[Lão Cửu Môn] Phiên Ngoại Trần Bì A Tứ
-
Chương 5: Ba thuyền tám trống
Thấy cha Xuân Tứ cứng ngắc không phản ứng gì, gã đàn ông cởi trần đó dường như có vẻ có chút áy náy. Gã khoát tay, định nói gì đó, nhưng rồi cuối cùng lại cảm thấy không nói ra miệng được.
“Yên tâm, lát nữa tôi đi ngay.” Gã đàn ông nhẹ giọng nói: “Thật, có thể xin một chén nước uống được không. Tôi lạnh quá nên bất đắc dĩ mới phải lên.”
Cha Xuân Tứ có chút khó hiểu, gã đàn ông này dường như không giống giặc cướp, nhưng hắn có thể bơi dưới nước sông nửa đêm lạnh buốt để đuổi theo thuyền, chứng tỏ là có tài bơi lội. Gã nói, chỉ một lát là đi ngay, thế thì gã ở dưới nước làm cái gì? Chẳng lẽ là đang truy đuổi một chiếc thuyền khác ư?
Hay chẳng lẽ đám cướp sông có lục đục nội bộ gì?
Gã đàn ông cởi trần thấy cha Xuân Tứ vẫn không có phản ứng gì, bèn móc từ trong túi ra vài đồng xu, có chút mất hứng: “Ông đây trả tiền mua một chén nước nóng vậy. Này bố già, ta đây thân phận là gì, ông cũng biết rồi, chẳng qua ta chỉ xin một chén nước mà thôi, uống xong liền đi ngay, ông liệu mà thức thời, đừng có làm ông đây phát cáu.”
Dưới ánh trăng, bàn tay người kia như một thứ móng vuốt tái nhợt, nước sông buốt giá đóng thành một lớp nứt nẻ trên da gã.
Cha Xuân Tứ vẫn tần ngần do dự, không biết nên ứng phó thế nào, nhưng mẹ bọn trẻ đã lập tức đổ hết than ướt trong lò đi, bỏ than khô vào châm lửa, bảo Xuân Tử ra sau thuyền múc nước.
Chẳng mấy chốc, nước đã sôi, trên thuyền tỏa ra một luồng ánh sáng ấm áp. Gã đàn ông ném đồng tiền xuống mũi thuyền, “Tôi không vào trong, thế đã được chưa. Bà cầm lò qua đây đun, tôi sưởi ấm một chút.”
Mẹ Xuân Tứ xách bếp lò lên, mang đến đầu thuyền. Gã đàn ông cởi trần kia móc một cái bình thiếc nhỏ từ túi thủy kháo giắt sau hông, cái bình này chỉ nhỏ bằng ngón tay, nắp bình lèn bùn. Gã đàn ông bóc lớp bùn ra, rót chất lỏng trong bình vào nồi nước đang đun.
Trong nháy mắt, một mùi thơm sực lên đầy cả thuyền. Thì ra đó là bã rượu trắng.
“Vậy mới ngon.” Gã đàn ông cười khà khà, nói bằng tiếng Hán Khẩu. Rồi gã lại móc ra hai cái bát con, múc nước nóng pha rượu. Đoạn gã đặt một bát nước xuống trước mặt cha Xuân Tứ, bát còn lại gã uống một ngụm, nghe tiếng ừng ực khiến người ta chộn rộn. “Uống chút đi, mấy người cũng vất vả rồi.”
Cha Xuân Tứ cảnh giác nhìn gã, nhưng mùi thơm của rượu khiến ông có chút nóng ruột. Trong khoang thuyền, Xuân Thân bị sặc mùi rượu, bừng tỉnh giấc. Nó ngơ ngác ngẩng đầu lên, liền bị mẹ Xuân Tứ nhanh chóng kéo lại vào trong chăn, bịt kín miệng.
“Tôi bảo ông uống rượu, ông nhìn tôi làm gì.” Gã đàn ông cởi trần bực bội nói, bảo cha Xuân Tứ ngồi xuống, có vẻ không vui: “Ông không nể mặt tôi gì cả, nào, tôi uống mấy ngụm rồi đi thôi, ông lại đây hàn huyên với tôi đôi ba câu, chao ôi, đừng có sợ, tôi mà muốn làm gì các người, đã làm lật cả cái thuyền này từ lâu rồi.”
Cha Xuân Tứ nhìn vẻ mặt gã, người này xem ra không phải hạng cùng hung cực ác, kết bè kết phái với lũ cướp sông. Người này quả thực chỉ có một mình, có vẻ không phải đến đây để hại người, ông mới thở phào nhẹ nhõm một chút. Nhìn bát rượu nóng bốc hơi nghi ngút kia, ông cầm lên, liếc nhìn Xuân Tứ và mẹ Xuân Tứ trong khoang thuyền, rồi uống một hớp.
Bã rượu vừa thơm vừa nồng, trộn với nước sông, hương vị cực kỳ đậm đà. Rượu vừa chạm đầu lưỡi, cha Xuân Tứ liền uống ực ngay, rồi không kìm được, lại uống thêm ngụm nữa.
Người nọ liền vui vẻ, há miệng cười to: “Vậy mới đúng chớ, chúng ta đều kiếm sống trên sông cả. Phải làm thứ châu chấu nước, âu cũng là cực chẳng đã. Uống rượu vào rồi, chúng ta đều chẳng có gì khác biệt.”
“Nhà anh uống rồi mau đi đi.” Hơi men vừa vào, một luồng khí nóng liền bốc lên, cha Xuân Tứ chẳng còn thấy sợ gì nữa.
“Uống rượu ngon, thì lại khác. Ha ha ha ha ha, uống xong liền đi ngay, ông đây uống xong liền đi ngay, không lừa các người.” Gã lại móc từ thủy kháo sau hông ra một bình thiếc khác, đổ vào nồi. “Tôi cho ông hay, tôi đây cũng ngán thấy mẹ rồi, làm ‘châu châu nước’ ấy à, chính là đi hù dọa người, hù dọa đám các ông đấy. Ông xem đấy, bọn tôi thu thuế, đều hỏi thu đám thuyền buôn cả, chứ nhà ông, có thu cũng được mấy đồng mấy hào đâu? Chẳng qua gần đây quan binh ồn ã quá, không phân rõ được đâu là hàng thương buôn, đâu là hàng quân đội, thế mới phải tìm đến đám thuyền cá, cho nên về sau mấy người đừng có sợ, ông đây đã ghi nhớ một chén nước nóng này của mấy người rồi, tôi về sẽ căn dặn các anh em. Bây giờ ông cầm lấy cái này.” Đoạn, gã rút một tấm vải vàng từ sau hông ra, treo lên sợi thừng phơi cá ở đầu thuyền: “Đây là cờ miễn thuế của ‘châu châu nước’ Hoàng Quỳ bọn tôi. Treo nó ở đấy, sau này, đám Hoàng Quỳ không dám làm phiền thuyền của ông.”
Cha Xuân Tứ nhìn tấm vải vàng kia, trên đó có vẽ một đóa hoa hết sức lạ lùng. Người kia sắc mặt đã đỏ bừng, uống hơi quá chén rồi. Gã thở dài với cha Xuân Tứ, nói: “Ông nhớ đấy, tôi đây là ‘pháo đầu’ của ‘châu châu nước’ Hoàng Quỳ. Bây giờ, ‘châu châu nước’ của cả năm hồ mười tám sông đều chạy hết đến Trường Giang, rặt một lũ ranh con liều mạng chỉ chăm chăm chờ đám già bọn tôi chết quách đi, tôi đây làm ‘pháo đầu’ suốt mười mấy năm, cũng coi như đã tạo lập bao nhiêu công lao hiển hách cho Hoàng Quỳ, thế mà mẹ kiếp, bây giờ lại lưu lạc đến nông nỗi phải đi ‘hái Hoa Cổ’. Đêm nay nếu không hái được Hoa Cổ về, chỉ e cái ‘pháo đầu’ này, tôi đây không làm tiếp được nữa. Ông có nghe tiếng trống ban nãy không? Chính là tiếng trống hái Hoa Cổ đấy, phiền chết luôn.”
Cha Xuân Tứ ngờ vực nhìn người này, ông không hiểu hái Hoa Cổ là cái gì, người nọ uống cạn một bát rượu rồi nói: “May mà tôi đây gươm báu còn chưa cùn, ban nãy tôi hái một lèo những tám cái Hoa Cổ. Mệt chết đi được, vậy mới phải ngoi lên chỗ ông nghỉ một chút, cho nên ông đừng có sợ.”
Pháo Đầu nói xong, cúi xuống thò tay xuống mò gì đó dưới nước, hóa ra có một cái móc sắt móc ở đầu thuyền, nối với thứ gì đó dưới nước. Pháo Đầu lôi tuột hết cả lên. Thì ra đó là cả một xâu đầu người. Toàn bộ bị ngâm nước lâu, đã trắng ởn. “Đám Hoa Cổ tôi vừa hái đấy. Vừa khéo có ba chiếc thuyền phía trước, vừa đủ tám.”
Xuân Tứ hét lên thất thanh. Cô vừa nhận ra trong số đó có cái đầu của cô bé Nhị Nạo của thuyền hàng xóm vẫn thường hay chơi đùa cùng cô. Cái đầu của cô bé bốn tuổi bấy giờ chỉ còn lại một nửa lớp da, như thể bị xé toạc xuống vậy, miệng há rất to.
Cha Xuân Tứ cũng khiếp sợ đến mức tỉnh cả hơi men. Suýt nữa thì nôn ọe.
“Một, hai, ba, bốn, năm.” Pháo Đầu khảy khảy mấy cái đầu người. Bỗng gã sững ra một lúc, nhìn xuống mặt nước: “Không phải chớ, sao lại thiếu mấy cái, rớt mất đâu rồi.”
“Yên tâm, lát nữa tôi đi ngay.” Gã đàn ông nhẹ giọng nói: “Thật, có thể xin một chén nước uống được không. Tôi lạnh quá nên bất đắc dĩ mới phải lên.”
Cha Xuân Tứ có chút khó hiểu, gã đàn ông này dường như không giống giặc cướp, nhưng hắn có thể bơi dưới nước sông nửa đêm lạnh buốt để đuổi theo thuyền, chứng tỏ là có tài bơi lội. Gã nói, chỉ một lát là đi ngay, thế thì gã ở dưới nước làm cái gì? Chẳng lẽ là đang truy đuổi một chiếc thuyền khác ư?
Hay chẳng lẽ đám cướp sông có lục đục nội bộ gì?
Gã đàn ông cởi trần thấy cha Xuân Tứ vẫn không có phản ứng gì, bèn móc từ trong túi ra vài đồng xu, có chút mất hứng: “Ông đây trả tiền mua một chén nước nóng vậy. Này bố già, ta đây thân phận là gì, ông cũng biết rồi, chẳng qua ta chỉ xin một chén nước mà thôi, uống xong liền đi ngay, ông liệu mà thức thời, đừng có làm ông đây phát cáu.”
Dưới ánh trăng, bàn tay người kia như một thứ móng vuốt tái nhợt, nước sông buốt giá đóng thành một lớp nứt nẻ trên da gã.
Cha Xuân Tứ vẫn tần ngần do dự, không biết nên ứng phó thế nào, nhưng mẹ bọn trẻ đã lập tức đổ hết than ướt trong lò đi, bỏ than khô vào châm lửa, bảo Xuân Tử ra sau thuyền múc nước.
Chẳng mấy chốc, nước đã sôi, trên thuyền tỏa ra một luồng ánh sáng ấm áp. Gã đàn ông ném đồng tiền xuống mũi thuyền, “Tôi không vào trong, thế đã được chưa. Bà cầm lò qua đây đun, tôi sưởi ấm một chút.”
Mẹ Xuân Tứ xách bếp lò lên, mang đến đầu thuyền. Gã đàn ông cởi trần kia móc một cái bình thiếc nhỏ từ túi thủy kháo giắt sau hông, cái bình này chỉ nhỏ bằng ngón tay, nắp bình lèn bùn. Gã đàn ông bóc lớp bùn ra, rót chất lỏng trong bình vào nồi nước đang đun.
Trong nháy mắt, một mùi thơm sực lên đầy cả thuyền. Thì ra đó là bã rượu trắng.
“Vậy mới ngon.” Gã đàn ông cười khà khà, nói bằng tiếng Hán Khẩu. Rồi gã lại móc ra hai cái bát con, múc nước nóng pha rượu. Đoạn gã đặt một bát nước xuống trước mặt cha Xuân Tứ, bát còn lại gã uống một ngụm, nghe tiếng ừng ực khiến người ta chộn rộn. “Uống chút đi, mấy người cũng vất vả rồi.”
Cha Xuân Tứ cảnh giác nhìn gã, nhưng mùi thơm của rượu khiến ông có chút nóng ruột. Trong khoang thuyền, Xuân Thân bị sặc mùi rượu, bừng tỉnh giấc. Nó ngơ ngác ngẩng đầu lên, liền bị mẹ Xuân Tứ nhanh chóng kéo lại vào trong chăn, bịt kín miệng.
“Tôi bảo ông uống rượu, ông nhìn tôi làm gì.” Gã đàn ông cởi trần bực bội nói, bảo cha Xuân Tứ ngồi xuống, có vẻ không vui: “Ông không nể mặt tôi gì cả, nào, tôi uống mấy ngụm rồi đi thôi, ông lại đây hàn huyên với tôi đôi ba câu, chao ôi, đừng có sợ, tôi mà muốn làm gì các người, đã làm lật cả cái thuyền này từ lâu rồi.”
Cha Xuân Tứ nhìn vẻ mặt gã, người này xem ra không phải hạng cùng hung cực ác, kết bè kết phái với lũ cướp sông. Người này quả thực chỉ có một mình, có vẻ không phải đến đây để hại người, ông mới thở phào nhẹ nhõm một chút. Nhìn bát rượu nóng bốc hơi nghi ngút kia, ông cầm lên, liếc nhìn Xuân Tứ và mẹ Xuân Tứ trong khoang thuyền, rồi uống một hớp.
Bã rượu vừa thơm vừa nồng, trộn với nước sông, hương vị cực kỳ đậm đà. Rượu vừa chạm đầu lưỡi, cha Xuân Tứ liền uống ực ngay, rồi không kìm được, lại uống thêm ngụm nữa.
Người nọ liền vui vẻ, há miệng cười to: “Vậy mới đúng chớ, chúng ta đều kiếm sống trên sông cả. Phải làm thứ châu chấu nước, âu cũng là cực chẳng đã. Uống rượu vào rồi, chúng ta đều chẳng có gì khác biệt.”
“Nhà anh uống rồi mau đi đi.” Hơi men vừa vào, một luồng khí nóng liền bốc lên, cha Xuân Tứ chẳng còn thấy sợ gì nữa.
“Uống rượu ngon, thì lại khác. Ha ha ha ha ha, uống xong liền đi ngay, ông đây uống xong liền đi ngay, không lừa các người.” Gã lại móc từ thủy kháo sau hông ra một bình thiếc khác, đổ vào nồi. “Tôi cho ông hay, tôi đây cũng ngán thấy mẹ rồi, làm ‘châu châu nước’ ấy à, chính là đi hù dọa người, hù dọa đám các ông đấy. Ông xem đấy, bọn tôi thu thuế, đều hỏi thu đám thuyền buôn cả, chứ nhà ông, có thu cũng được mấy đồng mấy hào đâu? Chẳng qua gần đây quan binh ồn ã quá, không phân rõ được đâu là hàng thương buôn, đâu là hàng quân đội, thế mới phải tìm đến đám thuyền cá, cho nên về sau mấy người đừng có sợ, ông đây đã ghi nhớ một chén nước nóng này của mấy người rồi, tôi về sẽ căn dặn các anh em. Bây giờ ông cầm lấy cái này.” Đoạn, gã rút một tấm vải vàng từ sau hông ra, treo lên sợi thừng phơi cá ở đầu thuyền: “Đây là cờ miễn thuế của ‘châu châu nước’ Hoàng Quỳ bọn tôi. Treo nó ở đấy, sau này, đám Hoàng Quỳ không dám làm phiền thuyền của ông.”
Cha Xuân Tứ nhìn tấm vải vàng kia, trên đó có vẽ một đóa hoa hết sức lạ lùng. Người kia sắc mặt đã đỏ bừng, uống hơi quá chén rồi. Gã thở dài với cha Xuân Tứ, nói: “Ông nhớ đấy, tôi đây là ‘pháo đầu’ của ‘châu châu nước’ Hoàng Quỳ. Bây giờ, ‘châu châu nước’ của cả năm hồ mười tám sông đều chạy hết đến Trường Giang, rặt một lũ ranh con liều mạng chỉ chăm chăm chờ đám già bọn tôi chết quách đi, tôi đây làm ‘pháo đầu’ suốt mười mấy năm, cũng coi như đã tạo lập bao nhiêu công lao hiển hách cho Hoàng Quỳ, thế mà mẹ kiếp, bây giờ lại lưu lạc đến nông nỗi phải đi ‘hái Hoa Cổ’. Đêm nay nếu không hái được Hoa Cổ về, chỉ e cái ‘pháo đầu’ này, tôi đây không làm tiếp được nữa. Ông có nghe tiếng trống ban nãy không? Chính là tiếng trống hái Hoa Cổ đấy, phiền chết luôn.”
Cha Xuân Tứ ngờ vực nhìn người này, ông không hiểu hái Hoa Cổ là cái gì, người nọ uống cạn một bát rượu rồi nói: “May mà tôi đây gươm báu còn chưa cùn, ban nãy tôi hái một lèo những tám cái Hoa Cổ. Mệt chết đi được, vậy mới phải ngoi lên chỗ ông nghỉ một chút, cho nên ông đừng có sợ.”
Pháo Đầu nói xong, cúi xuống thò tay xuống mò gì đó dưới nước, hóa ra có một cái móc sắt móc ở đầu thuyền, nối với thứ gì đó dưới nước. Pháo Đầu lôi tuột hết cả lên. Thì ra đó là cả một xâu đầu người. Toàn bộ bị ngâm nước lâu, đã trắng ởn. “Đám Hoa Cổ tôi vừa hái đấy. Vừa khéo có ba chiếc thuyền phía trước, vừa đủ tám.”
Xuân Tứ hét lên thất thanh. Cô vừa nhận ra trong số đó có cái đầu của cô bé Nhị Nạo của thuyền hàng xóm vẫn thường hay chơi đùa cùng cô. Cái đầu của cô bé bốn tuổi bấy giờ chỉ còn lại một nửa lớp da, như thể bị xé toạc xuống vậy, miệng há rất to.
Cha Xuân Tứ cũng khiếp sợ đến mức tỉnh cả hơi men. Suýt nữa thì nôn ọe.
“Một, hai, ba, bốn, năm.” Pháo Đầu khảy khảy mấy cái đầu người. Bỗng gã sững ra một lúc, nhìn xuống mặt nước: “Không phải chớ, sao lại thiếu mấy cái, rớt mất đâu rồi.”
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook