Luật Sư Nhí
-
Chương 4
Lúc 5 giờ kém 15, bà Boone một tay cầm hồ sơ, tay kia tập tài liệu, bước vào văn phòng của Theodore. “Theodore,” bà gọi, cặp kính trắng trễ ngang sống mũi. “Con có thể chạy đưa mấy thứ này qua Phòng án Gia đình để họ kịp lưu trước năm giờ được chứ?”
“Được ạ.”
Theodore bật dậy, với lấy ba lô. Cậu vẫn luôn mong từ một góc nào đó trong công ty này, có người cần gửi gì đó sang tòa án.
“Bài tập của con xong rồi chứ, phải không?”
“Vâng. Không có nhiều bài lắm ạ.”
“Tốt. Và hôm nay là thứ Hai. Con sẽ tới thăm bác Ike, nhớ không? Điều đó rất có ý nghĩa đối với bác ấy đấy.”
Mỗi ngày thứ Hai trong đời cậu, Theodore đều được mẹ nhắc đó là thứ Hai, điều này mang hai ý nghĩa: một là, Theodore phải dành ít nhất ba mươi phút với bác Ike, và hai là, bữa tối hôm đó ăn món Ý ở nhà hàng Robilio. Và chuyến đến nhà hàng Robilio có phần thú vị hơn.
“Vâng, thưa sếp,” Theodore vừa nói vừa cho tài liệu vào ba lô. “Con sẽ gặp bố mẹ ở Robilio.”
“Phải rồi, con yêu, bảy giờ.”
“Con biết rồi ạ,” cậu nói, đoạn mở cửa sau ra. Theodore dặn Judge rằng cậu sẽ trở về trong ít phút nữa.
Bữa tối luôn vào lúc 7 giờ. Ăn ở nhà, chuyện này cũng hiếm vì mẹ cậu không thích nấu ăn, họ ăn lúc 7 giờ. Ăn ngoài hàng, lúc 7 giờ. Trong kỳ nghỉ, 7 giờ. Khi đến thăm nhà bạn bè, họ không thể mất lịch sự gợi ý về giờ ăn, nhưng vì tất cả bạn bè họ đều biết 7 giờ quan trọng như thế nào đối với nhà Boone nên cũng chiều họ. Thi thoảng lắm, khi Theodore qua đêm ở nhà bạn hoặc đi cắm trại hoặc không có mặt ở thị trấn vì lý do nào đấy, cậu rất lấy làm khoái chí được ăn tối trước hoặc sau 7 giờ.
Năm phút sau, Theodore dựng xe trước tòa án, khóa xích lại. Phòng án Gia đình trên tầng ba, cạnh Phòng Di chúc, cùng hành lang với Phòng Hình sự. Còn rất nhiều phòng án khác trong tòa nhà - Giao thông, Bất động sản, Ma túy, Súc vật, Dân sự, Phá sản, mà có lẽ còn một hai phòng xử án nào nữa mà Theodore chưa phát hiện ra.
Cậu hy vọng gặp được April, nhưng cô bé không ở đó. Phòng xử trống không. Các hành lang vắng ngắt.
Cậu mở cánh cửa kính phòng thư ký và bước vào. Jenny người đẹp đang đợi. “A, chào Theodore,” cô nở nụ cười tươi rói, rời mắt khỏi chiếc máy tính đặt trên cái bàn dài và ngước nhìn lên.
“Chào chị, Jenny,” cậu đáp lại. Cô rất xinh đẹp, trẻ trung và Theodore thực sự phải lòng cô. Cậu sẽ cưới cô ngay ngày mai nếu có thể, nhưng tuổi của cậu cộng với anh chồng cô đúng là chuyện nan giải. Chưa kể, cô đang có bầu, và điều này khiến Theodore phiền lòng, dẫu vậy cậu không hé răng với bất kỳ ai.
“Mẹ em gửi cái này” Theodore đưa ra xấp giấy tờ. Jenny nhận lấy, xem qua một lúc, rồi thốt lên, “Ôi trời, lại ly với chả dị.”
Theodore ngắm người con gái ấy không chớp mắt.
Cô đóng dấu, nguệch ngoạc mấy chữ, rồi bắt đầu vào sổ theo dõi.
Theodore chỉ ngắm nhìn cô.
“Chị có tới phiên xử ngày mai không?” cuối cùng, cậu cất lời hỏi.
“Có thể chị ghé qua nếu tranh thủ được. Còn em?”
“Có. Em đang mong đây.”
“Chắc sẽ thú vị, nhỉ?”
Theodore nghiêng người gần hơn một chút rồi nói, “Chị nghĩ ông ta có tội chứ?”
Jenny nghiêng người thậm chí còn gần hơn liếc nhanh xung quanh như thể bí mật của họ rất hệ trọng. “Chắc chắn rồi. Em thì sao?”
“Ờ thì, ông ta được cho là vô tội.”
“Em đã dành quá nhiều thời gian lảng vảng khắp chỗ này, Theodore. Chị hỏi em nghĩ gì cơ mà, có ghi lại vào biên bản đâu.”
“Em nghĩ ông ta có tội.”
“Cùng chờ xem, nhé?” Cô trao cho Theodore một nụ cười vội, rồi quay lại làm nốt công việc.
“Cho em biết, Jenny. Phiên sớm nay, vụ nhà Finnemore ý, hình như xong rồi ạ?”
Cô nhìn quanh đầy vẻ nghi ngại, như thể họ không được phép trao đổi về một vụ còn đang xử. “Thẩm phán Sanford cho tạm ngừng lúc 4 giờ chiều nay, rồi sang sáng mai xử tiếp.”
“Chị có ở trong phòng xử không?”
“Không. Sao em lại hỏi, Theodore?”
“Em học cùng April Finnemore. Bố mẹ bạn ấy ly hôn. Em chỉ tò mò thôi.” “Chị hiểu rồi,” Jermy buồn bã nhíu mày.
Theodore lại trân trân ngắm Jenny. “Chào em, Theodore.”
Cuối sảnh, phòng xử đã khóa. Một nhân viên bảo vệ tòa án không mang súng mà mang dùi cui, mặc bộ đồng phục ngả màu, đang tới gần cửa chính. Theodore biết tất cả các vị quan khâm sai nơi đây, và người này, Đội phó Gossett, là một trong những người hay gắt gỏng nhất. Ông Boone từng giải thích bảo vệ tòa án thường là những cảnh sát đã có tuổi và chậm chạp hơn đồng nghiệp, những người gần kết thúc sự nghiệp cảnh sát. Họ được mang danh mới - “bảo vệ tòa án” và được tái bổ nhiệm làm việc ở tòa án, nơi mọi việc nhàm chán nhưng an toàn hơn trên đường phố.
“Chào cậu, Theodore” Đội phó Gossett cất tiếng, miệng không mỉm cười. “Cháu chào bác Gossett.” “Cái gì mang cậu tới đây vậy?
“Chỉ là mấy thứ hồ sơ giúp bố mẹ cháu.”
“Chỉ vậy thôi sao?”
“Vâng ạ.”
“Cậu chắc là không lượn lờ quanh đây để xem phòng xử đã sẵn sàng cho cái vụ đình đám kia chưa đấy chứ?”
“Cả việc đấy nữa ạ.”
“Ta nhìn ra điều đó mà. Hôm nay cũng có mấy cuộc viếng thăm. Một nhóm phóng viên truyền hình vừa đi khỏi. Hẳn là thú vị đây.”
“Mai bác có trực không ạ?”
“Tất nhiên mai ta trực chứ” Đội phó Gossett nói, hơi ưỡn ngực ra, như thể phiên tòa không thể bắt đầu nếu không có ông vậy. “An ninh sẽ được siết chặt.”
“Sao vậy ạ?” Theodore hỏi mặc dù cậu biết rõ vì sao. Đội phó Gossett cho rằng mình hiểu mọi ngõ ngách luật pháp, như thể ông đã hấp thu được cả một kho kiến thức khổng lồ về luật chỉ bởi ông đã ngồi nghe hết phiên tòa này đến cuộc điều trần kia vậy. (Thường thì khi ấy ông hay lơ mơ ngủ gật). Và cũng giống nhiều người không hiểu biết nhiều như họ nghĩ, Đội phó Gossette sốt sắng chia sẻ nội tình theo mình hiểu cho người có ít thông tin hơn.
Đội phó liếc nhìn đồng hồ, làm bộ làm tịch như lịch làm việc của ông rất sít sao. “Đó là vụ xử tội giết người, một vụ đình đám,” ông ra vẻ quan trọng. Cái này thì đúng, Theodore nghĩ. “Vả lại, những vụ xử án giết người thường thu hút các thành phần có thể đe dọa đến công tác an ninh.”
“Như ai ạ?”
“Theodore này, để ta nói cho dễ hiểu nhé. Mỗi vụ giết người đều có một nạn nhân, và nạn nhân đó có gia đình và bạn bè, mà những người này hiển nhiên không vui vẻ gì với việc người thân của họ bị giết. Cháu hiểu ý ta đang nói không?”
“Có ạ.”
“Và còn có cả bị cáo nữa. Trong vụ này là ông Duffy, người khăng khăng nói rằng mình không có tội. Bị cáo nào mà chẳng nói vậy, tất nhiên, nhưng cứ giả sử là ông ta không có tội đi. Trong trường hợp ấy, hung thủ thực sự đang ở ngoài kia. Hắn có thể sẽ tò mò về phiên tòa.” Đội phó Gossett liếc nhanh xung quanh đầy cảnh giác, như thể kẻ sát nhân có thể đang ở ngay gần đấy và đang thấy chướng tai gai mắt.
Theodore định hỏi: Tại sao tên sát nhân thực sự kia có thể đe dọa công tác an ninh nếu hắn xuất hiện tại phiên tòa? Hắn định làm gì? Giết thêm ai đó chăng?
Trước hàng trăm nhân chứng sao?
“Cháu hiểu rồi,” cuối cùng cậu lại nói, “các bác cần phải cẩn thận mới được.”
“Đảm bảo mọi việc sẽ được kiểm soát.”
“Sáng mai cháu gặp lại bác sau nhé.”
“Cháu cũng đến à?”
“Tất nhiên ạ.”
Đội phó Gossette lắc đầu. “Ta không nghĩ vậy đâu, Theodore. Chỗ này sẽ chật ních. Cháu không kiếm nổi một chỗ ngồi đâu.”
“À, sáng nay cháu đã nói chuyện với Thẩm phán Gantry. Bác ấy hứa dành ghế cho bọn cháu ” Vừa nói, Theòdore vừa bước đi.
Đội phó Gossette không biết phải nói sao. o O o
Ike là bác của Theodore, anh trai của ông Woods Boone. Trước khi Theodore chào đời, bác Ike đã cùng bố mẹ cậu khởi nghiệp công ty Boone & Boone này. Bác là một trong số ít luật sư về thuế ở vùng này. Theo thông tin ít ỏi Theodore có thể thu thập về chủ đề này, ba vị luật sư đã có mối quan hệ vui vẻ và hiệu quả cho đến khi bác Ike mắc sai lầm. Sai lầm tồi tệ. Tồi tệ đến mức bác bị tước giấy phép hành nghề luật. Có mấy dịp, Theodore đã hỏi bố mẹ chính xác thì bác Ike đã sai lầm về việc gì, nhưng bố mẹ cậu luôn từ chối cung cấp tình tiết. Bố mẹ toàn bảo không muốn nói về chuyện đó. Hoặc bảo sẽ giải thích mọi việc khi Theodore đã đủ lớn để hiểu.
Bác Ike vẫn làm công việc về thuế, ở mức độ hạn hẹp hơn. Bác không phải luật sư, cũng không phải kế toán. Nhưng vì bác cũng phải làm gì đó để kiếm sống, nên bác nhận việc khai thuế cho các cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ. Văn phòng của bác trên tầng hai của một tòa nhà cũ trong phố. Tầng một là tiệm ăn nhanh của cặp vợ chồng người Hy Lạp. Bác Ike làm cả thuế cho họ và nhận một phần thù lao bằng năm bữa trưa mỗi tuần.
Vợ bác đã đòi ly dị sau khi bác bị cấm hành nghề. Bác cô độc và nói chung không mấy vui vẻ, nên Theodore thường không thích ghé qua chỗ bác mỗi chiều thứ Hai. Nhưng bác ấy là người thân và điều này rất quan trọng, bố mẹ Theodore bảo thế, mặc dù chẳng mấy khi họ dành thời gian thăm bác.
“Chào cháu, Theodore,” bác gọi to ngay khi Theodore mở cửa bước vào căn phòng dài và lộn xộn.
“Chào Ike.” Mặc dù nhiều tuổi hơn bố Theodore, bác khăng khăng đòi người ta gọi mình là Ike. Giống Elsa, đó là một phần trong nỗ lực của bác hòng giữ lại tuổi trẻ. Bác mặc chiếc quần jean bạc phếch, đi dép xăng đan, mặc áo phông in hình quảng cáo bia, và đeo mấy chiếc vòng xâu hạt ở tay trái. Tóc bác dài, trắng, rối bù, và được buộc túm đuôi ngựa ra đằng sau.
Bác Ike đang ngồi tại bàn, một chiếc bàn rộng chất đầy hồ sơ. Đầu đĩa đang chơi khe khẽ bản Grateful Dead. Tường phòng được phủ lớp giấy dán rẻ tiền, ố màu và bẩn thỉu.
Bà Boone bảo, Ike từng là nhân viên thuế doanh nghiệp điển hình - áo cổ cồn, vest tối màu - trước khi bác dính phốt. Giờ, bác tự huyễn hoặc mình là một tay hippie già, phản đối mọi thứ. Một tay nổi loạn thực sự.
“Thằng cháu yêu quý của ta thế nào?” bác hỏi khi Theodore ngồi vào chiếc ghế đối diện.
“Tuyệt ạ.” Theodore là đứa cháu duy nhất của bác. “Hôm nay bác thế nào ạ?”
Ike huơ tay về phía bãi chiến trường trên bàn, “Vẫn như thường. Dọn dẹp các vụ bê bối tiền bạc của những người không có tiền. Mọi việc ở Boone & Boone thế nào?”
“Vẫn vậy ạ.” Mặc dù chỉ cách bốn dãy nhà, Ike hiếm khi gặp bố mẹ Theodore.
Họ vẫn có phần thân thiết, nhưng chuyện quá khứ quá phức tạp.
“Trường lớp thế nào?”
“Ổn ạ.”
“Toàn điểm A chứ?”
“Vâng. Có lẽ môn hóa A trừ thôi.”
“Ta mong vẫn là A.”
Bác và mọi người đều mong, Theodore nghĩ thầm. Cậu không hiểu theo cách nào hay vì sao Ike lại nghĩ mình có trách nhiệm đưa ra ý kiến về điểm số của Theodore, nhưng cậu cho rằng có bác có chú là phải vậy. Bố mẹ cậu kể rằng Ike rất xuất sắc và đã hoàn thành chương trình đại học chỉ trong ba năm.
“Mẹ cháu khỏe chứ?”
“Mẹ cháu khỏe, làm việc hăng say.” Eke không bao giờ hỏi thăm về ông Boone.
“Ta đoán cháu rất hào hứng với phiên tòa ngày mai.”
“Vâng ạ. Lớp Chính trị bọn cháu sẽ có buổi dự thính ở phòng xử án. Sẽ ở đấy cả ngày. Bác có đến không?” Theodore hỏi, dù đã biết câu trả lời.
Ike khịt mũi vẻ ngán ngẩm. “Ai chứ ta thì không. Ta không tình nguyện bước vào phòng xử. Thêm nữa, ta còn có nhiều việc phải làm.” Đúng kiểu nhà Boone.
“Cháu thì không tài nào đợi được,” Theodore nói.
“Vậy là cháu vẫn muốn làm luật sư, một luật sư của những phiên tòa lớn?” “Điều đó có gì sai ạ?”
“Ô, ta nghĩ là chẳng sai.” Tuần nào hai bác cháu cũng đều trao đổi về vấn đề này. Ike muốn Theodore trở thành kiến trúc sư hay họa sĩ, một công việc gì đó mang tính sáng tạo. “Hầu hết trẻ con đều ước mơ trở thành cảnh sát, lính cứu hỏa, hay một vận động viên vĩ đại, hay một diễn viên nổi tiếng. Ta chưa từng gặp đứa trẻ nào cứ khăng khăng mãi với ý tưởng muốn trở thành luật sư.”
“Ai rồi cũng sẽ trở thành một ai đấy mà.”
“Biết vậy. Luật sư biện hộ Clifford Nance rất cừ. Cháu đã từng xem ông ta biện hộ chưa?”
“Trong một phiên tòa thực sự thì chưa. Cháu đã từng xem bác ấy trong một vụ hòa giải tranh chấp lằng nhằng, không phải ở phiên tòa.”
“Ta biết Clifford rất rõ, ở một điểm. Nhiều năm trước. Ta cá ông ấy sẽ thắng.” “Bác thực sự nghĩ vậy?”
“Chắc chắn. Vụ khởi tố có một điểm yếu, từ những gì ta nghe được.” Mặc dù đang ẩn dật, Ike vẫn giữ sở trường nghe ngóng những tín đôn chôn tòa án. Bố của Theodore nghi ngờ rằng thông tin Ike có được là từ các cuộc bài poker hằng tuần với mấy luật sư về vườnp
“Thực sự không có bằng chứng rằng ông Duffy giết vợ,” Ike nói. “Bên nguyên có thể quy kết động cơ khó chối cãi, hay khơi mào những môi nghi ngờ, nhưng cũng chỉ đến thế.”
“Động cơ gì ạ?” Theodore hỏi dù cậu nghi mình đã biết câu trả lời. Cậu muốn thăm dò xem Ike biết chuyện này đến đâu, ông bác sẵn sàng chia sẻ đến mức nào.
“Tiền. Một triệu đô la. Hai năm trước, ông Duffy đã mua khoản bảo hiểm nhân thọ một triệu đô cho bà vợ. Trong trường họp bà vợ chết, ông ấy được hưởng một triệu đó. Việc làm ăn của ông ấy không suôn sẻ. Ông ấy cần tiền mặt, nên giả thiết là, theo nghĩa đen nhé, ông ấy đã ra tay giải quyết vấn đề.”
“Bóp cổ bà ấy ư?” Theodore đọc tất cả các bài báo viết về vụ giết người này và cũng đã biết nguyên nhân cái chết.
“Đó là giả thiết. Bà ấy chết vì bị bóp cổ. Bên nguyên sẽ cáo buộc là ông Duffy đã bóp cổ bà ấy, sau đó lục tung mọi thứ lên, lấy nữ trang, cố làm hiện trường như bà bước vào đúng lúc nhà đang có trộm.”
“Ông Nance sẽ dùng chiêu bài gì và chứng minh điều gì?”
“Ông ấy không phải chứng minh điều gì, nhưng ông ấy sẽ cãi là không có bằng chứng, không có chứng cớ cho thấy ông Duffy có mặt tại hiện trường vụ án. Theo ta hiểu, không có nhân chứng thấy ông ta ở đó. Đây là một vụ khó nhằn đối với bên khỏi tố.”
“Bác có nghĩ ông ấy có tội không?”
Ike bẻ ít nhất tám đốt tay kêu răng rắc, đan tay ra sau đầu. Ông nghĩ một lúc rồi mới lên tiếng, “Có thể. Ta cá là Duffy đã lên ké hoạch rất cẩn thận và mọi việc đang xuôi theo hướng ông ấy muốn. Mấy người bọn họ ngoài kia vẫn hay làm những việc lạ lùng.”
“Mấy người bọn họ” là cư dân Waverly Creeki một cộng đồng giàu có xây dựng quanh sân golf hal mươi bảy lỗ và có cổng bao bảo vệ. Họ là những cu dân mới, đối lập với một cộng đồng yên ổn hơn trong thị trấn, những người vẫn luôn tự cho mình là công dân đích thực của Strattenburg. Người ta hay dùng cụm từ “Bọn họ sống ở khu Creek” để gọi những người đóng góp cho cộng đồng thì ít mà quan tâm đến tiền bạc thì nhiều. Sự chia cắt này không mấy có lý đối với Theodore. Cậu có bạn bè sống ở bên đấy. Bố mẹ cậu có khách hàng ở Waverly Creek. Nơi đó chỉ cách thị trấn hai dặm về phía Đông, nhưng thường bị coi như thuộc hành tinh khác.
Bà Boone bảo những người ở thị trấn nhỏ tốn quá nhiều thời gian cho việc so đo người trên kẻ dưới. Bà giảng giải cho Theodore từ ngày cậu còn nhỏ rằng phán xét người khác là xấu.
Cuộc nói chuyện nhanh chóng chuyển sang chủ đề bóng chày, và tất nhiên là về đội Yankees. Ike là cổ động viên điên cuồng của Yarikees và khoái tuôn ra hàng tràng thông tin về các cầu thủ yêu thích của mình. Mặc dù đang là tháng Tư, ông đã dự đoán đội sẽ chiến thắng thêm một cúp Thế giới nữa. Theodore tranh cãi như thường lệ, nhưng vì là cổ động viên của đội Twins, cậu không có mấy đạn dược để bắn trả.
Sau ba mươi phút, cậu ra về với lời hứa tuần sau sẽ lại ghé qua.
“Hãy tập trung hơn vào môn Hóa,” Ike nghiêm khắc dặn dò.
“Được ạ.”
Theodore bật dậy, với lấy ba lô. Cậu vẫn luôn mong từ một góc nào đó trong công ty này, có người cần gửi gì đó sang tòa án.
“Bài tập của con xong rồi chứ, phải không?”
“Vâng. Không có nhiều bài lắm ạ.”
“Tốt. Và hôm nay là thứ Hai. Con sẽ tới thăm bác Ike, nhớ không? Điều đó rất có ý nghĩa đối với bác ấy đấy.”
Mỗi ngày thứ Hai trong đời cậu, Theodore đều được mẹ nhắc đó là thứ Hai, điều này mang hai ý nghĩa: một là, Theodore phải dành ít nhất ba mươi phút với bác Ike, và hai là, bữa tối hôm đó ăn món Ý ở nhà hàng Robilio. Và chuyến đến nhà hàng Robilio có phần thú vị hơn.
“Vâng, thưa sếp,” Theodore vừa nói vừa cho tài liệu vào ba lô. “Con sẽ gặp bố mẹ ở Robilio.”
“Phải rồi, con yêu, bảy giờ.”
“Con biết rồi ạ,” cậu nói, đoạn mở cửa sau ra. Theodore dặn Judge rằng cậu sẽ trở về trong ít phút nữa.
Bữa tối luôn vào lúc 7 giờ. Ăn ở nhà, chuyện này cũng hiếm vì mẹ cậu không thích nấu ăn, họ ăn lúc 7 giờ. Ăn ngoài hàng, lúc 7 giờ. Trong kỳ nghỉ, 7 giờ. Khi đến thăm nhà bạn bè, họ không thể mất lịch sự gợi ý về giờ ăn, nhưng vì tất cả bạn bè họ đều biết 7 giờ quan trọng như thế nào đối với nhà Boone nên cũng chiều họ. Thi thoảng lắm, khi Theodore qua đêm ở nhà bạn hoặc đi cắm trại hoặc không có mặt ở thị trấn vì lý do nào đấy, cậu rất lấy làm khoái chí được ăn tối trước hoặc sau 7 giờ.
Năm phút sau, Theodore dựng xe trước tòa án, khóa xích lại. Phòng án Gia đình trên tầng ba, cạnh Phòng Di chúc, cùng hành lang với Phòng Hình sự. Còn rất nhiều phòng án khác trong tòa nhà - Giao thông, Bất động sản, Ma túy, Súc vật, Dân sự, Phá sản, mà có lẽ còn một hai phòng xử án nào nữa mà Theodore chưa phát hiện ra.
Cậu hy vọng gặp được April, nhưng cô bé không ở đó. Phòng xử trống không. Các hành lang vắng ngắt.
Cậu mở cánh cửa kính phòng thư ký và bước vào. Jenny người đẹp đang đợi. “A, chào Theodore,” cô nở nụ cười tươi rói, rời mắt khỏi chiếc máy tính đặt trên cái bàn dài và ngước nhìn lên.
“Chào chị, Jenny,” cậu đáp lại. Cô rất xinh đẹp, trẻ trung và Theodore thực sự phải lòng cô. Cậu sẽ cưới cô ngay ngày mai nếu có thể, nhưng tuổi của cậu cộng với anh chồng cô đúng là chuyện nan giải. Chưa kể, cô đang có bầu, và điều này khiến Theodore phiền lòng, dẫu vậy cậu không hé răng với bất kỳ ai.
“Mẹ em gửi cái này” Theodore đưa ra xấp giấy tờ. Jenny nhận lấy, xem qua một lúc, rồi thốt lên, “Ôi trời, lại ly với chả dị.”
Theodore ngắm người con gái ấy không chớp mắt.
Cô đóng dấu, nguệch ngoạc mấy chữ, rồi bắt đầu vào sổ theo dõi.
Theodore chỉ ngắm nhìn cô.
“Chị có tới phiên xử ngày mai không?” cuối cùng, cậu cất lời hỏi.
“Có thể chị ghé qua nếu tranh thủ được. Còn em?”
“Có. Em đang mong đây.”
“Chắc sẽ thú vị, nhỉ?”
Theodore nghiêng người gần hơn một chút rồi nói, “Chị nghĩ ông ta có tội chứ?”
Jenny nghiêng người thậm chí còn gần hơn liếc nhanh xung quanh như thể bí mật của họ rất hệ trọng. “Chắc chắn rồi. Em thì sao?”
“Ờ thì, ông ta được cho là vô tội.”
“Em đã dành quá nhiều thời gian lảng vảng khắp chỗ này, Theodore. Chị hỏi em nghĩ gì cơ mà, có ghi lại vào biên bản đâu.”
“Em nghĩ ông ta có tội.”
“Cùng chờ xem, nhé?” Cô trao cho Theodore một nụ cười vội, rồi quay lại làm nốt công việc.
“Cho em biết, Jenny. Phiên sớm nay, vụ nhà Finnemore ý, hình như xong rồi ạ?”
Cô nhìn quanh đầy vẻ nghi ngại, như thể họ không được phép trao đổi về một vụ còn đang xử. “Thẩm phán Sanford cho tạm ngừng lúc 4 giờ chiều nay, rồi sang sáng mai xử tiếp.”
“Chị có ở trong phòng xử không?”
“Không. Sao em lại hỏi, Theodore?”
“Em học cùng April Finnemore. Bố mẹ bạn ấy ly hôn. Em chỉ tò mò thôi.” “Chị hiểu rồi,” Jermy buồn bã nhíu mày.
Theodore lại trân trân ngắm Jenny. “Chào em, Theodore.”
Cuối sảnh, phòng xử đã khóa. Một nhân viên bảo vệ tòa án không mang súng mà mang dùi cui, mặc bộ đồng phục ngả màu, đang tới gần cửa chính. Theodore biết tất cả các vị quan khâm sai nơi đây, và người này, Đội phó Gossett, là một trong những người hay gắt gỏng nhất. Ông Boone từng giải thích bảo vệ tòa án thường là những cảnh sát đã có tuổi và chậm chạp hơn đồng nghiệp, những người gần kết thúc sự nghiệp cảnh sát. Họ được mang danh mới - “bảo vệ tòa án” và được tái bổ nhiệm làm việc ở tòa án, nơi mọi việc nhàm chán nhưng an toàn hơn trên đường phố.
“Chào cậu, Theodore” Đội phó Gossett cất tiếng, miệng không mỉm cười. “Cháu chào bác Gossett.” “Cái gì mang cậu tới đây vậy?
“Chỉ là mấy thứ hồ sơ giúp bố mẹ cháu.”
“Chỉ vậy thôi sao?”
“Vâng ạ.”
“Cậu chắc là không lượn lờ quanh đây để xem phòng xử đã sẵn sàng cho cái vụ đình đám kia chưa đấy chứ?”
“Cả việc đấy nữa ạ.”
“Ta nhìn ra điều đó mà. Hôm nay cũng có mấy cuộc viếng thăm. Một nhóm phóng viên truyền hình vừa đi khỏi. Hẳn là thú vị đây.”
“Mai bác có trực không ạ?”
“Tất nhiên mai ta trực chứ” Đội phó Gossett nói, hơi ưỡn ngực ra, như thể phiên tòa không thể bắt đầu nếu không có ông vậy. “An ninh sẽ được siết chặt.”
“Sao vậy ạ?” Theodore hỏi mặc dù cậu biết rõ vì sao. Đội phó Gossett cho rằng mình hiểu mọi ngõ ngách luật pháp, như thể ông đã hấp thu được cả một kho kiến thức khổng lồ về luật chỉ bởi ông đã ngồi nghe hết phiên tòa này đến cuộc điều trần kia vậy. (Thường thì khi ấy ông hay lơ mơ ngủ gật). Và cũng giống nhiều người không hiểu biết nhiều như họ nghĩ, Đội phó Gossette sốt sắng chia sẻ nội tình theo mình hiểu cho người có ít thông tin hơn.
Đội phó liếc nhìn đồng hồ, làm bộ làm tịch như lịch làm việc của ông rất sít sao. “Đó là vụ xử tội giết người, một vụ đình đám,” ông ra vẻ quan trọng. Cái này thì đúng, Theodore nghĩ. “Vả lại, những vụ xử án giết người thường thu hút các thành phần có thể đe dọa đến công tác an ninh.”
“Như ai ạ?”
“Theodore này, để ta nói cho dễ hiểu nhé. Mỗi vụ giết người đều có một nạn nhân, và nạn nhân đó có gia đình và bạn bè, mà những người này hiển nhiên không vui vẻ gì với việc người thân của họ bị giết. Cháu hiểu ý ta đang nói không?”
“Có ạ.”
“Và còn có cả bị cáo nữa. Trong vụ này là ông Duffy, người khăng khăng nói rằng mình không có tội. Bị cáo nào mà chẳng nói vậy, tất nhiên, nhưng cứ giả sử là ông ta không có tội đi. Trong trường hợp ấy, hung thủ thực sự đang ở ngoài kia. Hắn có thể sẽ tò mò về phiên tòa.” Đội phó Gossett liếc nhanh xung quanh đầy cảnh giác, như thể kẻ sát nhân có thể đang ở ngay gần đấy và đang thấy chướng tai gai mắt.
Theodore định hỏi: Tại sao tên sát nhân thực sự kia có thể đe dọa công tác an ninh nếu hắn xuất hiện tại phiên tòa? Hắn định làm gì? Giết thêm ai đó chăng?
Trước hàng trăm nhân chứng sao?
“Cháu hiểu rồi,” cuối cùng cậu lại nói, “các bác cần phải cẩn thận mới được.”
“Đảm bảo mọi việc sẽ được kiểm soát.”
“Sáng mai cháu gặp lại bác sau nhé.”
“Cháu cũng đến à?”
“Tất nhiên ạ.”
Đội phó Gossette lắc đầu. “Ta không nghĩ vậy đâu, Theodore. Chỗ này sẽ chật ních. Cháu không kiếm nổi một chỗ ngồi đâu.”
“À, sáng nay cháu đã nói chuyện với Thẩm phán Gantry. Bác ấy hứa dành ghế cho bọn cháu ” Vừa nói, Theòdore vừa bước đi.
Đội phó Gossette không biết phải nói sao. o O o
Ike là bác của Theodore, anh trai của ông Woods Boone. Trước khi Theodore chào đời, bác Ike đã cùng bố mẹ cậu khởi nghiệp công ty Boone & Boone này. Bác là một trong số ít luật sư về thuế ở vùng này. Theo thông tin ít ỏi Theodore có thể thu thập về chủ đề này, ba vị luật sư đã có mối quan hệ vui vẻ và hiệu quả cho đến khi bác Ike mắc sai lầm. Sai lầm tồi tệ. Tồi tệ đến mức bác bị tước giấy phép hành nghề luật. Có mấy dịp, Theodore đã hỏi bố mẹ chính xác thì bác Ike đã sai lầm về việc gì, nhưng bố mẹ cậu luôn từ chối cung cấp tình tiết. Bố mẹ toàn bảo không muốn nói về chuyện đó. Hoặc bảo sẽ giải thích mọi việc khi Theodore đã đủ lớn để hiểu.
Bác Ike vẫn làm công việc về thuế, ở mức độ hạn hẹp hơn. Bác không phải luật sư, cũng không phải kế toán. Nhưng vì bác cũng phải làm gì đó để kiếm sống, nên bác nhận việc khai thuế cho các cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ. Văn phòng của bác trên tầng hai của một tòa nhà cũ trong phố. Tầng một là tiệm ăn nhanh của cặp vợ chồng người Hy Lạp. Bác Ike làm cả thuế cho họ và nhận một phần thù lao bằng năm bữa trưa mỗi tuần.
Vợ bác đã đòi ly dị sau khi bác bị cấm hành nghề. Bác cô độc và nói chung không mấy vui vẻ, nên Theodore thường không thích ghé qua chỗ bác mỗi chiều thứ Hai. Nhưng bác ấy là người thân và điều này rất quan trọng, bố mẹ Theodore bảo thế, mặc dù chẳng mấy khi họ dành thời gian thăm bác.
“Chào cháu, Theodore,” bác gọi to ngay khi Theodore mở cửa bước vào căn phòng dài và lộn xộn.
“Chào Ike.” Mặc dù nhiều tuổi hơn bố Theodore, bác khăng khăng đòi người ta gọi mình là Ike. Giống Elsa, đó là một phần trong nỗ lực của bác hòng giữ lại tuổi trẻ. Bác mặc chiếc quần jean bạc phếch, đi dép xăng đan, mặc áo phông in hình quảng cáo bia, và đeo mấy chiếc vòng xâu hạt ở tay trái. Tóc bác dài, trắng, rối bù, và được buộc túm đuôi ngựa ra đằng sau.
Bác Ike đang ngồi tại bàn, một chiếc bàn rộng chất đầy hồ sơ. Đầu đĩa đang chơi khe khẽ bản Grateful Dead. Tường phòng được phủ lớp giấy dán rẻ tiền, ố màu và bẩn thỉu.
Bà Boone bảo, Ike từng là nhân viên thuế doanh nghiệp điển hình - áo cổ cồn, vest tối màu - trước khi bác dính phốt. Giờ, bác tự huyễn hoặc mình là một tay hippie già, phản đối mọi thứ. Một tay nổi loạn thực sự.
“Thằng cháu yêu quý của ta thế nào?” bác hỏi khi Theodore ngồi vào chiếc ghế đối diện.
“Tuyệt ạ.” Theodore là đứa cháu duy nhất của bác. “Hôm nay bác thế nào ạ?”
Ike huơ tay về phía bãi chiến trường trên bàn, “Vẫn như thường. Dọn dẹp các vụ bê bối tiền bạc của những người không có tiền. Mọi việc ở Boone & Boone thế nào?”
“Vẫn vậy ạ.” Mặc dù chỉ cách bốn dãy nhà, Ike hiếm khi gặp bố mẹ Theodore.
Họ vẫn có phần thân thiết, nhưng chuyện quá khứ quá phức tạp.
“Trường lớp thế nào?”
“Ổn ạ.”
“Toàn điểm A chứ?”
“Vâng. Có lẽ môn hóa A trừ thôi.”
“Ta mong vẫn là A.”
Bác và mọi người đều mong, Theodore nghĩ thầm. Cậu không hiểu theo cách nào hay vì sao Ike lại nghĩ mình có trách nhiệm đưa ra ý kiến về điểm số của Theodore, nhưng cậu cho rằng có bác có chú là phải vậy. Bố mẹ cậu kể rằng Ike rất xuất sắc và đã hoàn thành chương trình đại học chỉ trong ba năm.
“Mẹ cháu khỏe chứ?”
“Mẹ cháu khỏe, làm việc hăng say.” Eke không bao giờ hỏi thăm về ông Boone.
“Ta đoán cháu rất hào hứng với phiên tòa ngày mai.”
“Vâng ạ. Lớp Chính trị bọn cháu sẽ có buổi dự thính ở phòng xử án. Sẽ ở đấy cả ngày. Bác có đến không?” Theodore hỏi, dù đã biết câu trả lời.
Ike khịt mũi vẻ ngán ngẩm. “Ai chứ ta thì không. Ta không tình nguyện bước vào phòng xử. Thêm nữa, ta còn có nhiều việc phải làm.” Đúng kiểu nhà Boone.
“Cháu thì không tài nào đợi được,” Theodore nói.
“Vậy là cháu vẫn muốn làm luật sư, một luật sư của những phiên tòa lớn?” “Điều đó có gì sai ạ?”
“Ô, ta nghĩ là chẳng sai.” Tuần nào hai bác cháu cũng đều trao đổi về vấn đề này. Ike muốn Theodore trở thành kiến trúc sư hay họa sĩ, một công việc gì đó mang tính sáng tạo. “Hầu hết trẻ con đều ước mơ trở thành cảnh sát, lính cứu hỏa, hay một vận động viên vĩ đại, hay một diễn viên nổi tiếng. Ta chưa từng gặp đứa trẻ nào cứ khăng khăng mãi với ý tưởng muốn trở thành luật sư.”
“Ai rồi cũng sẽ trở thành một ai đấy mà.”
“Biết vậy. Luật sư biện hộ Clifford Nance rất cừ. Cháu đã từng xem ông ta biện hộ chưa?”
“Trong một phiên tòa thực sự thì chưa. Cháu đã từng xem bác ấy trong một vụ hòa giải tranh chấp lằng nhằng, không phải ở phiên tòa.”
“Ta biết Clifford rất rõ, ở một điểm. Nhiều năm trước. Ta cá ông ấy sẽ thắng.” “Bác thực sự nghĩ vậy?”
“Chắc chắn. Vụ khởi tố có một điểm yếu, từ những gì ta nghe được.” Mặc dù đang ẩn dật, Ike vẫn giữ sở trường nghe ngóng những tín đôn chôn tòa án. Bố của Theodore nghi ngờ rằng thông tin Ike có được là từ các cuộc bài poker hằng tuần với mấy luật sư về vườnp
“Thực sự không có bằng chứng rằng ông Duffy giết vợ,” Ike nói. “Bên nguyên có thể quy kết động cơ khó chối cãi, hay khơi mào những môi nghi ngờ, nhưng cũng chỉ đến thế.”
“Động cơ gì ạ?” Theodore hỏi dù cậu nghi mình đã biết câu trả lời. Cậu muốn thăm dò xem Ike biết chuyện này đến đâu, ông bác sẵn sàng chia sẻ đến mức nào.
“Tiền. Một triệu đô la. Hai năm trước, ông Duffy đã mua khoản bảo hiểm nhân thọ một triệu đô cho bà vợ. Trong trường họp bà vợ chết, ông ấy được hưởng một triệu đó. Việc làm ăn của ông ấy không suôn sẻ. Ông ấy cần tiền mặt, nên giả thiết là, theo nghĩa đen nhé, ông ấy đã ra tay giải quyết vấn đề.”
“Bóp cổ bà ấy ư?” Theodore đọc tất cả các bài báo viết về vụ giết người này và cũng đã biết nguyên nhân cái chết.
“Đó là giả thiết. Bà ấy chết vì bị bóp cổ. Bên nguyên sẽ cáo buộc là ông Duffy đã bóp cổ bà ấy, sau đó lục tung mọi thứ lên, lấy nữ trang, cố làm hiện trường như bà bước vào đúng lúc nhà đang có trộm.”
“Ông Nance sẽ dùng chiêu bài gì và chứng minh điều gì?”
“Ông ấy không phải chứng minh điều gì, nhưng ông ấy sẽ cãi là không có bằng chứng, không có chứng cớ cho thấy ông Duffy có mặt tại hiện trường vụ án. Theo ta hiểu, không có nhân chứng thấy ông ta ở đó. Đây là một vụ khó nhằn đối với bên khỏi tố.”
“Bác có nghĩ ông ấy có tội không?”
Ike bẻ ít nhất tám đốt tay kêu răng rắc, đan tay ra sau đầu. Ông nghĩ một lúc rồi mới lên tiếng, “Có thể. Ta cá là Duffy đã lên ké hoạch rất cẩn thận và mọi việc đang xuôi theo hướng ông ấy muốn. Mấy người bọn họ ngoài kia vẫn hay làm những việc lạ lùng.”
“Mấy người bọn họ” là cư dân Waverly Creeki một cộng đồng giàu có xây dựng quanh sân golf hal mươi bảy lỗ và có cổng bao bảo vệ. Họ là những cu dân mới, đối lập với một cộng đồng yên ổn hơn trong thị trấn, những người vẫn luôn tự cho mình là công dân đích thực của Strattenburg. Người ta hay dùng cụm từ “Bọn họ sống ở khu Creek” để gọi những người đóng góp cho cộng đồng thì ít mà quan tâm đến tiền bạc thì nhiều. Sự chia cắt này không mấy có lý đối với Theodore. Cậu có bạn bè sống ở bên đấy. Bố mẹ cậu có khách hàng ở Waverly Creek. Nơi đó chỉ cách thị trấn hai dặm về phía Đông, nhưng thường bị coi như thuộc hành tinh khác.
Bà Boone bảo những người ở thị trấn nhỏ tốn quá nhiều thời gian cho việc so đo người trên kẻ dưới. Bà giảng giải cho Theodore từ ngày cậu còn nhỏ rằng phán xét người khác là xấu.
Cuộc nói chuyện nhanh chóng chuyển sang chủ đề bóng chày, và tất nhiên là về đội Yankees. Ike là cổ động viên điên cuồng của Yarikees và khoái tuôn ra hàng tràng thông tin về các cầu thủ yêu thích của mình. Mặc dù đang là tháng Tư, ông đã dự đoán đội sẽ chiến thắng thêm một cúp Thế giới nữa. Theodore tranh cãi như thường lệ, nhưng vì là cổ động viên của đội Twins, cậu không có mấy đạn dược để bắn trả.
Sau ba mươi phút, cậu ra về với lời hứa tuần sau sẽ lại ghé qua.
“Hãy tập trung hơn vào môn Hóa,” Ike nghiêm khắc dặn dò.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook