Lolita
-
Chương 60
Tôi lại trên đường, lại trước vô lăng chiếc sedan cũ màu xanh lơ, lại một mình. Rita vẫn còn đang mê mệt chẳng biết trời đất là gì khi tôi đọc lá thư ấy và chiến đấu với những ngọn núi thống khổ đang mọc lên trong lòng. Tôi đưa mắt nhìn ả đúng lúc ả nhoẻn miệng cười trong giấc ngủ của mình và tôi hôn lên cái trán ướt lấp nhấp của ả, và vĩnh viễn rời xa ả, để lại bức thư ngắn âu yếm chào vĩnh biệt mà tôi dán bằng băng dính vào rốn ả — nếu không thì ả có lẽ chẳng tìm thấy nó đâu.
Có phải tôi đã nói "một mình" không nhỉ? Pas tout à fait[1]. Tôi có người bạn nhỏ màu đen bên người, và ngay khi tôi đến được một nơi hẻo lánh, tôi liền diễn tập vụ bức tử ngài Richard F. Schiller. Tôi kiếm được cái áo len dài tay màu xám rất cũ và rất bẩn của mình đằng sau xe, và tôi treo nó lên cành cây, ở một cái trảng câm lặng, mà tôi vừa đến bằng con đường rừng từ quốc lộ giờ đã xa. Việc thi hành bản án đã bị làm hỏng chút xíu bởi tôi thấy cò súng vận hành có vẻ không được trơn tru, và tôi tự hỏi không biết mình có nên kiếm ít dầu cho món đồ bí ẩn này không, nhưng quyết định là tôi không thừa thời gian. Chiếc áo len cũ đã chết lại quay về xe, giờ đây có thêm vài lỗ thủng, và sau khi nạp đạn xong cho Anh Bạn âm ấm ấy, tôi tiếp tục hành trình của mình.
Lá thư đề ngày 18 tháng Chín năm 1952 (hôm ấy là 22 tháng Chín), và địa chỉ nàng đưa là "Bưu Ký Coalmont" (không phải "Va.", không phải "Pa.", không phải "Tenn."[2] — và dù gì chăng nữa thì cũng chẳng phải Coalmont — anh đã ngụy trang tất cả mọi thứ, tình yêu của anh ơi). Điều tra cho thấy đó là khu công nghiệp nhỏ nằm cách thành phố New York khoảng tám trăm dặm. Đầu tiên tôi định lái xe cả ngày cả đêm, nhưng sau đó nghĩ tốt hơn là nghỉ ngơi đôi ba tiếng lúc gần bình minh ở một căn phòng motel, vài dặm trước khi vào đến thị trấn. Tôi đã chuẩn bị tư tưởng rằng con quỷ này, gã Schiller này, là một tay bán xe hơi, kẻ có lẽ đã tìm hiểu Lolita của tôi bằng cách lái xe đưa nàng đi chơi tại Beardsley — vào cái ngày chiếc xe đạp của nàng bị bể bánh trên đường đến chỗ Cô Emperor — và rằng từ lúc đó gã bắt đầu gặp phải mấy chuyện lôi thôi rắc rối. Xác cái áo nịt len bị hành hình, bất kể tôi thay đổi đường nét của nó thế nào lúc nó nằm trên ghế sau xe, vẫn giữ nguyên những hình dạng biểu lộ khác nhau liên quan đến Trapp-Schiller — tới sự thân thiện thô bỉ và tục tĩu thuộc cơ thể hắn, và để trung hòa thị hiếu thô lậu lệch lạc ấy của hắn, tôi quyết tâm sẽ làm cho mình đặc biệt đẹp trai và thông minh vào lúc tôi nhấn núm đồng hồ báo thức về đúng vị trí cũ trước khi nó nổ bùng tại thời điểm đã định là sáu giờ sáng. Sau đó, với sự cẩn trọng nghiêm khắc và lãng mạn của một quý ông sắp tham gia cuộc đấu súng, tôi kiểm tra sắp xếp lại giấy tờ, tắm rửa và xức nước hoa cho cơ thể nay ốm mai đau của mình, cạo mặt và ngực, lựa chiếc sơ mi lụa và cái quần lót dài sạch sẽ, xỏ đôi tất màu nâu sẫm trong suốt, và tự chúc mừng mình vì trong rương có sẵn vài món quần áo tuyệt đẹp — chẳng hạn như chiếc gi-lê có những cái nút xà cừ, chiếc cà vạt bằng vải casơmia nhạt màu và vân vân.
Ôi trời ơi, tôi chẳng cầm giữ được bữa sáng của mình, nhưng bỏ qua tình trạng thể chất ấy như chuyện rầy rà không đáng phải lưu tâm, lau miệng bằng cái khăn mùi xoa mỏng như tơ được rút ra từ tay áo, và với khối nước đá xanh biếc thay chỗ trái tim, viên thuốc trên lưỡi và thần chết rắn chắc trong túi sau mông, tôi bước nhanh nhẹn vào một bốt điện thoại ở Coalmont (Á-à-a, cái cửa nhỏ của nó rít lên) và gọi cho gã Schiller duy nhất — tên Paul, Đồ Nội Thất — tìm được trong cuốn danh bạ sờn rách. Paul khàn bảo tôi là gã có biết một anh Richard nào đó, con trai người em họ của gã, và địa chỉ anh ấy là, để tôi xem nào, số 10 phố Sát Thủ (tôi không thành công lắm với những biệt danh của mình). A-à-á, cái cửa nhỏ lại kêu.
Tại số 10 phố Sát Thủ, một tòa chung cư, tôi dò hỏi mấy người già rầu rĩ và hai nymphet tóc-dài nâu-vàng người ngợm bẩn thỉu đến mức không thể tin nổi (con thú cổ xưa trong tôi ngó nghiêng xung quanh một cách khá là lơ đãng, chỉ cho vui mà thôi, để kiếm đứa trẻ ăn bận sơ sài nào đó mà tôi có thể ôm riết vào lòng một lát, sau khi vụ giết người đã xong và chẳng còn gì có ý nghĩa nữa, và tất cả mọi thứ đều được cho phép). Vâng, Dick Skiller từng sống ở đây, nhưng đã chuyển đi khi nó lập gia đình. Chẳng ai biết địa chỉ nó đâu. "Có thể ở chỗ cửa hàng họ biết đấy," một giọng nam trầm cất lên từ cái lỗ cống mở toang ngay gần nơi tôi tình cờ đứng với hai cô bé có đôi tay mảnh mai, chân trần và những người bà lờ mờ của họ. Tôi bước vào nhầm cửa hàng và thằng Nhọ già đầy vẻ cảnh giác lắc lắc cái đầu lão thậm chí trước khi tôi kịp hỏi bất cứ điều gì. Tôi đi ngang phố qua tiệm tạp phẩm trống trải và ở đó, được triệu tập bởi một vị khách theo lời thỉnh cầu của tôi, một giọng nữ từ cái vực thẳm bằng gỗ nào đó dưới tầng hầm, bản sao của cái lỗ cống, gào lên: Phố Thợ Săn, nhà cuối cùng.
Phố Thợ Săn cách đó vài dặm, trong khu vực thậm chí còn buồn thảm hơn, toàn rác rến và cống rãnh, vườn rau nhung nhúc sâu, nhà ổ chuột, mưa phùn xám xịt, bùn đỏ, và vài ống khói đang nhả khói đằng xa. Tôi dừng lại ở "ngôi nhà" cuối cùng — một túp lều ổ chuột chắp vá bằng những tấm ván gỗ, cùng hai hay ba cái tương tự như thế nằm xa đường cái hơn nữa và cảnh thê lương ngập ngụa cỏ dại héo quắt bốn chung quanh. Tiếng quai búa vọng đến từ đằng sau nhà, và trong vài phút tôi ngồi hoàn toàn bất động trong chiếc xe cũ rích của mình, cũ rích và mong manh, tại điểm cuối cùng của hành trình của tôi, tại cái đích xám xịt của tôi, finis[3], bạn bè của tôi, finis, lũ quỷ của tôi. Lúc ấy đâu đó vào khoảng hai giờ. Nhịp tim tôi là 40 lần một phút và 100 lần vào ngay phút sau. Cơn mưa phùn rơi lách tách lên mui xe. Khẩu súng của tôi đã chuyển chỗ qua túi quần bên phải. Con chó cỏ lao ra từ đằng sau nhà, đứng sững lại đầy vẻ ngạc nhiên, và bắt đầu thân thiện sủa gâu gâu với tôi, đôi mắt nó lim dim, cái bụng bờm xờm lông lá của nó lấm lem đầy bùn đất, sau đó nó đi vòng quanh một chút và lại bắt đầu sủa tiếp.
[1]. Tiếng Pháp. Không hẳn.
[2]. Va.: viết tắt tên bang Virginia; Pa.: viết tắt tên bang Pensylvania; Tenn.: viết tắt tên bang Tennessee.
[3]. Hết rồi.
Có phải tôi đã nói "một mình" không nhỉ? Pas tout à fait[1]. Tôi có người bạn nhỏ màu đen bên người, và ngay khi tôi đến được một nơi hẻo lánh, tôi liền diễn tập vụ bức tử ngài Richard F. Schiller. Tôi kiếm được cái áo len dài tay màu xám rất cũ và rất bẩn của mình đằng sau xe, và tôi treo nó lên cành cây, ở một cái trảng câm lặng, mà tôi vừa đến bằng con đường rừng từ quốc lộ giờ đã xa. Việc thi hành bản án đã bị làm hỏng chút xíu bởi tôi thấy cò súng vận hành có vẻ không được trơn tru, và tôi tự hỏi không biết mình có nên kiếm ít dầu cho món đồ bí ẩn này không, nhưng quyết định là tôi không thừa thời gian. Chiếc áo len cũ đã chết lại quay về xe, giờ đây có thêm vài lỗ thủng, và sau khi nạp đạn xong cho Anh Bạn âm ấm ấy, tôi tiếp tục hành trình của mình.
Lá thư đề ngày 18 tháng Chín năm 1952 (hôm ấy là 22 tháng Chín), và địa chỉ nàng đưa là "Bưu Ký Coalmont" (không phải "Va.", không phải "Pa.", không phải "Tenn."[2] — và dù gì chăng nữa thì cũng chẳng phải Coalmont — anh đã ngụy trang tất cả mọi thứ, tình yêu của anh ơi). Điều tra cho thấy đó là khu công nghiệp nhỏ nằm cách thành phố New York khoảng tám trăm dặm. Đầu tiên tôi định lái xe cả ngày cả đêm, nhưng sau đó nghĩ tốt hơn là nghỉ ngơi đôi ba tiếng lúc gần bình minh ở một căn phòng motel, vài dặm trước khi vào đến thị trấn. Tôi đã chuẩn bị tư tưởng rằng con quỷ này, gã Schiller này, là một tay bán xe hơi, kẻ có lẽ đã tìm hiểu Lolita của tôi bằng cách lái xe đưa nàng đi chơi tại Beardsley — vào cái ngày chiếc xe đạp của nàng bị bể bánh trên đường đến chỗ Cô Emperor — và rằng từ lúc đó gã bắt đầu gặp phải mấy chuyện lôi thôi rắc rối. Xác cái áo nịt len bị hành hình, bất kể tôi thay đổi đường nét của nó thế nào lúc nó nằm trên ghế sau xe, vẫn giữ nguyên những hình dạng biểu lộ khác nhau liên quan đến Trapp-Schiller — tới sự thân thiện thô bỉ và tục tĩu thuộc cơ thể hắn, và để trung hòa thị hiếu thô lậu lệch lạc ấy của hắn, tôi quyết tâm sẽ làm cho mình đặc biệt đẹp trai và thông minh vào lúc tôi nhấn núm đồng hồ báo thức về đúng vị trí cũ trước khi nó nổ bùng tại thời điểm đã định là sáu giờ sáng. Sau đó, với sự cẩn trọng nghiêm khắc và lãng mạn của một quý ông sắp tham gia cuộc đấu súng, tôi kiểm tra sắp xếp lại giấy tờ, tắm rửa và xức nước hoa cho cơ thể nay ốm mai đau của mình, cạo mặt và ngực, lựa chiếc sơ mi lụa và cái quần lót dài sạch sẽ, xỏ đôi tất màu nâu sẫm trong suốt, và tự chúc mừng mình vì trong rương có sẵn vài món quần áo tuyệt đẹp — chẳng hạn như chiếc gi-lê có những cái nút xà cừ, chiếc cà vạt bằng vải casơmia nhạt màu và vân vân.
Ôi trời ơi, tôi chẳng cầm giữ được bữa sáng của mình, nhưng bỏ qua tình trạng thể chất ấy như chuyện rầy rà không đáng phải lưu tâm, lau miệng bằng cái khăn mùi xoa mỏng như tơ được rút ra từ tay áo, và với khối nước đá xanh biếc thay chỗ trái tim, viên thuốc trên lưỡi và thần chết rắn chắc trong túi sau mông, tôi bước nhanh nhẹn vào một bốt điện thoại ở Coalmont (Á-à-a, cái cửa nhỏ của nó rít lên) và gọi cho gã Schiller duy nhất — tên Paul, Đồ Nội Thất — tìm được trong cuốn danh bạ sờn rách. Paul khàn bảo tôi là gã có biết một anh Richard nào đó, con trai người em họ của gã, và địa chỉ anh ấy là, để tôi xem nào, số 10 phố Sát Thủ (tôi không thành công lắm với những biệt danh của mình). A-à-á, cái cửa nhỏ lại kêu.
Tại số 10 phố Sát Thủ, một tòa chung cư, tôi dò hỏi mấy người già rầu rĩ và hai nymphet tóc-dài nâu-vàng người ngợm bẩn thỉu đến mức không thể tin nổi (con thú cổ xưa trong tôi ngó nghiêng xung quanh một cách khá là lơ đãng, chỉ cho vui mà thôi, để kiếm đứa trẻ ăn bận sơ sài nào đó mà tôi có thể ôm riết vào lòng một lát, sau khi vụ giết người đã xong và chẳng còn gì có ý nghĩa nữa, và tất cả mọi thứ đều được cho phép). Vâng, Dick Skiller từng sống ở đây, nhưng đã chuyển đi khi nó lập gia đình. Chẳng ai biết địa chỉ nó đâu. "Có thể ở chỗ cửa hàng họ biết đấy," một giọng nam trầm cất lên từ cái lỗ cống mở toang ngay gần nơi tôi tình cờ đứng với hai cô bé có đôi tay mảnh mai, chân trần và những người bà lờ mờ của họ. Tôi bước vào nhầm cửa hàng và thằng Nhọ già đầy vẻ cảnh giác lắc lắc cái đầu lão thậm chí trước khi tôi kịp hỏi bất cứ điều gì. Tôi đi ngang phố qua tiệm tạp phẩm trống trải và ở đó, được triệu tập bởi một vị khách theo lời thỉnh cầu của tôi, một giọng nữ từ cái vực thẳm bằng gỗ nào đó dưới tầng hầm, bản sao của cái lỗ cống, gào lên: Phố Thợ Săn, nhà cuối cùng.
Phố Thợ Săn cách đó vài dặm, trong khu vực thậm chí còn buồn thảm hơn, toàn rác rến và cống rãnh, vườn rau nhung nhúc sâu, nhà ổ chuột, mưa phùn xám xịt, bùn đỏ, và vài ống khói đang nhả khói đằng xa. Tôi dừng lại ở "ngôi nhà" cuối cùng — một túp lều ổ chuột chắp vá bằng những tấm ván gỗ, cùng hai hay ba cái tương tự như thế nằm xa đường cái hơn nữa và cảnh thê lương ngập ngụa cỏ dại héo quắt bốn chung quanh. Tiếng quai búa vọng đến từ đằng sau nhà, và trong vài phút tôi ngồi hoàn toàn bất động trong chiếc xe cũ rích của mình, cũ rích và mong manh, tại điểm cuối cùng của hành trình của tôi, tại cái đích xám xịt của tôi, finis[3], bạn bè của tôi, finis, lũ quỷ của tôi. Lúc ấy đâu đó vào khoảng hai giờ. Nhịp tim tôi là 40 lần một phút và 100 lần vào ngay phút sau. Cơn mưa phùn rơi lách tách lên mui xe. Khẩu súng của tôi đã chuyển chỗ qua túi quần bên phải. Con chó cỏ lao ra từ đằng sau nhà, đứng sững lại đầy vẻ ngạc nhiên, và bắt đầu thân thiện sủa gâu gâu với tôi, đôi mắt nó lim dim, cái bụng bờm xờm lông lá của nó lấm lem đầy bùn đất, sau đó nó đi vòng quanh một chút và lại bắt đầu sủa tiếp.
[1]. Tiếng Pháp. Không hẳn.
[2]. Va.: viết tắt tên bang Virginia; Pa.: viết tắt tên bang Pensylvania; Tenn.: viết tắt tên bang Tennessee.
[3]. Hết rồi.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook