Lễ Diễu Hành Phục Sinh (The Easter Parada)
-
Chương 8
Nhà an dưỡng, một nhà dưỡng lão thuộc về nhà thờ Tân giáo bình thường mà ở đó hai chị em nhà Grimes chia sẻ chi phí chăm sóc mẹ mình, đại khái nằm giữa thành phố và St.Charles. Lúc đầu Emily đến đó tháng một lần; sau đó cô cắt bớt xuống còn ba hay bốn lần trong năm. Lần đến thăm đầu tiên của cô, mùa thu sau sự suy sụp của Pookie, là lần đến thăm đáng nhớ nhất.
“Emmy!” Người phụ nữ già nua khóc lên, nằm nâng cao một nửa người trên giường bệnh. “Mẹ biết là con sẽ đến ngày hôm nay!”
Nhìn thoáng qua trông bà ngạc nhiên một cách sửng sốt - mắt bà yếu ớt và hàm răng giả của bà để lộ ra một nụ cười chiến thắng - nhưng rồi bà bắt đầu nói. Cái miệng ướt của bà thật nỗ lực làm việc, líu nhíu những âm tiết theo cách bắt chước châm biếm chậm chạp mà bà đã nói trong suốt cả đời mình.
“... Và chẳng phải thật là tuyệt vời khi mọi thứ đều được thu xếp ổn thoả cho tất cả chúng ta hay sao? Hãy xem này! Sarah thật sự là một bà hoàng, và nhìn con này. Mẹ luôn biết rằng có một cái gì đó thật đặc biệt về gia đình chúng ta.”
“Mm,” Emily nói. “Trông mẹ khoẻ. Mẹ cảm thấy thế nào?”
“À, mẹ hơi mệt một chút, nhưng mẹ vui lắm... rất vui và tự hào về cả hai con. Đặc biệt là con, Emmy. Rất nhiều cô gái do hôn nhân mà trở thành thành viên của hoàng gia châu Âu - chỉ có, con có biết điều hài hước không? Mẹ vẫn không thể phát âm được tên họ của anh ta! - Nhưng bao nhiêu người phụ nữ có thể trở thành Đệ nhất Phu nhân?”
“Mẹ có... thoải mái không?”
“Ôi, khá thoải mái con à... dĩ nhiên mẹ biết là điều đó thật tuyệt, xây ngay trong Nhà Trắng... nhưng mẹ sẽ nói với con điều này, con yêu.” Bà hạ thấp giọng xuống thành như thì thầm khẩn cáp. “Một vài y tá ở đây không biết phải ứng xử như thế nào khi họ tiếp xúc với mẹ vợ của Tổng thống. Dù sao thì...” Bà lùi lại vào cái gối. “Dù sao thì, mẹ biết là con rất bận; mẹ không giữ con đâu. Cậu ta đã ghé qua thăm mẹ hôm nọ.”
“Anh ta đã làm vậy?”
“À, chỉ một vài phút thôi, sau buổi họp báo, và anh ta gọi mẹ là Pookie và dành cho mẹ một cái hôn. Thật đúng là một người đàn ông có vóc dáng đẹp quá, với nụ cười thật đẹp. Anh ta thật... thật tinh tế. Xem này! Người đàn ông trẻ nhất đã từng được bầu là Tổng thống trong lịch sử Mỹ!”
Emily nói câu tiếp theo rất cẩn thận. “Pookie,” cô nói, “mẹ đã mơ rất nhiều đúng không ạ?”
Người phụ nữ già nua nháy mắt liên tục. “Mơ á, à, đương nhiên rồi. Cũng thỉnh thoảng...” Đột nhiên trông bà thật hoảng sợ. “Thỉnh thoảng mẹ có những giấc mơ rất xấu, những giấc mơ thật khủng khiếp về tất cả những điều kinh khủng, nhưng mẹ luôn thức giấc.” Khuôn mặt bà thư giãn đôi chút. “Và khi mẹ tỉnh dậy mọi thứ lại tuyệt vời trở lại...”
Trên đường ra khỏi nơi đây, đi qua những cánh cửa mở toang của những cái phòng rì rầm toàn những giường và xe đẩy, thỉnh thoảng mới thoáng thấy những cái đầu của bệnh nhân, cô thấy một phòng trực của y tá nơi có hai người phụ nữ với đôi chân to mặc đồ trắng đang uống cà phê và đọc tạp chí.
“Xin lỗi. Tôi là con gái của bà Grimes - Bà Grimes ở phòng Hai-F.”
Một trong những y tá nói “Ôi, chắc chị là bà Kenedy”; còn người kia, với một nụ cười khá mệt mòi muốn nói cô ta đang đùa, nói ‘Tôi có thể có ảnh của chị được không?”
“Đó là những gì mà tôi muốn nói chuyện với các chị. Mẹ tôi luôn như vậy à?”
“Đôi lúc thôi; không phải lúc nào cũng vậy.”
“Bác sĩ của mẹ tôi có biết chuyện này không?”
“Thế thì chị phải hỏi ông ta. Bác sĩ chỉ có mặt ở đây sáng thứ ba và sáng thứ sáu hàng tuần.”
“Thế à,” Emily nói. “Thế này thì: liệu sẽ tốt hơn nếu chơi cùng với bà về những chủ đề như vậy không, hay là cố gắng và...”
“Cũng không có sự khác biệt gì mấy, dù theo cách này hay cách khác,” cô y tá nói.
“Tôi sẽ không lo lắng về điều đó, bà...?”
“Grimes; tôi chưa thành thân.”
Và ảo tưởng đã không kéo dài. Qua mùa đông, Pookie dường như đã biết mình là ai, hầu hết thời gian, nhưng cuộc trò chuyện của bà ít gắn kết hơn nhiều. Bà đã có thể ngồi trên ghế và thậm chí còn đi được xung quanh nữa, mặc dầu có lần bà đã làm đổ nước tiểu ra sàn. Đến mùa xuân bà trở nên rầu rĩ và im lặng, chỉ phàn nàn về thị lực giảm sút và sự sao lãng của y tá và việc thiếu thuốc lá. Một lần, lúc yêu cầu một y tá mang đến cho bà một thỏi son và một cái gương, bà đã nghiền ngẫm sự phản chiếu cái bộ dạng cau có của mình và đã trát cái miệng toàn son lên mặt gương.
Trong năm đó Emily được thăng chức lên vị trí “giám sát hiệu đính” của hãng Baldwin Advertising. Hannah Baldwin, một “cô gái” sôi nổi và gọn gàng ở tuổi năm mươi thích được nổi tiếng rằng công ty quảng cáo của cô ta là một trong ba công ty quảng cáo duy nhất ở New York do phụ nữ quản lý, nói với cô rằng cô thật sự có một tương lai với ngành kinh doanh này. “Chúng tôi yêu quý chị, Emily,” cô ta nói như vậy hơn một lần rồi, và Emily phải thừa nhận rằng cô đã được đền đáp xứng đáng. À, không phải yêu quý, chính xác - chắc chắn không phải là yêu quỷ theo nghĩa đó - mà nghiêng nhiều hơn về nghĩa của sự tôn trọng và hài lòng. Cô yêu thích công việc của mình.
Nhưng cô cũng thích thời gian nghỉ ngơi hơn nhiều. Ted Banks chỉ tồn tại được mấy tháng; vấn đề chính là cả hai bọn họ đều cảm thấy một nhu cầu khẩn thiết không thể chống lại được là muốn được uống quá nhiều khi họ cùng nhau, như thể họ không muốn âu yếm nhau một cách nghiêm túc vậy.
Mọi thứ trở nên có cơ sở quan hệ thông minh hơn với Michael Hogan. Anh ta là một người đàn ông lịch lãm một cách đáng ngạc nhiên, mạnh mẽ và vạm vỡ; anh ta quản lý một xưởng quảng cáo nhỏ, nhưng nói chuyện quá ít về công việc của mình đến nỗi thỉnh thoảng cô còn quên mất là anh ta làm gì để sống, và điều hay nhất về anh ta là anh ta không hề có nhu cầu tình cảm với cô. Thậm chí họ còn không được coi như là những người bạn thân nữa: cả tuần trôi đi mà cô có thể hầu như không nhận được một liên lạc nào từ anh ta, hay là sự quan tâm nào của anh ta, và khi anh ta gọi (“Emily! Có cảm thấy muốn ăn tối không?”) nó như thể họ chưa bao giờ xa cách. Cả hai người đều thích cách như vậy.
“Anh có biết không?”, cô nói với anh ta một lần nọ. “Thật sự không có nhiều người để mình có thể chia sẻ niềm vui cùng nghỉ ngơi ngày thứ bảy.”
“Mm,” anh ta nói. Anh ta đang cạo râu, đứng ngay trong phía cánh cửa đang mở của phòng tắm; cô nằm tựa vào gối trong chiếc giường lớn của anh ta, giở lướt qua cuốn tạp chí Bình luận Thời báo New York.
Cô giở đến một trang và một bức ảnh của Jack Flanders đập ngay vào cô, trông già hơn và thậm chí buồn hơn lần gặp cuối cùng của cô với anh. Có những tấm hình của ba người đàn ông khác nữa trong cùng một khổ quảng cáo toàn trang, dưới đó có tiêu đề “Một cuộc họp mặt mùa xuân của các nhà thơ”; cô đọc lướt qua bài báo và tìm thấy phần nói về Jack.
“Ở tuổi trung niên, một Jack Flanders không kiên định trước kia đã trở nên lắng xuống với một sự chấp nhận thật đáng yêu về những sự việc như nó vốn có - xuyên thấu, không biết bao lần, bằng một sự hối tiếc mạnh mẽ về những điều đã qua. Ngày và đêm, tuyển tập thứ tư của anh, mang đến một sự khéo léo tài tình mà chúng ta vẫn dành cho anh, nhưng sẽ là quá nhàm nếu sự ca ngợi trở nên quá thường xuyên. Liệu sự chấp nhận và hối tiếc có thể lấp đầy được chăng? Với cuộc sống hàng ngày, có thể - không, một độc giả đã hoài nghi, với những đòi hỏi cao hơn về nghệ thuật. Độc giả này nhớ chất lửa của Flanders già nua.
Một vài trong số những bài thơ tình thật xúc động, đặc biệt bài “Cây sồi Iowa”, với khổ thơ cuối đầy tình ái mạnh mẽ, và “Lời cầu hôn”, với những dòng khơi gợi tò mò “Anh ngắm em chơi quanh với chú chó và tự hỏi / Liệu người con gái này cần gì ở tôi?” ở đâu đó trong bài thơ, tuy nhiên, đã bị hối thúc bỏ qua những vần thơ và trở nên cổ điển và uỷ mị.
Bài thơ dài cuối cùng có thể đã bị cắt từ bản thảo trước khi được mang đi in. Thậm chí tiêu đề bài thơ cũng thật kỳ dị... “Hồi tưởng lại chuyến đi thăm lại London” - và chính bản thân tác phẩm thể hiện sự hoang mang trong phần hồi tưởng kép: nhà thơ tiếc nuối thời gian khi anh đứng ở một cổng chào của London trong khi lại vẫn tiếp tục nuối tiếc về một khoảng thời gian khác, trước đó. Sự buồn chán sẽ chất đầy đến như thế nào để có thể làm cho một nhà thơ độc thân chịu đựng được nếu như không trở thành trò cười?
Bài thơ đã kết thúc tuyển tập thơ mỏng này với những trắc ẩn của nhà thơ về tình trạng bất ổn của riêng mình với nuối tiếc- trong-nuối tiếc, và chỉ với một chút hy vọng mong manh.
Quay sang tác phẩm mới táo bạo, tươi sáng của William Krueger, chúng ta có thể tìm thấy những gì được gọi là một sự lúng túng của việc giàu chất thơ...”
Tiếng rì rì của máy cạo râu bằng điện của Michael Hogan đã dừng được cách đây một lúc; cô nhìn lên và thấy anh ta nhìn chằm chằm vào bờ vai cô.
“Có chuyện gì thế?”, anh ta hỏi.
“Không có gì; chỉ là một vài điều về một người đàn ông mà tôi đã từng biết.”
“Thế à? Bài nào vậy?”
Có bốn bức ảnh trên trang giấy, cô có thể dễ dàng chỉ vào một trong bốn người bọn họ - thậm chí kể cả Krueger - và Michael Hogan sẽ chẳng bao giờ biết được, hay quan tâm đến, nhưng cô cảm thấy động lòng trắc ẩn. “Anh ta,” cô nói, chỉ ngón tay của mình vào khuôn mặt của Jack.
“Trông như thể anh ta vừa mới mất đi người bạn cuối cùng vậy,” Michael Hogan nói.
Một buổi sáng thứ sáu Sarah gọi Emily ở văn phòng, van nài liệu cô có thời gian ăn trưa không.
“Ý chị là chị đang ở trong thành phố?”
“Đúng thế.”
“Vâng, được thôi,” Emily nói. “Nhân dịp gì vậy?”
“Thật ra, Tony phải đi họp hôm nay, đó chỉ là một phần thôi, nhưng vấn đề chính là bọn chị có vé đi xem Roderick Hamilton với vở Về nhà đi, hỡi người xa lạ vào tối nay, và sau đó bọn chị sẽ đi ra sau cánh gà để gặp ông ta.”
Roderick Hamilton là một diễn viên người Anh nổi tiếng, người có vở kịch gần đây được trình diễn ở New York. “Tuyệt quá,” Emily nói.
“Ông ta và Tony học cùng trường ở England, em biết đấy... chị đã kể với em chuyện này chưa?”
“Vâng, em nghĩ là như thế.”
“Lúc đầu Tony cảm thấy quá ngượng khi phải viết cho ông ta, nhưng chị đã hối thúc anh ta làm chuyện đó, và bọn chị được nhận hồi âm rất thú vị, lá thư thật sự thu hút nói rằng ông ta còn nhớ Tony và muốn gặp lại anh ta, và muốn gặp chị. Điều đó có thú vị không em?”
“Đương nhiên rồi.”
“Vì thế nên, bọn chị đang ở tại Roosevelt, và Tony sẽ ra ngoài cả ngày. Tại sao em không qua đây ăn trưa? Họ có một nơi rất tuyệt gọi là Phòng Rough Rider.”
“Thật ra,” Emily nói. “Nghe có vẻ như thích hợp với đôi lái già nua mạnh mẽ như chị và em.”
“Em nói gì cơ?”
“Không có gì đâu ạ. Liệu một giờ có được không ạ?”
Lúc đầu khi cô bước vào nhà hàng cô nghĩ là Sarah vẫn chưa đến - các bàn toàn là những người lạ mặt - nhưng rồi cô nhìn thấy một mệnh phụ ăn mặc quá diện, hơi mập, ngồi một mình, đang cười với cô.
“Lại đây em,” Sarah nói. “Trông em tuyệt quá.”
“Chị cũng vậy,” Emily nói, nhưng đó lại không phải là sự thật. Ở St.Charles, mặc quần áo đồng quê, Sarah có thể vẫn còn trông đúng như tuổi của mình - Emily tính thật nhanh là bốn mươi mốt - nhưng ở đây trông cô già hơn nhiều. Mắt đã có nếp nhăn và thâm và cằm xị. Cô bị vai thõng xuống. Rõ ràng là cô đã không quyết định được lựa chọn bộ trang sức sáng màu nào có thể hợp được với bộ vét rẻ tiền màu be, và đã giải quyết vấn đề đó bằng cách đeo tất cả chúng lên người. Năm ngoái răng cô đã trở nên nhuốm màu nâu đậm.
“Hai người có muốn uống chút gì không?” Bồi bàn hỏi.
“À, vâng,” Sarah nói. “Tôi muốn martini nặng, nguyên chất, với một chút chanh vat.”
Emily gọi một ly rượu vang trắng (“Chiều nay em phải làm việc”) và cả hai bọn họ đều cố thư giãn.
“Em biết không?” Sarah nói, “Chị vừa chợt nghĩ. Đây là lần đầu tiên chị quay trở lại New York trong vòng chín năm. Thật là thú vị khi mọi thứ đã thay đổi.”
“Chị nên thường xuyên ra đây.”
“Chị biết; chị cũng thích thế; chỉ vì Tony không thích như vậy. Anh ta căm ghét xe cộ chật chội, và anh ta nói mọi thứ quá đắt.”
“Mm.”
“À!” Sarah nói, vui vẻ trở lại. “Chị đã kể với em là bọn chị đã nghe Tony Junior nói gì chưa nhỉ?” Cách đây vài tháng, nó đã chấm dứt mối quan hệ tình cảm với kẻ ly dị chồng (con mụ đó đã tìm được người già hơn), Tony Junior đã đăng ký tham gia vào Đoàn lính thủy đánh bộ. “Cu cậu đang ở doanh trại Pendleton, California, và cu cậu gửi về cho bọn chị một lá thư dài,” Sarah nói. “Dĩ nhiên, Tony vẫn còn tức giận với cu cậu - thậm chí anh ta còn doạ không cho cu cậu được hưởng thừa kế...”
“Không được hưởng thừa kế từ cái gì?”
“... Thật ra, em biết đấy, không thừa nhận cu cậu; nhưng chị nghĩ kinh nghiệm sẽ làm cho cu cậu hướng tới một cuộc sống tốt lành.”
“Thế còn những cu cậu kia thì thế nào?”
“Ôi, Peter bận bịu với trường đại học, luôn ở trong danh sách của thầy hiệu trưởng mỗi kỳ, và Eric... thật ra, thật khó nói về Eric. Cu cậu vẫn say mê ô tô lắm.”
Và rồi câu chuyện quay sang nói về mẹ họ, người mà Emily đã không đến thăm một thời gian rồi. Nhân viên xã hội ở nhà an dưỡng, Sarah nói, đã gọi cô lên để thông báo về tình hình của Pookie đang trở thành một vấn đề về thi hành kỷ luật.
“Ý chị là gì, một vấn đề về thi hành kỷ luật?”
“Ừ, anh ta nói rằng mẹ làm những điều gây buồn phiền cho những bệnh nhân khác. Một đêm, vào khoảng bốn giờ, mẹ đi vào phòng một ông già và nói ‘Tại sao anh lại chưa sẵn sàng? Anh đã quên hôm nay là ngày cưới của chúng ta hay sao?’ Và đương nhiên là mẹ sẽ cứ nói mãi như vậy, cho đến khi ông già phải gọi y tá đến để đưa mẹ về phòng.”
“Ôi, Chúa ơi.”
“Không, nhưng anh ta đã nói rất nhã nhặn về việc đó - ý chị là, nhân viên xã hội. Anh ta nói đó là một loại hành vi lặp lại và chúng ta sẽ phải đưa mẹ ra khỏi đó.”
“Thế à, nhưng nơi nào chúng ta... ý em là chúng ta có thể đưa mẹ đi đâu?”
Sarah châm thuốc. “Trung tâm Islip, chị nghĩ vậy,” cô nói trong lúc thả khói thuốc. “Đó là gì?”
“Bệnh viện bang. Nó miễn phí. À, nhưng chị biết sẽ ổn thôi mà.”
“Em hiểu,” Emily nói.
Với ly martini thứ hai Sarah rụt rè thông báo. “Chị nghĩ chị thật sự không nên như vậy,” cô nói. “Bác sĩ nói chị uống quá nhiều.”
“Ông ta nói vậy á?”
“Ừ, nó không hẳn chỉ là một lời cảnh báo ghê gớm hay là một điều gì tương tự như thế; ông ta còn nói với chị là phải dừng việc uống lại. ồng ta nói - em biết đáy - gan của chị đang to ra. Chị không biết nữa. Thôi, mình không nói về những điều phiền muộn nữa. Chị hầu như không gặp em, Emmy, và chị muốn nghe em kể mọi điều về công việc, về cuộc sống tình cảm và mọi thứ khác nữa. Ngoài ra, chị sẽ đi gặp Roderick Hamilton tối nay, và chị muốn chuẩn bị một tâm trạng tốt. Chúng mình hãy cùng vui nào.”
Nhưng một vài phút sau đó cô nhìn quanh phòng chăm chú, buồn bã. “Ở đây thật đẹp nhỉ,” cô nói. “Đây là một trong những nơi bố thường hay đưa chị ghé qua, trước khi đưa chị ra tàu. Thỉnh thoảng bố và chị cũng đến Biltmore, hay Commodore, nhưng đây là nơi chị nhớ nhất. Những người hầu bàn ở đây đều biết ông, và họ cũng biết chị nữa. Họ thường hay mang đến cho chị một suất kem đúp, với bố cũng là một ly scotch đúp, rồi bố và chị nói và nói...”
Sau đó, Emily không thể nhớ nổi Sarah đã uống ba hay bốn ly martini gì đó ở bữa trưa trong Phòng Rough Rider; cô chỉ có thể nhớ bản thân cô đã quá chén với rượu vang khi món gà a-la-king của họ được đem đến, và rằng Sarah chỉ ăn rất ít khẩu phần của mình. Cô cũng không uống cà phê của mình nữa.
“Ôi, Emmy yêu quý,” cô nói. “Chị nghĩ là chị hơi say rồi. Liệu có lố bịch không? Chị không hiểu tại sao chị... Ôi, nhưng ổn thôi mà. Chị có thể chợp mắt một chút trên phòng. Chị còn nhiều thời gian trước khi Tony quay lại; rồi bọn chị sẽ ăn tối, đi nhà hát và chị sẽ ổn thôi.”
Cô cần trợ giúp để bước ra khỏi ghế. Cô cũng cần trợ giúp để đi qua nhà hàng - Emily xốc cô lên cao và chắc chắn dưới cánh tay mềm mại - và đi dọc hành lang để ra thang máy.
“ốn thôi, Emmy,” cô liên tục nói. “Sẽ ổn thôi. Chị nghĩ vậy.” Nhưng Emily không thể đi khỏi, mãi cho đến khi họ lên đến phòng nghỉ, nơi Sarah đi lảo đảo về phía trước được một vài bước và ngã sụp xuống giường. “Chị sẽ ổn thôi,” cô nói. “Giờ chị sẽ ngủ một chút, và chị sẽ ổn thôi.”
“Chị không muốn cởi quần áo ra à?”
“Không sao đâu. Đừng lo về điều đó. Chị sẽ ổn.”
Và Emily quay về văn phòng để chuẩn bị cho công việc bề bộn của buổi chiều. Mãi cho đến gần năm giờ chiều cô mới bắt đầu cảm nhận thấy một niềm vui tội lỗi: giờ thì cô đã gặp chị mình, nó có thể là đã nhiều tháng nay - có thể là hàng năm rồi - trước khi cô lại có thể gặp chị mình.
Thật là một buổi tối trống vắng; và thỉnh thoảng, khi lên kế hoạch thích hợp, cô nhận thấy cô không quan tâm là mình có trống vắng hay không. Trước tiên cô thay đồ với bộ quần áo dễ chịu và chuẩn bị nguyên liệu để nấu bữa đệm ở căn bếp nhỏ, rồi cô tặng cho mình một ly - không bao giờ vượt quá hai - và xem chương trình tin tức CBS Buổi tối. Sau đó, sau khi cô ăn xong và rửa bát đĩa, cô sẽ ngồi trong cái ghế sâu hay là nằm trên sofa với một cuốn sách, đọc và từng giờ trôi qua không đếm được cho đến lúc lên giường đi ngủ.
Khi chuông điện thoại reo vào lúc chín giờ, nó đã làm cho cô giật mình, và âm thanh yếu ớt, buồn thảm của Sarah vang lên... “Emmy?” - làm cho cô nhanh chóng đứng dậy. “Em này,” Sarah nói. “Chị ghét phải nói với em điều này, nhưng em có nghĩ là em có thể đến đây được không? Đến khách sạn được không?”
“Có chuyện gì thế? Tại sao chị không đi nhà hát?”
“Chị... đã không đi. Chị sẽ giải thích khi gặp em, được không?”
Suốt dọc đường đi lên khu phố trên, trong một chiếc taxi luôn gặp tắc đường, Emily cố làm cho đầu óc mình được trống không; cô vẫn cố giữ cho đầu óc mình được trống không khi cô đi dọc hành lang được trải thảm dài dẫn đến phòng của Sarah, chỉ khép hờ. Cô định đẩy vào để mở cửa, nhưng thay vào đó cô đã gõ cửa. “Anthony?” Sarah nói với giọng đầy hy vọng, rụt rè.
“Không, là em đây.”
“Ôi, vào đi, Emmy.”
Emily bước vào căn phòng tối và để cho cửa tự đóng đằng sau mình. “Chị ổn chứ?” Cô hỏi. “Đèn đâu hết rồi ạ?”
“Đừng bật đèn. Hãy nói chuyện trước đã, được không em?”
Trong ánh sáng xanh mờ nhạt của cửa sổ, Emily có thể nhìn thấy Sarah đang nằm trên giường, theo đúng cách khi cô đi về chiều nay, ngoại trừ việc giờ thì cái giường không được dọn và cô chị chỉ mặc mỗi đồ lót.
“Chị vô cùng xin lỗi về việc này, Emmy; chị đã không nên gọi cho em, nhưng sự việc là... mà, chị bắt đầu từ đầu được không? Khi Tony quay về chị vẫn... em biết đấy... chị vẫn say, chị nghĩ thế, và bọn chị đã cãi nhau to về điều đó và anh ta nói anh ta sẽ không đưa chị đi nhà hát, và anh ta... dù sao đi nữa, thì anh ta cũng đi nhà hát một mình rồi.”
“Anh ta đi nhà hát một mình á?”
“Đúng thế. Ôi, em không thể đỗ lỗi cho anh ta được; chị không ở trong trạng thái tốt để có thể gặp Roderick Hamilton sau cánh gà; đó hoàn toàn là lỗi của chị. Nhưng chị vừa mới... vấn đề là, chị và em đã có một buổi nói chuyện thú vị vào mùa hè năm ngoái, và chị gọi em vì chị cần một ai đó để nói chuyện cùng.”
“Em hiểu. Mà, thật ra em vui khi chị gọi. Em có thể bật đèn được không?”
“Chị nghĩ là em bật được rồi đấy.”
Emily cảm nhận dọc bờ tường để dò tìm công tắc, và khi cô tìm thấy, căn phòng như đột nhiên trở nên bừng sáng. Có máu vương trên thảm đã bị làm cho lộn xộn, trên gối; có máu ở phía dưới đằng trước đồ lót của Sarah, trên cả khuôn mặt nhăn nhó, sưng tấy và trên cả tóc của cô chị nữa.
Emily ngồi xuống ghế và dùng một tay che mắt. “Em không thể tin được,” cô nói. “Em không thể tin nổi được điều này, dù chỉ là một giây. Ý chị là anh ấy đã đánh chị?”
“Đúng thế. Cho chị một điếu thuốc, em?”
“Được thôi, nhưng Sarah, chị có đau lắm không? Để em xem nào.”
“Không, đừng. Đừng đến gần chị, được không? Chị sẽ ổn mà. Nếu chị có thể đứng dậy và đi rửa mặt chị sẽ... đáng nhẽ chị đã phải làm điều đó trước khi em đến.” Cô cố gắng gượng dậy và đi lảo đảo về phía buồng tắm, phát ra tiếng nước chảy vào bồn. “Chúa ơi,” cô gọi lại. “Em có thể tưởng tượng được nổi khuôn mặt này đáng được giới thiệu với Roderick Halmiton ở đằng sau cánh gà không?”
“Sarah, nghe này,” Emily nói khi họ cùng ngồi trên giường. “Chị sẽ phải nói với em điều gì đó. Điều này có xảy ra trước kia không?”
Sarah đã làm sạch khuôn mặt mình; cô đang mặc áo choàng tắm và hút thuốc.
“Đương nhiên,” cô nói. “Luôn xảy ra. Chị tính có thể xảy ra một hoặc hai lần trong một tháng trong vòng... để xem nào, hai mươi năm. Nhưng nó thường không hay tồi tệ như thế này.”
“Và chị chưa bao giờ nói với ai?”
“Chị có nói với Geoffrey một lần, cách đây một năm. Ông ta nhìn thấy một vết thâm trên mặt chị và đã hỏi chị về điều đó và chị gần như là kể hết với ông ta, nhưng chị nghĩ, không, thực ra điều đó chỉ gây thêm phiền toái. Chị không biết nữa; Chị nghĩ chị đã nên nói với Bố về điều này, nếu ông còn sống. Bọn trẻ đôi ba lần nhìn thấy chuyện này. Tony Junior nói với anh ta một lần rằng nếu nó còn nhìn thấy anh ta làm như thế một lần nữa thì nó sẽ giết anh ta. Nó nói thế với cha đẻ của mình.” Có những chai rượu và một khay đá ở ngăn thấp dính vào tường, và Emily nhìn chúng với vẻ ham muốn mãnh liệt. Tất cả những gì cô có thể làm là pha cho mình một ly - và cô muốn một ly thật nặng - nhưng cô đã dùng ý chí bắt mình phải ngồi trong ghế, vẫn ôm mắt bằng một tay như thể không dám nhìn toàn bộ khuôn mặt của chị mình, “ôi, Sarah,” cô nói. “ôi, Sarah. Tại sao chị lại để cho sự việc đến mức độ như thế này?”
“Đó là hôn nhân,” Sarah nói. “Nếu em muốn có gia đình, em cần phải học cách thích nghi với mọi việc. Ngoài ra, chị yêu hắn ta.”
“Ý chị là gì, ‘Chị yêu hắn ta’? Nghe có vẻ sướt mướt quá nhỉ - Làm sao chị có thể yêu được người đã đối xử với chị như...” Một chiếc chìa khoá xủng xoảng được tra vào ổ, và Emily đứng dậy để đối diện với anh ta. Cô chuẩn bị những câu mở đầu và đã sẵn sàng.
Anh ta bước vào, chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy cô. Nét mặt anh ta trông có vẻ như hơi say, và anh ta ăn vận cho buổi tối trong bộ vét mùa hè thẫm màu mà Sarah có thể đã mua ở cửa hàng tổng hợp rẻ tiền ở ngoại ô.
“Vở kịch thế nào? ông anh rể đáng kính,” Emily hỏi anh ta.
“Đừng, Emmy,” Sarah nói.
“Đừng cái gì? Chẳng phải bây giờ là lúc để ai đó nói thẳng ra ở đây hay sao? Roderick Halmiton thế nào? Anh, một thằng đàn ông ức hiếp và đánh vợ?”
Tony lờ cô đi, đi qua cô với cái nhìn của một cậu bé khinh khỉnh lờ đi người bị mình ức hiếp, nhưng căn phòng quá nhỏ đến nỗi anh ta phải đẩy cô để lấy lối đi ra tủ rượu. Anh ta sắp ra ba cốc đựng nước được cung cáp cho phòng khách sạn, thịnh soạn rót rượu whiskey.
Sự im lặng của anh ta không làm cô lúng túng, và cô quyết định nếu anh ta đưa cho cô cốc rượu thì cô sẽ ném cốc rượu vào mặt anh ta, nhưng trước tiên cô sẽ nói vài điều. “Anh là loại vượn người Nêanđectan,” cô sẽ nói với anh ta như vậy, nhớ lại những gì Andrew Crawford đã gọi anh ta cách đây đã lâu. “Anh là đồ bẩn thỉu. Và tôi thề rằng... anh đang nghe tôi nói đấy chứ? Tôi thề có Chúa, nếu anh còn động vào chị tôi, tôi sẽ...” Không còn cách nào khác kết thúc được câu nói ngoại trừ nhắc lại câu của Tony Junior, và cô nhắc lại: “Tôi sẽ giết anh.”
Cô uống - hình như anh ta đang đưa rượu cho cô, và hình như cô đang chấp nhận ly rượu mà không cần suy nghĩ gì - và chỉ có bây giờ, với nồng độ rượu lan tỏa sức nóng qua ngực và xuống phía dưới cánh tay, cô bắt đầu cảm nhận thấy cô đang thỏa mãn với bản thân mình đến mức như thế nào. Thật là tuyệt khi có được cái quyền để giải quyết vấn đề này - cô em gái trẻ con hay gây gổ đóng vai thiên thần đi báo thù; cô muốn sự hồ hởi này cứ kéo dài mãi. Liếc nhìn Sarah, mặc dầu vậy, cô ước rằng Sarah chưa rửa mặt, chưa che đồ lót và chưa mặc chỉnh tề quần áo ngủ để dấu đi những vết máu; cần phải có một bức tranh bi hài hơn theo một cách khác. “Thôi mà, Emmy,” Sarah nói theo cùng một cách thấu hiểu, bình tĩnh mà cô luôn nói khi còn bé thơ lúc Emily mất bình tĩnh. Hiện giờ Sarah trên tay đang cầm ly rượu; trong khoảnh khắc Emily sợ rằng cô có thể sẽ phải đứng đây và nhìn Tony ngồi xuống giường bên cạnh vợ anh ta và họ sẽ biểu diễn cái trò vòng tay cũ rích và mỉm cười giống như ở quán Anatole, nhưng điều đó đã không xảy ra.
Tony dường như lấy lại được bình tĩnh từ phía Sarah “Sẽ ổn thôi, Emmy”; anh ta nhìn vào mắt Emmy lần đầu, với sự gợi mở một nụ cười làm người ta tức điên lên, và nói “Thật sự là không có gì nhiều để nói, phải vậy không? Em không ngồi à?”
“Tôi sẽ không ngồi,” cô trả lời, và ngay lập tức làm mất hứng của kết quả câu nói đó bằng việc uống một hơi dài cốc rượu của cô. Sự vui thích tột độ của việc đối đầu thế là đã tan biến. Cô cảm thấy giống như một người không mời mà đến the thé trong những việc không phải của mình. Cô đã có thể nói ra một vài điều buồn thảm trước khi ra về - những điều mà về sau này cô cũng không nhớ nổi, có thể nhắc lại những điều của chính mình và những lời đe dọa giết chóc giống như của Tony Junior - và cô hỏi Sarah nhiều lần, với những gì nghe có vẻ như sự quan tâm giả tạo, liệu cô chị có chắc là cô chị sẽ “ổn”; rồi cô ra khỏi phòng, đi vào trong thang máy và cô đi về nhà, cảm thấy mình đúng là một kẻ ngớ ngẩn.
Phải rất cố gắng để chống lại ham muốn gọi điện cho Michael Hogan (“Chỉ vì tôi cảm thấy tôi không thể cô đơn tối nay,” cô có thể sẽ nói, “và có cả ngày nghỉ cuối tuần để vượt qua được chuyện này...”); thay vào đó cô uống thêm một vài ly và đi ngủ.
Chuông điện thoại reo vào sáng muộn hôm sau và cô hoàn toàn chắc rằng đó là của Michael Hogan (“có muốn ăn trưa không?”) nhưng lại không phải như vậy. “Emmy!”
“Sarah? Chị ổn chứ? Chị đang ở đâu?”
“Chị đang ở khu phố dưới - chị đang ở buồng điện thoại công cộng. Tony đã quay về, nhưng chị nói với anh ta rằng chị muốn ở lại thành phố. Chị muốn kết thúc mọi việc. Chị đã ngồi trong công viên và...”
“Ngồi trong công viên?”
“Quảng trường Washington. Thật là kỳ khi mọi việc đã thay đổi. Chị không biết rằng ngôi nhà cũ của chúng ta đã bị phá.”
“Cả tòa nhà đã bị phá cách đây nhiều năm,” Emily nói, “khi họ xây Ký túc xá Sinh viên.”
“Ồ, thế à. Chị đã không biết điều đó. Dù sao thì, nếu em không có kế hoạch gì đặc biệt, chị nghĩ, có thể em nên đến đây với chị. Chúng ta sẽ ăn sáng, hoặc là bữa gộp hay là cái gì đó.”
“Được thôi,” Emily nói. “Em có thể tìm thấy chị ở đâu?”
“Ở trong công viên có được không? Một trong những chiếc ghế băng dài ở bên phải gần sát ngay nhà cũ của chúng ta. Em không phải vội đâu, cứ thong thả.” Trên đường xuống khu phố dưới, Emily ước đoán về những khả năng. Nếu Sarah đã bỏ chồng mình, cô chị có thể muốn ở với mình một thời gian - có thể là một thời gian dài - và điều đó thật bất tiện cho Michael Hogan. Dù sao thì Michael cũng có một căn hộ của riêng mình; họ có thể dàn xếp được việc này. Ngoài ra, có thể cô chị chỉ “nghĩ sâu về mọi việc”; có thể cô chị sẽ quay về St.Charles tối nay.
Công viên toàn những xe đẩy của trẻ con và những tiếng cười, những thanh niên thể thao lực lưỡng đang ném đĩa. Toàn bộ thiết kế đã thay đổi - những con đường giờ đi theo nhiều ngả - nhưng Emily không gặp phải rắc rối nào trong việc nhớ lại, khi đi qua, cái khoảng trống nơi Warren Maddock, hay là Maddox gì đó, đã đỡ cô dậy.
Sarah trông thật thảm hại trên chiếc ghế băng theo như dự đoán của Emily - bé nhỏ, tồi tàn trong bộ đồ len nhăn nhúm, khi nâng khuôn mặt thâm tím và mềm mại của cô lên ánh mặt trời, dường như rõ ràng phảng phất ảo giác của một thời nào đó.
Emily đưa cô đến một quán cà phê lịch sự và mát mẻ (cô biết rằng nếu họ đến một nhà hàng thực sự thì sẽ không thể tránh khỏi việc gọi Bloody Marys hay bia gì đó) và trong vòng một hay hai giờ đồng hồ gì đó họ đã nói chuyện vòng quanh.
“... Chúng ta chẳng đi được đến đâu cả, Sarah,” cuối cùng cô nói. “Chị nói chị biết là chị phải từ bỏ hắn ta; thậm chí chị còn nói chị muốn từ bỏ hắn ta, và rồi khi chúng ta bắt đầu đi vào thực tế thì chị lại quay trở lại việc ‘Chị yêu hắn ta.’ Chúng ta đang đi vòng quanh.”
Sarah nhìn xuống phần trứng và xúc xích đã đông lại trên đĩa của cô. “Chị biết,” cô nói. “Chị luôn nói vòng quanh, và em luôn đi thẳng vào vấn đề. Giá mà chị có được suy nghĩ như em.”
“Đó không phải là vấn đề của ‘suy nghĩ’, Sarah, đó là vấn đề...”
“Đúng thế. Chúng ta rất khác nhau, chị và em. Chị không có ý nói nhìn sự việc theo cách của bên nào tốt hơn, chỉ vì chị luôn nghĩ hôn nhân là - thật ra, là thiêng liêng. Chị không mong người khác nghĩ giống như chị theo cách đó, đó là cách chị nghĩ. Chị là một người con gái trinh trắng khi đi lấy chồng và chị luôn trinh trắng kể từ ngày đó tới giờ. Ý chị là,” cô nói nhanh, “em biết đấy... chị chưa bao giờ đi chơi hay làm điều gì đó tương tự.” Với những từ ngữ “đi chơi hay làm điều gì đó tương tự” cô đưa điếu thuốc thật nhanh lên môi và nheo mắt lại, hoặc là để che giấu đi sự ngượng ngùng hoặc cũng có thể là nói lên một sự ngụy biện đã được che đậy.
“Tốt thôi,” Emily nói. “Nhưng thậm chí nếu hôn nhân là thiêng liêng, chẳng phải điều đó muốn nói rằng cả hai người đều phải trân trọng điều đó hay sao? Những gì được coi là thiêng liêng theo như cách mà Tony đối xử với chị á?”
“Anh ta đã cố hết sức, Emmy. Chị biết là điều này nghe thật ngớ ngẩn, nhưng đó là sự thật.”
Emily phả ra một làn khói thuốc dày đặc và ngồi lùi lại để nhìn quanh quán cà phê. Ở trong ngăn đối diện với lối đi là một cặp tình nhân trẻ đang lẩm bẩm, ngồi sát với nhau, ngón tay của cô gái đang lần theo họa tiết hình oval ở phần đùi phía bên trong của chiếc quần jean màu xanh bạc, chật cứng của cậu con trai.
“Nghe này, Sarah,” cô nói. “Chúng ta hãy bàn lại toàn bộ vấn đề mà chúng ta đã dừng cách đây ít phút. Chị có thể ở tại căn hộ của em bao lâu tùy chị. Chúng ta có thể cùng bàn để tìm ra một nơi cho riêng chị, và một công việc. Và chị không phải nghĩ về nó như một sự ly thân dài hạn; hãy cữ nghĩ về nó như...”
“Chị biết mà em, và điều đó thật là ngọt ngào, nhưng có quá nhiều sự phức tạp. Chỉ với một điều thôi, chị sẽ làm được nghề gì?”
“Có hàng đống việc mà chị có thể làm được,” Emily nói, mặc dầu công việc duy nhất mà cô có thể vẽ ra cho chị cô là làm lễ tân ở phòng khám hoặc phòng nha khoa. (Tất cả những người phụ nữ trung niên, không có khả năng, khôi hài đến từ đâu nhỉ, và làm thế nào để họ có thể có được việc?) “Điều đó không quan trọng,” cô hối thúc. “Điều quan trọng duy nhất bây giờ là chị hãy quyết định. Hoặc là quay về St.Charles, hoặc là bắt đầu một cuộc sống mới của mình ở ngay tại đây.”
Sarah im lặng, như thể đang suy nghĩ sâu lắm vì sĩ diện; rồi cô nói “Chị nên quay về,” như Emily biết rằng mình sẽ như vậy. “Chiều nay chị sẽ đáp tàu đi về.”
“Vì sao?” Emily nói. “Vì hắn ta ‘cần’ chị á?”
“Bọn chị cần nhau.”
Vì thế sự việc được an bài: Sarah quay về; tất cả ngày và đêm của Emily được dành cả cho Michael Hogan, hay là cho bất kỳ một người đàn ông nào tiếp theo sau anh ta. Cô phải thừa nhận rằng cô cảm thấy nhẹ cả người, nhưng đó là một sự nhẹ nhõm mà không thể thể hiện ra bên ngoài. “Và những gì mà chị thật sự lo ngại là,” cô nói, có vẻ như một lời chế nhạo, “những gì mà chị thật sự lo ngại là Tony có thể sẽ từ bỏ chị.”
Sarah cụp mắt xuống, để lộ ra vết sẹo trắng xanh. “Đúng thế,” cô nói.
“Emmy!” Người phụ nữ già nua khóc lên, nằm nâng cao một nửa người trên giường bệnh. “Mẹ biết là con sẽ đến ngày hôm nay!”
Nhìn thoáng qua trông bà ngạc nhiên một cách sửng sốt - mắt bà yếu ớt và hàm răng giả của bà để lộ ra một nụ cười chiến thắng - nhưng rồi bà bắt đầu nói. Cái miệng ướt của bà thật nỗ lực làm việc, líu nhíu những âm tiết theo cách bắt chước châm biếm chậm chạp mà bà đã nói trong suốt cả đời mình.
“... Và chẳng phải thật là tuyệt vời khi mọi thứ đều được thu xếp ổn thoả cho tất cả chúng ta hay sao? Hãy xem này! Sarah thật sự là một bà hoàng, và nhìn con này. Mẹ luôn biết rằng có một cái gì đó thật đặc biệt về gia đình chúng ta.”
“Mm,” Emily nói. “Trông mẹ khoẻ. Mẹ cảm thấy thế nào?”
“À, mẹ hơi mệt một chút, nhưng mẹ vui lắm... rất vui và tự hào về cả hai con. Đặc biệt là con, Emmy. Rất nhiều cô gái do hôn nhân mà trở thành thành viên của hoàng gia châu Âu - chỉ có, con có biết điều hài hước không? Mẹ vẫn không thể phát âm được tên họ của anh ta! - Nhưng bao nhiêu người phụ nữ có thể trở thành Đệ nhất Phu nhân?”
“Mẹ có... thoải mái không?”
“Ôi, khá thoải mái con à... dĩ nhiên mẹ biết là điều đó thật tuyệt, xây ngay trong Nhà Trắng... nhưng mẹ sẽ nói với con điều này, con yêu.” Bà hạ thấp giọng xuống thành như thì thầm khẩn cáp. “Một vài y tá ở đây không biết phải ứng xử như thế nào khi họ tiếp xúc với mẹ vợ của Tổng thống. Dù sao thì...” Bà lùi lại vào cái gối. “Dù sao thì, mẹ biết là con rất bận; mẹ không giữ con đâu. Cậu ta đã ghé qua thăm mẹ hôm nọ.”
“Anh ta đã làm vậy?”
“À, chỉ một vài phút thôi, sau buổi họp báo, và anh ta gọi mẹ là Pookie và dành cho mẹ một cái hôn. Thật đúng là một người đàn ông có vóc dáng đẹp quá, với nụ cười thật đẹp. Anh ta thật... thật tinh tế. Xem này! Người đàn ông trẻ nhất đã từng được bầu là Tổng thống trong lịch sử Mỹ!”
Emily nói câu tiếp theo rất cẩn thận. “Pookie,” cô nói, “mẹ đã mơ rất nhiều đúng không ạ?”
Người phụ nữ già nua nháy mắt liên tục. “Mơ á, à, đương nhiên rồi. Cũng thỉnh thoảng...” Đột nhiên trông bà thật hoảng sợ. “Thỉnh thoảng mẹ có những giấc mơ rất xấu, những giấc mơ thật khủng khiếp về tất cả những điều kinh khủng, nhưng mẹ luôn thức giấc.” Khuôn mặt bà thư giãn đôi chút. “Và khi mẹ tỉnh dậy mọi thứ lại tuyệt vời trở lại...”
Trên đường ra khỏi nơi đây, đi qua những cánh cửa mở toang của những cái phòng rì rầm toàn những giường và xe đẩy, thỉnh thoảng mới thoáng thấy những cái đầu của bệnh nhân, cô thấy một phòng trực của y tá nơi có hai người phụ nữ với đôi chân to mặc đồ trắng đang uống cà phê và đọc tạp chí.
“Xin lỗi. Tôi là con gái của bà Grimes - Bà Grimes ở phòng Hai-F.”
Một trong những y tá nói “Ôi, chắc chị là bà Kenedy”; còn người kia, với một nụ cười khá mệt mòi muốn nói cô ta đang đùa, nói ‘Tôi có thể có ảnh của chị được không?”
“Đó là những gì mà tôi muốn nói chuyện với các chị. Mẹ tôi luôn như vậy à?”
“Đôi lúc thôi; không phải lúc nào cũng vậy.”
“Bác sĩ của mẹ tôi có biết chuyện này không?”
“Thế thì chị phải hỏi ông ta. Bác sĩ chỉ có mặt ở đây sáng thứ ba và sáng thứ sáu hàng tuần.”
“Thế à,” Emily nói. “Thế này thì: liệu sẽ tốt hơn nếu chơi cùng với bà về những chủ đề như vậy không, hay là cố gắng và...”
“Cũng không có sự khác biệt gì mấy, dù theo cách này hay cách khác,” cô y tá nói.
“Tôi sẽ không lo lắng về điều đó, bà...?”
“Grimes; tôi chưa thành thân.”
Và ảo tưởng đã không kéo dài. Qua mùa đông, Pookie dường như đã biết mình là ai, hầu hết thời gian, nhưng cuộc trò chuyện của bà ít gắn kết hơn nhiều. Bà đã có thể ngồi trên ghế và thậm chí còn đi được xung quanh nữa, mặc dầu có lần bà đã làm đổ nước tiểu ra sàn. Đến mùa xuân bà trở nên rầu rĩ và im lặng, chỉ phàn nàn về thị lực giảm sút và sự sao lãng của y tá và việc thiếu thuốc lá. Một lần, lúc yêu cầu một y tá mang đến cho bà một thỏi son và một cái gương, bà đã nghiền ngẫm sự phản chiếu cái bộ dạng cau có của mình và đã trát cái miệng toàn son lên mặt gương.
Trong năm đó Emily được thăng chức lên vị trí “giám sát hiệu đính” của hãng Baldwin Advertising. Hannah Baldwin, một “cô gái” sôi nổi và gọn gàng ở tuổi năm mươi thích được nổi tiếng rằng công ty quảng cáo của cô ta là một trong ba công ty quảng cáo duy nhất ở New York do phụ nữ quản lý, nói với cô rằng cô thật sự có một tương lai với ngành kinh doanh này. “Chúng tôi yêu quý chị, Emily,” cô ta nói như vậy hơn một lần rồi, và Emily phải thừa nhận rằng cô đã được đền đáp xứng đáng. À, không phải yêu quý, chính xác - chắc chắn không phải là yêu quỷ theo nghĩa đó - mà nghiêng nhiều hơn về nghĩa của sự tôn trọng và hài lòng. Cô yêu thích công việc của mình.
Nhưng cô cũng thích thời gian nghỉ ngơi hơn nhiều. Ted Banks chỉ tồn tại được mấy tháng; vấn đề chính là cả hai bọn họ đều cảm thấy một nhu cầu khẩn thiết không thể chống lại được là muốn được uống quá nhiều khi họ cùng nhau, như thể họ không muốn âu yếm nhau một cách nghiêm túc vậy.
Mọi thứ trở nên có cơ sở quan hệ thông minh hơn với Michael Hogan. Anh ta là một người đàn ông lịch lãm một cách đáng ngạc nhiên, mạnh mẽ và vạm vỡ; anh ta quản lý một xưởng quảng cáo nhỏ, nhưng nói chuyện quá ít về công việc của mình đến nỗi thỉnh thoảng cô còn quên mất là anh ta làm gì để sống, và điều hay nhất về anh ta là anh ta không hề có nhu cầu tình cảm với cô. Thậm chí họ còn không được coi như là những người bạn thân nữa: cả tuần trôi đi mà cô có thể hầu như không nhận được một liên lạc nào từ anh ta, hay là sự quan tâm nào của anh ta, và khi anh ta gọi (“Emily! Có cảm thấy muốn ăn tối không?”) nó như thể họ chưa bao giờ xa cách. Cả hai người đều thích cách như vậy.
“Anh có biết không?”, cô nói với anh ta một lần nọ. “Thật sự không có nhiều người để mình có thể chia sẻ niềm vui cùng nghỉ ngơi ngày thứ bảy.”
“Mm,” anh ta nói. Anh ta đang cạo râu, đứng ngay trong phía cánh cửa đang mở của phòng tắm; cô nằm tựa vào gối trong chiếc giường lớn của anh ta, giở lướt qua cuốn tạp chí Bình luận Thời báo New York.
Cô giở đến một trang và một bức ảnh của Jack Flanders đập ngay vào cô, trông già hơn và thậm chí buồn hơn lần gặp cuối cùng của cô với anh. Có những tấm hình của ba người đàn ông khác nữa trong cùng một khổ quảng cáo toàn trang, dưới đó có tiêu đề “Một cuộc họp mặt mùa xuân của các nhà thơ”; cô đọc lướt qua bài báo và tìm thấy phần nói về Jack.
“Ở tuổi trung niên, một Jack Flanders không kiên định trước kia đã trở nên lắng xuống với một sự chấp nhận thật đáng yêu về những sự việc như nó vốn có - xuyên thấu, không biết bao lần, bằng một sự hối tiếc mạnh mẽ về những điều đã qua. Ngày và đêm, tuyển tập thứ tư của anh, mang đến một sự khéo léo tài tình mà chúng ta vẫn dành cho anh, nhưng sẽ là quá nhàm nếu sự ca ngợi trở nên quá thường xuyên. Liệu sự chấp nhận và hối tiếc có thể lấp đầy được chăng? Với cuộc sống hàng ngày, có thể - không, một độc giả đã hoài nghi, với những đòi hỏi cao hơn về nghệ thuật. Độc giả này nhớ chất lửa của Flanders già nua.
Một vài trong số những bài thơ tình thật xúc động, đặc biệt bài “Cây sồi Iowa”, với khổ thơ cuối đầy tình ái mạnh mẽ, và “Lời cầu hôn”, với những dòng khơi gợi tò mò “Anh ngắm em chơi quanh với chú chó và tự hỏi / Liệu người con gái này cần gì ở tôi?” ở đâu đó trong bài thơ, tuy nhiên, đã bị hối thúc bỏ qua những vần thơ và trở nên cổ điển và uỷ mị.
Bài thơ dài cuối cùng có thể đã bị cắt từ bản thảo trước khi được mang đi in. Thậm chí tiêu đề bài thơ cũng thật kỳ dị... “Hồi tưởng lại chuyến đi thăm lại London” - và chính bản thân tác phẩm thể hiện sự hoang mang trong phần hồi tưởng kép: nhà thơ tiếc nuối thời gian khi anh đứng ở một cổng chào của London trong khi lại vẫn tiếp tục nuối tiếc về một khoảng thời gian khác, trước đó. Sự buồn chán sẽ chất đầy đến như thế nào để có thể làm cho một nhà thơ độc thân chịu đựng được nếu như không trở thành trò cười?
Bài thơ đã kết thúc tuyển tập thơ mỏng này với những trắc ẩn của nhà thơ về tình trạng bất ổn của riêng mình với nuối tiếc- trong-nuối tiếc, và chỉ với một chút hy vọng mong manh.
Quay sang tác phẩm mới táo bạo, tươi sáng của William Krueger, chúng ta có thể tìm thấy những gì được gọi là một sự lúng túng của việc giàu chất thơ...”
Tiếng rì rì của máy cạo râu bằng điện của Michael Hogan đã dừng được cách đây một lúc; cô nhìn lên và thấy anh ta nhìn chằm chằm vào bờ vai cô.
“Có chuyện gì thế?”, anh ta hỏi.
“Không có gì; chỉ là một vài điều về một người đàn ông mà tôi đã từng biết.”
“Thế à? Bài nào vậy?”
Có bốn bức ảnh trên trang giấy, cô có thể dễ dàng chỉ vào một trong bốn người bọn họ - thậm chí kể cả Krueger - và Michael Hogan sẽ chẳng bao giờ biết được, hay quan tâm đến, nhưng cô cảm thấy động lòng trắc ẩn. “Anh ta,” cô nói, chỉ ngón tay của mình vào khuôn mặt của Jack.
“Trông như thể anh ta vừa mới mất đi người bạn cuối cùng vậy,” Michael Hogan nói.
Một buổi sáng thứ sáu Sarah gọi Emily ở văn phòng, van nài liệu cô có thời gian ăn trưa không.
“Ý chị là chị đang ở trong thành phố?”
“Đúng thế.”
“Vâng, được thôi,” Emily nói. “Nhân dịp gì vậy?”
“Thật ra, Tony phải đi họp hôm nay, đó chỉ là một phần thôi, nhưng vấn đề chính là bọn chị có vé đi xem Roderick Hamilton với vở Về nhà đi, hỡi người xa lạ vào tối nay, và sau đó bọn chị sẽ đi ra sau cánh gà để gặp ông ta.”
Roderick Hamilton là một diễn viên người Anh nổi tiếng, người có vở kịch gần đây được trình diễn ở New York. “Tuyệt quá,” Emily nói.
“Ông ta và Tony học cùng trường ở England, em biết đấy... chị đã kể với em chuyện này chưa?”
“Vâng, em nghĩ là như thế.”
“Lúc đầu Tony cảm thấy quá ngượng khi phải viết cho ông ta, nhưng chị đã hối thúc anh ta làm chuyện đó, và bọn chị được nhận hồi âm rất thú vị, lá thư thật sự thu hút nói rằng ông ta còn nhớ Tony và muốn gặp lại anh ta, và muốn gặp chị. Điều đó có thú vị không em?”
“Đương nhiên rồi.”
“Vì thế nên, bọn chị đang ở tại Roosevelt, và Tony sẽ ra ngoài cả ngày. Tại sao em không qua đây ăn trưa? Họ có một nơi rất tuyệt gọi là Phòng Rough Rider.”
“Thật ra,” Emily nói. “Nghe có vẻ như thích hợp với đôi lái già nua mạnh mẽ như chị và em.”
“Em nói gì cơ?”
“Không có gì đâu ạ. Liệu một giờ có được không ạ?”
Lúc đầu khi cô bước vào nhà hàng cô nghĩ là Sarah vẫn chưa đến - các bàn toàn là những người lạ mặt - nhưng rồi cô nhìn thấy một mệnh phụ ăn mặc quá diện, hơi mập, ngồi một mình, đang cười với cô.
“Lại đây em,” Sarah nói. “Trông em tuyệt quá.”
“Chị cũng vậy,” Emily nói, nhưng đó lại không phải là sự thật. Ở St.Charles, mặc quần áo đồng quê, Sarah có thể vẫn còn trông đúng như tuổi của mình - Emily tính thật nhanh là bốn mươi mốt - nhưng ở đây trông cô già hơn nhiều. Mắt đã có nếp nhăn và thâm và cằm xị. Cô bị vai thõng xuống. Rõ ràng là cô đã không quyết định được lựa chọn bộ trang sức sáng màu nào có thể hợp được với bộ vét rẻ tiền màu be, và đã giải quyết vấn đề đó bằng cách đeo tất cả chúng lên người. Năm ngoái răng cô đã trở nên nhuốm màu nâu đậm.
“Hai người có muốn uống chút gì không?” Bồi bàn hỏi.
“À, vâng,” Sarah nói. “Tôi muốn martini nặng, nguyên chất, với một chút chanh vat.”
Emily gọi một ly rượu vang trắng (“Chiều nay em phải làm việc”) và cả hai bọn họ đều cố thư giãn.
“Em biết không?” Sarah nói, “Chị vừa chợt nghĩ. Đây là lần đầu tiên chị quay trở lại New York trong vòng chín năm. Thật là thú vị khi mọi thứ đã thay đổi.”
“Chị nên thường xuyên ra đây.”
“Chị biết; chị cũng thích thế; chỉ vì Tony không thích như vậy. Anh ta căm ghét xe cộ chật chội, và anh ta nói mọi thứ quá đắt.”
“Mm.”
“À!” Sarah nói, vui vẻ trở lại. “Chị đã kể với em là bọn chị đã nghe Tony Junior nói gì chưa nhỉ?” Cách đây vài tháng, nó đã chấm dứt mối quan hệ tình cảm với kẻ ly dị chồng (con mụ đó đã tìm được người già hơn), Tony Junior đã đăng ký tham gia vào Đoàn lính thủy đánh bộ. “Cu cậu đang ở doanh trại Pendleton, California, và cu cậu gửi về cho bọn chị một lá thư dài,” Sarah nói. “Dĩ nhiên, Tony vẫn còn tức giận với cu cậu - thậm chí anh ta còn doạ không cho cu cậu được hưởng thừa kế...”
“Không được hưởng thừa kế từ cái gì?”
“... Thật ra, em biết đấy, không thừa nhận cu cậu; nhưng chị nghĩ kinh nghiệm sẽ làm cho cu cậu hướng tới một cuộc sống tốt lành.”
“Thế còn những cu cậu kia thì thế nào?”
“Ôi, Peter bận bịu với trường đại học, luôn ở trong danh sách của thầy hiệu trưởng mỗi kỳ, và Eric... thật ra, thật khó nói về Eric. Cu cậu vẫn say mê ô tô lắm.”
Và rồi câu chuyện quay sang nói về mẹ họ, người mà Emily đã không đến thăm một thời gian rồi. Nhân viên xã hội ở nhà an dưỡng, Sarah nói, đã gọi cô lên để thông báo về tình hình của Pookie đang trở thành một vấn đề về thi hành kỷ luật.
“Ý chị là gì, một vấn đề về thi hành kỷ luật?”
“Ừ, anh ta nói rằng mẹ làm những điều gây buồn phiền cho những bệnh nhân khác. Một đêm, vào khoảng bốn giờ, mẹ đi vào phòng một ông già và nói ‘Tại sao anh lại chưa sẵn sàng? Anh đã quên hôm nay là ngày cưới của chúng ta hay sao?’ Và đương nhiên là mẹ sẽ cứ nói mãi như vậy, cho đến khi ông già phải gọi y tá đến để đưa mẹ về phòng.”
“Ôi, Chúa ơi.”
“Không, nhưng anh ta đã nói rất nhã nhặn về việc đó - ý chị là, nhân viên xã hội. Anh ta nói đó là một loại hành vi lặp lại và chúng ta sẽ phải đưa mẹ ra khỏi đó.”
“Thế à, nhưng nơi nào chúng ta... ý em là chúng ta có thể đưa mẹ đi đâu?”
Sarah châm thuốc. “Trung tâm Islip, chị nghĩ vậy,” cô nói trong lúc thả khói thuốc. “Đó là gì?”
“Bệnh viện bang. Nó miễn phí. À, nhưng chị biết sẽ ổn thôi mà.”
“Em hiểu,” Emily nói.
Với ly martini thứ hai Sarah rụt rè thông báo. “Chị nghĩ chị thật sự không nên như vậy,” cô nói. “Bác sĩ nói chị uống quá nhiều.”
“Ông ta nói vậy á?”
“Ừ, nó không hẳn chỉ là một lời cảnh báo ghê gớm hay là một điều gì tương tự như thế; ông ta còn nói với chị là phải dừng việc uống lại. ồng ta nói - em biết đáy - gan của chị đang to ra. Chị không biết nữa. Thôi, mình không nói về những điều phiền muộn nữa. Chị hầu như không gặp em, Emmy, và chị muốn nghe em kể mọi điều về công việc, về cuộc sống tình cảm và mọi thứ khác nữa. Ngoài ra, chị sẽ đi gặp Roderick Hamilton tối nay, và chị muốn chuẩn bị một tâm trạng tốt. Chúng mình hãy cùng vui nào.”
Nhưng một vài phút sau đó cô nhìn quanh phòng chăm chú, buồn bã. “Ở đây thật đẹp nhỉ,” cô nói. “Đây là một trong những nơi bố thường hay đưa chị ghé qua, trước khi đưa chị ra tàu. Thỉnh thoảng bố và chị cũng đến Biltmore, hay Commodore, nhưng đây là nơi chị nhớ nhất. Những người hầu bàn ở đây đều biết ông, và họ cũng biết chị nữa. Họ thường hay mang đến cho chị một suất kem đúp, với bố cũng là một ly scotch đúp, rồi bố và chị nói và nói...”
Sau đó, Emily không thể nhớ nổi Sarah đã uống ba hay bốn ly martini gì đó ở bữa trưa trong Phòng Rough Rider; cô chỉ có thể nhớ bản thân cô đã quá chén với rượu vang khi món gà a-la-king của họ được đem đến, và rằng Sarah chỉ ăn rất ít khẩu phần của mình. Cô cũng không uống cà phê của mình nữa.
“Ôi, Emmy yêu quý,” cô nói. “Chị nghĩ là chị hơi say rồi. Liệu có lố bịch không? Chị không hiểu tại sao chị... Ôi, nhưng ổn thôi mà. Chị có thể chợp mắt một chút trên phòng. Chị còn nhiều thời gian trước khi Tony quay lại; rồi bọn chị sẽ ăn tối, đi nhà hát và chị sẽ ổn thôi.”
Cô cần trợ giúp để bước ra khỏi ghế. Cô cũng cần trợ giúp để đi qua nhà hàng - Emily xốc cô lên cao và chắc chắn dưới cánh tay mềm mại - và đi dọc hành lang để ra thang máy.
“ốn thôi, Emmy,” cô liên tục nói. “Sẽ ổn thôi. Chị nghĩ vậy.” Nhưng Emily không thể đi khỏi, mãi cho đến khi họ lên đến phòng nghỉ, nơi Sarah đi lảo đảo về phía trước được một vài bước và ngã sụp xuống giường. “Chị sẽ ổn thôi,” cô nói. “Giờ chị sẽ ngủ một chút, và chị sẽ ổn thôi.”
“Chị không muốn cởi quần áo ra à?”
“Không sao đâu. Đừng lo về điều đó. Chị sẽ ổn.”
Và Emily quay về văn phòng để chuẩn bị cho công việc bề bộn của buổi chiều. Mãi cho đến gần năm giờ chiều cô mới bắt đầu cảm nhận thấy một niềm vui tội lỗi: giờ thì cô đã gặp chị mình, nó có thể là đã nhiều tháng nay - có thể là hàng năm rồi - trước khi cô lại có thể gặp chị mình.
Thật là một buổi tối trống vắng; và thỉnh thoảng, khi lên kế hoạch thích hợp, cô nhận thấy cô không quan tâm là mình có trống vắng hay không. Trước tiên cô thay đồ với bộ quần áo dễ chịu và chuẩn bị nguyên liệu để nấu bữa đệm ở căn bếp nhỏ, rồi cô tặng cho mình một ly - không bao giờ vượt quá hai - và xem chương trình tin tức CBS Buổi tối. Sau đó, sau khi cô ăn xong và rửa bát đĩa, cô sẽ ngồi trong cái ghế sâu hay là nằm trên sofa với một cuốn sách, đọc và từng giờ trôi qua không đếm được cho đến lúc lên giường đi ngủ.
Khi chuông điện thoại reo vào lúc chín giờ, nó đã làm cho cô giật mình, và âm thanh yếu ớt, buồn thảm của Sarah vang lên... “Emmy?” - làm cho cô nhanh chóng đứng dậy. “Em này,” Sarah nói. “Chị ghét phải nói với em điều này, nhưng em có nghĩ là em có thể đến đây được không? Đến khách sạn được không?”
“Có chuyện gì thế? Tại sao chị không đi nhà hát?”
“Chị... đã không đi. Chị sẽ giải thích khi gặp em, được không?”
Suốt dọc đường đi lên khu phố trên, trong một chiếc taxi luôn gặp tắc đường, Emily cố làm cho đầu óc mình được trống không; cô vẫn cố giữ cho đầu óc mình được trống không khi cô đi dọc hành lang được trải thảm dài dẫn đến phòng của Sarah, chỉ khép hờ. Cô định đẩy vào để mở cửa, nhưng thay vào đó cô đã gõ cửa. “Anthony?” Sarah nói với giọng đầy hy vọng, rụt rè.
“Không, là em đây.”
“Ôi, vào đi, Emmy.”
Emily bước vào căn phòng tối và để cho cửa tự đóng đằng sau mình. “Chị ổn chứ?” Cô hỏi. “Đèn đâu hết rồi ạ?”
“Đừng bật đèn. Hãy nói chuyện trước đã, được không em?”
Trong ánh sáng xanh mờ nhạt của cửa sổ, Emily có thể nhìn thấy Sarah đang nằm trên giường, theo đúng cách khi cô đi về chiều nay, ngoại trừ việc giờ thì cái giường không được dọn và cô chị chỉ mặc mỗi đồ lót.
“Chị vô cùng xin lỗi về việc này, Emmy; chị đã không nên gọi cho em, nhưng sự việc là... mà, chị bắt đầu từ đầu được không? Khi Tony quay về chị vẫn... em biết đấy... chị vẫn say, chị nghĩ thế, và bọn chị đã cãi nhau to về điều đó và anh ta nói anh ta sẽ không đưa chị đi nhà hát, và anh ta... dù sao đi nữa, thì anh ta cũng đi nhà hát một mình rồi.”
“Anh ta đi nhà hát một mình á?”
“Đúng thế. Ôi, em không thể đỗ lỗi cho anh ta được; chị không ở trong trạng thái tốt để có thể gặp Roderick Hamilton sau cánh gà; đó hoàn toàn là lỗi của chị. Nhưng chị vừa mới... vấn đề là, chị và em đã có một buổi nói chuyện thú vị vào mùa hè năm ngoái, và chị gọi em vì chị cần một ai đó để nói chuyện cùng.”
“Em hiểu. Mà, thật ra em vui khi chị gọi. Em có thể bật đèn được không?”
“Chị nghĩ là em bật được rồi đấy.”
Emily cảm nhận dọc bờ tường để dò tìm công tắc, và khi cô tìm thấy, căn phòng như đột nhiên trở nên bừng sáng. Có máu vương trên thảm đã bị làm cho lộn xộn, trên gối; có máu ở phía dưới đằng trước đồ lót của Sarah, trên cả khuôn mặt nhăn nhó, sưng tấy và trên cả tóc của cô chị nữa.
Emily ngồi xuống ghế và dùng một tay che mắt. “Em không thể tin được,” cô nói. “Em không thể tin nổi được điều này, dù chỉ là một giây. Ý chị là anh ấy đã đánh chị?”
“Đúng thế. Cho chị một điếu thuốc, em?”
“Được thôi, nhưng Sarah, chị có đau lắm không? Để em xem nào.”
“Không, đừng. Đừng đến gần chị, được không? Chị sẽ ổn mà. Nếu chị có thể đứng dậy và đi rửa mặt chị sẽ... đáng nhẽ chị đã phải làm điều đó trước khi em đến.” Cô cố gắng gượng dậy và đi lảo đảo về phía buồng tắm, phát ra tiếng nước chảy vào bồn. “Chúa ơi,” cô gọi lại. “Em có thể tưởng tượng được nổi khuôn mặt này đáng được giới thiệu với Roderick Halmiton ở đằng sau cánh gà không?”
“Sarah, nghe này,” Emily nói khi họ cùng ngồi trên giường. “Chị sẽ phải nói với em điều gì đó. Điều này có xảy ra trước kia không?”
Sarah đã làm sạch khuôn mặt mình; cô đang mặc áo choàng tắm và hút thuốc.
“Đương nhiên,” cô nói. “Luôn xảy ra. Chị tính có thể xảy ra một hoặc hai lần trong một tháng trong vòng... để xem nào, hai mươi năm. Nhưng nó thường không hay tồi tệ như thế này.”
“Và chị chưa bao giờ nói với ai?”
“Chị có nói với Geoffrey một lần, cách đây một năm. Ông ta nhìn thấy một vết thâm trên mặt chị và đã hỏi chị về điều đó và chị gần như là kể hết với ông ta, nhưng chị nghĩ, không, thực ra điều đó chỉ gây thêm phiền toái. Chị không biết nữa; Chị nghĩ chị đã nên nói với Bố về điều này, nếu ông còn sống. Bọn trẻ đôi ba lần nhìn thấy chuyện này. Tony Junior nói với anh ta một lần rằng nếu nó còn nhìn thấy anh ta làm như thế một lần nữa thì nó sẽ giết anh ta. Nó nói thế với cha đẻ của mình.” Có những chai rượu và một khay đá ở ngăn thấp dính vào tường, và Emily nhìn chúng với vẻ ham muốn mãnh liệt. Tất cả những gì cô có thể làm là pha cho mình một ly - và cô muốn một ly thật nặng - nhưng cô đã dùng ý chí bắt mình phải ngồi trong ghế, vẫn ôm mắt bằng một tay như thể không dám nhìn toàn bộ khuôn mặt của chị mình, “ôi, Sarah,” cô nói. “ôi, Sarah. Tại sao chị lại để cho sự việc đến mức độ như thế này?”
“Đó là hôn nhân,” Sarah nói. “Nếu em muốn có gia đình, em cần phải học cách thích nghi với mọi việc. Ngoài ra, chị yêu hắn ta.”
“Ý chị là gì, ‘Chị yêu hắn ta’? Nghe có vẻ sướt mướt quá nhỉ - Làm sao chị có thể yêu được người đã đối xử với chị như...” Một chiếc chìa khoá xủng xoảng được tra vào ổ, và Emily đứng dậy để đối diện với anh ta. Cô chuẩn bị những câu mở đầu và đã sẵn sàng.
Anh ta bước vào, chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy cô. Nét mặt anh ta trông có vẻ như hơi say, và anh ta ăn vận cho buổi tối trong bộ vét mùa hè thẫm màu mà Sarah có thể đã mua ở cửa hàng tổng hợp rẻ tiền ở ngoại ô.
“Vở kịch thế nào? ông anh rể đáng kính,” Emily hỏi anh ta.
“Đừng, Emmy,” Sarah nói.
“Đừng cái gì? Chẳng phải bây giờ là lúc để ai đó nói thẳng ra ở đây hay sao? Roderick Halmiton thế nào? Anh, một thằng đàn ông ức hiếp và đánh vợ?”
Tony lờ cô đi, đi qua cô với cái nhìn của một cậu bé khinh khỉnh lờ đi người bị mình ức hiếp, nhưng căn phòng quá nhỏ đến nỗi anh ta phải đẩy cô để lấy lối đi ra tủ rượu. Anh ta sắp ra ba cốc đựng nước được cung cáp cho phòng khách sạn, thịnh soạn rót rượu whiskey.
Sự im lặng của anh ta không làm cô lúng túng, và cô quyết định nếu anh ta đưa cho cô cốc rượu thì cô sẽ ném cốc rượu vào mặt anh ta, nhưng trước tiên cô sẽ nói vài điều. “Anh là loại vượn người Nêanđectan,” cô sẽ nói với anh ta như vậy, nhớ lại những gì Andrew Crawford đã gọi anh ta cách đây đã lâu. “Anh là đồ bẩn thỉu. Và tôi thề rằng... anh đang nghe tôi nói đấy chứ? Tôi thề có Chúa, nếu anh còn động vào chị tôi, tôi sẽ...” Không còn cách nào khác kết thúc được câu nói ngoại trừ nhắc lại câu của Tony Junior, và cô nhắc lại: “Tôi sẽ giết anh.”
Cô uống - hình như anh ta đang đưa rượu cho cô, và hình như cô đang chấp nhận ly rượu mà không cần suy nghĩ gì - và chỉ có bây giờ, với nồng độ rượu lan tỏa sức nóng qua ngực và xuống phía dưới cánh tay, cô bắt đầu cảm nhận thấy cô đang thỏa mãn với bản thân mình đến mức như thế nào. Thật là tuyệt khi có được cái quyền để giải quyết vấn đề này - cô em gái trẻ con hay gây gổ đóng vai thiên thần đi báo thù; cô muốn sự hồ hởi này cứ kéo dài mãi. Liếc nhìn Sarah, mặc dầu vậy, cô ước rằng Sarah chưa rửa mặt, chưa che đồ lót và chưa mặc chỉnh tề quần áo ngủ để dấu đi những vết máu; cần phải có một bức tranh bi hài hơn theo một cách khác. “Thôi mà, Emmy,” Sarah nói theo cùng một cách thấu hiểu, bình tĩnh mà cô luôn nói khi còn bé thơ lúc Emily mất bình tĩnh. Hiện giờ Sarah trên tay đang cầm ly rượu; trong khoảnh khắc Emily sợ rằng cô có thể sẽ phải đứng đây và nhìn Tony ngồi xuống giường bên cạnh vợ anh ta và họ sẽ biểu diễn cái trò vòng tay cũ rích và mỉm cười giống như ở quán Anatole, nhưng điều đó đã không xảy ra.
Tony dường như lấy lại được bình tĩnh từ phía Sarah “Sẽ ổn thôi, Emmy”; anh ta nhìn vào mắt Emmy lần đầu, với sự gợi mở một nụ cười làm người ta tức điên lên, và nói “Thật sự là không có gì nhiều để nói, phải vậy không? Em không ngồi à?”
“Tôi sẽ không ngồi,” cô trả lời, và ngay lập tức làm mất hứng của kết quả câu nói đó bằng việc uống một hơi dài cốc rượu của cô. Sự vui thích tột độ của việc đối đầu thế là đã tan biến. Cô cảm thấy giống như một người không mời mà đến the thé trong những việc không phải của mình. Cô đã có thể nói ra một vài điều buồn thảm trước khi ra về - những điều mà về sau này cô cũng không nhớ nổi, có thể nhắc lại những điều của chính mình và những lời đe dọa giết chóc giống như của Tony Junior - và cô hỏi Sarah nhiều lần, với những gì nghe có vẻ như sự quan tâm giả tạo, liệu cô chị có chắc là cô chị sẽ “ổn”; rồi cô ra khỏi phòng, đi vào trong thang máy và cô đi về nhà, cảm thấy mình đúng là một kẻ ngớ ngẩn.
Phải rất cố gắng để chống lại ham muốn gọi điện cho Michael Hogan (“Chỉ vì tôi cảm thấy tôi không thể cô đơn tối nay,” cô có thể sẽ nói, “và có cả ngày nghỉ cuối tuần để vượt qua được chuyện này...”); thay vào đó cô uống thêm một vài ly và đi ngủ.
Chuông điện thoại reo vào sáng muộn hôm sau và cô hoàn toàn chắc rằng đó là của Michael Hogan (“có muốn ăn trưa không?”) nhưng lại không phải như vậy. “Emmy!”
“Sarah? Chị ổn chứ? Chị đang ở đâu?”
“Chị đang ở khu phố dưới - chị đang ở buồng điện thoại công cộng. Tony đã quay về, nhưng chị nói với anh ta rằng chị muốn ở lại thành phố. Chị muốn kết thúc mọi việc. Chị đã ngồi trong công viên và...”
“Ngồi trong công viên?”
“Quảng trường Washington. Thật là kỳ khi mọi việc đã thay đổi. Chị không biết rằng ngôi nhà cũ của chúng ta đã bị phá.”
“Cả tòa nhà đã bị phá cách đây nhiều năm,” Emily nói, “khi họ xây Ký túc xá Sinh viên.”
“Ồ, thế à. Chị đã không biết điều đó. Dù sao thì, nếu em không có kế hoạch gì đặc biệt, chị nghĩ, có thể em nên đến đây với chị. Chúng ta sẽ ăn sáng, hoặc là bữa gộp hay là cái gì đó.”
“Được thôi,” Emily nói. “Em có thể tìm thấy chị ở đâu?”
“Ở trong công viên có được không? Một trong những chiếc ghế băng dài ở bên phải gần sát ngay nhà cũ của chúng ta. Em không phải vội đâu, cứ thong thả.” Trên đường xuống khu phố dưới, Emily ước đoán về những khả năng. Nếu Sarah đã bỏ chồng mình, cô chị có thể muốn ở với mình một thời gian - có thể là một thời gian dài - và điều đó thật bất tiện cho Michael Hogan. Dù sao thì Michael cũng có một căn hộ của riêng mình; họ có thể dàn xếp được việc này. Ngoài ra, có thể cô chị chỉ “nghĩ sâu về mọi việc”; có thể cô chị sẽ quay về St.Charles tối nay.
Công viên toàn những xe đẩy của trẻ con và những tiếng cười, những thanh niên thể thao lực lưỡng đang ném đĩa. Toàn bộ thiết kế đã thay đổi - những con đường giờ đi theo nhiều ngả - nhưng Emily không gặp phải rắc rối nào trong việc nhớ lại, khi đi qua, cái khoảng trống nơi Warren Maddock, hay là Maddox gì đó, đã đỡ cô dậy.
Sarah trông thật thảm hại trên chiếc ghế băng theo như dự đoán của Emily - bé nhỏ, tồi tàn trong bộ đồ len nhăn nhúm, khi nâng khuôn mặt thâm tím và mềm mại của cô lên ánh mặt trời, dường như rõ ràng phảng phất ảo giác của một thời nào đó.
Emily đưa cô đến một quán cà phê lịch sự và mát mẻ (cô biết rằng nếu họ đến một nhà hàng thực sự thì sẽ không thể tránh khỏi việc gọi Bloody Marys hay bia gì đó) và trong vòng một hay hai giờ đồng hồ gì đó họ đã nói chuyện vòng quanh.
“... Chúng ta chẳng đi được đến đâu cả, Sarah,” cuối cùng cô nói. “Chị nói chị biết là chị phải từ bỏ hắn ta; thậm chí chị còn nói chị muốn từ bỏ hắn ta, và rồi khi chúng ta bắt đầu đi vào thực tế thì chị lại quay trở lại việc ‘Chị yêu hắn ta.’ Chúng ta đang đi vòng quanh.”
Sarah nhìn xuống phần trứng và xúc xích đã đông lại trên đĩa của cô. “Chị biết,” cô nói. “Chị luôn nói vòng quanh, và em luôn đi thẳng vào vấn đề. Giá mà chị có được suy nghĩ như em.”
“Đó không phải là vấn đề của ‘suy nghĩ’, Sarah, đó là vấn đề...”
“Đúng thế. Chúng ta rất khác nhau, chị và em. Chị không có ý nói nhìn sự việc theo cách của bên nào tốt hơn, chỉ vì chị luôn nghĩ hôn nhân là - thật ra, là thiêng liêng. Chị không mong người khác nghĩ giống như chị theo cách đó, đó là cách chị nghĩ. Chị là một người con gái trinh trắng khi đi lấy chồng và chị luôn trinh trắng kể từ ngày đó tới giờ. Ý chị là,” cô nói nhanh, “em biết đấy... chị chưa bao giờ đi chơi hay làm điều gì đó tương tự.” Với những từ ngữ “đi chơi hay làm điều gì đó tương tự” cô đưa điếu thuốc thật nhanh lên môi và nheo mắt lại, hoặc là để che giấu đi sự ngượng ngùng hoặc cũng có thể là nói lên một sự ngụy biện đã được che đậy.
“Tốt thôi,” Emily nói. “Nhưng thậm chí nếu hôn nhân là thiêng liêng, chẳng phải điều đó muốn nói rằng cả hai người đều phải trân trọng điều đó hay sao? Những gì được coi là thiêng liêng theo như cách mà Tony đối xử với chị á?”
“Anh ta đã cố hết sức, Emmy. Chị biết là điều này nghe thật ngớ ngẩn, nhưng đó là sự thật.”
Emily phả ra một làn khói thuốc dày đặc và ngồi lùi lại để nhìn quanh quán cà phê. Ở trong ngăn đối diện với lối đi là một cặp tình nhân trẻ đang lẩm bẩm, ngồi sát với nhau, ngón tay của cô gái đang lần theo họa tiết hình oval ở phần đùi phía bên trong của chiếc quần jean màu xanh bạc, chật cứng của cậu con trai.
“Nghe này, Sarah,” cô nói. “Chúng ta hãy bàn lại toàn bộ vấn đề mà chúng ta đã dừng cách đây ít phút. Chị có thể ở tại căn hộ của em bao lâu tùy chị. Chúng ta có thể cùng bàn để tìm ra một nơi cho riêng chị, và một công việc. Và chị không phải nghĩ về nó như một sự ly thân dài hạn; hãy cữ nghĩ về nó như...”
“Chị biết mà em, và điều đó thật là ngọt ngào, nhưng có quá nhiều sự phức tạp. Chỉ với một điều thôi, chị sẽ làm được nghề gì?”
“Có hàng đống việc mà chị có thể làm được,” Emily nói, mặc dầu công việc duy nhất mà cô có thể vẽ ra cho chị cô là làm lễ tân ở phòng khám hoặc phòng nha khoa. (Tất cả những người phụ nữ trung niên, không có khả năng, khôi hài đến từ đâu nhỉ, và làm thế nào để họ có thể có được việc?) “Điều đó không quan trọng,” cô hối thúc. “Điều quan trọng duy nhất bây giờ là chị hãy quyết định. Hoặc là quay về St.Charles, hoặc là bắt đầu một cuộc sống mới của mình ở ngay tại đây.”
Sarah im lặng, như thể đang suy nghĩ sâu lắm vì sĩ diện; rồi cô nói “Chị nên quay về,” như Emily biết rằng mình sẽ như vậy. “Chiều nay chị sẽ đáp tàu đi về.”
“Vì sao?” Emily nói. “Vì hắn ta ‘cần’ chị á?”
“Bọn chị cần nhau.”
Vì thế sự việc được an bài: Sarah quay về; tất cả ngày và đêm của Emily được dành cả cho Michael Hogan, hay là cho bất kỳ một người đàn ông nào tiếp theo sau anh ta. Cô phải thừa nhận rằng cô cảm thấy nhẹ cả người, nhưng đó là một sự nhẹ nhõm mà không thể thể hiện ra bên ngoài. “Và những gì mà chị thật sự lo ngại là,” cô nói, có vẻ như một lời chế nhạo, “những gì mà chị thật sự lo ngại là Tony có thể sẽ từ bỏ chị.”
Sarah cụp mắt xuống, để lộ ra vết sẹo trắng xanh. “Đúng thế,” cô nói.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook