Luật Sư Nhí
-
Chương 5
Thẩm phán Henry Gantry kéo kéo tay áo phải của chiếc áo chùng đen sao cho thật phẳng phiu, rồi mới bước qua tấm cửa gỗ sồi đồ sộ ngay phía sau ghế thẩm phán. Một nhân viên chấp pháp ở tòa án lập tức hô lớn, “Mời tất cả đứng dậy chào Chủ tọa!”
Mọi người - người đến xem, bồi thẩm đoàn, luật sư, thư ký, tất cả những ai tham dự phiên tòa - đồng loạt đứng dậy. Trong khi Thẩm phán Gantry an tọa trên chiếc ghế như ngự trên ngai vàng, người kia đọc liền tù tì lời tuyên đã thành thông lệ: “Xin nghe đây, Tòa án Hình sự Quận Mười đã mở, Ngài Thẩm phán Henry Gantry đáng kính làm chủ tọa. Đề nghị các bên liên quan ra trình diện, cầu Chúa ban phúc cho phiên tòa này.”
“Mời ngồi” Thẩm phán Gantry nói to vào chiếc micro trước mặt. Ngay lập tức, cũng nhất loạt như lúc đứng lên, mọi người ngồi xuống đều tăm tắp. Những chiếc ghế kêu cọt kẹt. Túi xách và ca táp được sửa soạn, và trên dưới hai trăm con người dường như lại nhất loạt thở phào cùng lúc. Rồi mọi thứ rơi vào yên lặng.
Thẩm phán Gantry lướt mắt nhanh khắp phòng xử. Đứng như dự kiến, cả phòng chật kín. “À, có vẻ hôm nay chúng ta nhận được nhiều sự quan tâm đây,” ông lên tiếng. “Cảm ơn sự có mặt của quý vị.” Ông liếc lên phía ban công, trao đổi ánh mắt với Theodore Boone, rồi mỉm cười khi thấy các bạn cậu đang ngồi sát bên nhau, chăm chú lắng nghe.
“Vụ của chúng ta là việc bên công tố kiện ông Pete Duffy. Bên nguyên đã sẵn sàng bắt đầu chưa?”
Luật sư bên nguyên Jack Hogan đứng dậy tuyên bố, “Thưa quý tòa, bên nguyên đã sẵn sàng.”
“Bên bị đã sẵn sàng chưa?”
Luật sư Clifford Nance đứng dậy, nghiêm trang trả lời, “Chúng tôi đã sẵn sàng, thưa quý tòa.”
Thẩm phán Gantry quay sang phải, nhìn bồi thẩm đoàn, và nói, “Thưa quý ông quý bà trong ban bồi thẩm, tuần trước các vị đã được chọn lựa, và khi các vị rời khỏi đây, tôi đã đưa ra yêu cầu cụ thể là không trao đổi về vụ việc này với bất kỳ ai. Tôi đã cảnh báo là nếu bất cứ ai tìm cách tiếp cận các vị để thảo luận về vụ việc này, quý vị cần báo lại cho tôi. Giờ tôi xin hỏi, có chuyện như vậy không? Có bất cứ ai liên hệ với quý vị về vụ xử này không?”
Tất cả các vị bồi thẩm lắc đầu phủ nhận. “Tốt. Chúng ta loại trừ việc có biểu hiện vận động trước phiên tòa, và giờ ta có thể bắt đầu. Bước đầu tiên của quá trình xét xử, hai bên có cơ hội được trực tiếp bày tỏ quan điểm và trình bày phần mà chúng tôi gọi là phát biểu mở màn. Phần phát biểu mở màn này không phải là bằng chứng, chứng cớ, đủ là tóm tắt sự việc theo quan điểm mỗi bên. Vì bên nguyên có trách nhiệm chứng minh tội trạng, bên nguyên sẽ trình bày trước như thường lệ.
Ông Hogan, ông sẵn sàng chưa?”
“Thưa rồi.”
“Vậy ông hãy bắt đầu.”
Theodore không thể nuốt nổi bữa sáng, ngủ cũng rất ít. Cậu đã đọc nhiều câu chuyện về các vận động viên, những người đã căng thẳng đên mức mất ăn mất ngủ trước một trận đấu lớn. Họ bồn chồn không yên, bụng dạ nôn nao vì lo lắng và áp lực. Đương nhiên lúc này Theodore cũng cảm giác được sức ép ấy. Không khí trong phòng xử nặng nề, căng thẳng. Dù chỉ là một khán giả ngồi xem, cậu cũng cảm thấy hồi hộp quá đỗi. Với cậu, đây chính là một trận đấu lớn.
Ông Hogan là một công tố viên kỳ cựu, là người chuyên đảm nhận các vụ trọng án ở Strattenburg. Ông cao lớn, dẻo dai, trán hói và ngày nào cũng mặc com lê đen. Người ta cứ đàm tiếu về mấy bộ com lê đen sau lưng ông. Không ai biết ông chỉ có một bộ hay cả tá. Dù rằng hiếm khi nở nụ cười, ông vẫn mở đầu bài cáo trạng của mình bằng lời “chào quý vị” thân thiện trước khi giới thiệu bản thân và hai vị công tố trẻ hơn cùng bàn. Ông đã làm tốt việc xé bỏ màn không khí dè dặt ban đầu.
Rồi ông bước vào phần chính. Ông giới thiệu nạn nhân, Myra Duffy, bằng cách đưa ra trước bồi thẩm đoàn một tấm chân dung lớn. “Bà ấy chỉ mới bốn mươi sáu tuổi khi bị sát hại” giọng ông đầy thương cảm. “Là bà mẹ có hai con, Will và Clark, đều đang là sinh viên. Tôi muốn mời các cậu ấy đứng dậy.” Ông chỉ về hàng ghế đầu ngay sau bàn công tố, và hai chàng thanh niên lóng ngóng đứng dậy, nhìn về phía các vị bồi thẩm.
Theodore đọc báo và biết - bố của hai cậu, chồng trước của bà Duffy, đã chết trong một vụ tai nạn máy bay hồi hai anh em còn nhỏ. Ông Duffy là chồng thứ hai của bà, bà cũng là vợ thứ hai của ông.
Người ta cũng khoái nói “bên khu Creek” có rất nhiều cuộc tái hôn.
Ông Hogan đang tả lại vụ án. Bà Duffy đã được phát hiện trong phòng khách tòa nhà nguy nga hiện đại của bà và ông Duffy. Đó là ngôi nhà mới, xây chưa đầy ba năm, nằm trong một khu đất nhiều cây cối xoay lưng về phía sân golf. Vì cây cối um tùm nên ngôi nhà gần như khuất khỏi tầm mắt người đi đường, nhưng hầu hết các ngôi nhà ở Waverly Creek đều thế cả. Ở đó người ta coi trọng sự riêng tư.
Khi thi thể của bà được phát hiện, khóa cửa trước đã mở và cửa đang he hé. Hệ thống báo động ở chế độ dự phòng. Ai đó đã lấy trang sức trong tủ của bà, một bộ đồng hồ cổ của ông Duffy, và ba khẩu súng ngắn trong ngăn kéo cạnh ti vi ở phòng nghỉ. Trị giá số tài sản bị mất ước tính khoảng ba mươi nghìn đô la.
Nguyên nhân cái chết là bị bóp cổ. Được Thẩm phán Gantry chấp thuận, Hogan bước đến trước máy chiếu, bấm nút, và một bức ảnh lớn hiện ra trên màn hình trước mặt bồi thẩm đoàn. Bức ảnh cho thấy bà Duffy đang nằm trên sàn nhà trải thảm, ăn mặc lịch sự, dường như chưa hề bị đụng tới, đôi giày cao gót vẫn đi ở chân. Ông Hogan giải thích, trong ngày bà bị giết, một ngày thứ Năm, bà có hẹn ăn trưa với em gái. Rõ ràng, bà chuẩn bị rời khỏi nhà thì bị tấn công và sát hại. Tên giết người sau đó lục lọi khắp nhà, lấy đồ, rồi bỏ đi. Em gái bà Duffy gọi di động cho bà, mười cuộc trong vòng hai tiếng, đến khi bắt đầu cảm thấy lo lắng thì lái xe đến nhà Duffy ở Waverly Creek và tìm thấy chị mình. Theo những gì cho thấy tại hiện trường, mọi chuyện diễn ra không ồn ào. Nạn nhân có lẽ chỉ ngất đi. Ban đầu, em gái bà và cảnh sát nghĩ bà chết do đau tim hoặc do nguyên nhân tự nhiên nào khác. Nhưng với độ tuổi và sức khỏe của bà, lại không có tiền sử lạm dụng thuốc, ngay lập tức họ thấy nghi ngờ.
Khám nghiệm tử thi cho thấy nguyên nhân thực sự của cái chết. Kẻ giết bà Duffy đã tóm lấy bà từ phía sau, siết chặt động mạch cảnh. Ông Hogan đặt tay lên động mạch cảnh bên phải cổ mình. “Chỉ cần mười giây siết chặt đúng vị trí này thì quý vị sẽ bất tỉnh,” ông giải thích, hơi ngừng lại trong khi mọi người chờ xem liệu ông có ngã vật ra giữa phiên tòa hay không. Ông không ngã vật ra. Ông nói tiếp, “Khi bà Duffy đã bất tỉnh, kẻ sát nhân tiếp tục siết mạnh hơn, mạnh hơn nữa, và sáu mươi giây sau, bà chết hẳn. Không có dấu hiệu chống cự - không gãy móng tay, không vết cào xước, không gì cả. Vì sao vậy? Bởi vì bà Duffy đã biết kẻ giết mình.”
Ông Hogan đột ngột quay sang nhìn thẳng ông Duffy, người đang ngồi giữa ông Clifford Nance và một luật sư bào chữa khác. “Bà ấy biết rõ người ấy vì đó là chồng bà!”
Một khoảng lặng kéo dài, nặng nề, cả phòng xử hướng sang ông Duffy. Theodore chỉ nhìn được gáy ông ta. Cậu ước gì được nhìn tận mặt ông ta.
Ông Hogan tiếp tục, “Ông ta có thể tiếp cận gần đến mức ấy là vì bà Duffy tin tưởng ông ta.”
Ông Hogan đứng sang bên cạnh máy chiếu và mở ra thêm nhiều bức ảnh khác. Qua những bức ảnh ấy, ông phác thảo lại toàn bộ hiện trường - nội thất của căn nhà, cửa trước, cửa sau, phần gần sát sân golf. Ông lấy một bức ảnh lối vào khu Waverly Creek, với những cánh cổng nặng nề, phòng bảo vệ và camera an ninh. Ông giải thích, rất ít khả năng một kẻ đột nhập, dù rất khôn ngoan, có thể lọt qua toàn bộ hệ thống an ninh như vậy. Tất nhiên, trừ phi, kẻ đột nhập đó không thực sự là kẻ đột nhập vì hắn cũng sống ở đó.
Hàng xóm không ai nhìn thấy xe lạ rời khỏi nhà Duffy. Không ai trông thấy người lạ đi bộ trên đường hay chạy ra từ ngôi nhà ấy. Không ai báo sự vụ bất thường. Suốt sáu năm qua, ở Waverly Creek chỉ có hai vụ trộm. Người ta thực sự không nghe nói đến tội phạm ở cái cộng đồng bình yên này.
Trong ngày xảy ra vụ giết người, ông Duffy chơi golf, như hầu hết mọi ngày thứ Năm khác. Ông phát quả bóng đầu tiên lúc 11 giờ 10, theo nhật ký máy tính ở sân golf ghi lại. Ông chơi một mình, điều này không có gì bất thường, và như thường lệ, ông dùng xe golf chạy điện của mình. Ông báo nhân viên sân golf là mình định chơi mười tám lỗ, chín lỗ mạn Bắc và chín lỗ mạn Nam, hai hướng thông dụng nhất. Nhà ông bà Duffy giáp với đường lăn bóng thứ sáu của sân Creek, một sân nhỏ hơn được các quý bà ưa chuộng.
Ông Duffy là một golf thủ nghiêm túc, luôn chơi đến cùng và không gian lận. Chơi mười tám lỗ một mình thường phải mất ba tiếng đồng hồ. Hôm đó trời u ám, lạnh, nhiều gió - thời tiết không thuận lợi cho những người chơi golf. Ngoài một cặp đấu chơi từ 10 giờ 20, cả ba khu sân đều không có ai chơi vào lúc 11 giờ 10. Đến 1 giờ 40 mới có thêm nhóm bốn người vào chơi.
Em gái bà Duffy phát hiện ra bà thì ngay lập tức gọi cho 911. Cuộc gọi được ghi nhận vào lúc 2 giờ 14. Khám nghiệm tử thi cho thấy bà Duffy chết vào khoảng 11 giờ 45.
Được trợ lý giúp, ông Hogan mở một sơ đồ lớn toàn cảnh khu Waverly Creek. Ông chỉ ra vị trí của ba sân golf, trung tâm điều hành, khu tập phát bóng, sân tennis, và những khu vui chơi, giải trí khác, rồi ông chỉ cho bồi thẩm đoàn thấy vị trí ngôi nhà của ông bà Duffy gần sân Creek. Theo các cuộc thử nghiệm bên nguyên đã tiến hành, ông Duffy đang ở lỗ thứ tư hoặc thứ năm bên khu chín lỗ ở mạn Bắc vào thời điểm vợ ông bị sát hại. Sử dụng một chiếc xe golf y hệt xe của ông Duffy, một người có thể đi từ khu vực đó tới nhà ông bà Duffy ở đường lăn bóng thứ sáu trong vòng tám phút.
Pete Duffy nhìn sơ đồ và từ từ lắc đầu như thể ông Hogan đang nói toàn những điều vô lý. Ông Duffy bốn mươi chín tuổi, gương mặt sạm nắng cau có và mái tóc hoa râm rậm rạp. Ông đeo cặp kính gọng đồi mồi, mặc com lê sẫm màu, người ta hoàn toàn có thể nhầm ông là một trong số các luật sư ở đây.
Jack Hogan nhấn mạnh rằng ông Duffy biết vợ mình đang ở nhà, rõ ràng ông ta đã quay về bằng chiếc xe golf của mình, chỉ vài phút trước thời điểm xảy ra án mạng, rồi trở lại chơi trong khi cả sân lúc đó vắng tanh không một bóng người.
Nguy cơ bị người khác nhìn thấy gần như bằng không.
“Ông ấy đã lên kế hoạch kỹ càng,” ông Hogan lặp lại một lần nữa.
Thực sự là khi một luật sư giỏi không ngớt bảo rằng ông Duffy giết vợ thì cái giả thiết ông nêu ra nghe càng lúc càng thuyết phục. Cứ nhắc đi nhắc lại một điều gì thì thế nào người ta cũng bắt đầu tin. Thầy Mount vẫn hay nêu quan điểm cho rằng giả định vô tội là chuyện đùa của xã hội ngày nay. Cần phải giả định ai đó có tội. Và, Theodore thừa nhận, khó mà tin ông Duffy vô tội, ít nhất là trong những phút đầu tiên của phiên tòa này.
Tại sao ông Duffy giết vợ? Ông Hogan nêu câu hỏi với bồi thẩm đoàn theo kiểu rõ ràng ông đã có câu trả lời.
“Tiền, thưa quý vị.” Với vẻ đầy kịch tính, ông vớ lấy một tập tài liệu từ trên bàn rồi tiếp, “Đây là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ một triệu đô la do ông Pete Duffy mua hai năm trước cho vợ mình, bà Myra Quffy.”
Bầu không khí tĩnh lặng bao trùm. Tội lỗi như trở nên nặng hơn.
Ông Hogan vừa lật qua lật lại tập họp đồng vừa trình bày, và có vẻ đã bớt hăng say đi một chút. Cuối cùng, ông quẳng nó trở lại bàn, rồi bắt đầu tràng giang đại hải về các đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh của ông Duffy. Ông Duffy là một nhà kinh doanh bất động sản đã nếm trải đủ thành công lẫn thất bại, vào thời điểm vợ ông chết, ông đang bị mấy ngân hàng truy nợ. Ông Hogan hứa trước bồi thẩm đoàn là bên nguyên sẽ chứng minh được là bị cáo Pete Duffy đang bên bờ vực phá sản.
Bởi thế nên ông Duffy cần tiền mặt. Chẳng hạn như tiền bảo hiểm nhân thọ.
Hogan nhắc để bồi thẩm đoàn biết cuộc hôn nhân của ông bà Duffy không mấy hạnh phúc. Có một số vấn đề, nhiều là đằng khác. Hai người đã ly thân ít nhất hai lần. Cả hai đã thuê luật sư chuyên trách ly hôn, mặc dù chưa ai từng đặt bút viết đơn.
Để màn diễn được đẩy đến cao trào, ông Hogan tiến sát hết mức đến chỗ các vị bồi thẩm, nhìn họ thật nghiêm túc. “Đây là một vụ giết người máu lạnh, thưa quý vị. Được lên kế hoạch hoàn hảo, được thực hiện cẩn trọng. Không có sự vấp váp nào. Không nhân chứng, không chứng cứ. Không gì khác ngoài một phụ nữ đáng thương bị bóp cổ dã man cho đến chết.” Ông Hogan đột ngột nhắm mắt, gõ gõ thái dương, rồi tiếp, “Ồ, tôi quên mất một điều. Tôi quên không nói để quý vị biết là hai năm trước, khi ông Duffy mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng là lúc ông bắt đầu chơi golf một mình. Trước đó ông hiếm khi chơi một mình, chúng ta sẽ mời đến đây những người có thể làm chứng cho điều này. Không phải trùng hợp sao? Ông ta đã lên kế hoạch này từ hai năm. Lặng lẽ sắp đặt lịch chơi golf của mình ăn theo lịch sinh hoạt của bà vợ, chỉ để đợi. Đợi cho đến một ngày gió lạnh để cả sân golf vắng tanh. Đợi đến một thời điểm lý tưởng để có thể phóng như bay về nhà, đậu xe trong sân, hối hả vào nhà bằng lối cửa sau, “Em yêu, anh về đây” và khi vợ ông không để ý thì ông ta liền chộp lấy bà. Một phút sau, bà ấy chết. Ông ta đã lên kế hoạch như vậy từ rất lâu, ông ta hiểu rõ phải làm gì. Ông ta vơ nữ trang của bà, lấy những chiếc đồng hồ đắt giá của chính mình, và chộp cả mấy khẩu súng để cảnh sát nghĩ rằng đây là hành động của một tên đạo chích. Vài giây sau, ông ta ra khỏi nhà, trở lại xe golf và lại phóng như bay tới lỗ thứ năm của sân chín lỗ ở mạn Bắc, nơi ông lấy cây gậy sắt số bốn, đánh vu vơ một cú đẹp mắt, và tiếp tục ván golf một mình.”
Luật sư Hogan ngừng lại. Tất cả lặng thinh. Ông cầm xấp giấy kẻ màu vàng lên và trở về chỗ. Đã chín mươi phút trôi qua. Thẩm phán Gantry gõ búa tuyên bố,
“Chúng ta nghỉ giải lao mười phút.”
Thầy Mount tập trung cả lớp lại ở cuối hành lang hẹp trên tầng hai. Các cậu trò bàn luận sôi nổi về màn kịch vừa được chứng kiến. “Hay hơn hẳn trên ti vi,” một cậu nói.
“Được rồi” thầy Mount nói, các em mới nghe được một chiều của vụ án. Nhưng thầy vẫn muốn hỏi, cho vui thôi, bao nhiêu người nghĩ là ông ta có tội?”
Ít nhất một tá cánh tay giơ lên. Theodore muốn bỏ phiếu cho có tội, nhưng cậu biết vẫn còn quá sớm.
“Còn giả định vô tội thì sao?” thầy Mount tiếp.
“Chính là ông ta,” tay trống Darren lên tiếng. Vài đứa khác cũng cất giọng đồng tình.
“Ông ta có tội,” đến lượt vận động viên bơi lội Brian nói.
“Ông ta không có cách gì thoát tội được ạ.” “Kế hoạch của ông ta thật hoàn hảo.”
“Chính ông ta đấy mà.”
“OK, OK,” thầy Mount nói. “Giờ ăn trưa, chúng ta sẽ quay lại chủ đề này, sau khi các em nghe xong phần trình bày của bên kia.” o O o
Bên kia bắt đầu trong không khí ồn ã. Clifford Nance chờ cho đến khi cả phòng xử tĩnh lặng trở lại mới bước tới trước bồi thẩm đoàn. Ông khoảng sáu mươi, tóc muối tiêu trùm kín tai, ngực nở và tay chắc khỏe, dáng ưỡn thẳng như muốn nói ông không bao giờ lùi bước trong một trận đấu, dù ở trong hay ngoài tòa án.
“Không mảy may có lấy một bằng chứng!”, ông nổ phát đạn đầu tiên bằng giọng trầm khàn nhưng vang vọng khắp các bức tường.
“Không mảy may có lấy một bằng chứng!” ông nhắc lại, như thể người nào đó lúc trước có thể đã không nghe thấy. Theodore bắt đầu thấy nao núng.
“Không gì cả! Không nhân chứng. Không vật chứng tại hiện trường. Không có gì ngoài câu chuyện nhỏ được sắp đặt gọn gàng, trình tự và hoàn hảo mà ông Hogan vừa chia sẻ cùng các vị, không một lời nào trong đó là chứng cớ. Chỉ là bản phóng tác đầy tính tưởng tượng về chuyện có thể đã xảy ra. Có thể Pete Duffy muốn giết vợ mình. Có thể ông ấy đã lên kế hoạch cẩn thận. Có thể ông ấy lòng vòng trên cái sân golf vắng tanh. Có thể ông ấy đã về nhà chỉ để kịp thực hiện một trong những vụ giết người sạch sẽ nhất lịch sử. Sau đó, có thể ông đã trộm đồ, rời nhà bằng cửa trước, phi trở lại điểm phát bóng số năm và tiếp tục cuộc chơi. Có thể đó là những gì đã xảy ra.”
Ông Nance chậm rãi bước tới bước lui trước bồi thẩm đoàn như thể gõ nhịp cho bài phát biểu của mình.
“Ông Hogan đang yêu cầu các vị, các quý ông quý bà ở đây, chơi trò Có Lẽ Thế. Có thể điều này xảy ra, có lẽ điều kia xảy đến. Và ông ấy muốn quý vị chơi cùng bỏi vì ông không hề có bằng chứng. Ông ấy chẳng có gì cả. Chẳng có gì ngoài một người đàn ông chơi golf một mình, để tâm đến công ty của chính mình, trong khi bà vợ bị giết trong ngôi nhà dễ thương cách đó chưa đầy một dặm.”
Ông Nance ngừng bưới tới bước lui và tiến gần hơn đến các vị bồi thẩm. Ông nhắm vào một quý ông có tuổi ngồi ở hàng ghế đầu và làm như sắp vỗ lên đầu gối người này. Ông hạ giọng, “Tôi hoàn toàn không trách ông Hogan chơi trò Có Lẽ Thế. Bởi ông ấy thực sự cũng không có lựa chọn nào khác, vì ông làm gì có chứng cứ. Ông ấy không có gì ngoài một trí tưởng tượng phong phú.”
Luật sư Nance chuyển hướng sang bên phải, mắt nhìn một phụ nữ độ tuổi trung niên. “Hiến pháp của chúng ta, luật pháp của chúng ta, thủ tục pháp lý của chúng ta, tất cả đều được xây dựng trên nền tảng công bằng. Nghĩa là sao? Là hoàn toàn không có chỗ cho một mớ những cái ‘có thể’. Luật của ta rất rõ ràng. Thẩm phán Gantry sẽ giải thích thêm về điều này sau, lúc ấy, xin quý vị hãy để tâm lắng nghe. Quý vị sẽ không thấy ông một lần nhắc đến từ có thể. Điều quý vị sẽ nghe thấy là luật lệ được hình thành từ lâu đời và nổi tiếng của nước Mỹ quy định khi bên nguyên kết tội bị cáo, bên nguyên phải vận dụng tất cả nguồn lực của mình - các nhà điều tra, cảnh sát, công tố viên, chuyên gia, nhân viên giám định hiện trường, tất cả những con người đầy kinh nghiệm và hiểu biết ấy - và chứng minh rõ ràng rằng ai đó thực sự đã phạm tội.”
Luật sư Nance quay ngoắt sang bên trái, nhìn sáu vị bồi thẩm ở hàng ghế thứ hai với ánh mắt vừa chân thành vừa thuyết phục. Ông nói mà không cần giấy tờ, lời lẽ trơn tru mà không phải nhọc công nghĩ ngại, như thể ông đã nói như vậy cả nghìn lần rồi mà vẫn không hề bớt vẻ say sưa.
“Chứng minh rõ ràng. Chứng minh rõ ràng. Bên nguyên mang một trách nhiệm nặng nề, mà có lẽ họ không thể đáp ứng nổi.”
Ông tạm ngừng, còn mọi người thì nín thở. Ông bước tới bàn bên bị, nhặt tập giấy vàng của mình lên, nhưng không nhìn vào đó. Ông là nam diễn viên chính đứng giữa sân khấu mà lời thoại ông đã thuộc lòng. Ông hắng giọng, rồi cất lời vẫn với âm lượng cao nhất. “Giờ đây, theo luật pháp, ông Pete Duffy không cần bị thẩm vấn, không cần phải mời nhân chứng để bào chữa, không phải chứng minh điều gì cả. Vì sao vậy? À, điều này rất đơn giản. Ông được bảo vệ bởi một trong những vệ sĩ được coi trọng nhất của chúng ta. Đó là quyền giả định vô tội.” Ông Nance quay lại chỉ vào thân chủ mình. “Ông Pete Duffy ngồi đây là một người vô tội, như quý vị, như tôi.”
Ông lại bắt đầu nhịp bước, chầm chậm, không hề rời mắt khỏi các vị bồi thẩm. “Tuy nhiên Pet Duffy chấp thuận thẩm vấn. Ông ấy muốn được thẩm vấn. Ông ấy mong mỏi được chứng minh. Và khi ông ấy ngồi vào chiếc ghế ngay đây, ở vị trí dành cho người làm chứng, ông sẽ khai, ông tuyên thệ sẽ nói sự thật. Sự thật, thưa quý vị, là cái gì đó khác xa câu chuyện nhỏ ông Hogan đã dựng nên. Sự thật, thưa quý vị, là ông Pete Duffy thực sự đang chơi golf vào cái ngày định mệnh ấy, ông ấy chỉ có một mình, chơi một mình theo cách ưa chuộng của ông. Các ghi chép cho thấy ông phát cú bóng đầu tiên lúc 11 giờ 10, rời khỏi điểm phát bóng số một bằng chiếc xe golf cá nhân mà ông vẫn thường đỗ trong gara như bao nhiêu hàng xóm khác. Ông ấy ở trên sân, một mình, trong khi vợ ông ở nhà chuẩn bị đi ăn trong phố. Một tên trộm, một kẻ tội phạm không ai hay biết nào đó mà giờ vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và có lẽ sẽ vẫn còn nhởn nhơ với những gì chúng ta đang làm đây, đã lẻn vào nhà ông bà Duffy vì tưởng lầm nhà vắng chủ. Hệ thống báo động thì tắt. Khóa cửa trước đã mở, và cả cửa sau cũng vậy. Điều này không hề, giờ đây vẫn vậy, không hề bất thường đối với cụm dân cư nơi này. Không may là, tên trộm đối đầu với bà Myra Duffy, tấn công bà bằng tay không vì hắn không mang vũ khí, và tại thời điểm đó hắn trở thành một người khác. Hắn trở thành kẻ sát nhân.”
Luật sư Nance tạm ngừng bài diễn thuyểt, bước đến bên bàn bị cáo, cầm cốc nước lên uống một hơi dài. Mọi người vẫn đang quan sát ông. Chẳng còn gì khác mà quan sát.
“Và hắn vẫn ở ngoài kia!” đột nhiên ông luật sư lại cất tiếng, đúng ra là hô lên. “Hoặc có thể hắn ta đang ở đây,” ông nói, tay chỉ khắp phòng xử án. “Chúng ta đang chơi trò Có Lẽ Thế mà, có thể hắn ta đang ở đây theo dõi phiên xét xử này lắm chứ. Tại sao lại không nhỉ? Chắc chắn hắn được an toàn trước ông Hogan và đội quân của ông.”
Theodore để ý có mấy vị bồi thẩm liếc nhanh về phía khán giả.
Luật sư Nance chuyển chủ đề, nói về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, rằng ông Duffy đúng là đã mua hợp đồng này với điều khoản ông là người được hưởng một triệu đô la trong trường hợp vợ ông chết. Nhưng cũng có một điều khoản tương tự thế, rằng bà Duffy là người được hưởng một triệu đô la trong trường họp chồng bà chết. Họ chỉ đơn giản làm điều mà hầu hết các cặp vợ chồng khác đều làm. Họ mua bảo hiểm kép. Ông Pete Duffy hứa sẽ chứng minh trước bồi thẩm đoàn rằng công việc kinh doanh của ông không hề thê thảm như ông Hogan mô tả. Ông thừa nhận ông bà Duffy đang cố gắng níu kéo cuộc hôn nhân của mình họ đã ly thân hơn một lần, nhưng chưa từng đệ đơn ly hôn. Thực tế, họ đã quyết tâm vượt qua những khác biệt của nhau.
Thầy Mount ngồi ở hàng ghế thứ hai trên ban công, phía sau các học trò của mình. Thầy cố tình chọn vị trí có thể quan sát cả mười sáu cậu học trò, nếu cần. Cho đến giờ, cả đám vẫn nuốt từng lời trong hai bài diễn thuyết mở đầu. Không có gì ngạc nhiên là Theodore còn chăm chú hơn tất cả. Cậu đang ở đúng nơi cậu muốn. Khi luật sư Nance kết thúc, Thẩm phán Gantry thông báo nghỉ trưa.
Mọi người - người đến xem, bồi thẩm đoàn, luật sư, thư ký, tất cả những ai tham dự phiên tòa - đồng loạt đứng dậy. Trong khi Thẩm phán Gantry an tọa trên chiếc ghế như ngự trên ngai vàng, người kia đọc liền tù tì lời tuyên đã thành thông lệ: “Xin nghe đây, Tòa án Hình sự Quận Mười đã mở, Ngài Thẩm phán Henry Gantry đáng kính làm chủ tọa. Đề nghị các bên liên quan ra trình diện, cầu Chúa ban phúc cho phiên tòa này.”
“Mời ngồi” Thẩm phán Gantry nói to vào chiếc micro trước mặt. Ngay lập tức, cũng nhất loạt như lúc đứng lên, mọi người ngồi xuống đều tăm tắp. Những chiếc ghế kêu cọt kẹt. Túi xách và ca táp được sửa soạn, và trên dưới hai trăm con người dường như lại nhất loạt thở phào cùng lúc. Rồi mọi thứ rơi vào yên lặng.
Thẩm phán Gantry lướt mắt nhanh khắp phòng xử. Đứng như dự kiến, cả phòng chật kín. “À, có vẻ hôm nay chúng ta nhận được nhiều sự quan tâm đây,” ông lên tiếng. “Cảm ơn sự có mặt của quý vị.” Ông liếc lên phía ban công, trao đổi ánh mắt với Theodore Boone, rồi mỉm cười khi thấy các bạn cậu đang ngồi sát bên nhau, chăm chú lắng nghe.
“Vụ của chúng ta là việc bên công tố kiện ông Pete Duffy. Bên nguyên đã sẵn sàng bắt đầu chưa?”
Luật sư bên nguyên Jack Hogan đứng dậy tuyên bố, “Thưa quý tòa, bên nguyên đã sẵn sàng.”
“Bên bị đã sẵn sàng chưa?”
Luật sư Clifford Nance đứng dậy, nghiêm trang trả lời, “Chúng tôi đã sẵn sàng, thưa quý tòa.”
Thẩm phán Gantry quay sang phải, nhìn bồi thẩm đoàn, và nói, “Thưa quý ông quý bà trong ban bồi thẩm, tuần trước các vị đã được chọn lựa, và khi các vị rời khỏi đây, tôi đã đưa ra yêu cầu cụ thể là không trao đổi về vụ việc này với bất kỳ ai. Tôi đã cảnh báo là nếu bất cứ ai tìm cách tiếp cận các vị để thảo luận về vụ việc này, quý vị cần báo lại cho tôi. Giờ tôi xin hỏi, có chuyện như vậy không? Có bất cứ ai liên hệ với quý vị về vụ xử này không?”
Tất cả các vị bồi thẩm lắc đầu phủ nhận. “Tốt. Chúng ta loại trừ việc có biểu hiện vận động trước phiên tòa, và giờ ta có thể bắt đầu. Bước đầu tiên của quá trình xét xử, hai bên có cơ hội được trực tiếp bày tỏ quan điểm và trình bày phần mà chúng tôi gọi là phát biểu mở màn. Phần phát biểu mở màn này không phải là bằng chứng, chứng cớ, đủ là tóm tắt sự việc theo quan điểm mỗi bên. Vì bên nguyên có trách nhiệm chứng minh tội trạng, bên nguyên sẽ trình bày trước như thường lệ.
Ông Hogan, ông sẵn sàng chưa?”
“Thưa rồi.”
“Vậy ông hãy bắt đầu.”
Theodore không thể nuốt nổi bữa sáng, ngủ cũng rất ít. Cậu đã đọc nhiều câu chuyện về các vận động viên, những người đã căng thẳng đên mức mất ăn mất ngủ trước một trận đấu lớn. Họ bồn chồn không yên, bụng dạ nôn nao vì lo lắng và áp lực. Đương nhiên lúc này Theodore cũng cảm giác được sức ép ấy. Không khí trong phòng xử nặng nề, căng thẳng. Dù chỉ là một khán giả ngồi xem, cậu cũng cảm thấy hồi hộp quá đỗi. Với cậu, đây chính là một trận đấu lớn.
Ông Hogan là một công tố viên kỳ cựu, là người chuyên đảm nhận các vụ trọng án ở Strattenburg. Ông cao lớn, dẻo dai, trán hói và ngày nào cũng mặc com lê đen. Người ta cứ đàm tiếu về mấy bộ com lê đen sau lưng ông. Không ai biết ông chỉ có một bộ hay cả tá. Dù rằng hiếm khi nở nụ cười, ông vẫn mở đầu bài cáo trạng của mình bằng lời “chào quý vị” thân thiện trước khi giới thiệu bản thân và hai vị công tố trẻ hơn cùng bàn. Ông đã làm tốt việc xé bỏ màn không khí dè dặt ban đầu.
Rồi ông bước vào phần chính. Ông giới thiệu nạn nhân, Myra Duffy, bằng cách đưa ra trước bồi thẩm đoàn một tấm chân dung lớn. “Bà ấy chỉ mới bốn mươi sáu tuổi khi bị sát hại” giọng ông đầy thương cảm. “Là bà mẹ có hai con, Will và Clark, đều đang là sinh viên. Tôi muốn mời các cậu ấy đứng dậy.” Ông chỉ về hàng ghế đầu ngay sau bàn công tố, và hai chàng thanh niên lóng ngóng đứng dậy, nhìn về phía các vị bồi thẩm.
Theodore đọc báo và biết - bố của hai cậu, chồng trước của bà Duffy, đã chết trong một vụ tai nạn máy bay hồi hai anh em còn nhỏ. Ông Duffy là chồng thứ hai của bà, bà cũng là vợ thứ hai của ông.
Người ta cũng khoái nói “bên khu Creek” có rất nhiều cuộc tái hôn.
Ông Hogan đang tả lại vụ án. Bà Duffy đã được phát hiện trong phòng khách tòa nhà nguy nga hiện đại của bà và ông Duffy. Đó là ngôi nhà mới, xây chưa đầy ba năm, nằm trong một khu đất nhiều cây cối xoay lưng về phía sân golf. Vì cây cối um tùm nên ngôi nhà gần như khuất khỏi tầm mắt người đi đường, nhưng hầu hết các ngôi nhà ở Waverly Creek đều thế cả. Ở đó người ta coi trọng sự riêng tư.
Khi thi thể của bà được phát hiện, khóa cửa trước đã mở và cửa đang he hé. Hệ thống báo động ở chế độ dự phòng. Ai đó đã lấy trang sức trong tủ của bà, một bộ đồng hồ cổ của ông Duffy, và ba khẩu súng ngắn trong ngăn kéo cạnh ti vi ở phòng nghỉ. Trị giá số tài sản bị mất ước tính khoảng ba mươi nghìn đô la.
Nguyên nhân cái chết là bị bóp cổ. Được Thẩm phán Gantry chấp thuận, Hogan bước đến trước máy chiếu, bấm nút, và một bức ảnh lớn hiện ra trên màn hình trước mặt bồi thẩm đoàn. Bức ảnh cho thấy bà Duffy đang nằm trên sàn nhà trải thảm, ăn mặc lịch sự, dường như chưa hề bị đụng tới, đôi giày cao gót vẫn đi ở chân. Ông Hogan giải thích, trong ngày bà bị giết, một ngày thứ Năm, bà có hẹn ăn trưa với em gái. Rõ ràng, bà chuẩn bị rời khỏi nhà thì bị tấn công và sát hại. Tên giết người sau đó lục lọi khắp nhà, lấy đồ, rồi bỏ đi. Em gái bà Duffy gọi di động cho bà, mười cuộc trong vòng hai tiếng, đến khi bắt đầu cảm thấy lo lắng thì lái xe đến nhà Duffy ở Waverly Creek và tìm thấy chị mình. Theo những gì cho thấy tại hiện trường, mọi chuyện diễn ra không ồn ào. Nạn nhân có lẽ chỉ ngất đi. Ban đầu, em gái bà và cảnh sát nghĩ bà chết do đau tim hoặc do nguyên nhân tự nhiên nào khác. Nhưng với độ tuổi và sức khỏe của bà, lại không có tiền sử lạm dụng thuốc, ngay lập tức họ thấy nghi ngờ.
Khám nghiệm tử thi cho thấy nguyên nhân thực sự của cái chết. Kẻ giết bà Duffy đã tóm lấy bà từ phía sau, siết chặt động mạch cảnh. Ông Hogan đặt tay lên động mạch cảnh bên phải cổ mình. “Chỉ cần mười giây siết chặt đúng vị trí này thì quý vị sẽ bất tỉnh,” ông giải thích, hơi ngừng lại trong khi mọi người chờ xem liệu ông có ngã vật ra giữa phiên tòa hay không. Ông không ngã vật ra. Ông nói tiếp, “Khi bà Duffy đã bất tỉnh, kẻ sát nhân tiếp tục siết mạnh hơn, mạnh hơn nữa, và sáu mươi giây sau, bà chết hẳn. Không có dấu hiệu chống cự - không gãy móng tay, không vết cào xước, không gì cả. Vì sao vậy? Bởi vì bà Duffy đã biết kẻ giết mình.”
Ông Hogan đột ngột quay sang nhìn thẳng ông Duffy, người đang ngồi giữa ông Clifford Nance và một luật sư bào chữa khác. “Bà ấy biết rõ người ấy vì đó là chồng bà!”
Một khoảng lặng kéo dài, nặng nề, cả phòng xử hướng sang ông Duffy. Theodore chỉ nhìn được gáy ông ta. Cậu ước gì được nhìn tận mặt ông ta.
Ông Hogan tiếp tục, “Ông ta có thể tiếp cận gần đến mức ấy là vì bà Duffy tin tưởng ông ta.”
Ông Hogan đứng sang bên cạnh máy chiếu và mở ra thêm nhiều bức ảnh khác. Qua những bức ảnh ấy, ông phác thảo lại toàn bộ hiện trường - nội thất của căn nhà, cửa trước, cửa sau, phần gần sát sân golf. Ông lấy một bức ảnh lối vào khu Waverly Creek, với những cánh cổng nặng nề, phòng bảo vệ và camera an ninh. Ông giải thích, rất ít khả năng một kẻ đột nhập, dù rất khôn ngoan, có thể lọt qua toàn bộ hệ thống an ninh như vậy. Tất nhiên, trừ phi, kẻ đột nhập đó không thực sự là kẻ đột nhập vì hắn cũng sống ở đó.
Hàng xóm không ai nhìn thấy xe lạ rời khỏi nhà Duffy. Không ai trông thấy người lạ đi bộ trên đường hay chạy ra từ ngôi nhà ấy. Không ai báo sự vụ bất thường. Suốt sáu năm qua, ở Waverly Creek chỉ có hai vụ trộm. Người ta thực sự không nghe nói đến tội phạm ở cái cộng đồng bình yên này.
Trong ngày xảy ra vụ giết người, ông Duffy chơi golf, như hầu hết mọi ngày thứ Năm khác. Ông phát quả bóng đầu tiên lúc 11 giờ 10, theo nhật ký máy tính ở sân golf ghi lại. Ông chơi một mình, điều này không có gì bất thường, và như thường lệ, ông dùng xe golf chạy điện của mình. Ông báo nhân viên sân golf là mình định chơi mười tám lỗ, chín lỗ mạn Bắc và chín lỗ mạn Nam, hai hướng thông dụng nhất. Nhà ông bà Duffy giáp với đường lăn bóng thứ sáu của sân Creek, một sân nhỏ hơn được các quý bà ưa chuộng.
Ông Duffy là một golf thủ nghiêm túc, luôn chơi đến cùng và không gian lận. Chơi mười tám lỗ một mình thường phải mất ba tiếng đồng hồ. Hôm đó trời u ám, lạnh, nhiều gió - thời tiết không thuận lợi cho những người chơi golf. Ngoài một cặp đấu chơi từ 10 giờ 20, cả ba khu sân đều không có ai chơi vào lúc 11 giờ 10. Đến 1 giờ 40 mới có thêm nhóm bốn người vào chơi.
Em gái bà Duffy phát hiện ra bà thì ngay lập tức gọi cho 911. Cuộc gọi được ghi nhận vào lúc 2 giờ 14. Khám nghiệm tử thi cho thấy bà Duffy chết vào khoảng 11 giờ 45.
Được trợ lý giúp, ông Hogan mở một sơ đồ lớn toàn cảnh khu Waverly Creek. Ông chỉ ra vị trí của ba sân golf, trung tâm điều hành, khu tập phát bóng, sân tennis, và những khu vui chơi, giải trí khác, rồi ông chỉ cho bồi thẩm đoàn thấy vị trí ngôi nhà của ông bà Duffy gần sân Creek. Theo các cuộc thử nghiệm bên nguyên đã tiến hành, ông Duffy đang ở lỗ thứ tư hoặc thứ năm bên khu chín lỗ ở mạn Bắc vào thời điểm vợ ông bị sát hại. Sử dụng một chiếc xe golf y hệt xe của ông Duffy, một người có thể đi từ khu vực đó tới nhà ông bà Duffy ở đường lăn bóng thứ sáu trong vòng tám phút.
Pete Duffy nhìn sơ đồ và từ từ lắc đầu như thể ông Hogan đang nói toàn những điều vô lý. Ông Duffy bốn mươi chín tuổi, gương mặt sạm nắng cau có và mái tóc hoa râm rậm rạp. Ông đeo cặp kính gọng đồi mồi, mặc com lê sẫm màu, người ta hoàn toàn có thể nhầm ông là một trong số các luật sư ở đây.
Jack Hogan nhấn mạnh rằng ông Duffy biết vợ mình đang ở nhà, rõ ràng ông ta đã quay về bằng chiếc xe golf của mình, chỉ vài phút trước thời điểm xảy ra án mạng, rồi trở lại chơi trong khi cả sân lúc đó vắng tanh không một bóng người.
Nguy cơ bị người khác nhìn thấy gần như bằng không.
“Ông ấy đã lên kế hoạch kỹ càng,” ông Hogan lặp lại một lần nữa.
Thực sự là khi một luật sư giỏi không ngớt bảo rằng ông Duffy giết vợ thì cái giả thiết ông nêu ra nghe càng lúc càng thuyết phục. Cứ nhắc đi nhắc lại một điều gì thì thế nào người ta cũng bắt đầu tin. Thầy Mount vẫn hay nêu quan điểm cho rằng giả định vô tội là chuyện đùa của xã hội ngày nay. Cần phải giả định ai đó có tội. Và, Theodore thừa nhận, khó mà tin ông Duffy vô tội, ít nhất là trong những phút đầu tiên của phiên tòa này.
Tại sao ông Duffy giết vợ? Ông Hogan nêu câu hỏi với bồi thẩm đoàn theo kiểu rõ ràng ông đã có câu trả lời.
“Tiền, thưa quý vị.” Với vẻ đầy kịch tính, ông vớ lấy một tập tài liệu từ trên bàn rồi tiếp, “Đây là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ một triệu đô la do ông Pete Duffy mua hai năm trước cho vợ mình, bà Myra Quffy.”
Bầu không khí tĩnh lặng bao trùm. Tội lỗi như trở nên nặng hơn.
Ông Hogan vừa lật qua lật lại tập họp đồng vừa trình bày, và có vẻ đã bớt hăng say đi một chút. Cuối cùng, ông quẳng nó trở lại bàn, rồi bắt đầu tràng giang đại hải về các đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh của ông Duffy. Ông Duffy là một nhà kinh doanh bất động sản đã nếm trải đủ thành công lẫn thất bại, vào thời điểm vợ ông chết, ông đang bị mấy ngân hàng truy nợ. Ông Hogan hứa trước bồi thẩm đoàn là bên nguyên sẽ chứng minh được là bị cáo Pete Duffy đang bên bờ vực phá sản.
Bởi thế nên ông Duffy cần tiền mặt. Chẳng hạn như tiền bảo hiểm nhân thọ.
Hogan nhắc để bồi thẩm đoàn biết cuộc hôn nhân của ông bà Duffy không mấy hạnh phúc. Có một số vấn đề, nhiều là đằng khác. Hai người đã ly thân ít nhất hai lần. Cả hai đã thuê luật sư chuyên trách ly hôn, mặc dù chưa ai từng đặt bút viết đơn.
Để màn diễn được đẩy đến cao trào, ông Hogan tiến sát hết mức đến chỗ các vị bồi thẩm, nhìn họ thật nghiêm túc. “Đây là một vụ giết người máu lạnh, thưa quý vị. Được lên kế hoạch hoàn hảo, được thực hiện cẩn trọng. Không có sự vấp váp nào. Không nhân chứng, không chứng cứ. Không gì khác ngoài một phụ nữ đáng thương bị bóp cổ dã man cho đến chết.” Ông Hogan đột ngột nhắm mắt, gõ gõ thái dương, rồi tiếp, “Ồ, tôi quên mất một điều. Tôi quên không nói để quý vị biết là hai năm trước, khi ông Duffy mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng là lúc ông bắt đầu chơi golf một mình. Trước đó ông hiếm khi chơi một mình, chúng ta sẽ mời đến đây những người có thể làm chứng cho điều này. Không phải trùng hợp sao? Ông ta đã lên kế hoạch này từ hai năm. Lặng lẽ sắp đặt lịch chơi golf của mình ăn theo lịch sinh hoạt của bà vợ, chỉ để đợi. Đợi cho đến một ngày gió lạnh để cả sân golf vắng tanh. Đợi đến một thời điểm lý tưởng để có thể phóng như bay về nhà, đậu xe trong sân, hối hả vào nhà bằng lối cửa sau, “Em yêu, anh về đây” và khi vợ ông không để ý thì ông ta liền chộp lấy bà. Một phút sau, bà ấy chết. Ông ta đã lên kế hoạch như vậy từ rất lâu, ông ta hiểu rõ phải làm gì. Ông ta vơ nữ trang của bà, lấy những chiếc đồng hồ đắt giá của chính mình, và chộp cả mấy khẩu súng để cảnh sát nghĩ rằng đây là hành động của một tên đạo chích. Vài giây sau, ông ta ra khỏi nhà, trở lại xe golf và lại phóng như bay tới lỗ thứ năm của sân chín lỗ ở mạn Bắc, nơi ông lấy cây gậy sắt số bốn, đánh vu vơ một cú đẹp mắt, và tiếp tục ván golf một mình.”
Luật sư Hogan ngừng lại. Tất cả lặng thinh. Ông cầm xấp giấy kẻ màu vàng lên và trở về chỗ. Đã chín mươi phút trôi qua. Thẩm phán Gantry gõ búa tuyên bố,
“Chúng ta nghỉ giải lao mười phút.”
Thầy Mount tập trung cả lớp lại ở cuối hành lang hẹp trên tầng hai. Các cậu trò bàn luận sôi nổi về màn kịch vừa được chứng kiến. “Hay hơn hẳn trên ti vi,” một cậu nói.
“Được rồi” thầy Mount nói, các em mới nghe được một chiều của vụ án. Nhưng thầy vẫn muốn hỏi, cho vui thôi, bao nhiêu người nghĩ là ông ta có tội?”
Ít nhất một tá cánh tay giơ lên. Theodore muốn bỏ phiếu cho có tội, nhưng cậu biết vẫn còn quá sớm.
“Còn giả định vô tội thì sao?” thầy Mount tiếp.
“Chính là ông ta,” tay trống Darren lên tiếng. Vài đứa khác cũng cất giọng đồng tình.
“Ông ta có tội,” đến lượt vận động viên bơi lội Brian nói.
“Ông ta không có cách gì thoát tội được ạ.” “Kế hoạch của ông ta thật hoàn hảo.”
“Chính ông ta đấy mà.”
“OK, OK,” thầy Mount nói. “Giờ ăn trưa, chúng ta sẽ quay lại chủ đề này, sau khi các em nghe xong phần trình bày của bên kia.” o O o
Bên kia bắt đầu trong không khí ồn ã. Clifford Nance chờ cho đến khi cả phòng xử tĩnh lặng trở lại mới bước tới trước bồi thẩm đoàn. Ông khoảng sáu mươi, tóc muối tiêu trùm kín tai, ngực nở và tay chắc khỏe, dáng ưỡn thẳng như muốn nói ông không bao giờ lùi bước trong một trận đấu, dù ở trong hay ngoài tòa án.
“Không mảy may có lấy một bằng chứng!”, ông nổ phát đạn đầu tiên bằng giọng trầm khàn nhưng vang vọng khắp các bức tường.
“Không mảy may có lấy một bằng chứng!” ông nhắc lại, như thể người nào đó lúc trước có thể đã không nghe thấy. Theodore bắt đầu thấy nao núng.
“Không gì cả! Không nhân chứng. Không vật chứng tại hiện trường. Không có gì ngoài câu chuyện nhỏ được sắp đặt gọn gàng, trình tự và hoàn hảo mà ông Hogan vừa chia sẻ cùng các vị, không một lời nào trong đó là chứng cớ. Chỉ là bản phóng tác đầy tính tưởng tượng về chuyện có thể đã xảy ra. Có thể Pete Duffy muốn giết vợ mình. Có thể ông ấy đã lên kế hoạch cẩn thận. Có thể ông ấy lòng vòng trên cái sân golf vắng tanh. Có thể ông ấy đã về nhà chỉ để kịp thực hiện một trong những vụ giết người sạch sẽ nhất lịch sử. Sau đó, có thể ông đã trộm đồ, rời nhà bằng cửa trước, phi trở lại điểm phát bóng số năm và tiếp tục cuộc chơi. Có thể đó là những gì đã xảy ra.”
Ông Nance chậm rãi bước tới bước lui trước bồi thẩm đoàn như thể gõ nhịp cho bài phát biểu của mình.
“Ông Hogan đang yêu cầu các vị, các quý ông quý bà ở đây, chơi trò Có Lẽ Thế. Có thể điều này xảy ra, có lẽ điều kia xảy đến. Và ông ấy muốn quý vị chơi cùng bỏi vì ông không hề có bằng chứng. Ông ấy chẳng có gì cả. Chẳng có gì ngoài một người đàn ông chơi golf một mình, để tâm đến công ty của chính mình, trong khi bà vợ bị giết trong ngôi nhà dễ thương cách đó chưa đầy một dặm.”
Ông Nance ngừng bưới tới bước lui và tiến gần hơn đến các vị bồi thẩm. Ông nhắm vào một quý ông có tuổi ngồi ở hàng ghế đầu và làm như sắp vỗ lên đầu gối người này. Ông hạ giọng, “Tôi hoàn toàn không trách ông Hogan chơi trò Có Lẽ Thế. Bởi ông ấy thực sự cũng không có lựa chọn nào khác, vì ông làm gì có chứng cứ. Ông ấy không có gì ngoài một trí tưởng tượng phong phú.”
Luật sư Nance chuyển hướng sang bên phải, mắt nhìn một phụ nữ độ tuổi trung niên. “Hiến pháp của chúng ta, luật pháp của chúng ta, thủ tục pháp lý của chúng ta, tất cả đều được xây dựng trên nền tảng công bằng. Nghĩa là sao? Là hoàn toàn không có chỗ cho một mớ những cái ‘có thể’. Luật của ta rất rõ ràng. Thẩm phán Gantry sẽ giải thích thêm về điều này sau, lúc ấy, xin quý vị hãy để tâm lắng nghe. Quý vị sẽ không thấy ông một lần nhắc đến từ có thể. Điều quý vị sẽ nghe thấy là luật lệ được hình thành từ lâu đời và nổi tiếng của nước Mỹ quy định khi bên nguyên kết tội bị cáo, bên nguyên phải vận dụng tất cả nguồn lực của mình - các nhà điều tra, cảnh sát, công tố viên, chuyên gia, nhân viên giám định hiện trường, tất cả những con người đầy kinh nghiệm và hiểu biết ấy - và chứng minh rõ ràng rằng ai đó thực sự đã phạm tội.”
Luật sư Nance quay ngoắt sang bên trái, nhìn sáu vị bồi thẩm ở hàng ghế thứ hai với ánh mắt vừa chân thành vừa thuyết phục. Ông nói mà không cần giấy tờ, lời lẽ trơn tru mà không phải nhọc công nghĩ ngại, như thể ông đã nói như vậy cả nghìn lần rồi mà vẫn không hề bớt vẻ say sưa.
“Chứng minh rõ ràng. Chứng minh rõ ràng. Bên nguyên mang một trách nhiệm nặng nề, mà có lẽ họ không thể đáp ứng nổi.”
Ông tạm ngừng, còn mọi người thì nín thở. Ông bước tới bàn bên bị, nhặt tập giấy vàng của mình lên, nhưng không nhìn vào đó. Ông là nam diễn viên chính đứng giữa sân khấu mà lời thoại ông đã thuộc lòng. Ông hắng giọng, rồi cất lời vẫn với âm lượng cao nhất. “Giờ đây, theo luật pháp, ông Pete Duffy không cần bị thẩm vấn, không cần phải mời nhân chứng để bào chữa, không phải chứng minh điều gì cả. Vì sao vậy? À, điều này rất đơn giản. Ông được bảo vệ bởi một trong những vệ sĩ được coi trọng nhất của chúng ta. Đó là quyền giả định vô tội.” Ông Nance quay lại chỉ vào thân chủ mình. “Ông Pete Duffy ngồi đây là một người vô tội, như quý vị, như tôi.”
Ông lại bắt đầu nhịp bước, chầm chậm, không hề rời mắt khỏi các vị bồi thẩm. “Tuy nhiên Pet Duffy chấp thuận thẩm vấn. Ông ấy muốn được thẩm vấn. Ông ấy mong mỏi được chứng minh. Và khi ông ấy ngồi vào chiếc ghế ngay đây, ở vị trí dành cho người làm chứng, ông sẽ khai, ông tuyên thệ sẽ nói sự thật. Sự thật, thưa quý vị, là cái gì đó khác xa câu chuyện nhỏ ông Hogan đã dựng nên. Sự thật, thưa quý vị, là ông Pete Duffy thực sự đang chơi golf vào cái ngày định mệnh ấy, ông ấy chỉ có một mình, chơi một mình theo cách ưa chuộng của ông. Các ghi chép cho thấy ông phát cú bóng đầu tiên lúc 11 giờ 10, rời khỏi điểm phát bóng số một bằng chiếc xe golf cá nhân mà ông vẫn thường đỗ trong gara như bao nhiêu hàng xóm khác. Ông ấy ở trên sân, một mình, trong khi vợ ông ở nhà chuẩn bị đi ăn trong phố. Một tên trộm, một kẻ tội phạm không ai hay biết nào đó mà giờ vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và có lẽ sẽ vẫn còn nhởn nhơ với những gì chúng ta đang làm đây, đã lẻn vào nhà ông bà Duffy vì tưởng lầm nhà vắng chủ. Hệ thống báo động thì tắt. Khóa cửa trước đã mở, và cả cửa sau cũng vậy. Điều này không hề, giờ đây vẫn vậy, không hề bất thường đối với cụm dân cư nơi này. Không may là, tên trộm đối đầu với bà Myra Duffy, tấn công bà bằng tay không vì hắn không mang vũ khí, và tại thời điểm đó hắn trở thành một người khác. Hắn trở thành kẻ sát nhân.”
Luật sư Nance tạm ngừng bài diễn thuyểt, bước đến bên bàn bị cáo, cầm cốc nước lên uống một hơi dài. Mọi người vẫn đang quan sát ông. Chẳng còn gì khác mà quan sát.
“Và hắn vẫn ở ngoài kia!” đột nhiên ông luật sư lại cất tiếng, đúng ra là hô lên. “Hoặc có thể hắn ta đang ở đây,” ông nói, tay chỉ khắp phòng xử án. “Chúng ta đang chơi trò Có Lẽ Thế mà, có thể hắn ta đang ở đây theo dõi phiên xét xử này lắm chứ. Tại sao lại không nhỉ? Chắc chắn hắn được an toàn trước ông Hogan và đội quân của ông.”
Theodore để ý có mấy vị bồi thẩm liếc nhanh về phía khán giả.
Luật sư Nance chuyển chủ đề, nói về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, rằng ông Duffy đúng là đã mua hợp đồng này với điều khoản ông là người được hưởng một triệu đô la trong trường hợp vợ ông chết. Nhưng cũng có một điều khoản tương tự thế, rằng bà Duffy là người được hưởng một triệu đô la trong trường họp chồng bà chết. Họ chỉ đơn giản làm điều mà hầu hết các cặp vợ chồng khác đều làm. Họ mua bảo hiểm kép. Ông Pete Duffy hứa sẽ chứng minh trước bồi thẩm đoàn rằng công việc kinh doanh của ông không hề thê thảm như ông Hogan mô tả. Ông thừa nhận ông bà Duffy đang cố gắng níu kéo cuộc hôn nhân của mình họ đã ly thân hơn một lần, nhưng chưa từng đệ đơn ly hôn. Thực tế, họ đã quyết tâm vượt qua những khác biệt của nhau.
Thầy Mount ngồi ở hàng ghế thứ hai trên ban công, phía sau các học trò của mình. Thầy cố tình chọn vị trí có thể quan sát cả mười sáu cậu học trò, nếu cần. Cho đến giờ, cả đám vẫn nuốt từng lời trong hai bài diễn thuyết mở đầu. Không có gì ngạc nhiên là Theodore còn chăm chú hơn tất cả. Cậu đang ở đúng nơi cậu muốn. Khi luật sư Nance kết thúc, Thẩm phán Gantry thông báo nghỉ trưa.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook