Mật Mã Maya
-
Chương 35
Một hương vị, ký ức về một hương vị mà tôi nhận ra là mùi sữa mẹ, nó xuất hiện đầu tiên, rồi đến những ký ức lơ mơ khác mà phải mất một lúc sau tôi mới nhận ra chúng không phải của tôi, mà là của Chacal. Tôi biết tôi có một cơ thể, bởi từng mi-li-mét vuông trên da nó đều ngứa ran, ngứa như dưới da có rắc vụn bánh parsee vậy, và tôi không gãi được, tôi chỉ có thể vặn vẹo người dưới lớp chăn quấn được tẩm mỡ. Phải gãi mới được, phải gãi... cơn ngứa ngoài da lan vào trong ngực, nơi tôi cảm tưởng như mất đến nửa feet vuông da, rồi nó dịu đi, và trong một lúc lâu, toàn bộ đầu óc tôi nằm trong cổ họng, một sa mạc Nazca mặn chát với những đường rãnh khổng lồ. Cơn khát. Cơn khát. Hàng thế kỷ không mưa. Mãi cho đến lúc rốt cuộc có ai đó mở lớp phủ trên mặt cho tôi thấy ánh sáng mặt trời rực rỡ, đổ vào miệng tôi một hớp cháo ngô mằn mặn rồi lại đậy lại. Trong lúc từ từ dễ chịu dần, tôi nhận ra mình vẫn còn lưỡi, nó sưng phù lên như một quả dưa chuột muối to tướng bị khô đi, nhưng nó vẫn nằm đấy, nguyên vẹn, mặt tôi bị phủ một lớp mỏng giống như vải thưa bọc pho mát và tôi vẫn thở được gần như bình thường. Có vẻ đang là buổi chiều, một toán phu khuân vác đang khiêng cái bọc dài, hẹp, có tôi ở bên trong, men theo một con dốc ngoằn ngoèo bên sườn đồi, lên trên và về hướng đông, vào vùng đất cao, qua những cây cầu bện bằng thừng, dọc những con suối chảy cuồn cuộn.
Sao họ nhọc công cứu tôi làm gì?
Chắc nhà Đại Bàng muốn đánh lừa các dòng họ quý tộc khác. Chắc thế rồi. Họ muốn tất cả thành Ix tưởng rằng tôi đã chết. Ái dà, thế thì hay quá, nhỉ? Sọ Đá Quý 2 đã mềm lòng. Ông ta đã quyết định mày rằng mày có thể có tí ích lợi gì đấy. Ông ta muốn mày được sống.
Hừm. Có thể Sọ Đá Quý 2 đã căn thời gian sao cho cuộc rượt đuổi tàn vào đúng khoảng thời gian tôi đã dự đoán đợt phun trào.
Phải rồi. Các bạn biết đấy, bây giờ tôi đã có thời gian để suy nghĩ việc này, đúng là không hợp lý nếu những người này thực sự đoán trước được rằng trời sắp sập xuống đầu, thế mà vẫn cứ lao hết cả ra ngoài để chơi trò săn đuổi. Nếu biết, họ phải trốn tịt trong nhà, quỳ sụp trước các bức tượng và khẩn khoản van xin các vị thần dớ dẩn của họ chứ.
Vậy chắc chắn là lão già Sọ Đá Quý 2 ấy đã nghĩ rằng dự đoán của tôi về trận phun trào chính xác hơn những gì các tay thầy bói ở đây đã tiên đoán. Nếu đúng là họ có tiên đoán. Có khi ông ta chỉ bịa ra chuyện đó với tôi thôi. Hừm. Dù sao, chắc ông ta đã đoán vụ chấn động sẽ xảy ra sớm hơn dự kiến – và có thể người dân ở đây không nghĩ nó sẽ lớn đến thế, họ chỉ nghĩ sẽ có vài tiếng nổ và chớp sáng ở đường chân trời thôi – và ông ta đã áng chừng thời gian sao cho cuộc săn đuổi đi đến hồi kết thúc đúng vào khoảng thời gian đó. Như vậy lúc đó là khoảng bốn giờ sáng ngày 27. Khi nó xảy ra, tất cả đám thợ săn k'iik đều phát hoảng. Trừ những người nhà Đại Bàng, họ được biết trước, và trong lúc lộn xộn, họ đã đánh tráo một người vào để chịu lột da thay cho tôi. Đó là lý do vì sao họ lấy miếng da trên ngực tôi, vết xăm của người chơi bóng bông... một thứ mà họ không làm giả được. Họ sẽ khâu nó vào da người kia và tìm cách giấu các đường chỉ.
Phải. Đúng đấy. Nghe hợp lý đấy. Cho nên tôi đoán thằng k'iik nhà Đại Bàng, thằng bé có khuôn mặt tròn dễ thương, Hun Xoc, nó thực sự cố tình đâm chệch đi khi ném mũi lao chỉ cách có bốn bước chân. Đó cũng là lý do vì sao các Đại Bàng luôn ở sát ngay sau đuôi tôi mà không tóm lấy tôi. Họ bám theo tôi suốt cuộc săn đuổi, canh chừng cho tôi... tuy thế, nếu một người thuộc thị tộc khác tóm được tôi thì sao nhỉ? Chắc họ đã có kế hoạch giải thoát tôi bằng cách nào đấy... hoặc có thể không... Có khi nếu chuyện ấy xảy ra, họ sẽ phẩy tay bỏ mặc tôi.
Lũ con hoang. Ờ, nhưng dù sao, họ cũng không làm thế.
Vậy tôi đã làm đúng, phải vậy không? Tôi đã tiên đoán vụ phun trào đúng hơn nhiều so với lũ người chết mẹ của họ đoán. Điều ấy có giúp tôi giành được tí địa vị nào ở đây không nhỉ?
Con đường đầy người qua lại, những đoàn dài lữ hành cuốc bộ với lũ chó sủa ăng ẳng chạy đằng trước, những người đưa tin lao vụt qua, tay lắc chiếc trống lục lạc báo hiệu cho người qua đường. Các giác quan của Chacal nhận ra sự ảm đạm trong âm thanh đó, như thể tất cả đều đang vội vã trở về nhà. Về chỗ lánh nạn thì đúng hơn. Chim én và jacana (Jacana: Một giống chim lội nước ở vùng nhiệt đới) lại cất tiếng kêu, hơi dè dặt, có lẽ còn bối rối về cơn chấn động, nhưng chỉ cần bấy nhiêu, trí óc của Chacal đã có thể đoan chắc trời sắp nhá nhem.. Đến đây, đoàn người đi chậm lại. Một đôi lần, cái bọc chứa tôi được chuyển từ tay này sang tay khác, giống như chuyển một chiếc xuồng. Lát sau, họ quay sang khiêng tôi ở tư thế thẳng đứng, buộc vào một tấm ván, đi dưới bóng râm, thỉnh thoảng mới có một chút ánh sáng mặt trời. Chặng này xem ra có phần hẻo lánh, những người phu hát lên một bài như bài cầu kinh, điểm những cái tên khiêm nhường của tổ tiên họ. Nhưng đó không phải khúc hát thảnh thơi trong lúc lao động. Nó hơi có vẻ e sợ, giống như một bài yểm bùa để tránh lũ yêu tinh. Chốc chốc, họ lại nắn nắn người tôi, nghe ngóng hơi thở để chắc chắn là tôi vẫn còn thở. Thỉnh thoảng, chúng tôi dừng lại và một tên hầu lại giở tấm vải thưa trên đầu tôi, cậy miệng, rút cái bùi nhùi bông ra. Và tôi thậm chí chưa kịp ú ớ thì hắn đã đổ vào một ít cái món đậm vị mà từ đầu tới giờ họ vẫn cho tôi ăn – nó có vị như nước b'alche ủ kỹ nhưng tác dụng thì như Dilaudid (Một loại thuốc giảm đau) – lau mũi cho tôi rồi nhét lại nùi bông và phủ tấm mạng lên. Cuối cùng, chắc cái bọc quá vướng víu, khó đi trên đường đắp nổi - hoặc giả chúng tôi đã đến một nơi kín đáo - họ đặt tôi xuống và giở tôi ra ngoài không khí mát lạnh. Tấm che mặt được bóc ra, tôi ngửa mặt lên trời, thở hổn hển.
Đó là một buổi chạng vạng xanh trong. Trời không mây, phía ngoài vịnh cũng không còn dấu hiệu nào rõ rệt của trận phun trào, ngoại trừ một chút lo lắng trong tiếng hót của những con chim. Hun Xoc cúi xuống nhìn tôi, và trước khi tôi kịp có thái độ gì, bốn cánh tay đã dựng tôi đứng thẳng dậy và giúp tôi đứng cho thăng bằng. Không ai nói câu gì. Tôi cũng không thấy mình có thể nói câu gì. Tôi chỉ thở gấp. Vết thương trên ngực tôi được phủ một miếng xơ bông lớn rắc tro. Ai đó, có lẽ là một trong những tên hầu, đổ ít nước mật ong vào miệng tôi và tôi cố nuốt được vài giọt. Tôi nheo mắt nhìn quanh. Chúng tôi đang ở sườn nam của một dãy núi, trên một con đường hẹp cắt ngang gần đỉnh một con dốc rộng chạy uốn cong. Bên tay trái, con dốc dựng đứng lên một góc bốn mươi nhăm độ, với những khối đá xéc-pe-tin đen sì bị rịt chặt trong tấm lưới tự nhiên dệt bằng dây leo úa vàng. Bên tay phải, con dốc đổ xuống, dài chừng ba đến bốn trăm feet, dưới chân viền một hàng thông Montezuma. Xa hơn nữa, thấp thoáng một ngôi làng, những căn nhà nhỏ, vựa lúa, xưởng thợ nằm san sát thành từng cụm, tất thảy đều được cất bằng đá thô lấy từ trên núi, trát một thứ vữa đỏ xỉn và lợp bằng lá cọ xít. Những vạch đen và đỏ trên tường cho biết đó là một ngôi làng Đại Bàng, nhưng mái hiên lầu của một vài khu nhà lớn ở trung tâm lại điểm những chấm đen và ngọc lam, bộ óc của Chacal hiểu như thế có nghĩa rằng người của thị tộc Mèo Rừng cũng sinh sống tại đây. Tôi không nhìn thấy nhiều mul hoặc các công trình tín ngưỡng. Có lẽ đây là một đô thị dân sinh, còn người anh em tín ngưỡng của nó ở một nơi khác. Tuy nhiên, chính giữa làng, trên một bệ đá có bậc thềm dẫn lên cũng có một chiếc vạc hứng nước mưa lớn và tinh xảo, một bầy nô lệ với mớ tóc ngắn cụt, dải vải xám xâu qua dái tai và những vết sọc xám trên người, chậm chạp lê đến rồi đi với những cái thúng được tráng cao su trắng đựng nước trên lưng, giống hệt những con kiến thợ tha nhộng. Phía sau ngôi làng là một dãy núi y hệt dãy núi này, rồi xa nữa, chỉ thoáng hiện ra lờ mờ, lại là núi. Không có đám khói nào phủ mờ thung lũng, nghĩa là mùa đốt nương chưa bắt đầu. Có lẽ nó bị hoãn lại vì vụ núi lửa phun trào. Trước mặt chúng tôi là những bậc thang được đẽo vào đá, dốc đứng, dài ít nhất bảy mươi feet, dẫn xuống một khe nứt rộng trên vách đá xám. Hình như họ chuẩn bị buộc một sợi dây an toàn vào người tôi để xem tôi có giúp gì được họ trong việc đưa chính tôi xuống hay không.
Hừm.
Bầu đoàn có cả thảy hai mươi người. Bốn k'iik nhà Đại Bàng. Sáu liksajob, tức là vệ sĩ. Họ là chiến binh đến từ một trong các thị tộc dưới quyền nhà Đại Bàng, những người không bao giờ có thể trở thành k'iik thực thụ, bất kể dũng mãnh đến đâu. Số còn lại xem ra là phu phen và kẻ hầu người hạ. Tôi nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác. Họ cũng giương mắt lên nhìn tôi cứ như tôi là một bài đố ô chữ vậy. Không ai nói gì, ánh mắt tôi phanh lại trên người Hun Xoc. Nó nhìn lại với ánh mắt tò mò không kém gì những người khác nhưng có phần trìu mến hơn. Tôi dần nhớ ra. Hun Xoc. Phải rồi. Chacal đã góp phần huấn luyện thằng bé này ở cái mà các bạn có thể gọi là "đội trẻ" của Hội Bóng Hông. Nó có nước da sẫm màu và mảnh dẻ khác thường so với con nhà dòng dõi quý tộc. Lạ nữa là tên nó khi chuyển sang tiếng Anh nghe hầu như không thay đổi: Cá Mập 1 (Trong tiếng Anh, từ Cá Mập 1 là "One Shark", đọc gần giống Hun Xoc). Hai con chó săn màu nâu sô-cô-la trụi lông khệnh khạng tiến về phía tôi hít hửi. Nom chúng từa tựa giống chó Xolos Mexico, nhưng to hơn, xấp xỉ con chó đốm. Một đàn vịt trời Canada nhỏ kêu quang quác trên đầu, thẳng hướng đông nam mặc dù chưa đến mùa di cư. Chúng đang tháo chạy khỏi núi lửa.
Hun Xoc đi ra chỗ những người còn lại, sắp xếp hàng ngũ để chuẩn bị leo xuống. Tôi nhận ra chỉ có duy nhất hai bàn tay đeo găng giữ lấy hai cổ tay tôi.
Sau lưng tôi là một tên hầu. Phía trước tôi chỉ có một tên đi tiền trạm. Rồi đến lũ chó. Rồi đến những bậc thang.
Đàn ngỗng lượn sang trái, rẽ về hướng nam. Không còn thời cơ nào tốt hơn.
Tôi giằng khỏi tay gã hầu, chạy đâm sầm qua tên lính tiền trạm đang sững sờ, nhảy xuống bậc thang đầu tiên và lộn nhào xuống qua mép bậc thang. Cảm giác hổ thẹn nặng như tấm áo chì trút khỏi người tôi ngay trước khi tiếng ào ào kịp rít lên bên tai và tôi thả người rơi tự do. Tôi cười khơ khơ khi ở trên không và đó là tiếng cười của Jed, tiếng cười của kẻ cảm thấy hoàn toàn tự do, gần như lần đầu tiên trong đời, và mặc dù sau đó tôi nhận ra đấy không phải là tôi, mà là Chacal đã trỗi dậy, tôi vẫn thấy phấn chấn như vừa phê một liều ma túy...
Vai phải tôi đau điếng vì va phải một bậc đá. Tôi nhảy lên, xoay người từ từ trong không trung. Hông bên trái tôi đập bốp xuống bậc tiếp theo, nhưng vì một lý do nào đó cú va đập khá êm ái, không đau lắm. Nhẽ ra tôi phải tăng tốc, nhưng thay vào đó, tôi lại bị chậm lại. Những bàn tay bám khắp người tôi. Họ đã nhảy xuống theo tôi, ôm chặt lấy người để che cho tôi, thúc đầu gối và khuỷu tay vào đá. Vài người rên rỉ, nhưng không ai kêu. Tôi lăn thêm bốn vòng nữa, giữa một quả bóng tuyết khổng lồ, âm ấm vì là thịt người rách nát thay vì tuyết. Tôi đẩy nốt chỗ hơi còn lại ra khỏi hai lá phổi. Phải tự làm mình chết ngạt mới được. Không. Không phải tôi. Là Chacal. Chacal đang nín thở. Quỷ tha ma bắt mày đi. Mày có nhịn thở được đến chết không?
Dường như Chacal trả lời anh ta có thể làm được bất cứ việc gì.
Tôi bắt đầu mềm nhũn đi như khi người ta bất tỉnh, và rồi đống chân tay ghì lấy người tôi được nhấc lên. Ai đó túm tóc kéo ngật đầu tôi ra sau còn tôi thì nghĩ: "Cuối cùng, mình cũng bị chặt đầu. Kẻ dưới chân các người xin cảm ơn, các bố các mẹ, hãy chặt đầu con đi, đó là..."
Sao họ nhọc công cứu tôi làm gì?
Chắc nhà Đại Bàng muốn đánh lừa các dòng họ quý tộc khác. Chắc thế rồi. Họ muốn tất cả thành Ix tưởng rằng tôi đã chết. Ái dà, thế thì hay quá, nhỉ? Sọ Đá Quý 2 đã mềm lòng. Ông ta đã quyết định mày rằng mày có thể có tí ích lợi gì đấy. Ông ta muốn mày được sống.
Hừm. Có thể Sọ Đá Quý 2 đã căn thời gian sao cho cuộc rượt đuổi tàn vào đúng khoảng thời gian tôi đã dự đoán đợt phun trào.
Phải rồi. Các bạn biết đấy, bây giờ tôi đã có thời gian để suy nghĩ việc này, đúng là không hợp lý nếu những người này thực sự đoán trước được rằng trời sắp sập xuống đầu, thế mà vẫn cứ lao hết cả ra ngoài để chơi trò săn đuổi. Nếu biết, họ phải trốn tịt trong nhà, quỳ sụp trước các bức tượng và khẩn khoản van xin các vị thần dớ dẩn của họ chứ.
Vậy chắc chắn là lão già Sọ Đá Quý 2 ấy đã nghĩ rằng dự đoán của tôi về trận phun trào chính xác hơn những gì các tay thầy bói ở đây đã tiên đoán. Nếu đúng là họ có tiên đoán. Có khi ông ta chỉ bịa ra chuyện đó với tôi thôi. Hừm. Dù sao, chắc ông ta đã đoán vụ chấn động sẽ xảy ra sớm hơn dự kiến – và có thể người dân ở đây không nghĩ nó sẽ lớn đến thế, họ chỉ nghĩ sẽ có vài tiếng nổ và chớp sáng ở đường chân trời thôi – và ông ta đã áng chừng thời gian sao cho cuộc săn đuổi đi đến hồi kết thúc đúng vào khoảng thời gian đó. Như vậy lúc đó là khoảng bốn giờ sáng ngày 27. Khi nó xảy ra, tất cả đám thợ săn k'iik đều phát hoảng. Trừ những người nhà Đại Bàng, họ được biết trước, và trong lúc lộn xộn, họ đã đánh tráo một người vào để chịu lột da thay cho tôi. Đó là lý do vì sao họ lấy miếng da trên ngực tôi, vết xăm của người chơi bóng bông... một thứ mà họ không làm giả được. Họ sẽ khâu nó vào da người kia và tìm cách giấu các đường chỉ.
Phải. Đúng đấy. Nghe hợp lý đấy. Cho nên tôi đoán thằng k'iik nhà Đại Bàng, thằng bé có khuôn mặt tròn dễ thương, Hun Xoc, nó thực sự cố tình đâm chệch đi khi ném mũi lao chỉ cách có bốn bước chân. Đó cũng là lý do vì sao các Đại Bàng luôn ở sát ngay sau đuôi tôi mà không tóm lấy tôi. Họ bám theo tôi suốt cuộc săn đuổi, canh chừng cho tôi... tuy thế, nếu một người thuộc thị tộc khác tóm được tôi thì sao nhỉ? Chắc họ đã có kế hoạch giải thoát tôi bằng cách nào đấy... hoặc có thể không... Có khi nếu chuyện ấy xảy ra, họ sẽ phẩy tay bỏ mặc tôi.
Lũ con hoang. Ờ, nhưng dù sao, họ cũng không làm thế.
Vậy tôi đã làm đúng, phải vậy không? Tôi đã tiên đoán vụ phun trào đúng hơn nhiều so với lũ người chết mẹ của họ đoán. Điều ấy có giúp tôi giành được tí địa vị nào ở đây không nhỉ?
Con đường đầy người qua lại, những đoàn dài lữ hành cuốc bộ với lũ chó sủa ăng ẳng chạy đằng trước, những người đưa tin lao vụt qua, tay lắc chiếc trống lục lạc báo hiệu cho người qua đường. Các giác quan của Chacal nhận ra sự ảm đạm trong âm thanh đó, như thể tất cả đều đang vội vã trở về nhà. Về chỗ lánh nạn thì đúng hơn. Chim én và jacana (Jacana: Một giống chim lội nước ở vùng nhiệt đới) lại cất tiếng kêu, hơi dè dặt, có lẽ còn bối rối về cơn chấn động, nhưng chỉ cần bấy nhiêu, trí óc của Chacal đã có thể đoan chắc trời sắp nhá nhem.. Đến đây, đoàn người đi chậm lại. Một đôi lần, cái bọc chứa tôi được chuyển từ tay này sang tay khác, giống như chuyển một chiếc xuồng. Lát sau, họ quay sang khiêng tôi ở tư thế thẳng đứng, buộc vào một tấm ván, đi dưới bóng râm, thỉnh thoảng mới có một chút ánh sáng mặt trời. Chặng này xem ra có phần hẻo lánh, những người phu hát lên một bài như bài cầu kinh, điểm những cái tên khiêm nhường của tổ tiên họ. Nhưng đó không phải khúc hát thảnh thơi trong lúc lao động. Nó hơi có vẻ e sợ, giống như một bài yểm bùa để tránh lũ yêu tinh. Chốc chốc, họ lại nắn nắn người tôi, nghe ngóng hơi thở để chắc chắn là tôi vẫn còn thở. Thỉnh thoảng, chúng tôi dừng lại và một tên hầu lại giở tấm vải thưa trên đầu tôi, cậy miệng, rút cái bùi nhùi bông ra. Và tôi thậm chí chưa kịp ú ớ thì hắn đã đổ vào một ít cái món đậm vị mà từ đầu tới giờ họ vẫn cho tôi ăn – nó có vị như nước b'alche ủ kỹ nhưng tác dụng thì như Dilaudid (Một loại thuốc giảm đau) – lau mũi cho tôi rồi nhét lại nùi bông và phủ tấm mạng lên. Cuối cùng, chắc cái bọc quá vướng víu, khó đi trên đường đắp nổi - hoặc giả chúng tôi đã đến một nơi kín đáo - họ đặt tôi xuống và giở tôi ra ngoài không khí mát lạnh. Tấm che mặt được bóc ra, tôi ngửa mặt lên trời, thở hổn hển.
Đó là một buổi chạng vạng xanh trong. Trời không mây, phía ngoài vịnh cũng không còn dấu hiệu nào rõ rệt của trận phun trào, ngoại trừ một chút lo lắng trong tiếng hót của những con chim. Hun Xoc cúi xuống nhìn tôi, và trước khi tôi kịp có thái độ gì, bốn cánh tay đã dựng tôi đứng thẳng dậy và giúp tôi đứng cho thăng bằng. Không ai nói câu gì. Tôi cũng không thấy mình có thể nói câu gì. Tôi chỉ thở gấp. Vết thương trên ngực tôi được phủ một miếng xơ bông lớn rắc tro. Ai đó, có lẽ là một trong những tên hầu, đổ ít nước mật ong vào miệng tôi và tôi cố nuốt được vài giọt. Tôi nheo mắt nhìn quanh. Chúng tôi đang ở sườn nam của một dãy núi, trên một con đường hẹp cắt ngang gần đỉnh một con dốc rộng chạy uốn cong. Bên tay trái, con dốc dựng đứng lên một góc bốn mươi nhăm độ, với những khối đá xéc-pe-tin đen sì bị rịt chặt trong tấm lưới tự nhiên dệt bằng dây leo úa vàng. Bên tay phải, con dốc đổ xuống, dài chừng ba đến bốn trăm feet, dưới chân viền một hàng thông Montezuma. Xa hơn nữa, thấp thoáng một ngôi làng, những căn nhà nhỏ, vựa lúa, xưởng thợ nằm san sát thành từng cụm, tất thảy đều được cất bằng đá thô lấy từ trên núi, trát một thứ vữa đỏ xỉn và lợp bằng lá cọ xít. Những vạch đen và đỏ trên tường cho biết đó là một ngôi làng Đại Bàng, nhưng mái hiên lầu của một vài khu nhà lớn ở trung tâm lại điểm những chấm đen và ngọc lam, bộ óc của Chacal hiểu như thế có nghĩa rằng người của thị tộc Mèo Rừng cũng sinh sống tại đây. Tôi không nhìn thấy nhiều mul hoặc các công trình tín ngưỡng. Có lẽ đây là một đô thị dân sinh, còn người anh em tín ngưỡng của nó ở một nơi khác. Tuy nhiên, chính giữa làng, trên một bệ đá có bậc thềm dẫn lên cũng có một chiếc vạc hứng nước mưa lớn và tinh xảo, một bầy nô lệ với mớ tóc ngắn cụt, dải vải xám xâu qua dái tai và những vết sọc xám trên người, chậm chạp lê đến rồi đi với những cái thúng được tráng cao su trắng đựng nước trên lưng, giống hệt những con kiến thợ tha nhộng. Phía sau ngôi làng là một dãy núi y hệt dãy núi này, rồi xa nữa, chỉ thoáng hiện ra lờ mờ, lại là núi. Không có đám khói nào phủ mờ thung lũng, nghĩa là mùa đốt nương chưa bắt đầu. Có lẽ nó bị hoãn lại vì vụ núi lửa phun trào. Trước mặt chúng tôi là những bậc thang được đẽo vào đá, dốc đứng, dài ít nhất bảy mươi feet, dẫn xuống một khe nứt rộng trên vách đá xám. Hình như họ chuẩn bị buộc một sợi dây an toàn vào người tôi để xem tôi có giúp gì được họ trong việc đưa chính tôi xuống hay không.
Hừm.
Bầu đoàn có cả thảy hai mươi người. Bốn k'iik nhà Đại Bàng. Sáu liksajob, tức là vệ sĩ. Họ là chiến binh đến từ một trong các thị tộc dưới quyền nhà Đại Bàng, những người không bao giờ có thể trở thành k'iik thực thụ, bất kể dũng mãnh đến đâu. Số còn lại xem ra là phu phen và kẻ hầu người hạ. Tôi nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác. Họ cũng giương mắt lên nhìn tôi cứ như tôi là một bài đố ô chữ vậy. Không ai nói gì, ánh mắt tôi phanh lại trên người Hun Xoc. Nó nhìn lại với ánh mắt tò mò không kém gì những người khác nhưng có phần trìu mến hơn. Tôi dần nhớ ra. Hun Xoc. Phải rồi. Chacal đã góp phần huấn luyện thằng bé này ở cái mà các bạn có thể gọi là "đội trẻ" của Hội Bóng Hông. Nó có nước da sẫm màu và mảnh dẻ khác thường so với con nhà dòng dõi quý tộc. Lạ nữa là tên nó khi chuyển sang tiếng Anh nghe hầu như không thay đổi: Cá Mập 1 (Trong tiếng Anh, từ Cá Mập 1 là "One Shark", đọc gần giống Hun Xoc). Hai con chó săn màu nâu sô-cô-la trụi lông khệnh khạng tiến về phía tôi hít hửi. Nom chúng từa tựa giống chó Xolos Mexico, nhưng to hơn, xấp xỉ con chó đốm. Một đàn vịt trời Canada nhỏ kêu quang quác trên đầu, thẳng hướng đông nam mặc dù chưa đến mùa di cư. Chúng đang tháo chạy khỏi núi lửa.
Hun Xoc đi ra chỗ những người còn lại, sắp xếp hàng ngũ để chuẩn bị leo xuống. Tôi nhận ra chỉ có duy nhất hai bàn tay đeo găng giữ lấy hai cổ tay tôi.
Sau lưng tôi là một tên hầu. Phía trước tôi chỉ có một tên đi tiền trạm. Rồi đến lũ chó. Rồi đến những bậc thang.
Đàn ngỗng lượn sang trái, rẽ về hướng nam. Không còn thời cơ nào tốt hơn.
Tôi giằng khỏi tay gã hầu, chạy đâm sầm qua tên lính tiền trạm đang sững sờ, nhảy xuống bậc thang đầu tiên và lộn nhào xuống qua mép bậc thang. Cảm giác hổ thẹn nặng như tấm áo chì trút khỏi người tôi ngay trước khi tiếng ào ào kịp rít lên bên tai và tôi thả người rơi tự do. Tôi cười khơ khơ khi ở trên không và đó là tiếng cười của Jed, tiếng cười của kẻ cảm thấy hoàn toàn tự do, gần như lần đầu tiên trong đời, và mặc dù sau đó tôi nhận ra đấy không phải là tôi, mà là Chacal đã trỗi dậy, tôi vẫn thấy phấn chấn như vừa phê một liều ma túy...
Vai phải tôi đau điếng vì va phải một bậc đá. Tôi nhảy lên, xoay người từ từ trong không trung. Hông bên trái tôi đập bốp xuống bậc tiếp theo, nhưng vì một lý do nào đó cú va đập khá êm ái, không đau lắm. Nhẽ ra tôi phải tăng tốc, nhưng thay vào đó, tôi lại bị chậm lại. Những bàn tay bám khắp người tôi. Họ đã nhảy xuống theo tôi, ôm chặt lấy người để che cho tôi, thúc đầu gối và khuỷu tay vào đá. Vài người rên rỉ, nhưng không ai kêu. Tôi lăn thêm bốn vòng nữa, giữa một quả bóng tuyết khổng lồ, âm ấm vì là thịt người rách nát thay vì tuyết. Tôi đẩy nốt chỗ hơi còn lại ra khỏi hai lá phổi. Phải tự làm mình chết ngạt mới được. Không. Không phải tôi. Là Chacal. Chacal đang nín thở. Quỷ tha ma bắt mày đi. Mày có nhịn thở được đến chết không?
Dường như Chacal trả lời anh ta có thể làm được bất cứ việc gì.
Tôi bắt đầu mềm nhũn đi như khi người ta bất tỉnh, và rồi đống chân tay ghì lấy người tôi được nhấc lên. Ai đó túm tóc kéo ngật đầu tôi ra sau còn tôi thì nghĩ: "Cuối cùng, mình cũng bị chặt đầu. Kẻ dưới chân các người xin cảm ơn, các bố các mẹ, hãy chặt đầu con đi, đó là..."
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook