử đưa mắt nhìn Tạ Nam nhưng lại sợ hãi lùi về phía sau giống như đang mặc kệ Tạ Nam mà quay lưng bỏ chạy vậy.
Có điều Tạ Nam cảm giác như mình đang lái cái ghế này tiến về phía trước.
Cậu có thể nhận thấy sắc mặt mình trở nên xanh xao, bởi trên tay đang dần dần xuất hiện một lớp sương mỏng, rồi tản ra thành những sợi màu trắng.
Ở trong tình trạng này chắc hẳn mọi người nghĩ mình sẽ cứ nằm bò ở đây, sau đó biến thành một miếng thịt đông chờ ánh nắng mặt trời để tan ra.
Tạ Nam cảm thấy mọi thứ ngày càng trở nên mờ mờ ảo ảo, cảm giác như chiếc ghế đang lao vun vút trên đường cao tốc vậy.
Phải chăng giống như lời của bài ca dao, Tạ Nam đã bị bắt mất hồn. Cảm giác lo lắng sợ hãi đang dâng lên trong lòng cậu.
Bây giờ, tựa như cậu có thể nhìn thấy ba hồn bảy vía của mình từng cái từng cái đang cố gắng giãy giụa thoát ra khỏi xác, bị hút ra từ đỉnh đầu.
Cơ hồ phía sau xuất hiện một lực kéo Tạ Nam lại, lôi cậu ra khỏi chiếc ghế.
Tạ Nam bỗng thấy cánh tay đông cứng trên ghế đã bị kéo đứt, bàn tay vẫn còn bám trên ghế, cơ thể đã nằm trên đất.
Không có cảm giác đau đớn, chỉ có thể thấy cánh tay vỡ toác của mình hươ hươ vô ích trong không trung.
Hồn vía cuối cùng lơ lửng như khói sương thoát khỏi cơ thể, bay về phía các vì sao.
Trước mắt tối đen, không thấy gì cả.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook