Martin Eden
-
Chương 44
Một hôm Kreis đến gặp Martin - Kreis con người của "đám hạ lưu chân chính." Martin quay lại nghe anh ta nói, trong lòng thấy nhẹ nhõm, những chi tiết sáng ngời của một mưu đồ khá liều lĩnh làm cho gã thích thú, không phải là cái thích thú của một nhà đầu tư mà là cái thích thú của một nhà viết tiểu thuyết. Giữa lúc trình bày, Kreis ngừng lại khá lâu để nói với Martin rằng hầu hết những kiến giải trong "Sự hổ thẹn của mặt trời" đã chứng tỏ gã là một thằng ngốc.
"Nhưng không phải tôi đến đây để thuyết lý về triết học." Kreis nói tiếp. "Điều tôi muốn là anh có chịu bỏ ra một nghìn đô la để làm việc đó không?"
"Không, dù sao, tôi cũng không ngốc đến như thế." Martin trả lời. "Nhưng tôi sẽ nói cho anh biết tôi sẽ làm gì. Anh đã cho tôi sống một đêm vĩ đại nhất trong đời tôi. Anh đã cho tôi cái mà tiền bạc không thể mua được. Bây giờ tôi có tiền, và tiền đối với tôi không có nghĩa lý gì hết. Tôi sẽ chuyển cho anh một nghìn đô la - cái mà tôi coi khinh - vì cái mà anh đã cho tôi đêm ấy, và cái đó thật là vô giá. Anh cần tiền. Mà tôi lại có nhiều quá sự cần thiết. Anh cần tiền. Anh đến đây vì cái đó. Cũng chẳng cần phải bày mưu tính kế gì để lấy tiền ở tôi. Cầm lấy!"
Kreis không để lộ ra một chút ngạc nhiên. Anh ta gấp tấm ngân phiếu đút vào túi.
"Theo giá này thì tôi muốn ký với anh một hợp đồng dành cho anh nhiều đêm như thế nữa!"
"Quá muộn rồi!" Martin lắc đầu "Đối với tôi đêm ấy là đêm duy nhất. Tôi đã được sống trong một thiên đường. Tôi biết, đối với anh, đó chỉ là một điều tầm thường. Nhưng đối với tôi nó lại không như vậy, không bao giờ tôi lại được sống những phút say mê tột đỉnh như thế nữa. Tôi đã đoạn tuyệt với triết học rồi. Tôi không bao giờ muốn nghe một chữ nào về triết học nữa."
"Đây là đồng đô la đầu tiên trong đời tôi kiếm được nhờ môn triết học của tôi." Kreis nói khi anh ta dừng lại ở cửa. "Rồi thị trường bị vỡ ngay."
Một hôm bà Morse đi xe qua gặp Martin ở ngoài phố, bà mỉm cười và gật đầu chào. Gã mỉm cười và ngả mũ ra. Việc đó chẳng khiến gã xúc động chút nào. Một tháng trước, việc đó có thể đã làm gã kinh tởm, hoặc làm gã thấy kỳ lạ, và làm gã suy nghĩ về ý thức của bà ta lúc đó. Một phút sau là gã quên ngay. Gã quên chuyện đó y như gã quên nhà Ngân hàng trung ương hoặc Tòa thị chính ngay sau khi gã bước qua. Tuy nhiên, đầu óc gã hoạt động một cách khác thường, tư tưởng gã cứ diễn biến vòng vòng, vòng vòng theo một đường tròn. Trung tâm của vòng tròn đó là câu "tác phẩm đã viết xong từ lâu" nó cứ gặm nhấm trí óc gã như một con giòi không bao giờ mỏi. Buổi sáng, thức dậy gã nghĩ tới nó. Buổi tối, trong giấc mơ gã cũng bị nó giày vò. Mọi sự việc của cuộc sống chung quanh gã thông qua các giác quan là tức khắc liên hệ ngay với não "tác phẩm viết xong đã từ lâu rồi." Theo một phép lý luận tàn nhẫn gã đi tới kết luận gã là một kẻ vô danh tiểu tốt, gã không là cái gì cả. Martin Eden, thằng côn đồ, Martin Eden thằng thủy thủ là thật, chính là gã; nhưng Martin Eden, nhà văn nổi tiếng thì không hề có. Martin Eden, nhà văn nổi tiếng, chỉ là một ảo tưởng do đầu óc của bọn hạ tiện đặt ra. Nhưng cái đó không lừa được gã. Gã không phải là thần mặt trời để cái đám hạ tiện kia sùng bái, để chúng cung phụng gã những bữa ăn. Gã biết lắm.
Gã đã đọc trên báo chí những bài viết về mình, gã ngạc nhiên nhìn những bức ảnh của gã in trên mặt báo, gã không thấy những bức hình này có chút gì giống với bản thân gã. Gã là một kẻ đã từng sống, từng rung động, từng yêu thương, là một kẻ dễ dãi, sẵn lòng tha thứ cho những chuyện nhẹ dạ của cuộc đời; là kẻ đã từng làm việc trên khoang bánh lái, từng lang thang trên những miền đất lạ, từng lôi kéo cả bạn vào những trận đánh nhau ngày xưa. Gã là kẻ đã từng kinh ngạc lặng người đi lần đầu tiên khi trông thấy ngàn vạn cuốn sách ở thư viện, là kẻ sau này đã đọc những chồng sách đó và gã nắm chắc được chúng, gã là kẻ đã từng đốt đèn dầu đến tận nửa đêm, từng đi ngủ mang theo cả cái đinh thức và đã từng tự tay viết nên nhiều sách. Nhưng có một điều gã không phải là cái thứ yêu quái tham ăn mà bọn hạ tiện kia đua nhau mời những bữa ăn thịnh soạn.
Tuy nhiên trong các tạp chí có những cái làm gã thấy hay hay. Tạp chí nào cũng rêu rao là họ đã phát hiện được gã. Tờ "Nguyệt san Warren" quảng cáo với khách hàng rằng họ luôn luôn phát hiện những nhà văn mới, và trong số những nhà văn mới đó, họ đã giới thiệu được Martin Eden với bạn đọc. Tờ "Con chuột bạch" cũng cho rằng mình đã phát hiện được gã; cả tờ "Bình luận phương Bắc" và cả tạp chí "Mackintosh" cũng nói như thế, mãi tới khi tờ "Quả địa cầu" dương dương đắc ý nói ra rằng tập "Những bài thơ về biển" trước kia đã bị bỏ xó như thế nào, mới làm cho các tờ báo kia im tịt. Tờ "Tuổi trẻ và thời đại", sau khi trốn nợ xong, lại tái bản để rêu rao rằng chính họ phát hiện ra Martin Eden, những lời này chẳng ai thèm đọc, trừ lũ trẻ con các chủ trại. Tờ "Xuyên lục địa nguyệt san" đã dẫn chứng một cách trang trọng và đầy sức thuyết phục rằng chính họ đầu tiên đã khám phá ra Martin Eden như thế nào. Tờ "Con ong" đã đem bài "Nàng tiên và viên ngọc" ra làm phản chứng để kịch liệt đã phá lại. Lời phát biểu nhã nhặn của Công ty xuất bản Singletree-Darnley bị chìm đi trong những tiếng ồn ào huyên não ấy. Hơn nữa công ty này cũng không có một tờ tạp chí để làm cho những lời phát biểu của mình kém phần nhã nhặn.
Các báo chí tính số tiền thu nhập bản quyền tác giả của Martin. Bằng cách nào đó tin có mấy tạp chí trả gã những món tiền nhuận bút rất cao lọt ra ngoài và những bọn mục sư ở Oakland đã đến thăm gã một cách rất tử tế, trong khi đó thì những bức thư xin xỏ chuyên nghiệp chất ùn lên. Nhưng tệ hơn tất cả là bọn đàn bà. Ẳnh của gã được in đi khắp nơi, có nhiều anh chàng văn sĩ đặc biệt đã lợi dụng cả cái bộ mặt rám nắng, khỏe mạnh của gã, những vết sẹo, đôi vai nặng nề, đôi mắt trong sáng, trầm tĩnh và hai chỗ hóp nhè nhẹ trên má gã, như một nhà tu khổ hạnh để viết bài làm tiền. Nhìn đôi má ấy gã tưởng tượng lại thời thanh niên phóng túng của gã và không khỏi mỉm cười. Thường thường, trong số những người đàn bà gã đã gặp, gã thấy khi thì người này, khi thì người khác, nhìn gã, tán thưởng gã, chọn lựa gã. Gã cười một mình. Gã nhớ lại lời đe dọa của Brissenden và lại cười. Những người đàn bà không bao giờ hủy hoại được gã, điều đó là chắc chắn. Gã đã qua cái giai đoạn ấy rồi.
Có một lần gã cùng đi với Lizzie đến lớp học buổi tối, nàng thấy một người đàn bà đẹp, ăn mặc lịch sự, một người của giai cấp tư sản nhìn gã chằm chằm. Cái nhìn ấy hơi lâu quá một chút. Lizzie biết ý nghĩa của cái nhìn ấy, nàng giận nóng người lên. Martin nhận thấy, nhận thấy nguyên nhân câu chuyện gã nói với nàng rằng gã đã quen với chuyện đó lắm rồi và gã không hề để tâm đến nó.
"Anh cần phải để tâm," nàng trả lời, mắt lóe lên. "Anh đang ốm đấy. Vấn đề là thế."
"Trong đời chưa bao giờ anh khỏe như bây giờ. So với trước anh nặng hơn những năm pao."
"Bệnh không phải ở trong cơ thể anh. Nó ở trong đầu anh cơ. Trong cái máy... suy nghĩ của anh có chuyện chẳng lành. Ngay em chẳng là gì cả mà em cũng nhận thấy được như thế."
Gã bước đi bên cạnh nàng, suy nghĩ.
"Em có thể đánh đổi hết bất cứ cái gì để thấy anh qua khỏi được tình trạng đó," nàng trong lúc kích thích nói buột ra. "Anh cần phải quan tâm khi đàn bà nhìn anh kiểu ấy, một người như anh. Điều đó không tự nhiên. Đối với những anh chàng yếu đuối ẻo lả thì không sao. Nhưng anh vốn không phải là loại người như thế. Nói thật chứ, em sẽ vui lòng, em sẽ sung sướng nếu có người đàn bà xứng đáng nào đó có thể làm cho anh quan tâm đến họ."
Từ biệt Lizzie ở lớp học ban đêm, gã quay về khách sạn Metropole.
Bước vào phòng, gã gieo người xuống chiếc ghế bành kiểu Morris, mắt nhìn đăm đăm về phía trước. Gã không ngủ gật mà cũng chẳng nghĩ gì hết. Đầu óc gã trống rỗng trừ lúc những bức tranh ký ức không gọi mà tới diễn ra với những sắc màu và những ánh hào quang rực rỡ ngay dưới mi mắt gã. Gã nhìn thấy những bức tranh đó nhưng hầu như không nhận thức được chúng - chẳng khác gì chúng là những giấc mộng. Thế mà nào gã có ngủ đâu. Có một lần gã đánh thức mình cho tỉnh táo, nhìn đồng hồ. Đúng tám giờ. Gã không có việc gì làm cả mà đi ngủ thì lại quá sớm. Thế rồi đầu óc gã trở lại trống rỗng và những bức tranh kia lại thành hình để rồi lại tan biến đi dưới mi mắt gã. Không có gì rõ rệt ở những bức tranh đó. Chúng vào chỉ là những đám lá, những cành cây mọc thành với ánh mắt trời nóng gắt xuyên qua.
Một tiếng gõ cửa làm gã bừng tỉnh. Gã không ngủ, và đầu óc gã tức khắc liên hệ tiếng gõ đó, với một bức điện, một lá thư hay có lẽ một trong những người hầu phòng nào đó mang quần áo sạch từ hiệu thợ giặt về. Gã nghĩ tới Joe và tự hỏi không biết bây giờ anh ta ở dan trong khi gã nói "Cứ vào!"
Gã vẫn nghĩ đến Joe và không quay về phía cửa. Gã nghe thấy tiếng đóng cửa nhè nhẹ. Một sự yên lặng kéo dài. Gã quên rằng đã có một tiếng gõ cửa, gã vẫn nhìn một cách trống rỗng về phía trước cho đến tận lúc gã thấy tiếng nức nở của một người đàn bà. Đó là tiếng nức nở không chủ tâm, từng hồi, nghẹn ngào, tắc lại. Gã nhận thấy như thế khi gã quay người.
Ngay sau đó, gã đứng bật dậy:
"Ruth!" Gã thốt lên, vừa ngạc nhiên vừa kinh hoàng.
Mặt nàng trắng nhợt và căng thẳng. Nàng đứng ở phía trong cửa, một tay vịn lấy cửa cho khỏi ngã, một tay ôm lấy mạng sườn mình. Nàng giơ cả hai tay ra phía gã một cách đáng thương, bước tới để gặp gã. Trong khi nắm lấy tay, dẫn nàng tới chiếc ghế bành kiểu Morris, gã nhận thấy tay nàng sao mà lạnh thế. Gã kéo một chiếc ghế nữa lại và ngồi lên cái tay ghế rộng. Gã bối rối quá không nói được. Trong đầu óc gã, câu chuyện yêu đương của gã với Ruth đã khép kín, đã gắn chặt lại rồi. Gã có cùng một cảm giác y như thể cái khách sạn Metropole này bỗng dưng biến thành cái xưởng giặt ở Shelly Hot Spring ùn ùn những quần áo của cả một tuần lễ buộc gã phải giặt. Nhiều lần gã định nói, gã lại ngập ngừng.
"Không ai biết là em ở đây cả," Ruth nói, giọng yếu ớt và mỉm một nụ cười năn nỉ.
"Cô nói gì cơ?" Gã hỏi.
Gã ngạc nhiên vì tiếng vang của chính giọng nói mình. Nàng nhắc lại.
"Ồ!" Gã nói, rồi tự hỏi không hiểu gã còn có thể nói thêm được gì không.
"Em thấy anh bước vào, và em đã đợi vài phút."
"Ồ!" Gã lại nói.
Trong đời chưa bao giờ gã là một kẻ ít lời không mở nổi miệng như thế. Thực ra, trong đầu óc gã không có một ý niệm nào cả. Gã cảm thấy mình đần ngốc và vụng về, nhưng dù có chết đi nữa, gã cũng không thể nghĩ ra được cái gì để mà nói. Giá cái khách sạn này biến thành xưởng giặt Shelly Hot Spring, gã lại còn thấy dễ chịu hơn. Gã sẽ vén tay áo lên và bắt tay vào làm việc.
"Và rồi cô vào à?" Cuối cùng gã nói.
Nàng gật đầu, nét mặt hơi hóm hỉnh, rồi cởi chiếc khăn quàng cổ ra.
"Em thấy anh từ bên kia phố, khi anh đi với người con gái ấy."
"Ồ, vâng," gã nói đơn giản. "Tôi đưa cô ta đến lớp học ban đêm."
"Thế anh có vui mừng khi gặp em không?" Nàng nói sau một phút yên lặng.
"Vâng, vâng, có." Gã nói vội vàng. "Nhưng cô đến đây có phải là quá bạo không?"
"Em lén vào, không để ai biết là em ở đây.Bởi em muốn gặp anh. Em đến để nói với anh rằng em không thể nào nén được lâu nữa, bởi vì lòng em thúc giục em phải tới, bởi vì... bởi vì em muốn tới."
Nàng bước ra khỏi ghế đi tới chỗ gã. Nàng đặt tay lên vai gã một phút, thở gấp rồi trườn người vào trong cánh tay gã. Gã là kẻ đại lượng dễ dãi, gã không muốn làm tổn thương người khác, gã biết rằng từ chối sự dâng hiến này của nàng là gây một tổn hại hết sức lớn, quá sức chịu đựng của một người đàn bà, vì thế gã vòng tay qua người nàng ôm chặt lấy nàng. Nhưng không một chút ấm áp nào trong cái ôm ấp ấy, không một chút ve vãn nào trong sự đụng chạm ấy. Nàng đã tới trong cánh tay gã, gã đã giữ lấy nàng, có thế thôi. Nàng nép hết người vào gã rồi đổi thế ngồi, tay nàng lần lần lên ôm lấy cổ gã. Nhưng da thịt gã không bốc lửa dưới đôi bàn tay của nàng, gã cảm thấy lúng túng, khó chịu.
"Cái gì làm cô run cả người lên thế?" Gã hỏi. "Cô bị ớn lạnh à? Tôi đốt lò sửa lên nhé!"
Gã cựa mình định gỡ ra, nhưng nàng càng bám chặt lấy gã, toàn thân run lên bần bật.
"Thần kinh em bị kích thích quá đấy thôi!" Nàng nói, hai hàm răng va vào nhau. "Chỉ một chút nữa là em sẽ trấn tĩnh được. Đây này, em đã khá hơn rồi đây này."
Dần dần nàng hết run. Gã vẫn ôm nàng, nhưng gã không còn bối rối nữa. Bây giờ gã đã biết nàng đến làm gì rồi.
"Mẹ em muốn em lấy Charley Hapgood," nàng nói.
"Charley Hapgood - cái anh chàng luôn luôn nói chuyện tầm thường vô vị ấy phải không?" Martin lầm bầm. Rồi gã nói thêm. "Và bây giờ, tôi chắc chắn mẹ em muốn em lấy tôi."
Gã không đặt thành một câu hỏi. Gã nói câu đó, như một điều chắc chắn và trước mặt gã, những bảng con số tiền nhuận bút của gã lại bắt đầu rộn múa.
"Em chắc là mẹ em không phản đối điều ấy." Ruth nói.
"Bây giờ bà nhà cho tôi là người hoàn toàn có đủ tư cách?"
Ruth gật đầu.
"Thế nhưng bây giờ tôi lại không hề có đủ tư cách hơn cái hồi bà đã khước từ lời đính ước một chút nào." Gã nói. "Tôi không thay đổi một chút nào. Tôi vẫn là cái gã Martin Eden ấy, tuy rằng thực ra có tồi tệ hơn đi chút ít vì bây giờ tôi lại hút thuốc lá. Em không ngửi thấy hơi thở của tôi sao?"
Để trả lời nàng ấn ngón tay của nàng lên môi gã, nàng đặt chúng lên môi gã một cách duyên dáng quá, có vẻ nghịch ngợm chờ một chiếc hôn, mà xưa kia đó là điều tất nhiên. Nhưng đôi môi của Martin không có một sự trả lời âu yếm nào. Gã đợi cho những ngón tay buông ra rồi lại tiếp tục nói.
"Tôi không có gì thay đổi hết. Tôi vẫn không có việc làm. Tôi vẫn không đi tìm công ăn việc làm. Hơn nữa, tôi sẽ không bao giờ đi tìm việc làm đâu. Tôi vẫn cho rằng Herbert Spencer là một người cao quý và vĩ đại, còn cái ông thẩm phán Blount vẫn là một con lừa ngu ngốc không khác đi chút nào. Tối hôm nọ tôi có ăn cơm đằng nhà ông ấy, tôi thấy như thế rõ lắm."
"Thế mà anh lại không nhận lời mời của ba em," nàng trách.
"Thế ra em cũng biết à? Ai bảo ông ấy đến mời anh? Mẹ em à?"
Nàng yên lặng.
"Hẳn mẹ cô bảo ba cô đi rồi. Tôi nghĩ thế. Chắc là giờ đây cũng mẹ cô bảo cô đến đây?"
"Không ai biết em ở đây cả mà," nàng cãi. "Anh nghĩ rằng mẹ em lại cho phép em như thế hay sao?"
"Mẹ em cho phép em lấy tôi, điều đó thì chắc chứ?"
Nàng kêu thét lên:
"Ôi, Martin, anh đừng tàn nhẫn thế. Từ bấy đến giờ anh không hôn em lần nào. Anh vô tình như một tảng đá. Anh thử nghĩ xem em đã táo bạo làm những điều gì." Nàng rùng mình nhìn quanh, tuy cái nhìn ấy nửa có vẻ tò mò. "Anh hãy nghĩ xem em đang ở đâu."
"Em có thể chết vì anh! Em có thể chết vì anh!" Câu nói của Lizzie lại vang lên trong tai gã.
"Tại sao trước kia cô đã không dám làm như thế?" Gã hỏi một cách phũ phàng. "Khi tôi chưa có việc làm? Khi tôi đang chết đói? Khi tôi vẫn là tôi bây giờ, một con người, một nhà nghệ sĩ, vẫn cái anh chàng Martin Eden ấy? Đó là câu hỏi tôi luôn luôn tự hỏi trong bao nhiêu ngày nay, không phải chỉ riêng đối với cô, mà đối với hết thảy mọi người. Cô thấy tôi có thay đổi gì đâu, tuy cái giá trị bề ngoài đột ngột của tôi khiến tôi luôn luôn thấy mình có thay đổi. Tôi vẫn có cùng một thứ da thịt bao bọc lấy xương, vẫn mười ngón tay và mười ngón chân. Tôi vẫn là con người ấy thôi. Tôi không có thêm một sức mạnh nào cũng không có một đức tính nào mới cả. Trí óc tôi vẫn là trí óc ngày xưa ấy. Tôi cũng không có đến một quan niệm nào mới về văn học và triết học. Bản thân tôi cũng có cùng một giá trị như khi không có một ai cần đến tôi. Điều làm tôi ngạc nhiên là không hiểu tại sao bây giờ người ta lại cần đến tôi. Chắc chắn rằng họ không cần đến tôi vì tôi, bởi vì tôi bây giờ vẫn là cái tôi ngày xưa khi họ không cần đến. Thế thì hẳn họ phải cần đến tôi vì một cái gì khác, vì một cái gì đó ở bên ngoài tôi, một cái gì đó không phải là tôi. Tôi có thể nói cho cô biết cái đó là cái gì không? Đó là tiếng tăm mà tôi đã nhận được. Cái tiếng tăm đó không phải là tôi? Nó ở trong những bộ óc của người khác. Rồi đó là số tiền mà tôi đã kiếm được và đang kiếm được. Nhưng tiền đó không phải là tôi. Nó ở trong ngân hàng, ở trong cái túi của ông Tom, ông Dick, ông Harry nào đó. Có phải vì cái đó, vì tiếng tăm, vì tiền bạc mà bây giờ cô cần đến tôi không?"
"Anh làm tan vỡ trái tim em," nàng nức nở. "Anh biết là em yêu anh, là em đến đây bởi vì em yêu anh!"
"Tôi e rằng cô chưa hiểu ý tôi," gã nói dịu dàng. "Ý tôi muốn nói là: nếu bây giờ cô yêu tôi, tại sao tình yêu của cô bây giờ lại mạnh hơn ngày xưa khi tình yêu của cô yếu đuối đến nỗi có thể từ bỏ tôi?"
"Anh hãy quên đi và hãy tha thứ," nàng kêu lên tha thiết. "Lúc nào em cũng yêu anh, anh nhớ cho như thế, và bây giờ em đã ở đây, trong cánh tay anh."
"Tôi rất sợ mình là một anh lái buôn đa nghi, chỉ chăm chút nhìn vào đĩa cân, xem tình yêu của cô nặng đến bao nhiêu, và tính chất của nó là thế nào?"
Nàng vùng ra khỏi cánh tay gã, ngồi thẳng dậy và nhìn vào mặt gã rất lâu và soi mói. Nàng định nói, song lại ngập ngừng rồi thôi.
"Cô thấy đấy, đối với tôi là như vậy," gã lại nói tiếp. "Khi tôi vẫn là tôi bây giờ, chỉ trừ những người trong giai cấp của tôi ra còn hình như không ai cần đến tôi cả. Khi những tác phẩm của tôi đã viết xong, hình như không một người nào đã đọc bản thảo quan tâm đến chúng cả. Nói cho đúng ra, chính vì những bản thảo tôi đã viết ấy mà người ta lại càng khinh ghét tôi hơn. Viết những tác phẩm ấy hình như là tôi đã phạm phải những hành động, mà nói cho nó nhẹ nhất cũng là những hành động sa đọa. "Kiếm việc làm đi!" mọi người đều nói như vậy."
Nàng huơ tay ra ý phản đối.
"Phải, phải," gã nói tiếp. "Trừ cô, cô đã bảo tôi nên kiếm lấy một chức vị. Cái từ tầm thường việc làm cũng như tất cả những từ khác mà tôi đã viết, đều làm cô phật ý. Nó tàn nhẫn quá. Nhưng tôi cam đoan với cô rằng nó còn không tàn nhẫn bằng khi tất cả những người quen tôi đều ném nó vào mặt tôi như thế khuyên một đứa vô đạo đức phải ăn ở cho đứng đắn. Nhưng ta hãy quay trở lại vấn đề. Những cái tôi viết được in ra, công chúng chấp nhận nó, đã tạo nên một sự thay đổi trong những sợi dây yêu đương của tình yêu của cô. Martin Eden không thôi với những tác phẩm đã viết xong từ lâu, cô không lấy đâu. Tình yêu của cô đối với hắn đã không đủ mạnh mẽ để khiến cô lấy hắn. Nhưng bây giờ thì tình yêu ấy đã đủ mạnh rồi và tôi khó mà có thể tránh được cái kết luận rằng sức mạnh của nó dâng lên do những tác phẩm của tôi đã được in ra và đã được công chúng chấp nhận. Đối với cô, tôi không nói đến tiền nhuận bút làm gì, tuy tôi chắc rằng nó đã đem lại sự thay đổi đối với ba cô và mẹ cô. Tất nhiên, điều đó chẳng làm tôi sung sướng. Nhưng tệ hơn cả là nó làm tôi phải nghi ngờ tình yêu, tình yêu thiêng liêng. Phải chăng tình yêu là cái gì thô kệch đến nỗi phải nhờ sách in, phải nhờ công chúng nuôi dưỡng? Hình như đúng như vậy đấy... Tôi hằng ngồi, hằng suy nghĩ về nó cho đến khi đầu óc tôi rối tung lên."
"Tội nghiệp cái đầu thân yêu," nàng đưa bàn tay lên và lồng những ngón tay mình qua mớ tóc gã một cách trìu mến. "Đừng để cho nó rối tung lên nữa. Chúng ta hãy bắt đầu lại từ đầu. Em vẫn yêu anh. Em biết rằng em yếu đuối đến nỗi đã vâng theo ý muốn của mẹ em. Đáng lẽ em không nên làm như vậy. Em vẫn thường nghe anh nói một cách hào hiệp, đầy lòng nhân ái đến sự yếu đuối, nhẹ dạ của con người. Anh hãy mở lòng nhân ái ấy đối với em. Em đã hành động sai lầm. Anh hãy tha thứ cho em."
"Ờ, thì tôi tha thứ," gã nói một cách bực tức. "Thật là dễ khi thực ra không có gì đáng phải tha thứ cả. Cô không làm gì mà phải cần đến sự tha thứ. Người ta chỉ hành động theo khả năng của mình, người ta không thể hành động hơn thế. Cũng giống như bây giờ tôi xin cô tha thứ cho vì tôi đã không đi tìm một việc làm."
"Ý em là ý tốt," nàng cãi. "Anh cũng biết đấy. Em không thể nào yêu anh mà lại không mong muốn những điều tốt cho anh."
"Đúng rồi, nhưng cô cũng có thể hại tôi vì ý định tốt của cô đấy. Phải rồi, đúng rồi." Gã nói át ý muốn phản đối của nàng. "Cô có thể làm hại công việc văn chương và sự nghiệp của tôi. Hiện thực chủ nghĩa là cái khẩn khiết đối với bản chất của tôi, bọn tư sản ghét hiện thực chủ nghĩa. Bọn tư sản là một lũ hèn nhát. Chúng sợ cuộc sống. Và mọi cố gắng của cô đều tập trung vào chỗ làm cho tôi sợ cuộc sống. Cô muốn rập khuôn con người tôi. Cô muốn ép tôi vào cái chuồng chim rộng bốn phân của cuộc sống, nơi mà mọi giá trị của cuộc sống đều không thực, đều giả dối, đều tầm thường." Gã cảm thấy nàng cựa quậy có ý phản đối. "Tầm thường - hết sức tầm thường là cái nền tảng của giáo dục và văn hóa tư sản, tôi khẳng định như thế. Như tôi đã nói, cô muốn rập khuôn tôi, làm tôi trở thành một người trong giai cấp của cô, những giá trị, những thiên kiến của giai cấp cô." Gã lắc đầu buồn bã. "Cô đã không hiểu mà ngay bây giờ cô cũng không hiểu được tôi nói gì. Những lời tôi nói với cô không có cái ý nghĩa mà tôi muốn làm cho nó có. Những cái tôi nói cô cho hoàn toàn là ảo tưởng. Nhưng đối với tôi nó là thực tế sinh động. Cô chỉ thấy bối rối và buồn cười một chút cho cái gã thô kệch này, ngoi từ dưới bùn lầy của vực thẳm lên mà lại dám mạt sát giai cấp của cô cho nó là tầm thường."
Nàng tựa đầu vào vai gã một cách mệt mỏi, thần kinh căng thẳng lại làm toàn thân nàng run lên. Đợi một lúc không thấy nàng nói gì, gã lại tiếp:
"Bây giờ cô muốn làm lại tình yêu của chúng ta. Cô muốn chúng ta lấy nhau. Cô muốn tôi. Nhưng, cô hãy nghe đây - nếu sách của tôi không được người ta hoan nghênh thì tôi sẽ không được như thế này đâu. Cô sẽ xa lánh tôi. Chính tất cả những quyển sách khốn nạn... "
"Anh đừng văng tục!" Nàng ngắt lời.
Lời trách của nàng làm gã giật mình. Rồi gã phá lên cười - những tiếng cười phũ phàng.
"Thế đấy," gã nói, "trong một giây phút khẩn yếu nhất, trong lúc hình như hạnh phúc của cuộc đời cô đang bị nguy khốn, vậy mà cô vẫn sợ cuộc sống theo cái lối ngày xưa - sợ cuộc sống và những tiếng chửi rủa đầy sức sống của nó."
Những lời nói ấy của gã làm nàng nhận thấy hành động của mình thật là ấu trĩ, tuy nhiên, khi nàng thấy gã phóng đại nó lên một cách quá đáng thì nàng lại bực bội. Hai người ngồi yên một lúc lâu, nàng thì suy nghĩ một cách tuyệt vọng đến cách thuyết phục được gã, còn gã lại suy nghĩ về mối tình đã mất. Bây giờ thì gã biết rằng gã thực không yêu nàng. Gã chỉ yêu một nàng Ruth lý tưởng hóa nào đó, một con người cao quý thoát tục do gã tự tạo ra,một nàng tiên lung linh ngời sáng trong những vần thơ tình của gã. Cái cô Ruth tư sản có thực này, với tất cả những nhược điểm tư sản của cô ta, với những cái chật hẹp vô vọng của cái tâm lý tư sản trong đầu óc cô ta, thì quả gã chưa hề yêu.
Nàng bỗng cất tiếng nói:
"Em biết rằng hầu hết những điều anh nói đều đúng cả. Em quả là có sợ cuộc sống. Em đã không yêu anh đầy đủ. Em cần phải học để yêu hơn nữa. Em yêu anh vì anh là anh bây giờ, vì anh đã là anh trước kia, yêu cả cái con đường mà anh đã tự cải biến mình. Em yêu cả những điều bất đồng của anh với cái mà anh gọi là của giai cấp em, yêu anh vì niềm tin của anh mà bây giờ em chưa hiểu được, nhưng em biết rằng sau này em có thể hiểu. Em sẽ tận tụy đem cả đời em ra để mà hiểu nó. Ngay cả đến việc anh lại hút thuốc, và những lời thề bồi, chửi rủa của anh - chúng là một phần của anh, và em cũng yêu cả chúng nữa. Em còn có thể học tập. Mấy phút qua em đã học được rất nhiều. Cái việc em dám đến đây hôm nay là một bằng chứng của những cái mà em đã học được. Ôi, Martin... "
Nàng nức nở và ép chặt vào người gã.
Lần đầu tiên cánh gã ôm lấy nàng một cách trìu mến và có thiện cảm, nàng nhận thấy điều đó, nàng sung sướng cựa mình, nét mặt bừng lên rạng rỡ.
"Quá muộn rồi!" Gã nói và nhớ lại lời Lizzie. "Tôi là một con người ốm yếu, không phải ốm yếu về thể xác đây, trong tâm hồn tôi, trong trí óc tôi cơ. Hình như tôi đã mất hết cả lòng ham sống rồi. Tôi dửng dưng với tất cả. Nếu cô nói với tôi thế này vài tháng trước đây thì tình hình có lẽ đã khác. Bây giờ thật đã quá muộn."
"Không quá muộn đâu," nàng kêu lên. "Em sẽ cho anh thấy là không quá muộn đâu. Em sẽ chứng tỏ để anh thấy rằng tình yêu của em đã lớn lên, đối với em bây giờ nó lớn hơn cả giai cấp của em, hơn tất cả những gì thân thiết nhất đối với em. Tất cả những gì thân thiết nhất đối với giai cấp tư sản em đều vứt bỏ đi tất. Em không còn sợ cuộc sống nữa. Em sẽ rời bỏ ba em và mẹ em, mặc cho tên em trở thành một chuyện cười cho các bạn hữu. Em sẽ đến đây ở với anh ngay bây giờ, không cần cưới xin gì cả, nếu anh muốn như thế, em sẽ lấy làm kiêu hãnh và sung sướng được sống với anh. Nếu em đã là một kẻ bội phản trong tình yêu, thì bây giờ, vì tình yêu, em sẽ nguyện là một kẻ bội phản đối với tất cả những gì xưa kia đã làm em trở thành kẻ bội phản."
Nàng đứng trước mặt gã, mắt long lanh.
"Em đang chờ đợi, anh Martin, nàng thì thào, đang chờ đợi anh tiếp nhận em. Anh hãy nhìn em đi nào!"
Nhìn nàng thật là lộng lẫy, gã nghĩ thế. Nàng đã chuộc lại tất cả những gì nàng thiếu sót khi xưa, và cuối cùng đã vươn lên thành một người đàn bà chân chính, vượt hơn hẳn những luật lệ bằng sắt của những quy ước tư sản. Thật là lộng lẫy, thật là huy hoàng, thật là táo bạo. Nhưng mà đối với gã nó có nghĩa lý gì? Gã không rung động, không rộn ràng vì những cái nàng đã làm. Nó chỉ huy hoàng, chỉ lộng lẫy trong lý trí thôi. Đáng lẽ phải là một ngọn lửa rừng rực thì gã lại chỉ tán thưởng nàng một cách lạnh lùng. Trái tim gã không xốn xang. Gã không cảm thấy ham muốn nàng một chút nào hết. Gã lại nhớ tới lời nói của Lizzie.
"Tôi ốm yếu, rất ốm," gã nói với một cử chỉ tuyệt vọng. "Bây giờ tôi mới biết là tôi ốm yếu đến thế. Có một cái gì trong con người tôi đã biến mất. Xưa nay tôi vẫn không hề sợ cuộc sống nhưng tôi không ngờ rằng tôi lại chán ứ cuộc sống đến thế. Cuộc sống đối với tôi đã đầy ứ ra đến nỗi tôi không còn ham muốn một cái gì nữa. Nếu như còn ham muốn hẳn bây giờ có thể là tôi cần cô. Nhưng cô thấy đấy, tôi ốm yếu đến chừng nào!"
Gã ngả đầu ra sau, nhắm mắt lại, và giống như một đứa trẻ đang khỏe thấy ánh nắng mặt trời thấm qua màng nước mắt trong con người liền quên hết nỗi sầu khổ, Martin cũng quên bệnh tật của mình, quên cả sự có mặt Ruth và mọi thứ, chỉ nhìn thấy những hàng cây rọi ánh nắng lọt qua mắt gã, nó thành hình và rực lóe lên dưới mi mắt gã. Nó không làm cho lòng người thanh thản đi chút nào, cái đám lá cây xanh ấy. Ánh mặt trời lóe sáng quá, gay gắt quá. Nó làm mắt gã chói lên khi nhìn vào, tuy nhiên không hiểu tại sao gã vẫn cứ nhìn.
Gã bỗng tỉnh lại vì tiếng quả đấm cửa lạch cạch. Ruth đã đứng ở bên cửa rồi.
"Em ra ngoài thế nào được bây giờ?" Nàng hỏi giọng đầy nước mắt. "Em sợ lắm."
"Ồ, xin tha lỗi cho tôi," gã kêu lên rồi đứng bật dậy. "Cô biết đấy đầu óc tôi thất thường. Tôi quên mất rằng cô ở đây." Gã để tay lên đầu mình. "Cô thấy đấy, tôi không được bình thường. Để tôi đưa cô về. Chúng ta có thể đi theo lối đi của các người hầu phòng. Không ai nhìn thấy chúng ta đâu. Bỏ cái mạng xuống là mọi chuyện yên cả."
Nàng bám lấy tay gã, qua những lối đi tối mờ mờ, và bước xuống những bậc cầu thang hẹp hẹp.
"Thôi yên rồi," nàng nói khi họ đã ra tới đường, đồng thời định bỏ tay ra không vịn vào cánh tay gã nữa.
"Không mà, không mà, để tôi đưa cô về nhà." Gã trả lời.
"Thôi xin đừng!" Nàng phản đối. " Không cần thiết."
Nàng lại định bỏ tay ra. Gã cảm thấy tò mò trong thoáng lát. Bây giờ đến lúc hết nguy hiểm rồi thì nàng lại sợ. Nàng hầu như hoảng hốt muốn rời gã ngay. Gã không thể thấy một cớ gì, và cho rằng đó là do thần kinh của nàng. Vì thế gã giữ lấy bàn tay nàng và tiếp tục bước đi cùng nàng. Tới quãng đường chạy qua dãy nhà, gã thấy một người đàn ông mặc áo khoác dài đang lủi vào trong một cái khung cửa. Gã đưa nhanh mắt nhìn vào khi đi qua và mặc dù gã nọ đã kéo cao cổ áo lên, Martin vẫn nhận ra đó là Norman, cậu em của Ruth.
Dọc đường, Ruth và Martin chuyện trò rất ít. Nàng choáng váng cả người, gã thì lạnh nhạt. Có một lúc gã nói cho nàng biết rằng gã sắp... sẽ quay trở lại biển miền Nam, có một lúc, nàng đã xin gã tha lỗi cho vì đã nói tới gặp gã. Chỉ có thế thôi. Cuộc chia tay ở cửa nhà nàng thật là đúng qui pháp. Họ bắt tay, chúc nhau ngủ ngon, gã nâng mũ lên chào. Cánh cửa khép lại, gã châm một điếu thuốc rồi quay về khách sạn. Khi gã quay lại chỗ khung cửa, nơi gã đã thấy Norman lùi vào, gã dừng lại, nhìn vào trong với một vẻ hài hước suy nghĩ.
"Cô ta nói dối," gã lớn tiếng. "Cô ta làm ình tin rằng cô ta táo gan, trong lúc đó cô ta vẫn biết rằng thằng em dẫn cô ta đi đang đợi để đưa cô ta về." Gã phá lên cười. "Ồ cái bọn tư sản này, khi mình không có một đồng xu dính túi, đừng hòng để cho thiên hạ nhìn thấy mình cùng đi với chị nó; còn khi mình có tài khoản ở ngân hàng, nó lại dẫn chị nó tới với mình."
Trong khi gã quay gót bước tiếp, gã bỗng thấy một gã cùng đi về phía gã, nói qua vai gã, xin tiền.
"Thưa ông, xin ông cho tôi một xu để tìm chỗ ngủ trọ."
Giọng nói đó làm Martin quay lại. Ngay sau đó, gã đã nắm lấy tay Joe.
"Anh có nhớ cái lần chúng ta từ biệt nhau ở Hot Spring không?" Joe nói. "Lúc ấy tôi đã nói thế nào chúng ta cũng gặp lại nhau. Tôi đã cảm thấy như vậy trong xương tủy tôi. Thế mà chúng ta gặp nhau ở đây thật."
"Trông cậu khỏe lắm." Martin nói, có vẻ khen ngợi. "Cậu lên cân đấy."
"Hẳn rồi," nét mặt Joe rạng rỡ. "Cho đến khi mình sống lang thang thì mới biết cuộc đời là thế nào. Mình đã nặng lên được ba mươi "pao" và cảm thấy dễ chịu lắm. Chứ sao, ngày xưa mình phải làm cho chúng đến chỉ còn cái da bọc xương, sống lang thang hẳn hợp với mình."
"Nhưng cậu vẫn còn đang phải đi tìm chỗ ngủ trọ," Martin nói đùa. "Đêm nay lạnh lắm."
"À, ừ! Mình đang tìm chỗ ngủ trọ," Joe thọc tay vào trong túi ở hông lôi ra đầy một nắm xu. "Cái nghề này khổ công lắm chứ có phải chơi," anh ta vui lên. "Trông cậu có vẻ bảnh, mình mới xin."
Martin cười và đưa nắm tiền cho Joe.
"Với số tiền này, hẳn được tha hồ uống rượu!" Martin nói ướm.
Joe bỏ nắm tiền vào trong túi.
"Mình, bây giờ không uống nhiều rượu nữa," anh ta nói. "Mình không nghĩ tới chuyện uống say rượu nữa, tuy rằng không uống là do mình không thích thôi, chứ không gì có thể ngăn cấm nổi mình. Từ ngày chia tay với cậu, mình chỉ uống có một lần, cũng là bất đắc dĩ vì dạ dày lép quá. Khi mình làm việc như một con vật, mình uống như một con vật. Khi mình sống như một con người, mình uống như một con người - thỉnh thoảng thấy thích thì nhấm nháp một tí, thế thôi."
Martin hẹn gặp lại Joe vào sáng hôm sau, rồi đi về khách sạn. Gã dừng lại ở phòng xem giờ tàu chạy. Năm hôm nữa, tàu Mariposa sẽ nhổ neo đi Tahiti.
"Ngày mai anh hãy gọi điện thoại bảo để dành riêng cho tôi một phòng," gã nói với người quản lý khách sạn, không lấy phòng ở phía trước mà phòng ở phía sau nhé, chỗ có hướng gió ấy - phòng phía tay trái, nhớ nhé, phòng phía tay trái ấy. Anh nên ghi lại thì hơn."
Về đến phòng gã trèo lên giường và ngủ nhẹ nhàng như một đứa trẻ. Sự việc lúc buổi chiều không để lại một ấn tượng nào trong gã cả. Không một ấn tượng nào để lại dấu vết trong trí óc gã. Cái giây phút ấm áp gặp lại Joe chỉ là một giây phút thoáng qua. Phút sau gã lại bị giày vò bởi sự hiện diện của anh bạn thợ giặt ngày xưa, bởi câu chuyện không thể nào không nói. Cái chuyện hơn năm ngày nữa gã sẽ tới miền biển phương Nam thân yêu đối với gã cũng không có nghĩa gì hết. Vì thế, gã nhắm mắt lại và ngủ bình thường, yên ả tám tiếng đồng hồ liền không thức giấc. Gã không trằn trọc. Gã không đổi tư thế nằm, gã cũng không nằm mê nữa.
Giấc ngủ đối với gã là một sự quên lãng, và mỗi ngày gã trở dậy, gã trở dậy với niềm tiếc hận. Cuộc sống làm cho gã buồn phiền, bực bội, thời gian là một sự quấy rầy.
"Nhưng không phải tôi đến đây để thuyết lý về triết học." Kreis nói tiếp. "Điều tôi muốn là anh có chịu bỏ ra một nghìn đô la để làm việc đó không?"
"Không, dù sao, tôi cũng không ngốc đến như thế." Martin trả lời. "Nhưng tôi sẽ nói cho anh biết tôi sẽ làm gì. Anh đã cho tôi sống một đêm vĩ đại nhất trong đời tôi. Anh đã cho tôi cái mà tiền bạc không thể mua được. Bây giờ tôi có tiền, và tiền đối với tôi không có nghĩa lý gì hết. Tôi sẽ chuyển cho anh một nghìn đô la - cái mà tôi coi khinh - vì cái mà anh đã cho tôi đêm ấy, và cái đó thật là vô giá. Anh cần tiền. Mà tôi lại có nhiều quá sự cần thiết. Anh cần tiền. Anh đến đây vì cái đó. Cũng chẳng cần phải bày mưu tính kế gì để lấy tiền ở tôi. Cầm lấy!"
Kreis không để lộ ra một chút ngạc nhiên. Anh ta gấp tấm ngân phiếu đút vào túi.
"Theo giá này thì tôi muốn ký với anh một hợp đồng dành cho anh nhiều đêm như thế nữa!"
"Quá muộn rồi!" Martin lắc đầu "Đối với tôi đêm ấy là đêm duy nhất. Tôi đã được sống trong một thiên đường. Tôi biết, đối với anh, đó chỉ là một điều tầm thường. Nhưng đối với tôi nó lại không như vậy, không bao giờ tôi lại được sống những phút say mê tột đỉnh như thế nữa. Tôi đã đoạn tuyệt với triết học rồi. Tôi không bao giờ muốn nghe một chữ nào về triết học nữa."
"Đây là đồng đô la đầu tiên trong đời tôi kiếm được nhờ môn triết học của tôi." Kreis nói khi anh ta dừng lại ở cửa. "Rồi thị trường bị vỡ ngay."
Một hôm bà Morse đi xe qua gặp Martin ở ngoài phố, bà mỉm cười và gật đầu chào. Gã mỉm cười và ngả mũ ra. Việc đó chẳng khiến gã xúc động chút nào. Một tháng trước, việc đó có thể đã làm gã kinh tởm, hoặc làm gã thấy kỳ lạ, và làm gã suy nghĩ về ý thức của bà ta lúc đó. Một phút sau là gã quên ngay. Gã quên chuyện đó y như gã quên nhà Ngân hàng trung ương hoặc Tòa thị chính ngay sau khi gã bước qua. Tuy nhiên, đầu óc gã hoạt động một cách khác thường, tư tưởng gã cứ diễn biến vòng vòng, vòng vòng theo một đường tròn. Trung tâm của vòng tròn đó là câu "tác phẩm đã viết xong từ lâu" nó cứ gặm nhấm trí óc gã như một con giòi không bao giờ mỏi. Buổi sáng, thức dậy gã nghĩ tới nó. Buổi tối, trong giấc mơ gã cũng bị nó giày vò. Mọi sự việc của cuộc sống chung quanh gã thông qua các giác quan là tức khắc liên hệ ngay với não "tác phẩm viết xong đã từ lâu rồi." Theo một phép lý luận tàn nhẫn gã đi tới kết luận gã là một kẻ vô danh tiểu tốt, gã không là cái gì cả. Martin Eden, thằng côn đồ, Martin Eden thằng thủy thủ là thật, chính là gã; nhưng Martin Eden, nhà văn nổi tiếng thì không hề có. Martin Eden, nhà văn nổi tiếng, chỉ là một ảo tưởng do đầu óc của bọn hạ tiện đặt ra. Nhưng cái đó không lừa được gã. Gã không phải là thần mặt trời để cái đám hạ tiện kia sùng bái, để chúng cung phụng gã những bữa ăn. Gã biết lắm.
Gã đã đọc trên báo chí những bài viết về mình, gã ngạc nhiên nhìn những bức ảnh của gã in trên mặt báo, gã không thấy những bức hình này có chút gì giống với bản thân gã. Gã là một kẻ đã từng sống, từng rung động, từng yêu thương, là một kẻ dễ dãi, sẵn lòng tha thứ cho những chuyện nhẹ dạ của cuộc đời; là kẻ đã từng làm việc trên khoang bánh lái, từng lang thang trên những miền đất lạ, từng lôi kéo cả bạn vào những trận đánh nhau ngày xưa. Gã là kẻ đã từng kinh ngạc lặng người đi lần đầu tiên khi trông thấy ngàn vạn cuốn sách ở thư viện, là kẻ sau này đã đọc những chồng sách đó và gã nắm chắc được chúng, gã là kẻ đã từng đốt đèn dầu đến tận nửa đêm, từng đi ngủ mang theo cả cái đinh thức và đã từng tự tay viết nên nhiều sách. Nhưng có một điều gã không phải là cái thứ yêu quái tham ăn mà bọn hạ tiện kia đua nhau mời những bữa ăn thịnh soạn.
Tuy nhiên trong các tạp chí có những cái làm gã thấy hay hay. Tạp chí nào cũng rêu rao là họ đã phát hiện được gã. Tờ "Nguyệt san Warren" quảng cáo với khách hàng rằng họ luôn luôn phát hiện những nhà văn mới, và trong số những nhà văn mới đó, họ đã giới thiệu được Martin Eden với bạn đọc. Tờ "Con chuột bạch" cũng cho rằng mình đã phát hiện được gã; cả tờ "Bình luận phương Bắc" và cả tạp chí "Mackintosh" cũng nói như thế, mãi tới khi tờ "Quả địa cầu" dương dương đắc ý nói ra rằng tập "Những bài thơ về biển" trước kia đã bị bỏ xó như thế nào, mới làm cho các tờ báo kia im tịt. Tờ "Tuổi trẻ và thời đại", sau khi trốn nợ xong, lại tái bản để rêu rao rằng chính họ phát hiện ra Martin Eden, những lời này chẳng ai thèm đọc, trừ lũ trẻ con các chủ trại. Tờ "Xuyên lục địa nguyệt san" đã dẫn chứng một cách trang trọng và đầy sức thuyết phục rằng chính họ đầu tiên đã khám phá ra Martin Eden như thế nào. Tờ "Con ong" đã đem bài "Nàng tiên và viên ngọc" ra làm phản chứng để kịch liệt đã phá lại. Lời phát biểu nhã nhặn của Công ty xuất bản Singletree-Darnley bị chìm đi trong những tiếng ồn ào huyên não ấy. Hơn nữa công ty này cũng không có một tờ tạp chí để làm cho những lời phát biểu của mình kém phần nhã nhặn.
Các báo chí tính số tiền thu nhập bản quyền tác giả của Martin. Bằng cách nào đó tin có mấy tạp chí trả gã những món tiền nhuận bút rất cao lọt ra ngoài và những bọn mục sư ở Oakland đã đến thăm gã một cách rất tử tế, trong khi đó thì những bức thư xin xỏ chuyên nghiệp chất ùn lên. Nhưng tệ hơn tất cả là bọn đàn bà. Ẳnh của gã được in đi khắp nơi, có nhiều anh chàng văn sĩ đặc biệt đã lợi dụng cả cái bộ mặt rám nắng, khỏe mạnh của gã, những vết sẹo, đôi vai nặng nề, đôi mắt trong sáng, trầm tĩnh và hai chỗ hóp nhè nhẹ trên má gã, như một nhà tu khổ hạnh để viết bài làm tiền. Nhìn đôi má ấy gã tưởng tượng lại thời thanh niên phóng túng của gã và không khỏi mỉm cười. Thường thường, trong số những người đàn bà gã đã gặp, gã thấy khi thì người này, khi thì người khác, nhìn gã, tán thưởng gã, chọn lựa gã. Gã cười một mình. Gã nhớ lại lời đe dọa của Brissenden và lại cười. Những người đàn bà không bao giờ hủy hoại được gã, điều đó là chắc chắn. Gã đã qua cái giai đoạn ấy rồi.
Có một lần gã cùng đi với Lizzie đến lớp học buổi tối, nàng thấy một người đàn bà đẹp, ăn mặc lịch sự, một người của giai cấp tư sản nhìn gã chằm chằm. Cái nhìn ấy hơi lâu quá một chút. Lizzie biết ý nghĩa của cái nhìn ấy, nàng giận nóng người lên. Martin nhận thấy, nhận thấy nguyên nhân câu chuyện gã nói với nàng rằng gã đã quen với chuyện đó lắm rồi và gã không hề để tâm đến nó.
"Anh cần phải để tâm," nàng trả lời, mắt lóe lên. "Anh đang ốm đấy. Vấn đề là thế."
"Trong đời chưa bao giờ anh khỏe như bây giờ. So với trước anh nặng hơn những năm pao."
"Bệnh không phải ở trong cơ thể anh. Nó ở trong đầu anh cơ. Trong cái máy... suy nghĩ của anh có chuyện chẳng lành. Ngay em chẳng là gì cả mà em cũng nhận thấy được như thế."
Gã bước đi bên cạnh nàng, suy nghĩ.
"Em có thể đánh đổi hết bất cứ cái gì để thấy anh qua khỏi được tình trạng đó," nàng trong lúc kích thích nói buột ra. "Anh cần phải quan tâm khi đàn bà nhìn anh kiểu ấy, một người như anh. Điều đó không tự nhiên. Đối với những anh chàng yếu đuối ẻo lả thì không sao. Nhưng anh vốn không phải là loại người như thế. Nói thật chứ, em sẽ vui lòng, em sẽ sung sướng nếu có người đàn bà xứng đáng nào đó có thể làm cho anh quan tâm đến họ."
Từ biệt Lizzie ở lớp học ban đêm, gã quay về khách sạn Metropole.
Bước vào phòng, gã gieo người xuống chiếc ghế bành kiểu Morris, mắt nhìn đăm đăm về phía trước. Gã không ngủ gật mà cũng chẳng nghĩ gì hết. Đầu óc gã trống rỗng trừ lúc những bức tranh ký ức không gọi mà tới diễn ra với những sắc màu và những ánh hào quang rực rỡ ngay dưới mi mắt gã. Gã nhìn thấy những bức tranh đó nhưng hầu như không nhận thức được chúng - chẳng khác gì chúng là những giấc mộng. Thế mà nào gã có ngủ đâu. Có một lần gã đánh thức mình cho tỉnh táo, nhìn đồng hồ. Đúng tám giờ. Gã không có việc gì làm cả mà đi ngủ thì lại quá sớm. Thế rồi đầu óc gã trở lại trống rỗng và những bức tranh kia lại thành hình để rồi lại tan biến đi dưới mi mắt gã. Không có gì rõ rệt ở những bức tranh đó. Chúng vào chỉ là những đám lá, những cành cây mọc thành với ánh mắt trời nóng gắt xuyên qua.
Một tiếng gõ cửa làm gã bừng tỉnh. Gã không ngủ, và đầu óc gã tức khắc liên hệ tiếng gõ đó, với một bức điện, một lá thư hay có lẽ một trong những người hầu phòng nào đó mang quần áo sạch từ hiệu thợ giặt về. Gã nghĩ tới Joe và tự hỏi không biết bây giờ anh ta ở dan trong khi gã nói "Cứ vào!"
Gã vẫn nghĩ đến Joe và không quay về phía cửa. Gã nghe thấy tiếng đóng cửa nhè nhẹ. Một sự yên lặng kéo dài. Gã quên rằng đã có một tiếng gõ cửa, gã vẫn nhìn một cách trống rỗng về phía trước cho đến tận lúc gã thấy tiếng nức nở của một người đàn bà. Đó là tiếng nức nở không chủ tâm, từng hồi, nghẹn ngào, tắc lại. Gã nhận thấy như thế khi gã quay người.
Ngay sau đó, gã đứng bật dậy:
"Ruth!" Gã thốt lên, vừa ngạc nhiên vừa kinh hoàng.
Mặt nàng trắng nhợt và căng thẳng. Nàng đứng ở phía trong cửa, một tay vịn lấy cửa cho khỏi ngã, một tay ôm lấy mạng sườn mình. Nàng giơ cả hai tay ra phía gã một cách đáng thương, bước tới để gặp gã. Trong khi nắm lấy tay, dẫn nàng tới chiếc ghế bành kiểu Morris, gã nhận thấy tay nàng sao mà lạnh thế. Gã kéo một chiếc ghế nữa lại và ngồi lên cái tay ghế rộng. Gã bối rối quá không nói được. Trong đầu óc gã, câu chuyện yêu đương của gã với Ruth đã khép kín, đã gắn chặt lại rồi. Gã có cùng một cảm giác y như thể cái khách sạn Metropole này bỗng dưng biến thành cái xưởng giặt ở Shelly Hot Spring ùn ùn những quần áo của cả một tuần lễ buộc gã phải giặt. Nhiều lần gã định nói, gã lại ngập ngừng.
"Không ai biết là em ở đây cả," Ruth nói, giọng yếu ớt và mỉm một nụ cười năn nỉ.
"Cô nói gì cơ?" Gã hỏi.
Gã ngạc nhiên vì tiếng vang của chính giọng nói mình. Nàng nhắc lại.
"Ồ!" Gã nói, rồi tự hỏi không hiểu gã còn có thể nói thêm được gì không.
"Em thấy anh bước vào, và em đã đợi vài phút."
"Ồ!" Gã lại nói.
Trong đời chưa bao giờ gã là một kẻ ít lời không mở nổi miệng như thế. Thực ra, trong đầu óc gã không có một ý niệm nào cả. Gã cảm thấy mình đần ngốc và vụng về, nhưng dù có chết đi nữa, gã cũng không thể nghĩ ra được cái gì để mà nói. Giá cái khách sạn này biến thành xưởng giặt Shelly Hot Spring, gã lại còn thấy dễ chịu hơn. Gã sẽ vén tay áo lên và bắt tay vào làm việc.
"Và rồi cô vào à?" Cuối cùng gã nói.
Nàng gật đầu, nét mặt hơi hóm hỉnh, rồi cởi chiếc khăn quàng cổ ra.
"Em thấy anh từ bên kia phố, khi anh đi với người con gái ấy."
"Ồ, vâng," gã nói đơn giản. "Tôi đưa cô ta đến lớp học ban đêm."
"Thế anh có vui mừng khi gặp em không?" Nàng nói sau một phút yên lặng.
"Vâng, vâng, có." Gã nói vội vàng. "Nhưng cô đến đây có phải là quá bạo không?"
"Em lén vào, không để ai biết là em ở đây.Bởi em muốn gặp anh. Em đến để nói với anh rằng em không thể nào nén được lâu nữa, bởi vì lòng em thúc giục em phải tới, bởi vì... bởi vì em muốn tới."
Nàng bước ra khỏi ghế đi tới chỗ gã. Nàng đặt tay lên vai gã một phút, thở gấp rồi trườn người vào trong cánh tay gã. Gã là kẻ đại lượng dễ dãi, gã không muốn làm tổn thương người khác, gã biết rằng từ chối sự dâng hiến này của nàng là gây một tổn hại hết sức lớn, quá sức chịu đựng của một người đàn bà, vì thế gã vòng tay qua người nàng ôm chặt lấy nàng. Nhưng không một chút ấm áp nào trong cái ôm ấp ấy, không một chút ve vãn nào trong sự đụng chạm ấy. Nàng đã tới trong cánh tay gã, gã đã giữ lấy nàng, có thế thôi. Nàng nép hết người vào gã rồi đổi thế ngồi, tay nàng lần lần lên ôm lấy cổ gã. Nhưng da thịt gã không bốc lửa dưới đôi bàn tay của nàng, gã cảm thấy lúng túng, khó chịu.
"Cái gì làm cô run cả người lên thế?" Gã hỏi. "Cô bị ớn lạnh à? Tôi đốt lò sửa lên nhé!"
Gã cựa mình định gỡ ra, nhưng nàng càng bám chặt lấy gã, toàn thân run lên bần bật.
"Thần kinh em bị kích thích quá đấy thôi!" Nàng nói, hai hàm răng va vào nhau. "Chỉ một chút nữa là em sẽ trấn tĩnh được. Đây này, em đã khá hơn rồi đây này."
Dần dần nàng hết run. Gã vẫn ôm nàng, nhưng gã không còn bối rối nữa. Bây giờ gã đã biết nàng đến làm gì rồi.
"Mẹ em muốn em lấy Charley Hapgood," nàng nói.
"Charley Hapgood - cái anh chàng luôn luôn nói chuyện tầm thường vô vị ấy phải không?" Martin lầm bầm. Rồi gã nói thêm. "Và bây giờ, tôi chắc chắn mẹ em muốn em lấy tôi."
Gã không đặt thành một câu hỏi. Gã nói câu đó, như một điều chắc chắn và trước mặt gã, những bảng con số tiền nhuận bút của gã lại bắt đầu rộn múa.
"Em chắc là mẹ em không phản đối điều ấy." Ruth nói.
"Bây giờ bà nhà cho tôi là người hoàn toàn có đủ tư cách?"
Ruth gật đầu.
"Thế nhưng bây giờ tôi lại không hề có đủ tư cách hơn cái hồi bà đã khước từ lời đính ước một chút nào." Gã nói. "Tôi không thay đổi một chút nào. Tôi vẫn là cái gã Martin Eden ấy, tuy rằng thực ra có tồi tệ hơn đi chút ít vì bây giờ tôi lại hút thuốc lá. Em không ngửi thấy hơi thở của tôi sao?"
Để trả lời nàng ấn ngón tay của nàng lên môi gã, nàng đặt chúng lên môi gã một cách duyên dáng quá, có vẻ nghịch ngợm chờ một chiếc hôn, mà xưa kia đó là điều tất nhiên. Nhưng đôi môi của Martin không có một sự trả lời âu yếm nào. Gã đợi cho những ngón tay buông ra rồi lại tiếp tục nói.
"Tôi không có gì thay đổi hết. Tôi vẫn không có việc làm. Tôi vẫn không đi tìm công ăn việc làm. Hơn nữa, tôi sẽ không bao giờ đi tìm việc làm đâu. Tôi vẫn cho rằng Herbert Spencer là một người cao quý và vĩ đại, còn cái ông thẩm phán Blount vẫn là một con lừa ngu ngốc không khác đi chút nào. Tối hôm nọ tôi có ăn cơm đằng nhà ông ấy, tôi thấy như thế rõ lắm."
"Thế mà anh lại không nhận lời mời của ba em," nàng trách.
"Thế ra em cũng biết à? Ai bảo ông ấy đến mời anh? Mẹ em à?"
Nàng yên lặng.
"Hẳn mẹ cô bảo ba cô đi rồi. Tôi nghĩ thế. Chắc là giờ đây cũng mẹ cô bảo cô đến đây?"
"Không ai biết em ở đây cả mà," nàng cãi. "Anh nghĩ rằng mẹ em lại cho phép em như thế hay sao?"
"Mẹ em cho phép em lấy tôi, điều đó thì chắc chứ?"
Nàng kêu thét lên:
"Ôi, Martin, anh đừng tàn nhẫn thế. Từ bấy đến giờ anh không hôn em lần nào. Anh vô tình như một tảng đá. Anh thử nghĩ xem em đã táo bạo làm những điều gì." Nàng rùng mình nhìn quanh, tuy cái nhìn ấy nửa có vẻ tò mò. "Anh hãy nghĩ xem em đang ở đâu."
"Em có thể chết vì anh! Em có thể chết vì anh!" Câu nói của Lizzie lại vang lên trong tai gã.
"Tại sao trước kia cô đã không dám làm như thế?" Gã hỏi một cách phũ phàng. "Khi tôi chưa có việc làm? Khi tôi đang chết đói? Khi tôi vẫn là tôi bây giờ, một con người, một nhà nghệ sĩ, vẫn cái anh chàng Martin Eden ấy? Đó là câu hỏi tôi luôn luôn tự hỏi trong bao nhiêu ngày nay, không phải chỉ riêng đối với cô, mà đối với hết thảy mọi người. Cô thấy tôi có thay đổi gì đâu, tuy cái giá trị bề ngoài đột ngột của tôi khiến tôi luôn luôn thấy mình có thay đổi. Tôi vẫn có cùng một thứ da thịt bao bọc lấy xương, vẫn mười ngón tay và mười ngón chân. Tôi vẫn là con người ấy thôi. Tôi không có thêm một sức mạnh nào cũng không có một đức tính nào mới cả. Trí óc tôi vẫn là trí óc ngày xưa ấy. Tôi cũng không có đến một quan niệm nào mới về văn học và triết học. Bản thân tôi cũng có cùng một giá trị như khi không có một ai cần đến tôi. Điều làm tôi ngạc nhiên là không hiểu tại sao bây giờ người ta lại cần đến tôi. Chắc chắn rằng họ không cần đến tôi vì tôi, bởi vì tôi bây giờ vẫn là cái tôi ngày xưa khi họ không cần đến. Thế thì hẳn họ phải cần đến tôi vì một cái gì khác, vì một cái gì đó ở bên ngoài tôi, một cái gì đó không phải là tôi. Tôi có thể nói cho cô biết cái đó là cái gì không? Đó là tiếng tăm mà tôi đã nhận được. Cái tiếng tăm đó không phải là tôi? Nó ở trong những bộ óc của người khác. Rồi đó là số tiền mà tôi đã kiếm được và đang kiếm được. Nhưng tiền đó không phải là tôi. Nó ở trong ngân hàng, ở trong cái túi của ông Tom, ông Dick, ông Harry nào đó. Có phải vì cái đó, vì tiếng tăm, vì tiền bạc mà bây giờ cô cần đến tôi không?"
"Anh làm tan vỡ trái tim em," nàng nức nở. "Anh biết là em yêu anh, là em đến đây bởi vì em yêu anh!"
"Tôi e rằng cô chưa hiểu ý tôi," gã nói dịu dàng. "Ý tôi muốn nói là: nếu bây giờ cô yêu tôi, tại sao tình yêu của cô bây giờ lại mạnh hơn ngày xưa khi tình yêu của cô yếu đuối đến nỗi có thể từ bỏ tôi?"
"Anh hãy quên đi và hãy tha thứ," nàng kêu lên tha thiết. "Lúc nào em cũng yêu anh, anh nhớ cho như thế, và bây giờ em đã ở đây, trong cánh tay anh."
"Tôi rất sợ mình là một anh lái buôn đa nghi, chỉ chăm chút nhìn vào đĩa cân, xem tình yêu của cô nặng đến bao nhiêu, và tính chất của nó là thế nào?"
Nàng vùng ra khỏi cánh tay gã, ngồi thẳng dậy và nhìn vào mặt gã rất lâu và soi mói. Nàng định nói, song lại ngập ngừng rồi thôi.
"Cô thấy đấy, đối với tôi là như vậy," gã lại nói tiếp. "Khi tôi vẫn là tôi bây giờ, chỉ trừ những người trong giai cấp của tôi ra còn hình như không ai cần đến tôi cả. Khi những tác phẩm của tôi đã viết xong, hình như không một người nào đã đọc bản thảo quan tâm đến chúng cả. Nói cho đúng ra, chính vì những bản thảo tôi đã viết ấy mà người ta lại càng khinh ghét tôi hơn. Viết những tác phẩm ấy hình như là tôi đã phạm phải những hành động, mà nói cho nó nhẹ nhất cũng là những hành động sa đọa. "Kiếm việc làm đi!" mọi người đều nói như vậy."
Nàng huơ tay ra ý phản đối.
"Phải, phải," gã nói tiếp. "Trừ cô, cô đã bảo tôi nên kiếm lấy một chức vị. Cái từ tầm thường việc làm cũng như tất cả những từ khác mà tôi đã viết, đều làm cô phật ý. Nó tàn nhẫn quá. Nhưng tôi cam đoan với cô rằng nó còn không tàn nhẫn bằng khi tất cả những người quen tôi đều ném nó vào mặt tôi như thế khuyên một đứa vô đạo đức phải ăn ở cho đứng đắn. Nhưng ta hãy quay trở lại vấn đề. Những cái tôi viết được in ra, công chúng chấp nhận nó, đã tạo nên một sự thay đổi trong những sợi dây yêu đương của tình yêu của cô. Martin Eden không thôi với những tác phẩm đã viết xong từ lâu, cô không lấy đâu. Tình yêu của cô đối với hắn đã không đủ mạnh mẽ để khiến cô lấy hắn. Nhưng bây giờ thì tình yêu ấy đã đủ mạnh rồi và tôi khó mà có thể tránh được cái kết luận rằng sức mạnh của nó dâng lên do những tác phẩm của tôi đã được in ra và đã được công chúng chấp nhận. Đối với cô, tôi không nói đến tiền nhuận bút làm gì, tuy tôi chắc rằng nó đã đem lại sự thay đổi đối với ba cô và mẹ cô. Tất nhiên, điều đó chẳng làm tôi sung sướng. Nhưng tệ hơn cả là nó làm tôi phải nghi ngờ tình yêu, tình yêu thiêng liêng. Phải chăng tình yêu là cái gì thô kệch đến nỗi phải nhờ sách in, phải nhờ công chúng nuôi dưỡng? Hình như đúng như vậy đấy... Tôi hằng ngồi, hằng suy nghĩ về nó cho đến khi đầu óc tôi rối tung lên."
"Tội nghiệp cái đầu thân yêu," nàng đưa bàn tay lên và lồng những ngón tay mình qua mớ tóc gã một cách trìu mến. "Đừng để cho nó rối tung lên nữa. Chúng ta hãy bắt đầu lại từ đầu. Em vẫn yêu anh. Em biết rằng em yếu đuối đến nỗi đã vâng theo ý muốn của mẹ em. Đáng lẽ em không nên làm như vậy. Em vẫn thường nghe anh nói một cách hào hiệp, đầy lòng nhân ái đến sự yếu đuối, nhẹ dạ của con người. Anh hãy mở lòng nhân ái ấy đối với em. Em đã hành động sai lầm. Anh hãy tha thứ cho em."
"Ờ, thì tôi tha thứ," gã nói một cách bực tức. "Thật là dễ khi thực ra không có gì đáng phải tha thứ cả. Cô không làm gì mà phải cần đến sự tha thứ. Người ta chỉ hành động theo khả năng của mình, người ta không thể hành động hơn thế. Cũng giống như bây giờ tôi xin cô tha thứ cho vì tôi đã không đi tìm một việc làm."
"Ý em là ý tốt," nàng cãi. "Anh cũng biết đấy. Em không thể nào yêu anh mà lại không mong muốn những điều tốt cho anh."
"Đúng rồi, nhưng cô cũng có thể hại tôi vì ý định tốt của cô đấy. Phải rồi, đúng rồi." Gã nói át ý muốn phản đối của nàng. "Cô có thể làm hại công việc văn chương và sự nghiệp của tôi. Hiện thực chủ nghĩa là cái khẩn khiết đối với bản chất của tôi, bọn tư sản ghét hiện thực chủ nghĩa. Bọn tư sản là một lũ hèn nhát. Chúng sợ cuộc sống. Và mọi cố gắng của cô đều tập trung vào chỗ làm cho tôi sợ cuộc sống. Cô muốn rập khuôn con người tôi. Cô muốn ép tôi vào cái chuồng chim rộng bốn phân của cuộc sống, nơi mà mọi giá trị của cuộc sống đều không thực, đều giả dối, đều tầm thường." Gã cảm thấy nàng cựa quậy có ý phản đối. "Tầm thường - hết sức tầm thường là cái nền tảng của giáo dục và văn hóa tư sản, tôi khẳng định như thế. Như tôi đã nói, cô muốn rập khuôn tôi, làm tôi trở thành một người trong giai cấp của cô, những giá trị, những thiên kiến của giai cấp cô." Gã lắc đầu buồn bã. "Cô đã không hiểu mà ngay bây giờ cô cũng không hiểu được tôi nói gì. Những lời tôi nói với cô không có cái ý nghĩa mà tôi muốn làm cho nó có. Những cái tôi nói cô cho hoàn toàn là ảo tưởng. Nhưng đối với tôi nó là thực tế sinh động. Cô chỉ thấy bối rối và buồn cười một chút cho cái gã thô kệch này, ngoi từ dưới bùn lầy của vực thẳm lên mà lại dám mạt sát giai cấp của cô cho nó là tầm thường."
Nàng tựa đầu vào vai gã một cách mệt mỏi, thần kinh căng thẳng lại làm toàn thân nàng run lên. Đợi một lúc không thấy nàng nói gì, gã lại tiếp:
"Bây giờ cô muốn làm lại tình yêu của chúng ta. Cô muốn chúng ta lấy nhau. Cô muốn tôi. Nhưng, cô hãy nghe đây - nếu sách của tôi không được người ta hoan nghênh thì tôi sẽ không được như thế này đâu. Cô sẽ xa lánh tôi. Chính tất cả những quyển sách khốn nạn... "
"Anh đừng văng tục!" Nàng ngắt lời.
Lời trách của nàng làm gã giật mình. Rồi gã phá lên cười - những tiếng cười phũ phàng.
"Thế đấy," gã nói, "trong một giây phút khẩn yếu nhất, trong lúc hình như hạnh phúc của cuộc đời cô đang bị nguy khốn, vậy mà cô vẫn sợ cuộc sống theo cái lối ngày xưa - sợ cuộc sống và những tiếng chửi rủa đầy sức sống của nó."
Những lời nói ấy của gã làm nàng nhận thấy hành động của mình thật là ấu trĩ, tuy nhiên, khi nàng thấy gã phóng đại nó lên một cách quá đáng thì nàng lại bực bội. Hai người ngồi yên một lúc lâu, nàng thì suy nghĩ một cách tuyệt vọng đến cách thuyết phục được gã, còn gã lại suy nghĩ về mối tình đã mất. Bây giờ thì gã biết rằng gã thực không yêu nàng. Gã chỉ yêu một nàng Ruth lý tưởng hóa nào đó, một con người cao quý thoát tục do gã tự tạo ra,một nàng tiên lung linh ngời sáng trong những vần thơ tình của gã. Cái cô Ruth tư sản có thực này, với tất cả những nhược điểm tư sản của cô ta, với những cái chật hẹp vô vọng của cái tâm lý tư sản trong đầu óc cô ta, thì quả gã chưa hề yêu.
Nàng bỗng cất tiếng nói:
"Em biết rằng hầu hết những điều anh nói đều đúng cả. Em quả là có sợ cuộc sống. Em đã không yêu anh đầy đủ. Em cần phải học để yêu hơn nữa. Em yêu anh vì anh là anh bây giờ, vì anh đã là anh trước kia, yêu cả cái con đường mà anh đã tự cải biến mình. Em yêu cả những điều bất đồng của anh với cái mà anh gọi là của giai cấp em, yêu anh vì niềm tin của anh mà bây giờ em chưa hiểu được, nhưng em biết rằng sau này em có thể hiểu. Em sẽ tận tụy đem cả đời em ra để mà hiểu nó. Ngay cả đến việc anh lại hút thuốc, và những lời thề bồi, chửi rủa của anh - chúng là một phần của anh, và em cũng yêu cả chúng nữa. Em còn có thể học tập. Mấy phút qua em đã học được rất nhiều. Cái việc em dám đến đây hôm nay là một bằng chứng của những cái mà em đã học được. Ôi, Martin... "
Nàng nức nở và ép chặt vào người gã.
Lần đầu tiên cánh gã ôm lấy nàng một cách trìu mến và có thiện cảm, nàng nhận thấy điều đó, nàng sung sướng cựa mình, nét mặt bừng lên rạng rỡ.
"Quá muộn rồi!" Gã nói và nhớ lại lời Lizzie. "Tôi là một con người ốm yếu, không phải ốm yếu về thể xác đây, trong tâm hồn tôi, trong trí óc tôi cơ. Hình như tôi đã mất hết cả lòng ham sống rồi. Tôi dửng dưng với tất cả. Nếu cô nói với tôi thế này vài tháng trước đây thì tình hình có lẽ đã khác. Bây giờ thật đã quá muộn."
"Không quá muộn đâu," nàng kêu lên. "Em sẽ cho anh thấy là không quá muộn đâu. Em sẽ chứng tỏ để anh thấy rằng tình yêu của em đã lớn lên, đối với em bây giờ nó lớn hơn cả giai cấp của em, hơn tất cả những gì thân thiết nhất đối với em. Tất cả những gì thân thiết nhất đối với giai cấp tư sản em đều vứt bỏ đi tất. Em không còn sợ cuộc sống nữa. Em sẽ rời bỏ ba em và mẹ em, mặc cho tên em trở thành một chuyện cười cho các bạn hữu. Em sẽ đến đây ở với anh ngay bây giờ, không cần cưới xin gì cả, nếu anh muốn như thế, em sẽ lấy làm kiêu hãnh và sung sướng được sống với anh. Nếu em đã là một kẻ bội phản trong tình yêu, thì bây giờ, vì tình yêu, em sẽ nguyện là một kẻ bội phản đối với tất cả những gì xưa kia đã làm em trở thành kẻ bội phản."
Nàng đứng trước mặt gã, mắt long lanh.
"Em đang chờ đợi, anh Martin, nàng thì thào, đang chờ đợi anh tiếp nhận em. Anh hãy nhìn em đi nào!"
Nhìn nàng thật là lộng lẫy, gã nghĩ thế. Nàng đã chuộc lại tất cả những gì nàng thiếu sót khi xưa, và cuối cùng đã vươn lên thành một người đàn bà chân chính, vượt hơn hẳn những luật lệ bằng sắt của những quy ước tư sản. Thật là lộng lẫy, thật là huy hoàng, thật là táo bạo. Nhưng mà đối với gã nó có nghĩa lý gì? Gã không rung động, không rộn ràng vì những cái nàng đã làm. Nó chỉ huy hoàng, chỉ lộng lẫy trong lý trí thôi. Đáng lẽ phải là một ngọn lửa rừng rực thì gã lại chỉ tán thưởng nàng một cách lạnh lùng. Trái tim gã không xốn xang. Gã không cảm thấy ham muốn nàng một chút nào hết. Gã lại nhớ tới lời nói của Lizzie.
"Tôi ốm yếu, rất ốm," gã nói với một cử chỉ tuyệt vọng. "Bây giờ tôi mới biết là tôi ốm yếu đến thế. Có một cái gì trong con người tôi đã biến mất. Xưa nay tôi vẫn không hề sợ cuộc sống nhưng tôi không ngờ rằng tôi lại chán ứ cuộc sống đến thế. Cuộc sống đối với tôi đã đầy ứ ra đến nỗi tôi không còn ham muốn một cái gì nữa. Nếu như còn ham muốn hẳn bây giờ có thể là tôi cần cô. Nhưng cô thấy đấy, tôi ốm yếu đến chừng nào!"
Gã ngả đầu ra sau, nhắm mắt lại, và giống như một đứa trẻ đang khỏe thấy ánh nắng mặt trời thấm qua màng nước mắt trong con người liền quên hết nỗi sầu khổ, Martin cũng quên bệnh tật của mình, quên cả sự có mặt Ruth và mọi thứ, chỉ nhìn thấy những hàng cây rọi ánh nắng lọt qua mắt gã, nó thành hình và rực lóe lên dưới mi mắt gã. Nó không làm cho lòng người thanh thản đi chút nào, cái đám lá cây xanh ấy. Ánh mặt trời lóe sáng quá, gay gắt quá. Nó làm mắt gã chói lên khi nhìn vào, tuy nhiên không hiểu tại sao gã vẫn cứ nhìn.
Gã bỗng tỉnh lại vì tiếng quả đấm cửa lạch cạch. Ruth đã đứng ở bên cửa rồi.
"Em ra ngoài thế nào được bây giờ?" Nàng hỏi giọng đầy nước mắt. "Em sợ lắm."
"Ồ, xin tha lỗi cho tôi," gã kêu lên rồi đứng bật dậy. "Cô biết đấy đầu óc tôi thất thường. Tôi quên mất rằng cô ở đây." Gã để tay lên đầu mình. "Cô thấy đấy, tôi không được bình thường. Để tôi đưa cô về. Chúng ta có thể đi theo lối đi của các người hầu phòng. Không ai nhìn thấy chúng ta đâu. Bỏ cái mạng xuống là mọi chuyện yên cả."
Nàng bám lấy tay gã, qua những lối đi tối mờ mờ, và bước xuống những bậc cầu thang hẹp hẹp.
"Thôi yên rồi," nàng nói khi họ đã ra tới đường, đồng thời định bỏ tay ra không vịn vào cánh tay gã nữa.
"Không mà, không mà, để tôi đưa cô về nhà." Gã trả lời.
"Thôi xin đừng!" Nàng phản đối. " Không cần thiết."
Nàng lại định bỏ tay ra. Gã cảm thấy tò mò trong thoáng lát. Bây giờ đến lúc hết nguy hiểm rồi thì nàng lại sợ. Nàng hầu như hoảng hốt muốn rời gã ngay. Gã không thể thấy một cớ gì, và cho rằng đó là do thần kinh của nàng. Vì thế gã giữ lấy bàn tay nàng và tiếp tục bước đi cùng nàng. Tới quãng đường chạy qua dãy nhà, gã thấy một người đàn ông mặc áo khoác dài đang lủi vào trong một cái khung cửa. Gã đưa nhanh mắt nhìn vào khi đi qua và mặc dù gã nọ đã kéo cao cổ áo lên, Martin vẫn nhận ra đó là Norman, cậu em của Ruth.
Dọc đường, Ruth và Martin chuyện trò rất ít. Nàng choáng váng cả người, gã thì lạnh nhạt. Có một lúc gã nói cho nàng biết rằng gã sắp... sẽ quay trở lại biển miền Nam, có một lúc, nàng đã xin gã tha lỗi cho vì đã nói tới gặp gã. Chỉ có thế thôi. Cuộc chia tay ở cửa nhà nàng thật là đúng qui pháp. Họ bắt tay, chúc nhau ngủ ngon, gã nâng mũ lên chào. Cánh cửa khép lại, gã châm một điếu thuốc rồi quay về khách sạn. Khi gã quay lại chỗ khung cửa, nơi gã đã thấy Norman lùi vào, gã dừng lại, nhìn vào trong với một vẻ hài hước suy nghĩ.
"Cô ta nói dối," gã lớn tiếng. "Cô ta làm ình tin rằng cô ta táo gan, trong lúc đó cô ta vẫn biết rằng thằng em dẫn cô ta đi đang đợi để đưa cô ta về." Gã phá lên cười. "Ồ cái bọn tư sản này, khi mình không có một đồng xu dính túi, đừng hòng để cho thiên hạ nhìn thấy mình cùng đi với chị nó; còn khi mình có tài khoản ở ngân hàng, nó lại dẫn chị nó tới với mình."
Trong khi gã quay gót bước tiếp, gã bỗng thấy một gã cùng đi về phía gã, nói qua vai gã, xin tiền.
"Thưa ông, xin ông cho tôi một xu để tìm chỗ ngủ trọ."
Giọng nói đó làm Martin quay lại. Ngay sau đó, gã đã nắm lấy tay Joe.
"Anh có nhớ cái lần chúng ta từ biệt nhau ở Hot Spring không?" Joe nói. "Lúc ấy tôi đã nói thế nào chúng ta cũng gặp lại nhau. Tôi đã cảm thấy như vậy trong xương tủy tôi. Thế mà chúng ta gặp nhau ở đây thật."
"Trông cậu khỏe lắm." Martin nói, có vẻ khen ngợi. "Cậu lên cân đấy."
"Hẳn rồi," nét mặt Joe rạng rỡ. "Cho đến khi mình sống lang thang thì mới biết cuộc đời là thế nào. Mình đã nặng lên được ba mươi "pao" và cảm thấy dễ chịu lắm. Chứ sao, ngày xưa mình phải làm cho chúng đến chỉ còn cái da bọc xương, sống lang thang hẳn hợp với mình."
"Nhưng cậu vẫn còn đang phải đi tìm chỗ ngủ trọ," Martin nói đùa. "Đêm nay lạnh lắm."
"À, ừ! Mình đang tìm chỗ ngủ trọ," Joe thọc tay vào trong túi ở hông lôi ra đầy một nắm xu. "Cái nghề này khổ công lắm chứ có phải chơi," anh ta vui lên. "Trông cậu có vẻ bảnh, mình mới xin."
Martin cười và đưa nắm tiền cho Joe.
"Với số tiền này, hẳn được tha hồ uống rượu!" Martin nói ướm.
Joe bỏ nắm tiền vào trong túi.
"Mình, bây giờ không uống nhiều rượu nữa," anh ta nói. "Mình không nghĩ tới chuyện uống say rượu nữa, tuy rằng không uống là do mình không thích thôi, chứ không gì có thể ngăn cấm nổi mình. Từ ngày chia tay với cậu, mình chỉ uống có một lần, cũng là bất đắc dĩ vì dạ dày lép quá. Khi mình làm việc như một con vật, mình uống như một con vật. Khi mình sống như một con người, mình uống như một con người - thỉnh thoảng thấy thích thì nhấm nháp một tí, thế thôi."
Martin hẹn gặp lại Joe vào sáng hôm sau, rồi đi về khách sạn. Gã dừng lại ở phòng xem giờ tàu chạy. Năm hôm nữa, tàu Mariposa sẽ nhổ neo đi Tahiti.
"Ngày mai anh hãy gọi điện thoại bảo để dành riêng cho tôi một phòng," gã nói với người quản lý khách sạn, không lấy phòng ở phía trước mà phòng ở phía sau nhé, chỗ có hướng gió ấy - phòng phía tay trái, nhớ nhé, phòng phía tay trái ấy. Anh nên ghi lại thì hơn."
Về đến phòng gã trèo lên giường và ngủ nhẹ nhàng như một đứa trẻ. Sự việc lúc buổi chiều không để lại một ấn tượng nào trong gã cả. Không một ấn tượng nào để lại dấu vết trong trí óc gã. Cái giây phút ấm áp gặp lại Joe chỉ là một giây phút thoáng qua. Phút sau gã lại bị giày vò bởi sự hiện diện của anh bạn thợ giặt ngày xưa, bởi câu chuyện không thể nào không nói. Cái chuyện hơn năm ngày nữa gã sẽ tới miền biển phương Nam thân yêu đối với gã cũng không có nghĩa gì hết. Vì thế, gã nhắm mắt lại và ngủ bình thường, yên ả tám tiếng đồng hồ liền không thức giấc. Gã không trằn trọc. Gã không đổi tư thế nằm, gã cũng không nằm mê nữa.
Giấc ngủ đối với gã là một sự quên lãng, và mỗi ngày gã trở dậy, gã trở dậy với niềm tiếc hận. Cuộc sống làm cho gã buồn phiền, bực bội, thời gian là một sự quấy rầy.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook