Kim Ốc Hận
-
Quyển 4 - Chương 97: Vĩ thanh: Đời người bước đến lúc tận cùng
Cuộc đời nàng cứ xuôi theo cảnh mặt trời lặn, mặt trời lặn
trên thành Trường An, hoa nở hoa tàn trong cung Kiên Chương cho đến ngày nhắm mắt.
Năm Nguyên Phong đầu tiên, ngự giá trở về đến Trường An đã là tháng Bảy. Lúc xe ngự tráng lệ được Kỳ Môn quân bảo vệ xung quanh tiến vào Trường An từ cửa thành phía tây, Trần A Kiều nhìn qua rèm thấy mái ngói lưu ly của cung Kiến Chương thì thở một hơi thật dài. Ao sen trước điện Trường Môn ngày nào còn xanh um giờ đã nở rộ.
Cuối tháng Chín, Lưu Triệt di chuyển lưu dân tới Giang Hoài, bắt đầu khai phá lưu vực sông Trường Giang ngày sau còn phồn hoa hơn cả Quan Trung. Tháng Mười, y dẫn mười tám vạn kỵ binh đi tuần thú biên cương, Trần A Kiều không đi theo. Hành trình đi từ phía bắc Vân Dương qua Thượng Quận, Tây Hà, Ngũ Nguyên rồi vượt Trường Thành lên bắc đứng trên đài của thiền vu nhìn về hướng Bắc Hà quan sát Hung Nô. Trước uy thế quân Hán, dân Hung Nô còn lại đều chạy trốn thật xa. Cuối năm Nguyên Phong, Hoàng Hà lại dâng nước gây lũ lụt. Nước Lương, nước Sở trước đây Hoàng đế và Hoàng hậu có đi tuần thú qua đều gặp tai họa, dân chúng lầm than. Lưu Triệt rốt cục hạ quyết tâm dồn sức sửa trị Hoàng Hà.
“Năm xưa Cấp Ảm, Trịnh Đương bịt đê vỡ nhưng vết vỡ quá sâu nên không đủ vật liệu.” Trong điện Trường Môn, Trần A Kiều chỉ vào sa bàn sông Hoàng Hà nói giọng đều đều, “Sau đó bệ hạ lại bỏ đắp đê nên mới để cho lũ lụt hoành hành hơn hai mươi năm.” Năm đó nàng còn là hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ trang nghiêm ở điện Tiêu Phòng, chỉ chăm chăm chờ đợi, vui mừng khi phu quân trở về bên cạnh, nào nghĩ đến sự sống chết của vô số lưu dân ngàn dặm bên ngoài.
“Khi đó cuộc chiến Hán Hung đang hồi cấp bách, hơn nữa vùng Quan Trung mới là căn bản của Đại Hán ta. Đất Quan Trung chiếm một phần ba thiên hạ mà dân chúng chỉ chiếm một phần mười ba, đất đai trù phú mà mới khai khẩn được sáu phần mười.” Lưu Triệt liếc nhìn nàng. A Kiều khẽ thở dài, y là đế vương nên phải tính đến toàn cục chứ không phải ở tiểu tiết. Quyết định như vậy đối với dân chúng mà nói quả thật tàn nhẫn nhưng không thể nói năm đó Lưu Triệt quyết định không đúng.
Sau khi văn võ bá quan trong điện Tuyên Thất hiểu được ý của bệ hạ thì cả triều đều im lặng. Chuyện trị thủy đã không dám nói chắc, lại khá gian khổ, cuối cùng giao cho Thái trung đại phu Kim Nhật Đan. Trần A Kiều biết rằng đây cũng là khảo nghiệm của Lưu Triệt đối với Kim Nhât Đan. Từ sau khi diện kiến bệ hạ ở cung Kiến Chương hồi cuối năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Kim Nhật Đan dần thu bớt tính tình cuồng ngạo, hành xử trong triều ngày càng cẩn thận. A Kiều quan sát thấy hết thảy, trong lòng thầm cảm thán. Người thiếu niên Hung Nô nay có thể hy sinh vì Tảo Tảo như vậy thì chắc phải rất yêu con nàng. Nàng vì dân chúng thiên hạ nên bảo Mạch Nhi nhắc nhở Kim Nhật Đan hai điều. Thứ nhất, chuyện trị thủy chú trọng về phần khai thông mà không phải là đơn thuần ngăn chặn. Thứ hai, để ý vấn đề vật liệu đắp đê.
Năm Nguyên Phong thứ hai, Hoàng đế phái Thiệp Hà tới thuộc quốc Triều Tiên ban dụ lệnh cho quốc vương Triều Tiên là Vệ Hữu Cừ vào bái kiến. Quốc Vương Triều Tiên không nhận dụ lệnh. Tháng Tư, từ Hoàng Hà báo tin về rằng Kim Nhật Đan chỉ huy Quách Xương[1] và mấy vạn dân công, lấy trúc và đá cắm xuống đáy sông chắn ngang chỗ đê vỡ, mới đầu thì thưa, sau đó dày lên khiến thế nước chảy qua chỗ vỡ chậm lại, tiếp đó dùng cỏ khô trộn với đất cát bịt kín, cuối cùng đổ đất và đá vào, chặn được dòng nước, khôi phục dòng chảy sông Hoàng Hà trở lại như trước. Vì công trạng này, Kim Nhật Đan được thăng trung lang tướng, bổng lộc hai ngàn thạch.
[1] Theo sử là người vùng Vân Trung dùng thân phận giáo úy đi theo Vệ Thanh tấn công Hung Nô.
Tháng bảy, Triều Tiên mượn một cớ nhỏ để phát binh tấn công Liêu Đông, giết chết Thiệp Hà. Trong mùa thu, Lưu Triệt ra lệnh chiêu mộ tử tù, chia làm hai đường đánh dẹp Triều Tiên. Tháng Giêng năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán bắt được Lâu Lan vương, khống chế con đường tơ lụa. Vào mùa hè, quân Hán bình định Triều Tiên ở phía đông, thiết lập bốn quận Chân Phiên, Huyền Thố, Lâm Truân, Nhạc Lăng.
Đến mùa thu, Công chúa Duyệt Trữ vốn được Hoàng đế sủng ái nhất vừa tròn hai mươi tuổi, cuối cùng cũng chuẩn bị xuất giá trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Vị hôn phu mà bệ hạ lựa chọn cho cô lại là một người Hung Nô. Tuy Kim Nhật Đan dần bộc lộ tài năng trong triều đình, tác phong cẩn thận vững vàng, có tài kinh bang tế thế, được sự tán thưởng của cả Hoàng thượng và Thái tử, nhưng làm sao có thể chiếm lấy viên minh châu được cưng chiều nhất trên tay Hoàng đế và Hoàng hậu chứ? Cả giới quý tộc lẫn dân chúng Trường An còn đang ra sức đoán già đoán non thì lễ nghi xuất giá của Công chúa Duyệt Trữ đã được cử hành long trọng. Đại tư nông Tang Hoằng Dương trông coi tiền bạc và lương thảo quốc gia, nói về thân phận em kết nghĩa của mẫu thân Công chúa Duyệt Trữ, lần đầu tiên không ngầm dị nghị về sự lãng phí của đế vương, vui vẻ quyết toán tiền bạc chuẩn bị cho hôn lễ.
Trên điện Trường Môn, Lưu Sơ ngồi yên lặng trước gương để A Kiều trang điểm tỉ mỉ cho cô theo kiểu thiếu nữ đợi xuất giá. Cặp lông mày, đôi má lúm dần hiện ra tinh tế, đẹp đẽ dưới phấn son trang điểm. Thiếu nữ trong gương bất giác đã đến tuổi hai mươi hoa gấm. Ở cái tuổi rực rỡ như vậy, từ nay về sau sẽ thuộc về một người khác, buồn vui, vinh nhục cùng hắn…
“Mẫu thân”, Lưu Sơ bật gọi một tiếng rồi khóc òa lên. Đã bao nhiêu năm qua kể từ khi A Kiều về ở Trường Môn, khôi phục lại vị trí hoàng hậu, nhưng cô vẫn không chịu đổi cách xưng hô thành mẫu hậu mà cảm thấy gọi mẫu thân mới là thân thương nhất.
“Tảo Tảo ngốc nào”, Trần A Kiều mỉm cười an ủi, giấu đi nỗi nghẹn ngào. “Có phải là không về nữa đâu. Nếu con muốn, lúc nào cũng có thể vào cung thăm mẫu thân và phụ hoàng. Đừng khóc nữa, kẻo phí công trang điểm.”
Lưu Sơ nín khóc, mỉm cười gật đầu. Cô đứng dậy quay ra thì thấy ca ca đang chờ ở ngoài rèm. Cô rảo bước tới bên cạnh Lưu Mạch, đưa tay cho hắn đỡ, nghiêng đầu hỏi, “Ca ca, Tảo Tảo có đẹp không?”
Lưu Mạch đã ở vị trí thái tử được mấy năm, tâm trí ngày càng sâu sắc, nhưng nhìn muội muội sống nương tựa lẫn nhau từ thuở nhỏ cho tới lúc trưởng thành vừa mới trang điểm xong thì cặp mắt đen sâu thẳm vẫn ánh lên vẻ dịu dàng. “Đẹp lắm!”, hắn chân thành khen.
Lúc đó Kim Nhật Đan đang ở ngoài cửa đông cung Kiến Chương chờ đợi người thiếu nữ chiếm vị trí quan trọng trong cuộc đời mình. Lưu Sơ mặc bộ lễ phục tân nương nhìn như một áng mây hồng, dung nhan như hoa sen nổi trên mặt nước, tỏa hương thơm ngát. Từ nay về sau hắn sẽ có thể danh chính ngôn thuận nắm tay cô.
Vợ chồng Công chúa tới điện Tuyên Đức khấu đầu tạ ơn công lao nuôi dưỡng của Hoàng hậu và Hoàng đế. Trên điện, Lưu Triệt cùng Trần A Kiều đều mặc lễ phục trang trọng của Hoàng đế và Hoàng hậu, nét mặt rất nhu hòa.
Món hồi môn cực lớn của Công chúa Duyệt Trữ khiến cho dân chúng Trường An trợn mắt líu lưỡi. Khi cỗ xe chở lễ đầu tiên đã vào khuất trong phủ Công chúa thì cỗ xe lễ cuối cùng còn chưa lên đường rời khỏi cửa cung.
Vào mùa thu năm Nguyên Phong thứ ba, Trần A Kiều gả chồng cho đứa con gái yêu quý nhất trong cuộc đời mình, mặc dù sau này vẫn có thể thường xuyên gặp mặt nhưng đã không còn là đứa con gái bé bỏng có thể tùy ý làm nũng với nàng nữa. Lòng nàng vui buồn lẫn lộn.
Tháng Mười hai năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán đánh bại nước Xa Sư.
Vào lễ đầu năm mới của năm Nguyên Phong thứ tư, Công chúa Duyệt Trữ vào cung thăm phụ hoàng và mẫu thân. Cô nắm tay A Kiều, líu ríu nói mấy chuyện riêng của phụ nữ. Trần A Kiều nhìn vào mắt con thấy vẫn trong veo thì trong lòng cũng được an ủi. Là người mẹ, nàng luôn lo lắng cho hạnh phúc của con gái.
Cuối năm Nguyên Phong thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh bỗng nhiên ngất xỉu ở điện Bác Vọng, ngự y thăm khám xong liền bẩm: “Chúc mừng Hoàng hậu nương nương, chúc mừng Thái tử điện hạ, Thái tử phi điện hạ có thai. Hoàng gia đã có người nối dõi, thật là chuyện vui lớn.” Trần A Kiều và Lưu Mạch nghe xong đều vui mừng.
Vào mùa xuân năm Nguyên Phong thứ năm, Thượng Quan Linh sinh đứa cháu gái trưởng của hoàng gia sớm mấy ngày. Đứa bé nhỏ đến nỗi A Kiều bế chiếc áo gấm mềm mại bọc thân hình bé nhỏ của nó trên tay rồi mà còn hoài nghi liệu nó có biến mất hay không. Thời gian thấm thoắt, mới năm nào nàng ôm hai đứa con song sinh quyết tâm sống tốt cuộc đời này, chớp mắt một cái, nàng đã không còn nhớ được cảm giác khi bế một đứa trẻ mới sinh trên tay thế nào nữa. Lưu Triệt ban cho đứa cháu gái đầu của y cái tên là Yêu.
“Hoa đào yêu kiều,
Sắc màu rực rỡ.
Rồi sẽ vu quy,
Yên bề gia thất”[2]
[2] Bài Đào yêu 1 của Khổng Tử được ghi chép trong Kinh Thi.
A Kiều cho rằng cái tên này hàm chứa những kỳ vọng của y đối với hạnh phúc của đứa bé mới sinh.
Tháng Tư, Hoàng đế thiết lập thứ sử ở mười ba châu, dùng sáu điều hỏi chuyện[3].
[3] Đây là một loại chuẩn tắc được đặt ra để giám sát quan viên, bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế chia đất nước thành mười ba châu, mỗi một châu cử tới một thứ sử, mỗi năm trong đợt tuần hành vào mùa thu, sẽ dùng sáu câu hỏi để nắm được tình hình quận quốc, giám sát viên khu vực.
Tháng Chín, danh tướng một đời Vệ Thanh lâm bệnh mất ở phủ Trường Bình hầu, còn chưa đến tuổi biết mệnh trời[4]. Đêm khuya hôm đó, Lưu Triệt và A Kiều đã thay thường phục, đang xem sách nói chuyện vui vẻ trong điện Trường Môn thì nghe nội thị bẩm báo việc này. Lưu Triệt thấy lòng sầu thảm. Người vừa đi mất chính là tri kỷ của y thời niên thiếu, chinh chiến vì chí hướng của y nhưng sau này lớn lên lại bị chính trị làm cho xa cách. Chỉ là nghe tin hắn qua đời trong một đêm thu như thế này, y lại nhớ tới quãng thời gian trong sáng vui vẻ cùng nhau đi săn thú trong Thượng Lâm Uyển thuở còn niên thiếu. Lưu Triệt càng nghĩ càng cảm thấy già nua. Vệ Thanh cùng thế hệ với y cũng đã ra đi, vậy bọn họ còn bao nhiêu thời gian trên thế gian này.
[4] Tuổi biết mệnh trời tức tuổi năm mươi. Theo câu “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh” trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới năm mươi tuổi mới có thể thông suốt chân lý của tạo hóa, hiểu được mệnh trời.
Lưu Triệt xưa nay hùng tâm vạn trượng, trong lòng bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi. Y ôm chặt lấy A Kiều, trầm mặc một lát rồi nhẹ giọng hỏi, “Sao Kiều Kiều lại không hề tức giận một chút nào thế?”
“Cái gì?” Trần A Kiều giật mình, một lúc sau mới có phản ứng, hỏi ngược lại, “Sao thiếp lại phải tức giận?”
Mặc dù Vệ Thanh là người họ Vệ nhưng nàng vẫn thừa nhận hắn là anh hùng. Còn nguyên nhân hắn không còn được Lưu Triệt tin dùng, truy đến cùng, có một phần do tính toán của nàng. Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
“Thiếp biết.” Nàng mỉm cười nói, “Vệ Thanh là một người quan trọng trong cuộc đời bệ hạ, không có gì đáng ngạc nhiên. Giống như A Kiều là thê tử của bệ hạ nhưng A Kiều vẫn có sư phụ, Mạch Nhi, Tảo Tảo, sư huynh.” Bọn họ đều là những người không thể thay thế trong cuộc đời.
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng. Nghe A Kiều nhắc tới Tiêu Phương, y không khỏi nhớ lại cảnh trong Thượng Lâm Uyển năm Nguyên Đỉnh nguyên niên, người đàn ông đẹp như ngọc kia bởi vì A Kiều đau đớn mà bộc phát ra một phần tâm tư vẫn luôn giấu kín. Cho tới bây giờ, cả linh hồn lẫn thể xác A Kiều đều đã thuộc về y nhưng y vẫn không thể nào xóa đi sự kính trọng của nàng với Tiêu Phương. Y nồng nàn hôn lên khuôn mặt kiều diễm ở trong lòng, khiến nàng ngây ngất. Tất cả những ý nghĩ vẩn vơ đều tạm thời ném lên tận chín tầng mây.
Vào năm Nguyên Phong thứ sáu, Ích Châu, Côn Minh làm phản. Lưu Triệt sai Tiết Thực xuất quân bình định. Vào năm sau nhà Hán đổi niên hiệu thành Thái Sơ. Tháng Năm năm Thái Sơ đầu tiên, triều đình ban chiếu dùng “Thái Sơ lịch”, lấy tháng Giêng là tháng đầu năm chọn màu vàng làm chính, tính theo ngũ hành, quy định các chức quan, âm luật và lễ nghi của tông miếu, của bá quan thành chuẩn mực cho đời sau.
Tháng Tám năm Thái Sơ thứ hai, Lưu Triệt phái sứ giả đem vàng đến Đại Uyển đổi lấy Hãn huyết bảo mã. Đại Uyển vương khâm phục uy thế của Đại Hán nên dâng tặng bảo mã. Trần A Kiều nghe danh Hãn huyết bảo mã đã lâu, đợi sau khi sứ giả từ ngàn dặm xa xôi đem bảo mã trở về vườn ngự uyển ở Trường An, không nén nổi tò mò, kéo Lưu Triệt đi xem. Con ngựa toàn thân đỏ rực, cao lớn nhanh nhẹn, ánh mắt ngạo nghễ, danh bất hư truyền. A Kiều nóng lòng muốn thử, Lưu Triệt lo lắng cho thân thể của nàng, nói: “Chờ để thuần phục đã.”
Hãn huyết bảo mã cực kỳ cao ngạo, liên tục hất ngã mấy người thuần ngựa, sắc mặt Lưu Triệt trầm xuống, “Đại Hán được xưng anh tài xuất hiện lớp lớp, sao ngay cả một con tuấn mã cũng không thể thuần phục nổi?”
“Phụ hoàng”, Lưu Mạch đứng bên cạnh, thấy đúng là bảo mã, lại muốn mẫu thân hân hoan, chắp tay nói, “Xin để nhi thần thử một lần.”
“Thái tử?” Lưu Triệt do dự, vẫn nói con của thiên tử làm gì cũng phải cẩn thận. Thái tử là người kế vị một nước, có thân phận cao quý, thuần phục ngựa lại là một công việc nguy hiểm, chẳng may té ngã thì ắt là không hay, vì dù không làm sao thì riêng việc không thuần phục được ngựa cũng đã mất thể diện rồi. Nhưng thời niên thiếu của y cũng từng mạo hiểm như vậy, lúc đạp trên đầu sóng ngọn gió, đã bao giờ biết sợ hãi?
“Mạch Nhi”, A Kiều thì lại tin tưởng con mình, thay y sửa sang lại cổ áo cho con trai rồi dặn dò: “Cẩn thận đấy.”
“Dạ.” Lưu Mạch giao mũ qua cho Thành Liệt, buộc lại tóc, vào trường ngựa, bước tới trước con Hãn huyết bảo mã. Con tuấn mã liên tục hất văng mấy người nên cũng có phần mệt mỏi, hơi chồm vó trước lên, thở phì phì. Lưu Mạch nhìn thấy ánh mắt nó lấp lánh, cực kỳ kiêu hãnh. Hắn thình lình phóng lên ngồi vững vàng trên lưng ngựa. Hãn huyết bảo mã sửng sốt một lúc rồi tung vó phóng như điên, nhảy lên chồm chồm, định hất người trên lưng xuống. Song trên lưng nó là người kế thừa công phu của Triêu Thiên Môn mà những người thuần ngựa bình thường không thể sánh kịp. Lưu Mạch bình tĩnh ngồi trên lưng ngựa, cảm giác như đang ở trên một con thuyền nhỏ giữa đại dương, sóng gió mạnh hơn nữa vẫn vững tựa Thái Sơn. Cũng không biết trải qua bao lâu, con tuấn mã bên dưới rốt cục nhụt chí, dần ổn định lại, cả người lẫn ngựa đều đầm đìa mồ hôi.
“Hay!!!” Tiếng reo hò chung quanh vang lên như sấm. Có cung nhân cơ trí khen, “Thái tử điện hạ quả nhiên dũng mãnh phi thường, hàng phục được bảo mã.” Lưu Mạch coi như không nghe thấy, ngồi yên trên lưng ngựa, cười tươi tắn. Ánh mặt trời mùa thu chiếu nhàn nhạt trên trường ngựa. Nhiều năm về sau, đám cung nhân vẫn còn nhớ mãi nụ cười trong sáng của Chiêu hoàng đế có thể so sánh với ánh mặt trời mùa thu ấm áp lúc ấy. Chiêu hoàng đế không giống với Vũ hoàng đế vì miệng của hắn luôn có nếp nhăn khi cười, nhưng nó chỉ ôn hòa chứ không nồng ấm. Vì ngày đó có Hiếu Vũ Trần hoàng hậu đứng ở bên ngoài nhìn, cho nên hắn mới có thể cười thật lòng.
Mở đầu truyện của Ban Siêu đời sau về Hiếu Chiêu hoàng đế có viết: Hiếu Chiêu hoàng đế chí hiếu với mẫu thân.
Lưu Mạch nhảy xuống ngựa, sai thị tòng làm một bộ yên cương hợp với ngựa, quay lại nhìn mẫu thân đang bước tới, mỉm cười nói, “Giờ mẫu thân có thể cưỡi được rồi.”
Hãn huyết bảo mã lấy hết ngạo khí còn sót lại gõ gõ chân, liền bị Lưu Mạch trừng mắt. Nó dường như hiểu sự quan trọng của người phụ nữ này đối với chủ nhân nên yên tĩnh trở lại. Truyền thuyết quả nhiên là thật, mồ hôi của Hãn huyết bảo mã đỏ như máu, nhuộm hồng cả thân nó, cũng nhuộm hồng phần dưới y phục của Lưu Mạch. A Kiều nhìn thấy cau mày, mất hứng nói: “Nhuộm thành như vậy, coi như y phục bỏ đi một nửa.”
Lưu Mạch không ngờ mẫu thân lại đáp lại như thế, cất tiếng cười lớn. Hãn huyết bảo mã nghe tiếng cười, cảm giác mình bị sỉ nhục, quay đầu nhìn hai mẹ con trước mặt vẻ tò mò.
“Vậy thì xin mẫu thân ban cho nó một cái tên”, Lưu Mạch nói.
“Con ngựa này là lương câu[5] của thiên hạ, lông đỏ như máu, mồ hôi cũng đỏ như máu”, A Kiều suy nghĩ một chút nói, “Vậy đặt tên là Chu Ly đi.”
[5] Lương câu: Ngựa tốt.
Bởi vì Lưu Mạch thuần phục được Chu Ly nên Lưu Triệt ban nó cho Lưu Mạch. Khi Lưu Mạch trở lại điện Bác Vọng, Thượng Quan Linh đã nghe nói chuyện ở trường ngựa. Cho dù mắt thấy Lưu Mạch không hề bị tổn thương nhưng nghĩ lại vẫn kinh tâm động phách, bước ra đón, lo lắng hỏi: “Điện hạ có chuyện gì không?”
“Không sao.” Lưu Mạch thay y phục, vẫn còn hăng hái: “Linh Nhi, ta tập võ từ thuở nhỏ, chẳng qua là một con ngựa mà thôi, sao làm khó được ta.”
Lưu Yêu đã ba tuổi, có thể nói được mấy từ, bi bô gọi, “Phụ thân.” Gương mặt cô bé không giống cha mẹ mấy, nhưng lại giống hệt A Kiều thậm chí còn giống hơn cả cô cô Lưu Sơ. Vì vậy, cô bé được phụ thân Lưu Mạch và tổ phụ Lưu Triệt vô cùng yêu thích. Đối với Lưu Triệt, nói là yêu thích cũng không hoàn toàn chính xác. Lúc gặp Lưu Yêu thì vẻ mặt y hòa ái, ban thưởng rất nhiều nhưng y lại không muốn Thượng Quan Linh thường xuyên đưa Lưu Yêu đến điện Trường Môn chơi, càng không thích thấy Lưu Mạch yêu thương con gái. Lưu Mạch loáng thoáng phát hiện ra điều này nên cũng ít khi dẫn con gái xuất hiện trước mặt phụ hoàng.
Năm Thái Sơ thứ tư, Ô Tôn sai vợ chồng Quân Tu Mỹ đưa cống phẩm tới hiến tặng cho hoàng đế Đại Hán, ngoài mấy hòm nhân sâm và da chồn, còn có một thứ nhìn rất bắt mắt. Đó là một con cáo tuyết chưa đến nửa tuổi được sứ giả Ô Tôn cẩn thận đem tới. Con cáo tuyết rất khôn ngoan, không hề có mùi hồ ly khó ngửi trên người, lại được huấn luyện qua nên không sợ người, đôi mắt đen nhánh linh động không ngừng đảo tròn.
“Vương tôn đại nhân của chúng tôi sai người tốn rất nhiều công sức mới bắt được con cáo tuyết này. Ô Tôn khí trời rét lạnh, có nhiều động vật tuyết nhưng cáo tuyết là động vật vô cùng cảnh giác, cũng không thể thuần phục. Con cáo tuyết này là do thợ săn Ô Tôn trải qua ngàn vạn gian khổ tìm kiếm ở núi cao mới tìm được huyệt động của cáo tuyết, lúc vừa mới chào đời đã bị bắt về. Vương tôn sợ cáo tuyết không thích nghi được khí hậu ngoài Tuyết Sơn nên đặc biệt đeo cho nó một khối băng ngọc ở trước ngực.”
Lưu Triệt chỉ nhìn thoáng qua con cáo tuyết. Dù cáo tuyết đẹp đẽ nhưng bản tính y lại không thích nhũng thứ quá mức tinh xảo đẹp đẽ. Là đế vương điều tối kỵ nhất chính là mê muội mất đi cả ý chí. “Đưa con cáo tuyết đến điện Trường Môn”, y quyết định.
Bởi vì có con cáo tuyết nên vật phẩm theo lệ cách một năm một lần ban tặng cho Quận chúa Tế Quân kết hôn cầu hòa với Ô Tôn năm nay càng thêm phong phú. Lúc ôm con cáo tuyết, Trần A Kiều hơi kinh ngạc. Nàng chưa từng nghĩ rằng năm đó chẳng qua thuận miệng nhắc tới mà Lưu Triệt lại thật sự tìm kiếm suốt bao năm qua cho nàng như vậy. Tuy không phải là tìm kiếm tận trên trời hay dưới địa ngục nhưng chỉ cần làm thì sẽ có người phát hiện ra. Đến cuối cùng thì Lưu Mạch, Lưu Sơ đều biết, duy chỉ có nàng là bị giấu giếm.
“Chúc mừng Hoàng hậu nương nương.” Lục Y che miệng len lén cười không nhịn được, yêu thích nhìn con vật khả ái, nói: “Nương nương đặt tên cho nó nhé, nếu không chúng ta biết gọi nó thế nào đây?”
“Lại đặt tên à?” Trần A Kiều khẽ nhíu mày, nói: “Nó là cáo tuyết đến từ Ô Tôn, vậy thì gọi là Tuyết Ô đi.” Tuyết Ô rúc vào lòng A Kiều ấm áp, ngẩng đầu lên kêu chít chít mấy tiếng, cảm giác được sự an ổn toát ra từ người phụ nữ này.
Vào năm Lưu Yêu lên năm tuổi, đã có thể bước đi lũn cũn. Nó rất thích Tuyết Ô được A Kiều nuôi trên điện, nhõng nhẽo với A Kiều, “Hoàng tổ mẫu, để cho Tuyết Ô đi theo Yêu Yêu về điện Bác Vọng ở vài ngày có được không?”
A Kiều nhìn Lưu Yêu, trong lòng thầm nghĩ, nếu nàng dám đồng ý thì không biết vẻ mặt Lưu Triệt sẽ thế nào? Nàng không thể làm gì khác hơn là dỗ dành Lưu Yêu, “Nếu Yêu Yêu thích Tuyết Ô thì đến Trường Môn ở vài ngày là được rồi.”
Ngày hôm đó, Lưu Sơ hồi cung thăm mẫu thân, ôm Tuyết Ô, nghe kể chuyện của Lưu Yêu thì cười khanh khách, “Yêu Yêu muốn có được Tuyết Ô”, cô bày cách: “trước hết cháu phải đi xin hoàng gia gia đã.”
Lưu Yêu dù luôn được Lưu Triệt cưng chiều nhưng thỉnh thoảng nhìn thấy vẻ mặt lạnh lùng của Lưu Triệt đối với người khác thì trong lòng vẫn thấy sợ hãi, rùng mình một cái, nói: “Thôi ạ, coi như cháu không cần nữa là được.”
A Kiều nghe nói Quách Giải trở lại Trường An, cuộc sống khá tốt. Xa cách quá lâu, nàng cũng không có ý rời cung đến thăm, biết hắn mạnh khỏe là an tâm rồi. Vào một năm khác, Thượng Quan Linh cùng Lưu Sơ đều có thai, đều sinh một bé trai vào năm Thiên Hán đầu tiên.
Cái tên Thiên Hán cũng rất có thâm ý. Bởi vì hàng năm đều bị hạn hán nên Lưu Triệt cải niên hiệu thành Thiên Hán. Từ đó về sau, niên hiệu triều Hán Vũ được sửa từ sáu năm một vòng thành bốn năm một vòng. Năm Thiên Hán đầu tiên, con trai trưởng của Tang Hoằng Dương là Tang Duẫn đầy mười sáu tuổi, lấy vợ là cháu gái đầu của phủ Mạt Lăng hầu, muội muội của Lưu Sách là Lưu Hiệt.
Năm Thiên Hán thứ ba, trưởng nữ Đông Phương Mi của Trưởng công chúa Phi Nguyệt đầy tuổi mười lăm, rốt cục thuyết phục được phụ thân Đông Phương Sóc gả cho nghĩa tử Liễu Ninh của Trường Tín hầu vẫn gắn bó với cô từ thuở nhỏ. Có lẽ, trên đời này thật sự tồn tại duyên phận. Nếu không, tại sao khôn khéo như Đông Phương Mi lại một mực thích Liễu Ninh chất phác. Duyên phận nếu có chắc cũng khởi nguồn từ lần chọn đồ vật đoán tương lai hồi năm Nguyên Đỉnh thứ năm. Trần A Kiều nhớ tới lần chọn đồ vật đoán tương lai hoang đường đó liền không nhịn được cười.
Các con trai con gái đều kết hôn cả rồi, chẳng phải bọn họ đã già thật rồi sao? Đúng vậy, thời gian chẳng buồn để ý xem ngươi là quân vương hay hắn là tên ăn mày. Theo thời gian, khuôn mặt người đàn ông bên cạnh nàng cũng đã in dấu gió sương. Chỉ là, tinh thần của y không hề thua kém thời tuổi trẻ, đôi mắt sắc bén càng trở nên thâm trầm, dáng người ngồi trên điện Tuyên Thất vẫn thẳng tắp. Một hôm ở điện Trường Môn, trước khi đi ngủ, Lưu Triệt vuốt ve mái tóc đen nhánh của A Kiều như có điều suy nghĩ, “Chẳng lẽ Kiều Kiều là người trời hay sao mà mãi không thấy già đi chút nào cả?”
A Kiều cười thảng thốt, “Đâu có?”
Trên đời này nào có ai không già chứ? Mái tóc đen dày của nàng dù không thấy sợi bạc nhưng cũng dần không còn mềm mượt như thời thiếu nữ. Thỉnh thoảng nàng soi vào chiếc gương đồng cũng thấy vài nếp nhăn như có như không ở khóe mắt. Có ai kéo được thời gian, nhưng nếu như người thương yêu cứ già đi thì mình trường sinh bất lão để làm gì? Thế nên nếu phải già đi thì cứ già đi thôi.
Năm Thiên Hán thứ tư, Lưu Yêu đầy chín tuổi. Con gái Hoàng gia dù không cần trị quốc an bang nhưng vẫn phải học hành. Cô bé học Kinh thi, ngâm nga mấy câu: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, thấy tình yêu cũng đẹp như mùa xuân tươi thắm.
“Phụ thân.” Cô bé quấn lấy Lưu Mạch làm nũng, “Con nghe cung nhân nói rằng phụ thân không phải sinh ra ở cung Vị Ương mà khi mấy tuổi rồi mới được hoàng tổ mẫu mang về hoàng cung. Tại sao vậy chứ?”
Lúc đó Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng của thánh thượng, phục hồi ngôi vị làm mẫu nghi thiên hạ đã được rất nhiều năm. Người trong cung đã thôi không bàn tán về những việc xảy ra trước kia, chẳng còn ai nhắc tới chuyện vì sao Trần hoàng hậu lại rời xa bệ hạ, hay chuyện nàng đã làm những gì lúc ở ngoài cung. Lưu Yêu lần đầu thấy sắc mặt lạnh lẽo của phụ thân luôn thương yêu mình. “Trẻ con không được nghe ngóng lung tung”, hắn trách mắng.
Lưu Yêu cảm thấy rất ấm ức, cô bé là cháu gái trưởng của hoàng gia, được cưng chiều nhất ở cả hai cung Kiến Chương và Vị Ương, ngay cả đệ đệ ruột đôi khi cũng không được hoàng gia gia và hoàng tổ mẫu yêu thương bằng.
“Yêu Yêu”, mẫu thân kéo cô bé, nói: “Cha con xưa nay kính trọng hoàng nãi nãi nhất. Quãng thời gian đó”, Thượng Quan Linh chần chừ chốc lát, nói xa xôi: “Cha con vẫn cảm thấy hoàng gia gia có lỗi với hoàng nãi nãi. Cho nên, sau này con đừng nhắc tới.”
Lưu Yêu gật đầu cho có lệ, sao lại có thể như vậy chứ? Cô bé ngầm cảm thấy nghi hoặc, hoàng gia gia yêu thương hoàng tổ mẫu đến mức cô bé cũng cảm thấy ngưỡng mộ, thì sao lại có lỗi với hoàng tổ mẫu. Mặc dù không dám nhắc, nhưng nỗi nghi ngờ trong lòng Lưu Yêu lại tựa như một hạt giống đã bén rễ đâm chồi, nếu không được ai giải tỏa thì có thể lớn dần lên thành đại thụ chọc trời.
Mùa xuân năm Thái Thủy đầu tiên, mộ các hào kiệt của đất nước được di dời vào Mậu Lăng. Đến mùa hè, Công chúa Duyệt Trữ sinh hạ một bé gái trông khá giống với cô năm xưa. Lưu Triệt cực kỳ thương đứa bé, ban cho danh hiệu là Thuận Hoa ngay từ khi còn nằm trong tã lót, ý nghĩa là cả một đời hòa thuận vinh hoa.
Tháng Ba năm Thái Thủy thứ hai, đổi đúc tiền vàng, mở Bạch Cừ[6], phát triển thủy lợi.
[6] Bạch cừ: Công trình thủy lợi nổi tiếng thời cổ đại ở Quan Trung, Thiểm Tây, Trung Quốc.
Tháng Giêng năm Thái Thủy thứ ba có sứ giả từ nước khác tới. Lưu Triệt mở đại yến chiêu đãi ở cung Cam Tuyền. Mấy sứ thần đều luôn miệng ca tụng Trường An là đô thành phồn hoa nhất thế giới thời bấy giờ.
“Thế nhưng”, bọn họ khẽ giọng, “Chúng ta nghe nói hoàng đế Đại Hán bỏ mặc ba nghìn phi tần ở hậu cung, chỉ sủng ái một mình hoàng hậu, điều này là thật sao?”
“Đúng vậy.” Người hầu dâng rượu thản nhiên đáp.
“Sao lại như vậy chứ?” Nhũng người này thốt lên “Làm gì có chuyện quân vương của một quốc gia lớn như thế này lại chỉ thích duy nhất một người phụ nữ. Ngay đến những quốc gia như của chúng tôi cũng chẳng có vị quốc vương nào là không nuôi mấy người thiếp đẹp.”
“Có thể là do Hoàng hậu nương nương của chúng tôi rất đẹp, rất thông minh, rất ôn hòa.” Người hầu vẫn không đổi giọng.
Đám khách ngoại quốc lắc đầu, “Có điều”, bọn họ ngưỡng mộ nói: “đó thật đúng là câu chuyện tình đẹp. Có ba ngàn mỹ nhân mà chỉ yêu duy nhất một người. Ha ha!”
Năm Thái Thủy thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh sinh được người con trai thứ hai là Lưu Việt. Đây cũng là đứa con út của nàng.
Chớp mắt đã đến năm Chinh Hòa đầu tiên. Vào năm đó, Hoàng trưởng tôn Lưu Việt đã tám tuổi. Con cháu hoàng tộc luyện tập cưỡi ngựa bắn cung từ thuở nhỏ. Tổ phụ lẫn phụ thân của cậu đều rất am hiểu những thứ này. Bản thân cậu cũng tỏ ra rất có thiên phú, chưa tới nửa năm đã đòi lấy luôn con ngựa Chu Ly trong chuồng ngựa của phụ thân.
Theo truyền thuyết, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã đệ nhất thiên hạ, phi nhanh như gió, ngày đi ngàn dặm, mồ hôi như máu, bình sinh chỉ nhận một mình Lưu Mạch làm chủ nhân. Trong điện Bác Vọng, Lưu Mạch nhìn đứa con trai của mình, lắc đẩu: “Con còn quá nhỏ.” Ở tuổi như cậu mà cưỡi con ngựa mạnh mẽ như Chu Ly, thật quá nguy hiểm.
“Nhưng”, Lưu Việt không phục nói: “chẳng phải lúc phụ thân tám tuổi cũng đã làm vậy rồi sao?”
Lưu Mạch nhớ lại hồi mình tám tuổi. Hắn làm thái tử ở điện Bác Vọng đã quá nhiều năm nên dần quên đi quãng thời gian niên thiếu tài hoa. Ở tuổi nhỏ hơn Lưu Việt hiện giờ, hắn còn chưa biết phụ thân mình là ai trên cõi đời này, sống nương tựa với mẫu thân và muội muội. Sau đó hắn mới biết phụ thân của mình là người tôn qúy nhất Đại Hán. Nhưng như vậy thì sao chứ? Có tôn quý đến đâu thì ông đã ruồng bỏ ba mẹ con hắn. Hắn sợ phải trông thấy nước mắt của mẫu thân nên không chịu tha thứ cho người đàn ông đã khiến mẫu thân phải khóc. Hắn theo mẫu thân đi khắp núi sông Đại Hán trong nửa năm trời mà lòng không nuôi hy vọng có ngày phải quay về Trường An. Điều này chỉ là ước mơ xa vời, vì Tảo Tảo vẫn còn ở đó. Bởi thế, cuối cùng bọn họ vẫn phải trở về cái nơi tù túng này.
Lần đầu tiên đối mặt với phụ thân trong cung Trường Môn, hắn mới thấy giật mình vì thấy bọn họ giống nhau đến như vậy. Giống từ cặp lông mày lưỡi mác hiên ngang, ánh mắt sắc bén, cho đến cặp môi mỏng như giấy. Điều khác biệt chính là sự sắc bén của hắn luôn ẩn dưới nụ cười ôn hòa, còn sự sắc bén của phụ hoàng lúc nào cũng bộc lộ ra ngoài như một thanh kiếm lạnh giá đã tuốt khỏi vỏ. Ông đã là người có quyền lực lớn nhất trên thế gian nên không cần che giấu sự sắc bén của bản thân.
Sau khi gặp phụ hoàng, hắn thừa nhận phụ hoàng là một quân vương tốt. Dưới sự cai trị của ông, Đại Hán quốc thái dân an, dương danh bốn biển. Nhưng ông không phải là phụ thân tốt, lại càng không là một phu quân tốt. Một phu quân tốt không thể làm tổn thương người vợ mà bản thân mình yêu sâu sắc. Hắn cũng đã từng gặp Vệ Tử Phu, không thể hiểu nổi người phụ nữ nhợt nhạt đó có điều gì tốt mà khiến phụ hoàng năm xưa ruồng rẫy mẫu thân để chọn bà ta.
Sau cùng hắn dần trưởng thành, cũng đùa giỡn với quyền mưu đến mức thành thục không hề có chút sơ suất, nhưng trong lòng vẫn nhớ lời dạy trước đây của mẫu thân là hãy luôn tin tưởng trên thế gian vẫn còn tồn tại những điều tốt đẹp. Mẫu thân khi xưa đã dạy hắn như thế nào? Bà thương yêu hắn nhưng vẫn nén đau để cho hắn ra đi bởi vì người chưa từng trông thấy đất trời rộng lớn sẽ không chịu tu tâm xây dựng gia đình, không tự mình trải nghiệm sẽ không thể thật sự trưởng thành.
Hắn mỉm cười, nói: “Nếu thế thì con hãy đi đi.”
Lưu Việt hoan hô ầm lên: “Cám ơn phụ thân!”
“Khoan đã.” Hắn căn dặn, “Bảo Hà công công đứng bên theo dõi. Hãy cẩn thận đấy.”
Năm xưa phụ hoàng đã theo dõi hắn như thế nào? Hắn chưa từng suy nghĩ đến vấn đề này, giờ đột nhiên lại hiểu ra khi quan tâm đến đứa con trai của mình. Đó là đứa con tạo thành từ cốt nhục của mình nên hắn luôn mong nó tốt, mong nó ngày sau có thể kế thừa, phát huy công lao sự nghiệp của mình. Nhưng cũng bởi vì lợi ích mà cha con vĩnh viễn không thể có khả năng gần gũi. Cha con bọn họ cùng bảo vệ hai người phụ nữ hoặc nói cách khác là đều yêu sâu sắc các nàng nhưng bọn họ lại không thể không đề phòng lẫn nhau. Quan hệ kỳ lạ như vậy cứ thế kéo dài mấy chục năm, hai bên đều cho rằng đó là phương thức phù hợp nhất. Lưu Mạch khẽ cúi đầu cười nhạt. Không thể lặp lại những chuyện trước kia nữa, hắn không hy vọng quan hệ cha con lạnh lùng đó lại tiếp tục kéo dài sang cả hắn và con trai của mình.
Chu Ly được dẫn ra khỏi chuồng ngựa thì có chút cảm động. Chủ nhân quá bận rộn nên rất ít có cơ hội cưỡi nó. Dù chuồng ngựa của điện Bác Vọng sang trọng nhưng nó vẫn cảm thấy tù túng. Huống chi, nó cảm nhận được mùi vị quen thuộc của chủ nhân trên bộ y phục cậu bé phía trước đang mặc nên ngoan ngoãn để cậu cưỡi lên.
Cung nhân chăm ngựa tấm tắc cho là lạ, nói: “Hãn huyết bảo mã xưa nay không để cho người lạ chạm vào nhưng lại phục tùng trưởng tôn điện hạ. Điện hạ quả nhiên là phúc dày mạng lớn.”
Lưu Việt cưỡi trên lưng Chu Ly vui mừng hỏi, “Hoàng tỷ của ta đâu?”
“Yêu quận chúa đang chơi với Hoàng hậu nương nương ở điện Trường Môn.” Cung nhân bẩm.
Lưu Việt quen hành động theo ý mình, tưởng tượng ra cảnh bản thân mình có thể khoe tư thế oai hùng trên lưng Chu Ly với người tỷ tỷ lớn hơn sáu tuổi, liền phi ngựa chạy xuyên qua cung đình rộng lớn, vòng qua ngọn giả sơn, rồi phóng một mạch tới điện Trường Môn. Một đám cung nhân kinh hãi chạy theo sau la hét í ới, sợ thuật cưỡi ngựa của Hoàng trưởng tôn chưa thạo, lỡ may không cẩn thận va phải giả sơn đình đài, nếu bị ngã thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng chẳng may vị điện hạ tôn quý này bị thương thì bọn họ dù có tới mười cái mạng cũng không đủ chôn cùng.
Cũng may, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã cực kỳ có linh tính khéo léo vòng qua tất cả chướng ngại, phóng tới trước điện Trường Môn. Lúc đó là mùa đông nhưng vẫn có ánh mặt trời hiếm hoi. A Kiều sai người kê ghế dài ra ngoài ngồi sưởi nắng. Lưu Yêu lấy một quyển sách đọc chầm chậm cho A Kiều nghe, nhưng giọng đọc cứ nhỏ dần khi liếc thấy vẻ mặt mơ màng của hoàng tổ mẫu. Cô nghe thấy tiếng động phía sau, quay đầu lại thấy là đệ đệ liền vội vàng đưa tay lên miệng làm hiệu im lặng.
Lưu Việt ở trên lưng Chu Ly cúi xuống, dần dần nguôi phấn khích, chăm chú nhìn tổ mẫu đã ngủ thiếp đi dưới ánh nắng. “Năm nay tổ mẫu bao tuổi rồi nhỉ?” Cậu thầm hỏi đầy nghi hoặc. Hoàng gia gia đã dần già đi nhưng sao thoạt nhìn, hoàng tổ mẫu lại còn trẻ như vậy, không già hơn mẫu thân của mình là bao nhiêu.
Ánh nắng soi rọi khuôn mặt ấm áp, an tĩnh mà mỹ lệ của A Kiều. Lưu Việt là hoàng trưởng tôn nên dĩ nhiên đã quen nhìn người đẹp. Mẫu thân, cô cô, tỷ tỷ của cậu, thậm chí cả các cung nữ đi đi lại lại trong cung Vị Ương và cung Kiến Chương, có ai là không có dung nhan xuất chúng? Ngay cả hoàng tổ mẫu, cậu cũng thường gặp mặt. Nhưng trong ngày mùa đông này, cậu đã chứng kiến một vẻ đẹp khác biệt, không liên quan đến dung nhan.
Sau này, cậu bị phụ thân phạt cấm chế vì sự bồng bột hôm nay. Phụ thân nói vẫn còn may, chứ nếu mà đã là hoàng tử, lại tùy ý phóng ngựa trong cung Kiến Chương như thế này, thì hoàng gia gia chắc chắn sẽ lấy mạng tất cả cung nhân theo hầu chứ không chỉ trách phạt đơn giản như vậy. Vô tình đến mức đó sao, cậu thầm nghi ngờ. Hiện giờ cung Kiến Chương rất tốt. Hoàng gia gia đối với tất cả đám con cháu cũng rất hòa ái. Nhưng cậu chợt nhớ tới chuyện về người thúc thúc bị cấm cố vĩnh viễn ở Bắc cung thì bất chợt rùng mình. Còn hiện giờ, cậu nhẹ nhàng xuống ngựa, cùng tỷ tỷ chờ ở bên cạnh hoàng tổ mẫu cho đến khi người tỉnh lại.
Tuvết Ô đang nằm cuộn tròn dưới chân hoàng tổ mẫu ngẩng đầu, giương cặp mắt linh động lên nhìn cậu vẻ dò xét. Nó vừa trông thấy Chu Ly đứng gần đó, liền quật mạnh đuôi nhảy vọt lên, nghe véo một tiếng, đã hạ xuống trên đầu Chu Ly. Chu Ly hí dài, dựng thẳng hai chân trước, muốn hất Tuyết Ô xuống. Song Tuyết Ô nhẹ bẫng nên nào dễ hất xuống được, ngược lại, làm cho A Kiều tỉnh giấc.
“Hoàng tổ mẫu”, Lưu Việt trừng mắt nhìn Chu Ly và Tuyết Ô rồi lén nhìn A Kiều vẻ biết lỗi: “Là cháu không tốt, để Chu Ly làm kinh động đến người.”
“Không sao.” A Kiều mỉm cười đáp rồi nhìn Chu Ly và Tuyết Ô chơi đùa, rõ ràng một lớn một nhỏ, một đỏ một trắng, một như lửa một như băng nhưng trong lúc này lại dung hợp vói nhau vô cùng hài hòa.
Cuối năm Chinh Hòa thứ ba, quân Hán diệt nước Xa Sư. Sau mấy năm lấy niên hiệu Chinh Hòa, Lưu Triệt đổi sang niên hiệu Hậu Nguyên, đây cũng là niên hiệu cuối cùng của triều Hán Vũ. Năm Hậu Nguyên đầu tiên, Hoàng đế và Hoàng hậu cùng tới cung Cam Tuyền, Trưởng thị vệ Mã Hà La theo hầu có ý đồ phản bội hành thích đế vương nhưng bị hôn phu của Công chúa Duyệt Trữ là Kim Nhật Đan phát hiện, bắt giữ tại trận. Hoàng đế nổi giận, tru di cửu tộc Mã Hà La, phong thưởng Kim Nhật Đan được hưởng thực ấp một ngàn lẻ năm hộ.
Đêm hôm đó, Trần A Kiều nằm trong lòng Lưu Triệt mà vẫn không hết lo sợ. Không phải nàng lo sợ vì Mã Hà La phản bội mà vì nàng hiểu rõ hơn ai hết mái tóc phu quân của mình đã chuyển màu bạc trắng. Bọn họ đã sống quá lâu trên thế gian này và giờ cũng tới lúc ông trời muốn lấy lại ân sủng. Người đàn ông bầu bạn bên cạnh nàng suốt bao năm sắp qua đời, sẽ rời xa nàng mãi mãi không bao giờ trở lại. Nàng không muốn tin vào sự thật tàn khốc đó nhưng lại không thể thuyết phục bản thân mình. Nàng không muốn y rời xa, nhưng chẳng có cách nào ngăn lại được. Y thuật dù cao minh đến đâu cũng bất lực trước quy luật già lão của tự nhiên.
Tháng Hai năm Hậu Nguyên thứ hai, Hoàng đế ban chiếu mời các vương gia chư hầu tới gặp mặt ở cung Cam Tuyền. Đại yến hết sức vui vẻ, Hoàng đế rất sảng khoái nhưng bất ngờ lại trúng phải gió lạnh, không ngừng ho khan. Ngự y cẩn thận điều chế thuốc thang để Trần hoàng hậu đích thân cho y uống. Lưu Triệt ngủ một giấc thật say, sáng hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng rõ. Y thấy Trần A Kiều đang ngồi trên ghế trước giường, ngây người nhìn mình thì lập tức có linh cảm rằng mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu trên cõi đời này nữa.
Ở tuổi thiếu niên bừng bừng tráng chí kiến công lập nghiệp, y đã từng có lúc cực kỳ sợ hãi khi nghĩ về tuổi già và cái chết, không sao tưởng tượng được hình dáng của bản thân khi hai từ này vận vào mình, nhưng bây giờ, giáp mặt với nó thì lại thấy lòng bình thản. Y thầm cảm thấy may mắn vì luôn có nàng ở bên cạnh trong nửa cuộc đời này.
“Kiều Kiều”, y gọi khẽ, “Nàng biết không? Thời trẻ trẫm từng nghĩ đến lúc mình trăm tuổi thì sẽ bắt tất cả phi tần cung nữ trong chốn hậu cung phải chôn cùng, không lưu lại một ai để phòng ngừa lần nữa phát sinh chuyện Lữ hậu[7] ở Lưu gia.”
[7] Lữ hậu người Đan Phụ (nay là huyện Đan tỉnh Sơn Đông) là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán – vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang. Bà là người phụ nữ tàn ác, chuyên quyền. Sau khi Hán Cao Tổ mất, con trai bà là Huệ đế làm vua nhưng toàn bộ quyền lực đều nằm trong tay bà. Huệ đế buồn phiền sinh bệnh chết, Lữ hậu nắm giữ chính quyền, phong tước phong hầu cho con cháu nhà họ Lữ, đàn áp con cháu họ Lưu, đối với những người không nghe lời, Lữ hậu giết không tha, số người bị Lữ hậu giết nhiều tới nỗi chính bà cũng không nhớ nổi. Năm 180 TCN, Lữ hậu chết, thiên hạ thuộc về tay Lưu Hằng, con trai thứ ba của Lưu Bang.
Y nhìn chằm chằm vào mặt nàng với hy vọng có thể thấy thoáng kinh sợ, vì dù sao thì thủ đoạn này cùng quá tàn khốc, từ cổ chí kim chưa từng có ai làm, thế nhưng A Kiều chỉ òa khóc nức nở, nước mắt chan hòa rơi xuống tay y từng giọt từng giọt nóng hổi, làm lòng y tan nát. Đã nói tới mức như vậy, có phải ngay cả bản thân y thừa nhận sẽ có một điểm cuối của cuộc đời?
“Đừng khóc nữa.” Lưu Triệt bất đắc đĩ than thở “bây giờ thì trẫm sao nỡ động tới Kiều Kiều. Hơn nữa Thái tử sáng suốt, Kiều Kiều lại không hề có dã tâm, chẳng cần nói tới chuyện này nữa.”
“Những người còn lại trong cung Vị Ương”, ánh mắt y lóe lên tia lạnh lẽo. “dù có hợp sức lại với nhau cũng không phải là đối thủ của Kiều Kiều, trẫm cũng không cần động đến bọn họ.”
Tháng Hai, thánh giá lên đường trở về Trường An, nào ngờ đang đi bệnh tình trở nên trầm trọng hơn nên đành phải dừng lại ở cung Ngũ Tộ. Trần hoàng hậu truyền ý chỉ, lệnh cho các hoàng tử hoàng nữ ở khắp nơi tập trung về cung Ngũ Tộ, cũng niệm tình cha con mà đặc cách cho phép cả Lưu Hoành đang bị giam lỏng ở Bắc cung được đi theo Thái tử đến.
Lưu Triệt lướt nhìn bốn đứa con trai, sáu đứa con gái trước mặt, thầm cười lạnh. A Kiều luôn tin tưởng rằng trong lòng mọi người ít nhiều đều có tính chân thiện mỹ, nhưng theo như y thấy thì mấy đứa con gái cùng có bộ dạng bi thương nhưng chỉ có một mình Duyệt Trữ là chân thành.
“Mạch Nhi”, rất hiếm khi y gọi con mình thân thiết như thế, “Con phải nhớ kỹ rằng ngày sau thừa kế giang sơn Đại Hán của trẫm, dù phải trên hiếu kính với mẫu thân, dưới bao bọc đệ, muội, nhưng chuyện cần làm vẫn phải làm, không được quá e dè.” Tề vương Lưu Cứ đang quỳ ở phía sau Lưu Mạch nghe thấy vậy ứa lệ, rét lạnh trong lòng vì biết rằng đây là lời cảnh cáo cuối cùng của phụ hoàng với hắn. Nhưng có một số chuyện dù biết cũng chẳng đặng đừng.
“Phụ hoàng”, Lưu Sơ nắm tay y, nước mắt giàn giụa.
“Được rồi, Sơ Nhi.” Trong suốt cuộc đời này y vẫn luôn kiên quyết không chịu gọi con gái bằng tên mụ như A Kiều thường gọi, “Con đã có mẫu hậu và ca ca chiếu cố rồi, phụ hoàng không còn gì phải lo lắng nữa.” Y nhìn qua tất cả các con trai, con gái một vòng, nhìn đến cả Di An mà y rất ít khi gặp, rồi phất tay, “Các con ra ngoài hết đi.”
Mấy đứa con đều biết, Hoàng đế muốn ở lại với Hoàng hậu một chút nên lặng lẽ thối lui. Y ho khan vài tiếng, quay đầu định gọi A Kiều nhưng đột nhiên ngưng bặt. A Kiều vẫn đứng bên cạnh, hơi cúi đầu, vẻ ưu tư. Y nhớ lại người con gái năm xưa đã gặp.
“Kiều Kiều.” Y gọi rất chậm.
Trần A Kiều giật mình bước tới bên cạnh, nắm lấy tay y. Cánh tay y gầy đét, bàn tay từng rất có lực nhưng giờ ngay cả việc nắm lấy tay nàng cũng khó khăn. Chỉ là dù sao hai người cũng đã làm được như câu “vợ chồng nắm tay nhau đến bạc đầu”. Nàng đã từng cho rằng không thể đạt được như câu nói này, y lại dùng hơn ba mươi năm để thực hiện nó. Nàng nghĩ, nàng không có tư cách để hoài nghi nhưng vẫn muốn hỏi một câu rằng, y có từng hối hận về chuyện năm xưa? Khi y nhướng mày, nhìn nàng sâu thẳm, “Trẫm không hối hận” thì nàng mới phát hiện mình vừa vô tình, buột miệng hỏi thành lời.
“Trẫm biết rằng quyết định năm đó của trẫm khiến nàng đau đớn, oán hận suốt đời, nhưng trẫm không hề hối hận. Bởi vì nếu không phải như thế thì sao trẫm có được nàng như ngày hôm nay. Cho nên, ngay cả khi thời gian có quay trở lại, ngay cả có mỏi mòn đau đớn vì phải làm tổn thương nàng thì trẫm sẽ vẫn một lần nữa lựa chọn cách làm như vậy.” Y khẽ nhíu mày. Y vốn không quen nói chuyện rõ ràng, nhưng đã đến lúc này thì còn điều gì là không thể nói?
Lưu Triệt khẽ thở một hơi thật dài, nhìn Trần A Kiều: “Trẫm thích A Kiều của năm xưa và lấy làm tiếc vì đã phụ lòng tin cậy của nàng. Nhưng người trẫm yêu là Kiều Kiều của bây giờ.”
A Kiều sững sờ, ngước lên nhìn thẳng vào đôi mắt y. Chúng rất sáng, toát lên vẻ thấu hiểu. Nàng chợt hiểu, cắn chặt môi không thể nào tin nổi, nước mắt nhạt nhòa không còn trông rõ ánh mắt của y, chỉ còn nghe tiếng rủ rỉ bên tai, “Sau khi trẫm mất”, y hơi ngừng lại rồi nói tiếp, “Mậu Lăng được xây dựng đã nhiều năm, chẳng bao lâu nữa sẽ hoàn thành nhưng quy chế của tổ tiên tuy cho Hoàng đế và Hoàng hậu cùng lăng nhưng không cùng tẩm, càng không cho cùng bậc. Trẫm lại không muốn tách rời Kiều Kiều nên đành phải tòng quyền[8] thôi. Trẫm đã viết trong di chiếu về chuyện này, Kiều Kiều xem là sẽ hiểu.”
[8] Tòng quyền: ứng phó linh hoạt tùy theo hoàn cảnh, không cố chấp, không câu nệ.
Trên đời này không có điều gì là hoàn toàn bí mật. Hơn nữa người mà y gần gũi ngày đêm là một người thông minh biết nhường nào. Y cứ cho là mình giữ được bí mật nhưng lại không hay rằng người bên cạnh đã biết rõ, chỉ là không nói ra mà thôi. Hai người dù yêu nhau đến đâu cũng vẫn là hai người, vĩnh viễn không thể hợp thành một. Cả hai cùng tự cho là mình hiểu rõ lẫn nhau, thật ra trong nội tâm sâu thẳm vẫn có một khoảng không thể nhìn tới, hoặc là nhìn thấy nhưng chẳng thể làm được gì. Dù có gần gũi đến đâu thì tâm hồn cũng không chạm tới được.
Nàng chẳng còn để ý đến việc nàng yêu y thì y có yêu mình hay không nữa, mà chỉ thấy tình yêu dần khiến nàng bớt đi sự hờ hững lạnh đạm. Vào năm sau khi từ lễ Phong Thiện trở về, nàng sẽ bỏ qua những chuyện năm xưa, chỉ cần y không nhắc đến thì nàng cũng sẽ im lặng.
Nàng có thể không nghĩ tới những tổn thương, coi như không nhìn thấy vết sẹo trong lòng nên không đau đớn. Nhưng nàng không thể không nghĩ xem rốt cuộc y yêu là yêu bản thân nàng hay yêu vì cảm thấy có lỗi với A Kiều năm xưa. Trần A Kiều, ngươi đừng vô vị như vậy, quá khứ hay hiện tại đều chẳng phải là một mình ngươi sao? Nhưng sự thật có phải là thế? Suy nghĩ này dù không nặng nề nhưng chất chứa trong lòng lâu ngày cũng thành một nỗi ám ảnh. Hôm nay y đã nói là yêu bản thân nàng. Bọn họ ở bên nhau suốt bao năm, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, quấn quýt không rời nhưng chưa hề nói một chữ yêu. Nàng cho là mình giữ một bí mật động trời nhưng nào ngờ y đã biết từ lâu. Y cho là nàng hiểu được tình yêu của mình nhưng đâu hay rằng nếu không nói ra thì nàng vẫn luôn ám ảnh nghi ngờ. Bọn họ đều là những người quá kín đáo, có cảm thụ về nhau nhưng lại không chịu nói thành lời.
“Kiều Kiều, đừng thương tâm nữa.” Lưu Triệt dịu dàng, “Trẫm đăng cơ năm mười bảy tuổi, năm nay đã bảy mươi, tại vị hơn năm mươi năm cũng đủ rồi, chẳng còn gì tiếc nuối nữa. Trẫm ở Mậu Lăng chờ nàng, tới giờ cũng chẳng biết là nên cầu mong cho Kiều Kiều sống lâu thêm một chút hay mong Kiều Kiều đến với trẫm sớm hơn một chút.”
Ngày Đinh mão, Lưu Triệt băng hà ở cung Ngũ Tộ, thọ bảy mươi tuổi. Ngày Giáp thân tháng Ba, y được chôn cất ở Mậu Lăng, lấy thụy hiệu là Vũ, chính là Hiếu Vũ Đế. Hoàng tử để tang chưa đầy một tháng thì Tề vương Lưu Cứ làm phản, viện lý do rằng Thái tử Lưu Mạch là con của Trần A Kiều sinh khi lưu lạc ở ngoài cung, chưa chắc là con của Vũ Đế. Lúc hịch văn dấy loạn truyền tới tay Lưu Mạch, hắn chỉ cười lạnh. Lưu Cứ quả thật đã nóng lòng đến loạn trí rồi, suốt bao nhiêu năm qua, không có ai dám hoài nghi về việc này chẳng phải vì tướng mạo của hắn và Vũ hoàng đế giống nhau như đúc sao? Nhưng nếu Lưu Cứ không phản lúc này mà đợi đến khi Lưu Mạch dùng ngôi vị thái tử ổn định thiên hạ thì chắc chắn Lưu Cứ sẽ hết cách.
Tháng Tư, sau khi hết ba mươi sáu ngày mãn tang, Lưu Mạch đăng cơ hoàng đế; hiệu lệnh toàn bộ Đại Hán, chính là Chiêu hoàng đế sau này. Hắn tôn mẫu thân Trần A Kiều làm Hoàng thái hậu, theo như tổ chế chuyển tới cung Trường Nhạc. Lập chính thê Thượng Quan Linh làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu, muội muội Lưu Sơ làm Duyệt Trữ trưởng công chúa, trưởng nữ Lưu Yêu được phong làm Dương Hà công chúa. Ngoại trừ đất Tề, chúng thần đều thần phục, kinh sư Trường An vẫn duy trì ổn định.
Tháng Tám, Lưu Cứ bị đánh bại. Đại tướng Tiết Thực chém Ninh Triệt, tuân theo thánh ý, giải Lưu Cứ về Trường An. Tội mưu phản vốn không thể tha nhưng Lưu Mạch mới mãn tang phụ hoàng chưa lâu, không đành lòng để phụ hoàng khó an giấc dưới suối vàng bởi cảnh huynh đệ tương tàn nên tha mạng cho Lưu Cứ, phế làm thứ dân, giam lỏng cả đời ở cung Ngũ Tộ.
Trần A Kiều ở trong cung Trường Nhạc ôm Tuyết Ô cũng biết được hết thảy. Nàng biết con trai mình đủ khôn khéo và từng trải nên không lo nó không xử lý được những chuyện nhỏ này. Bản thân nàng đã kiệt sức trước những bi thương liên tiếp kéo đến, chẳng thể để ý. Sau khi Lưu Triệt mất, nàng chuyển ra ngoài Trường Môn, không muốn ở lại nơi mà nhìn đâu cũng vấn vương hình bóng của y. Nhưng nàng lại quên rằng cung Trường Nhạc cũng không phải chỗ yên vui gì. Đó là nơi nàng lớn lên từ nhỏ, lưu giữ bao nhiêu ký ức vui vẻ với y thuở còn niên thiếu. Có thể nói, thành Trường An, Đại Hán, thậm chí cả thiên hạ này đều có bóng dáng của y, dù nhắm mắt che tai vẫn còn hiển hiện. Cuối cùng nàng bất lực, cứ để mặc cho nỗi nhớ nhung giày vò.
Nàng tưởng nhớ về ánh mắt của y, gương mặt của y, nét đáng yêu của y khi còn nhỏ, vẻ âm trầm khi trẻ trung, sau cùng lại tràn ngập yêu thương. Từ trước đến giờ nàng vẫn không thể đoán được đến lúc cuối cùng, hồi tưởng về chuyện thời niên thiếu thì mình sẽ có cảm giác thế nào. Giờ nàng rốt cuộc đã biết. Nàng nhớ về căn phòng ngoài của điện Tiêu Phòng hun hút gió năm xưa, y tỏ vẻ lạnh lẽo, thái độ vô tình, cứ thế bỏ đi. Vào lúc đó nàng cảm thấy buốt giá đến tận xương tủy, cả đời này chắc không thể có giây phút nào lạnh giá hơn. Hôm nay nàng nhớ lại vẫn còn cảm thấy cái lạnh ấy, chỉ là lần này không chỉ có cảm giác đó mà còn có cả niềm đau xót. Đau xót vì y đã vô tình làm tổn thương mình, đau xót vì y đã không còn bên cạnh nữa, nàng có tìm khắp trên trời dưới đất cũng không thể thấy một người tên Lưu Triệt gọi nàng một tiếng Kiều Kiều. Điều trớ trêu là, nếu y không rời khỏi thế gian này thì nàng lại không thể yêu thương y hết mình.
Sau khi Vũ hoàng đế mất được một năm, hoàng đế mới lên ngôi đổi niên hiệu là Hiển Thủy. Trong gia yến mừng năm mới, Lưu Mạch kinh hãi phát hiện thấy một lọn tóc bạc trắng trên mái tóc đen của mẫu thân mình. Chẳng lẽ tương tư lại khiến cho mẫu thân chỉ trong một năm ngắn ngủi đã bạc đầu? Chiêu Đế và Công chúa trưởng Duyệt Trữ lo mẫu thân cô đơn nên không chỉ thường xuyên tự mình tới Trường Nhạc thăm hỏi mà còn bảo con cái tới cùng vui vầy. Nhưng mấy đứa cháu trai phải học tập vất vả, Công chúa Dương Hà lại vừa xuất giá, cuối cùng chỉ có một mình Thuận Hoa là hay tới chơi với A Kiều.
Năm Hiển Thủy đầu tiên, Thuận Hoa đã được mười một tuổi mụ, bắt đầu biết mộng mơ. Dù vẫn nhớ cha mẹ nhưng cô lại thích ở trong Trường Nhạc vắng lặng với ngoại tổ mẫu luôn điềm tĩnh. Rất nhiều năm sau, cô vẫn nhớ tới ngoại tổ mẫu trong những năm Hiển Thủy có mái tóc đen dài đã pha sương nhưng không thể che lấp được vẻ mỹ lệ. Người thường đốt một lò hương rồi ngồi viết chữ hoặc đánh đàn, lúc thời tiết tốt thì bế Tuyết Ô ngồi sưởi nắng mặt trời. Tuyết Ô được người vuốt ve bộ lông cổ dày, nằm duỗi dài biếng nhác. Thỉnh thoảng, ngoại tổ mẫu lại khe khẽ hát mấy khúc ca rất êm đềm mà cô chưa bao giờ nghe thấy. Có một lần, người từng hát rõ cho cô nghe một bài rất thanh thoát mà nhiều năm sau cô có quên đi giai điệu nhưng vẫn còn nhớ rõ ca từ.
“Lúc còn thơ bé rất nghịch ngợm, bà ngoại thường hát để dỗ dành. Mùa hè sau giờ Ngọ, bà ngoại lại hát ru, lời ca như vậy: Trời tối đen muốn mưa rơi, khắp nơi một màu đen.
Ta yêu một người đến quên bản thân, coi người đó là cả thế giới. Nhưng khi ta lẫn lộn với cuộc đời đầy dối trá và lừa lọc, mới tự hỏi phải chăng thế giới khi ta trưởng thành luôn không trọn vẹn. Mỗi ngày ta đều phải đối diện với muôn vạn nẻo đường, ta hoài niệm quá khứ đơn thuần chính là một niềm hạnh phúc nhỏ. Yêu luôn làm cho người ta khóc, làm cho người ta cảm thấy không vừa lòng, bầu trời rất lớn nhưng mịt mờ, ta cô độc một mình. Khi trời tối, ta lại nghĩ tới bài hát, đột nhiên mong đợi cơn mưa bình yên. Hóa ra bà ngoại đã sớm hát cho ta nghe chân ỉý, dù mưa có rơi xuống cũng phải dũng cảm bước tới…”
Lúc đó, cô cho là ngoại tổ mẫu cố ý hát để mình nghe. Rất nhiều năm sau hồi tưởng lại, mới chợt giật mình nhận ra, biết đâu đó chính là ngoại tổ mẫu cảm thương cho cuộc đời mình, bởi vì khi còn bé ngoại tổ mẫu lớn lên ở cung Trường Nhạc. Khi đó chủ nhân của cung Trường Nhạc là Đậu thái hậu, ngoại tổ mẫu của ngoại tổ mẫu.
Người trong cung Trường Nhạc dần lén nghĩ, chẳng lẽ Thuận Hoa quận chúa sẽ trở thành một Hiếu Vũ Trần hoàng hậu khác? Cả hai cùng lớn lên ở cung Trường Nhạc, đều có một hoàng đế là ông ngoại, một hoàng đế là cữu cữu. Thuận Hoa quận chúa cũng có giao tình tốt với hai vị hoàng tử, có thể nói là thanh mai trúc mã. Thanh mai trúc mã là một từ ngữ mỹ lệ trong đoạn thơ “Thiếp phát sơ phúc ngạch, môn tiền chiết họa kịch. Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai.”[9]
[9] Câu thơ “Thiếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi, Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi” trong bài Trường can hành của Lý Bạch.
Chẳng lẽ chỉ có Vũ hoàng đế và Trần thái hậu mới thật sự là thanh mai trúc mã? Có một vị hoàng đế nào đó sẽ làm phu quân của Thuận Hoa? Người đó có yêu nàng cả đời, đến chết vẫn không thôi? Trần A Kiều nghe được lời bàn tán, liền nhíu mày trách mắng: “Nói lung tung gì đó?” Nàng xưa nay vốn ôn hòa, hiếm khi nghiêm mặt nên cung nhân lập tức đều câm như hến. Thuận Hoa thế này đã rất tốt rồi không cần làm một hoàng hậu như vậy để dệt hoa trên gấm nữa. Hoa khoe sắc trên gấm tuy đẹp nhưng Vị Ương lại không phải là một chỗ thích hợp cho hoa khoe sắc, không vào chốn này ngược lại còn là hạnh phúc. Huống chi, huyết thống của nàng và Lưu Triệt đã rất gần nhau, nàng không muốn lại thêm một lần như vậy.
Thuận Hoa không để ý lắm, chỉ thỉnh thoảng thấy Ánh Chu và Phiếu Tử phía sau ngoại tổ mẫu tỏ vẻ thương cảm. Bọn họ đều nói “Thái hậu nhất định là nhớ tói Vũ hoàng đế rồi.”
“Vũ hoàng đế?”, Thuận Hoa thầm nghĩ. Nghe nói, danh hiệu Thuận Hoa của cô chính là được ngoại tổ phụ[10] đích thân ban cho. Lúc cô biết chuyện thì Vũ hoàng đế đã bắt đầu già rồi. Nghe nói ngoại tổ mẫu lớn hơn Vũ hoàng đế hai tuổi nhưng sao đến giờ ngoại tổ mẫu vẫn còn xinh đẹp đến thế? Khó trách mà Vũ hoàng đế yêu người nhiều năm như vậy. Tình yêu là gì chứ?
[10] Ngoại tổ phụ: Ông ngoại.
Thoáng cái đã đến tháng Mười bắt đầu vào mùa đông. Khi những cơn gió bắc đầu mùa thổi qua thành Trường An thì Thuận Hoa ngoan ngoãn cũng gần mười hai tuổi, thỉnh thoảng lại bồn chồn đi tới đi lui trong nhà và cung Trường Nhạc tịch mịch, len lén mang theo thị nữ ra phố, tự nghĩ là đã giấu được nhưng lại không biết các bậc trưởng bối ngầm đồng ý. Bọn họ cũng từng có một thời niên thiếu háo hức như vậy.
Thành Trường An vẫn phồn hoa như cũ, cảnh ồn ào tấp nập không hề bị vụ phản loạn năm trước ảnh hưởng, tiếng người huyên náo cho Thuận Hoa những cảm giác mới mẻ, không nhịn được thò đầu ra khỏi xe. Một cậu bé ăn mày quần áo rách rưới chạy ào ào trên đường, đâm sầm vào một thiếu niên ăn mặc sang trọng định trộm túi tiền của thiếu niên kia nhưng lại bị bắt quả tang, chịu một trận đấm đá chửi rủa. Cậu bé ăn mày cũng là một người quật cường, tuy ngã sóng xoài trên đất nhưng không hề cất tiếng van xin, cặp mắt vẫn ánh lên như sao sáng. Thuận Hoa nhìn cặp mắt đó, sinh lòng thương xót, nếu chẳng may đánh chết người thì thật quá mức. Cô đang định lên tiếng ngăn lại thì một thiếu niên mặc đồ xanh đã tiến tới, mỉm cười nói, “Huynh đài đã dạy dỗ rồi, có thể khoan dung được thì xin hãy độ lượng hơn chăng.”
Lúc này người xem đã vây quanh bốn phía nên Trần Đình không thể xuống thang trước mặt đám đông liền cao giọng: “Ngươi muốn ta tha thì ta phải tha sao?” Hắn vừa nói xong đã biến sắc, thiếu niên mặc đồ xanh kia trông rất văn nhã, đôi tay nhìn cũng không có lực nhưng lại khiến hắn không thể giãy giụa mảy may. Lúc này hắn mới chú ý, ở thắt lưng của thiếu niên có quấn ngang một thanh nhuyễn kiếm, tuy lưỡi kiếm còn nằm trong vỏ nhưng vẫn không thể che lấp sự sắc bén.
“Đấu rượu Tân Phong giá chục ngàn,
Thiếu niên du hiệp đất Trường An
Tương đồng chí khí cùng nâng chén
Buộc ngựa lầu cao liễu thẳng hàng.”
Bài thơ nổi tiếng về du hiệp này tương truyền là do Trần thái hậu viết ra năm xưa. Thoạt nhìn thì thiếu niên mặc đồ xanh hẳn là một du hiệp.
Trần Đình đã hơi biến sắc, nhưng vẫn cố làm bộ hùng hổ: “Ngươi biết ta là ai không?” Hắn nghĩ đến việc này thì lại thêm phần tự tin, ưỡn ngực nói: “Nói cho ngươi biết, Trần thái hậu trong cung Trường Nhạc hiện nay là cô nãi nãi của ta đây.”
“Ổ.” Dân chúng bốn phía đồng loạt ồ lên, hóa ra là con cháu Trần gia.
“Thật à?” Thiếu niên mặc đồ xanh cười vang, nói vẻ hài hước “Thật là trùng hợp, tính ra thì Trần thái hậu cũng là sư cô của ta đây. Như vậy chẳng phải vai vế ngươi thấp hơn ta rồi sao? Nào, chào một tiếng thế thúc[11] đi.”
[11] Thế thúc: Cách xưng hô với người bằng hữu nhỏ tuổi hơn cha của mình.
Sắc mặt Trần Đình trở nên xám xịt. Năm xưa Trần thái hậu lưu lạc ngoài cung đúng thật đã từng bái làm đệ tử của môn phái du hiệp đệ nhất thiên hạ. Theo lời đồn, năm xưa bệ hạ từng muốn thanh trừng du hiệp nhưng nể mặt Trần hoàng hậu nên mới chịu bỏ qua. Bản thân các du hiệp sau đó khi tung hoành thiên hạ cũng bớt phóng túng nên hết thảy bình an vô sự. Hắn chẳng biết đáng tin hay không nhưng cũng dần nhụt chí, đành nói mấy câu khách sáo rồi bỏ đi. Cậu bé ăn mày bò dậy, nói: “Đa tạ cứu giúp.” Cậu cúi đầu thật sâu nhưng bị thiếu niên ngăn lại, thở dài, “Ta không mong ngươi tạ ơn, nhưng ngươi cũng không ăn trộm được gì của ta đâu vì trên người ta không có đồng nào.”
Hắn nghe thấy tiếng cười lanh lảnh như chuông bạc từ phía sau truyền đến liền quay đầu lại, thấy một thiếu nữ còn nhỏ tuổi đang nhìn mình. Cô xinh đẹp tuyệt trần, mặc bộ y phục may từ gấm vân sa dù có tiền cũng khó mua được.
“Được rồi.” Thuận Hoa ném ra một xâu tiền Ngũ Thù lớn “Ta không cần ngươi trộm, đưa luôn cho ngươi là được.” Nhìn nụ cười hiền hậu của cô, cậu bé ăn mày bất giác đỏ mặt lùi lại một bước, vòng tay lên bái, nói: “Vốn ta không muốn lấy tiền của tiểu thư nhưng bất đắc dĩ nhà có việc cần dùng gấp, xin ghi nhớ ân huệ của tiểu thư.” Cậu nói xong không hề liếc mắt nhìn bọn họ, xoay người rời đi.
Quách Lãng ra vẻ bất bình, “Ta cứu mạng của hắn mà hắn lại tạ ơn người khác, như vậy chẳng phải là nhất bên trọng nhất bên khinh ư?”
Thuận Hoa hé miệng cười để lộ chiếc lúm đồng tiền, “Ta vừa nghe ngươi nói là sư chất[12] của Trần thái hậu có đúng không?”
[12] Sư chất ở đây có nghĩa là cháu của sư phụ Trần A Kiều.
Quách Lãng liếc thấy miếng ngọc bội có đóng dấu hoàng gia đeo bên thắt lưng liền suy đoán được thân phận của cô, bình thản nói, “Tất nhiên rồi.”
“Như vậy”, Thuận Hoa háo hức hỏi, “ngoại tổ Thái hậu nương nương đã làm những việc gì lúc ở ngoài cung vậy?”
“Lúc ta ra đời thì Hoàng hậu nương nương đã hồi cung lâu rồi.” Quách Lãng nói, “Chỉ nghe cha mẹ có kể rằng năm xưa Trần sư cô bị người ta đuổi giết, được sư thúc tổ cứu mạng nên bái làm môn hạ, dẫn theo hai người con trở lại Đường Cổ Lạp Sơn ở mấy năm mãi tới đại chiến Hán Hung sau đó mới xuống núi.”
Thuận Hoa nghe vậy liền ra sức đoán chuyện năm xưa. Nếu ngoại tổ mẫu từng bị truy sát thì hồi đó Vũ hoàng đế có biết hay không? Chắc là người không biết, nếu không thì làm sao có thể để người vợ kết tóc của mình lưu lạc nhiều năm bên ngoài như vậy. Nhiều năm sau gặp lại, Vũ hoàng đế chắc hết sức vui mừng? Cô nhớ bản thân từ khi hiểu chuyện tới nay vẫn luôn chứng kiến tình cảm ân ái mặn nồng đẹp đẽ của Hoàng đế và Hoàng hậu trong điện Trường Môn. Ngày sau liệu cô có được như vậy? Thuận Hoa suy nghĩ vẩn vơ, ngẩng đầu lên bỗng vô tình bắt gặp gương mặt tuấn tú của Quách Lãng thì tự dưng thấy mặt mình nóng bừng.
Đến mùa xuân năm Hiển Thủy thứ hai, Kim Nhật Đan đưa Thuận Hoa về phủ đón năm mới. Lúc cô đi là ban ngày nên cung Trường Nhạc còn náo nhiệt, nhưng đến buổi tối tĩnh mịch thì Trần A Kiều mới cảm thấy trống trải. Chiếc giường trong cung Trường Nhạc rất rộng, rất mềm mại thư thái, nàng xoay nghiêng người và cảm giác thấy bên cạnh hụt hẫng, người bầu bạn bao năm qua với mình đã không còn nữa. Nàng thấy cay cay ở sống mũi, vội vàng mở mắt để xua đi nỗi buồn bã rồi đứng dậy khoác thêm chiếc áo ngoài và đi tới trước cửa sổ. Trên bầu trời đêm đông giá lạnh có ngàn sao đang lấp lánh, ngôi sao nào là ánh mắt của y đang ngắm nhìn nàng? Y xưa nay vẫn luôn khí phách không cho phép nàng cự tuyệt, nếu thật sự mỗi ngôi sao là đại biểu cho một linh hồn thì y nhất định sẽ lấy bóng đém làm cánh tay ôm siết. Nàng đã phải mất tận một năm mới học được cách không để lòng dậy sóng khi nhớ nhung y, nhưng đêm nay, chỉ riêng một đêm nay lại khiến nàng nhớ thương vừa dịu dàng vừa mãnh liệt.
Sáng hôm sau, Trần thái hậu lâm bệnh trầm kha, không thể ngồi dậy. Chiêu Đế lo lắng, tuyên các ngự y vào chữa trị. Bọn họ đều nói Thải hậu nương nương lúc còn trẻ đã mấy lần bị trọng thương động tới căn cốt, giờ tuổi cao mới phát nên không có cách gì cứu vãn. Lưu Mạch tức giận nghiến răng ken két, nhớ tới Triêu Thiên môn ngoài kiếm thuật cũng rất giỏi về y thuật bèn phái người không quản đường xa vạn dặm tới Đường Cổ Lạp Sơn cầu người. Trường An cách Đường Cổ Lạp Sơn cực xa, lúc mời được người về thì đã là tháng Năm.
Tính ra thì Tiêu Phương cũng đã già lắm rồi nhưng khi Lưu Mạch lần đầu tiên trông thấy ông đứng trên hành lang cung Trường Nhạc quay đầu nhìn lại thì trong đầu vẫn như cũ nghĩ đến hai từ ấm áp. Một vẻ ấm áp vượt qua những nét đẹp bên ngoài, thấm sâu vào tâm can người đối diện.
“Sư công.” Hắn gật đầu chào hỏi, liếc nhìn cô gái đứng sau Tiêu Phương, cảm giác khá bất ngờ. Thời gian đã trôi qua hơn hai mươi năm, kiều nữ hồng nhan năm đó đã già đi, khuôn mặt cũng trở nên tròn trịa hơn. Nàng khẽ dập đầu bái lạy: “Dân nữ tham kiến bệ hạ.”
“Năm đó cô ấy được người cứu giúp rồi lưu lạc đến làm môn hạ của ta.” Tiêu Phương biết hắn nghi ngờ nên giải thích.
Người ra tay cứu giúp kia biết khúc mắc cùa nàng với hoàng gia, không muốn dẫn lửa thiêu thân nhưng lại không nỡ bỏ mặc người con gái yếu đuối không cứu giúp, nên mách bảo Thượng Quan Vân ngàn dặm tìm tới. Năm đó, Tiêu Phương gặp người thiếu nữ này dưới chân Đường Cổ Lạp Sơn. Chỉ qua một tháng gió sương đã làm mất đi hoàn toàn sự kiêu ngạo của cô, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ quật cường. Vẻ quật cường đó khiến Tiêu Phương bất giác nhớ lại sắc mặt tái nhợt của Nhạn Thanh lúc té ngã ở ngoài thành Trường An năm xưa.
“Triêu Thiên môn được xưng Y kiếm song tuyệt nhưng sau ta thì người học y chỉ có một mình mẫu thân người. Mẫu thân người ở địa vị cao, không cách nào tĩnh tâm học tiếp nên ta đành phải tìm người truyền y bát[13].”
[13] Truyền y bát: Cụm từ xuất phát từ Phật giáo. Y và bát là hai vật được đức Phật coi trọng, truyền lại cho đệ tử, tương trưng cho việc truyền thụ và kế thừa Phật pháp. Cụm từ truyền y bát còn được hiểu rộng là sự truyền thụ và kế thừa sự nghiệp của sư phụ.
Vũ hoàng đế đã mất, Tề vương Lưu Cứ lại bị phế làm thứ dân, Lưu Mạch dĩ nhiên không muốn không nể mặt Tiêu Phương mà cứ thế trị tội chị gái của vợ mình vì những chuyện trước kia, mỉm cười nói, “Sư công đã đến thì mời vào thăm mẫu thân đi.”
Trước đây Tiêu Phương đã từng tới cung Trường Nhạc không ít lần. Khi đó, chủ nhân của cung Trường Nhạc là Vương thái hậu, bây giờ đã đổi tới Nhạn Nhi. Trần A Kiều nghe tiếng bước chân, liền quay đầu lại, nhìn thấy Tiêu Phương thì sững người giây lát rồi dịu dàng mỉm cười cất tiếng chào: “Sư phụ.” Thượng Quan Vân thấy người mà lòng xót xa, bao nhiêu năm đã qua rồi và Trần hoàng hậu xinh đẹp ở Lâm Phần ngày nào bây giờ rốt cục cũng đã già.
Tiêu Phương bắt mạch kê đơn. Sau khi xong chuyện, vì đàn ông bên ngoài không được ở trong cung nên ông đành rời đi, để Thượng Quan Vân ở lại chăm sóc Trần thái hậu. Trần thái hậu uống thuốc xong, chợt bật cười, “Không ngờ vận mệnh thật kỳ lạ, ngươi lại trở thành sư muội của ta.”
“Thái hậu nương nương nói quá rồi, dân nữ không dám nhận.” Thượng Quan Vân thản nhiên đáp, hai người đàn ông quan trọng nhất trong cuộc đời cô đều có liên quan đến người phụ nữ này thật là kỳ lạ!
“Thái hậu nương nương.” Ánh Chu vén rèm bẩm, “Hoàng hậu nương nương tới đây thỉnh an.”
A Kiều gật đầu: “Bảo Hoàng hậu vào đi”, nói xong quay sang bảo Thượng Quan Vân: “Tỷ muội các ngươi đã không gặp nhau nhiều năm rồi, nói chuyện thoải mái một chút.”
Thượng Quan Vân ngước lên nhìn muội muội đang ung dung tiến vào. Đã nhiều năm không gặp, thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần năm xưa đã ra dáng một bậc mẫu nghi thiên hạ, cúi nhìn lại thấy mình thật sự lại giống như một người phụ nữ nông thôn. Nhưng ít ra như vậy còn tốt hơn là năm đó gả cho Tề vương, để sau này lại xảy ra chuyện binh đao. Thượng Quan Linh cũng đánh giá qua người tỷ tỷ xa cách nhiều năm, vẻ kiêu ngạo thời trẻ đã mất đi, hiện rõ vẻ đằm thắm. Tỷ tỷ vốn đẹp hơn cô, giờ lại càng như vậy. Cô mỉm cười, nắm tay Thượng Quan Vân, nước mắt rưng rưng, chân thành nói: “Lần này tỷ tỷ trở về hãy ở lại luôn nhé. Ca ca đã khôi phục chức quan, sau này ba huynh muội chúng ta sẽ đoàn tụ có được không?”
Cô không ngờ Thượng Quan Vân lại chầm chậm rút tay về, nói khẽ nhưng cương quyết: “Duyên tới thì tụ, duyên hết thì tán. Hoàng hậu nương nương đừng cưỡng cầu khi duyên phận tỷ muội giữa chúng ta đã hết.”
A Kiều ở một bên nghe, nhướng mày cười nói, “Vân Nhi nói vậy dường như đã tham khảo Phật pháp rồi.” Thượng Quan Vân cúi đầu, ‘Đúng vậy. Những năm trước đây khi còn là thái tử thì bệ hạ đã từng đi sứ Thân Độc. Từ đó một tôn giáo của Thân Độc đã theo con đường giao thương giữa Đại Hán và Thân Độc mà lưu truyền sang Đại Hán. Sư phụ đã một lần được nghe thuyết giảng và cảm thấy rất hứng thú nên những năm qua vẫn thường đọc kinh Phật. Vân Nhi hầu hạ ở bên cạnh sư phụ, dĩ nhiên mưa mãi cũng thấm.”
Cô ngước lên trông thấy sắc mặt trang nghiêm của A Kiều, liền thôi không nói nữa mà nghe A Kiều niệm đều đều, “Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại[14] là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần[15] là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm mắt, thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai.”
[14] Tứ đại: Trong quan niệm nhà Phật, tứ đại để chỉ vật chất.
[15] Trong giáo lý nhà Phật có ba khái niệm cơ bản là lục căn, lục trần và lục thức. Lục căn là sáu giác quan của con người, lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần sẽ sinh ra lục thức. Nếu tâm không tĩnh thì cái thức chúng ta nhận được sẽ là ảo ảnh, hay chính là huyễn ảnh.
“Đây là Viên giác kinh mà sư phụ thường đọc. Thái hậu nương nương cũng học Phật Sao?” Cô hơi kinh ngạc nhưng thoáng cái đã hiểu, chuyện này xảy ra trước khi cô nhập môn và không liên quan gì đến cô cả.
Trần A Kiều nhớ lại năm Nguyên Quang thứ năm từ thời gian đó tới giờ sao thật xa xôi cứ giống như đã qua một kiếp người. Lúc đó Mạch Nhi và Tảo Tảo còn chưa ra đời, nàng vẫn chỉ là Nhạn Thanh. Ngày đó nàng nhìn sư phụ chằm chằm, cười khanh khách “Gặp sư phụ thì mới biết được cái gì là ‘Quân tử khiêm cung, sáng láng như ngọc’.”
“Thật không?” Hắn không tức giận, chỉ đáp vẻ cáu kỉnh, ngay cả cặp mày cũng không nhướng lên.
“Đúng vậy.” Nàng gật đầu như có thật, “Khi còn bé, mẫu thân từng đọc một đoạn kinh văn, con đọc cho sư phụ nghe: Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai….”
Những tháng ngày đó vui vẻ, trong trẻo như dòng suối mùa xuân. Nếu như, nếu như không phải xảy ra những chuyện sau đó mà cứ sống như vậy cũng là một loại hạnh phúc. Nhưng đời người nào có được bao nhiêu chữ “Nếu như” chứ? Nếu nói trong cuộc đời này, người có lỗi với nàng nhất là Lưu Triệt, vậy người mà nàng có lỗi nhất thì không thể nghi ngờ, chính là Tiêu Phương.
Nửa tháng sau đó, Lưu Mạch xử lý xong chính sự ở điện Tuyên Thất liền tới cung Trường Nhạc thỉnh an mẫu thân. Cung nhân nói cho hắn biết Thái hậu nương nương đã ra khỏi điện. Hắn thong thả bước trên hành lang cung Trường Nhạc, bỗng nhiên dừng lại, nhìn thấy mẫu thân và sư công đang ở cùng nhau tại sơn đình phía trước, cách nhau một khoảng không xa cũng không gần. Có một số người trên thế gian này, ngay cả tuổi già cũng không thể lấy đi vẻ đẹp của họ, ngược lại lắng đọng lên men qua năm tháng, ủ ra một vẻ đẹp thuần khiết. Mẫu thân và sư công, không thể nghi ngờ là hai người trong số đó.
Ngoài đình lất phất mấy cánh hoa hạnh, lẻ loi xoáy tròn trong không trung, Trần A Kiều bắt lấy một cánh, chầm chậm vo tròn, thở dài, nói: “Nếu như Nhạn Nhi chỉ đơn thuần là Nhạn Nhi, chắc sẽ lựa chọn ở lại bên cạnh sư phụ.” Chỉ tiếc rằng nàng không phải như vậy.
Tiêu Phương cảm giác một nỗi đau đớn dịu dàng dâng lên trong lòng, nhưng ông ôm mối tình câm nửa cuộc đời, có được một câu này cũng tốt. Ông không muốn nàng khó xử, hỏi, “Vậy kiếp sau con chỉ là Nhạn Nhi được không?
“Kiếp sau?” A Kiều nhìn ra xa, “Con vốn không tin kiếp sau, nhưng nếu thực sự có kiếp sau, con không thể hứa hẹn điều gì. Bởi vì con sợ rằng bản thân con ở kiếp sau sẽ tự oán hận mình. Nhưng”, nàng từ từ quay đầu lại, nhìn Tiêu Phương, chân thành nói, “kiếp sau, sư phụ có thể sớm tới tìm con.”
Nếu ông tới gặp nàng trước Lưu Triệt, biết đâu lại có một kết cục khác. Chẳng qua, nàng rất hoài nghi, một người có tính cách ngang tàng như Lưu Triệt chắc chắn sẽ không để xảy ra chuyện như vậy.
“Được rồi.” Tièu Phương gật đầu.
Lại qua mấy ngày, khí trời mát mẻ. Đám cung nhân đỡ Thái hậu nhẹ nhàng hỏi, “Người có muốn chuẩn bị ghế nằm ở ngoài điện không?”
“Không cần.” Nàng như có điều suy nghĩ lắc đầu, nói: “Ta muốn trở về xem lại điện Trường Môn.”
Cung nhân hơi kinh ngạc. Từ sau khi Vũ hoàng đế mất đi thì Trần thái hậu chưa bao giờ trở lại điện Trường Môn cả, chắc là sợ thấy cảnh nhớ người. Nhưng người các cô hầu hạ là người phụ nữ tôn quý nhất triều Đại Hán, dù cả bệ hạ đến đây cũng không phản đối nên quỳ gối đáp, “Dạ.”
Điện Trường Môn từ lâu không có người ở nhưng vẫn được quét dọn hết sức sạch sẽ. Trần A Kiều nhắm mắt cũng có thể chỉ ra sau chiếc án kia, Lưu Triệt đã từng ôm nàng cùng xem sách, sau tấm bình phong kia, nàng đã từng sửa lại áo mũ cho y, sau tấm màn trướng kia, bọn họ từng vô số lần hoan ái…
Triệt Nhi, thoáng một cái mà người đã rời xa thiếp hai năm rồi. Nàng cho là mình sẽ rơi lệ nhưng bây giờ lại rất bình tĩnh. Bình tĩnh nhìn chỗ ngồi này tràn ngập ký ức giữa y và nàng, vừa đau nhói vừa ngọt ngào.
Mai Phi thời nhà Đường đời sau có viết: “Trường Môn cứ tựa không người quét”[16]. Y dùng tình yêu của mình biến Trường Môn thành Trung cung vạn người kính ngưỡng không ai sánh bằng. Nếu thật sự còn có một Giang Thải Bình[17] đa tài đa nghệ thì nàng sẽ ra sao?
[16] Bài thơ của Mai Phi trả ngọc châu cho Đường Huyền tông khi không còn được sủng ái:
“Mày liễu không tô lâu lắm rồi
Son thừa nhuốm lệ ở bờ môi
Trường Môn cứ tựa không người quét
Há tặng trân châu để đãi bôi.”
[17] Giang Thải Bình chính là Mai Phi.
A Kiều bước ra khỏi Trường Môn, ngồi xuống tấm bồ đoàn mà cung nhân trải trên chiếc ghế đá bên ngoài điện. Nàng đã cao tuổi nên chỉ lát sau liền ngủ thiếp đi trong ánh nắng ấm áp. Không biết qua bao lâu, nàng bị nhẹ nhàng lay tỉnh, thấy một khuôn mặt quen thuộc với đôi mày sắc như lưỡi kiếm, đôi môi mỏng đang ở gần trong gang tấc, liền ngơ ngẩn gọi, “Triệt Nhi.”
“Mẫu thân”, Lưu Mạch nghe không rõ, gọi lần nữa. Nàng nhìn kỹ lại, than thở: “Là Mạch Nhi à!” Một cảm giác thất vọng mơ hồ dâng lên trong đầu nàng.
Hơn một tháng sau thì Trần thái hậu mất ở cung Trường Nhạc, thọ bảy mươi tuổi nhưng nhìn dung mạo như chưa đầy bốn mươi bốn. Các cung nữ như lệ thường định vào hầu hạ Thái hậu rửa mặt vẫn thấy Thái hậu có vẻ mặt tươi tắn, bờ môi còn hơi mỉm cười nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh dậy thì hoảng hốt, vội vàng đến điện Tuyên Thất bẩm báo với bệ hạ. Nhưng không ngờ bệ hạ có thần giao cách cảm với Thái hậu nên từ sớm đã có dự cảm không lành, chưa đợi cung nữ nói đã vội vã chạy tới cung Trường Nhạc, nhìn dung nhan Trần thái hậu, khóc lên thất thanh.
Trong cung tức thì tràn ngập tiếng khóc lóc khiến Tuyết Ô uốn mình nhảy xuống đất, mở to cặp mắt long lanh nhìn mọi người, không rõ hôm nay có chuyện gì mà đám người kia khóc lóc thống thiết như thế. Có lẽ là nó cũng đã hiểu, người phụ nữ quanh năm bế nó đã không còn ở trên cõi đời này nữa. Theo di chỉ của Vũ hoàng đế, Chiêu Đế chôn cất Trần A Kiều ở cùng chung tẩm với Vũ hoàng đế trong Mậu Lăng. Trong cung để tang ba tháng tưởng niệm Trần thái hậu.
Đến thời điểm hoa đào đua nở vào năm sau, Chiêu Đế tách khỏi mọi người, một mình một ngựa cưỡi Chu Ly tới Mậu Lăng, đứng trầm mặc tưởng niệm ở trước mộ cha mẹ. Cả cuộc đời này cha mẹ của hắn sống được ở bên nhau, khi chết cùng chôn chung huyệt là cặp phu thê ân ái hiếm có trong nhà đế vương. Mẫu thân, đây cũng là mong muốn trong lòng của người phải không? Hắn miên man suy nghĩ.
Hoa đào trong gió rơi lất phất xuống bên mộ trông như mưa máu lại tựa như những giọt nước mắt vừa rực rỡ yêu dị vừa long lanh mỹ lệ. Lưu Mạch khẽ mỉm cười, xoay người dắt Chu Ly rời khỏi khu lăng tẩm hoàng đế rồi lên ngựa, thét lớn: “Đi thôi!”
Chu Ly hí một tràng dài, tung vó phi nhanh về hướng cung Vị Ương, để lại phía sau một vùng trời hoa đào rực rỡ.
Năm Nguyên Phong đầu tiên, ngự giá trở về đến Trường An đã là tháng Bảy. Lúc xe ngự tráng lệ được Kỳ Môn quân bảo vệ xung quanh tiến vào Trường An từ cửa thành phía tây, Trần A Kiều nhìn qua rèm thấy mái ngói lưu ly của cung Kiến Chương thì thở một hơi thật dài. Ao sen trước điện Trường Môn ngày nào còn xanh um giờ đã nở rộ.
Cuối tháng Chín, Lưu Triệt di chuyển lưu dân tới Giang Hoài, bắt đầu khai phá lưu vực sông Trường Giang ngày sau còn phồn hoa hơn cả Quan Trung. Tháng Mười, y dẫn mười tám vạn kỵ binh đi tuần thú biên cương, Trần A Kiều không đi theo. Hành trình đi từ phía bắc Vân Dương qua Thượng Quận, Tây Hà, Ngũ Nguyên rồi vượt Trường Thành lên bắc đứng trên đài của thiền vu nhìn về hướng Bắc Hà quan sát Hung Nô. Trước uy thế quân Hán, dân Hung Nô còn lại đều chạy trốn thật xa. Cuối năm Nguyên Phong, Hoàng Hà lại dâng nước gây lũ lụt. Nước Lương, nước Sở trước đây Hoàng đế và Hoàng hậu có đi tuần thú qua đều gặp tai họa, dân chúng lầm than. Lưu Triệt rốt cục hạ quyết tâm dồn sức sửa trị Hoàng Hà.
“Năm xưa Cấp Ảm, Trịnh Đương bịt đê vỡ nhưng vết vỡ quá sâu nên không đủ vật liệu.” Trong điện Trường Môn, Trần A Kiều chỉ vào sa bàn sông Hoàng Hà nói giọng đều đều, “Sau đó bệ hạ lại bỏ đắp đê nên mới để cho lũ lụt hoành hành hơn hai mươi năm.” Năm đó nàng còn là hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ trang nghiêm ở điện Tiêu Phòng, chỉ chăm chăm chờ đợi, vui mừng khi phu quân trở về bên cạnh, nào nghĩ đến sự sống chết của vô số lưu dân ngàn dặm bên ngoài.
“Khi đó cuộc chiến Hán Hung đang hồi cấp bách, hơn nữa vùng Quan Trung mới là căn bản của Đại Hán ta. Đất Quan Trung chiếm một phần ba thiên hạ mà dân chúng chỉ chiếm một phần mười ba, đất đai trù phú mà mới khai khẩn được sáu phần mười.” Lưu Triệt liếc nhìn nàng. A Kiều khẽ thở dài, y là đế vương nên phải tính đến toàn cục chứ không phải ở tiểu tiết. Quyết định như vậy đối với dân chúng mà nói quả thật tàn nhẫn nhưng không thể nói năm đó Lưu Triệt quyết định không đúng.
Sau khi văn võ bá quan trong điện Tuyên Thất hiểu được ý của bệ hạ thì cả triều đều im lặng. Chuyện trị thủy đã không dám nói chắc, lại khá gian khổ, cuối cùng giao cho Thái trung đại phu Kim Nhật Đan. Trần A Kiều biết rằng đây cũng là khảo nghiệm của Lưu Triệt đối với Kim Nhât Đan. Từ sau khi diện kiến bệ hạ ở cung Kiến Chương hồi cuối năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Kim Nhật Đan dần thu bớt tính tình cuồng ngạo, hành xử trong triều ngày càng cẩn thận. A Kiều quan sát thấy hết thảy, trong lòng thầm cảm thán. Người thiếu niên Hung Nô nay có thể hy sinh vì Tảo Tảo như vậy thì chắc phải rất yêu con nàng. Nàng vì dân chúng thiên hạ nên bảo Mạch Nhi nhắc nhở Kim Nhật Đan hai điều. Thứ nhất, chuyện trị thủy chú trọng về phần khai thông mà không phải là đơn thuần ngăn chặn. Thứ hai, để ý vấn đề vật liệu đắp đê.
Năm Nguyên Phong thứ hai, Hoàng đế phái Thiệp Hà tới thuộc quốc Triều Tiên ban dụ lệnh cho quốc vương Triều Tiên là Vệ Hữu Cừ vào bái kiến. Quốc Vương Triều Tiên không nhận dụ lệnh. Tháng Tư, từ Hoàng Hà báo tin về rằng Kim Nhật Đan chỉ huy Quách Xương[1] và mấy vạn dân công, lấy trúc và đá cắm xuống đáy sông chắn ngang chỗ đê vỡ, mới đầu thì thưa, sau đó dày lên khiến thế nước chảy qua chỗ vỡ chậm lại, tiếp đó dùng cỏ khô trộn với đất cát bịt kín, cuối cùng đổ đất và đá vào, chặn được dòng nước, khôi phục dòng chảy sông Hoàng Hà trở lại như trước. Vì công trạng này, Kim Nhật Đan được thăng trung lang tướng, bổng lộc hai ngàn thạch.
[1] Theo sử là người vùng Vân Trung dùng thân phận giáo úy đi theo Vệ Thanh tấn công Hung Nô.
Tháng bảy, Triều Tiên mượn một cớ nhỏ để phát binh tấn công Liêu Đông, giết chết Thiệp Hà. Trong mùa thu, Lưu Triệt ra lệnh chiêu mộ tử tù, chia làm hai đường đánh dẹp Triều Tiên. Tháng Giêng năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán bắt được Lâu Lan vương, khống chế con đường tơ lụa. Vào mùa hè, quân Hán bình định Triều Tiên ở phía đông, thiết lập bốn quận Chân Phiên, Huyền Thố, Lâm Truân, Nhạc Lăng.
Đến mùa thu, Công chúa Duyệt Trữ vốn được Hoàng đế sủng ái nhất vừa tròn hai mươi tuổi, cuối cùng cũng chuẩn bị xuất giá trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Vị hôn phu mà bệ hạ lựa chọn cho cô lại là một người Hung Nô. Tuy Kim Nhật Đan dần bộc lộ tài năng trong triều đình, tác phong cẩn thận vững vàng, có tài kinh bang tế thế, được sự tán thưởng của cả Hoàng thượng và Thái tử, nhưng làm sao có thể chiếm lấy viên minh châu được cưng chiều nhất trên tay Hoàng đế và Hoàng hậu chứ? Cả giới quý tộc lẫn dân chúng Trường An còn đang ra sức đoán già đoán non thì lễ nghi xuất giá của Công chúa Duyệt Trữ đã được cử hành long trọng. Đại tư nông Tang Hoằng Dương trông coi tiền bạc và lương thảo quốc gia, nói về thân phận em kết nghĩa của mẫu thân Công chúa Duyệt Trữ, lần đầu tiên không ngầm dị nghị về sự lãng phí của đế vương, vui vẻ quyết toán tiền bạc chuẩn bị cho hôn lễ.
Trên điện Trường Môn, Lưu Sơ ngồi yên lặng trước gương để A Kiều trang điểm tỉ mỉ cho cô theo kiểu thiếu nữ đợi xuất giá. Cặp lông mày, đôi má lúm dần hiện ra tinh tế, đẹp đẽ dưới phấn son trang điểm. Thiếu nữ trong gương bất giác đã đến tuổi hai mươi hoa gấm. Ở cái tuổi rực rỡ như vậy, từ nay về sau sẽ thuộc về một người khác, buồn vui, vinh nhục cùng hắn…
“Mẫu thân”, Lưu Sơ bật gọi một tiếng rồi khóc òa lên. Đã bao nhiêu năm qua kể từ khi A Kiều về ở Trường Môn, khôi phục lại vị trí hoàng hậu, nhưng cô vẫn không chịu đổi cách xưng hô thành mẫu hậu mà cảm thấy gọi mẫu thân mới là thân thương nhất.
“Tảo Tảo ngốc nào”, Trần A Kiều mỉm cười an ủi, giấu đi nỗi nghẹn ngào. “Có phải là không về nữa đâu. Nếu con muốn, lúc nào cũng có thể vào cung thăm mẫu thân và phụ hoàng. Đừng khóc nữa, kẻo phí công trang điểm.”
Lưu Sơ nín khóc, mỉm cười gật đầu. Cô đứng dậy quay ra thì thấy ca ca đang chờ ở ngoài rèm. Cô rảo bước tới bên cạnh Lưu Mạch, đưa tay cho hắn đỡ, nghiêng đầu hỏi, “Ca ca, Tảo Tảo có đẹp không?”
Lưu Mạch đã ở vị trí thái tử được mấy năm, tâm trí ngày càng sâu sắc, nhưng nhìn muội muội sống nương tựa lẫn nhau từ thuở nhỏ cho tới lúc trưởng thành vừa mới trang điểm xong thì cặp mắt đen sâu thẳm vẫn ánh lên vẻ dịu dàng. “Đẹp lắm!”, hắn chân thành khen.
Lúc đó Kim Nhật Đan đang ở ngoài cửa đông cung Kiến Chương chờ đợi người thiếu nữ chiếm vị trí quan trọng trong cuộc đời mình. Lưu Sơ mặc bộ lễ phục tân nương nhìn như một áng mây hồng, dung nhan như hoa sen nổi trên mặt nước, tỏa hương thơm ngát. Từ nay về sau hắn sẽ có thể danh chính ngôn thuận nắm tay cô.
Vợ chồng Công chúa tới điện Tuyên Đức khấu đầu tạ ơn công lao nuôi dưỡng của Hoàng hậu và Hoàng đế. Trên điện, Lưu Triệt cùng Trần A Kiều đều mặc lễ phục trang trọng của Hoàng đế và Hoàng hậu, nét mặt rất nhu hòa.
Món hồi môn cực lớn của Công chúa Duyệt Trữ khiến cho dân chúng Trường An trợn mắt líu lưỡi. Khi cỗ xe chở lễ đầu tiên đã vào khuất trong phủ Công chúa thì cỗ xe lễ cuối cùng còn chưa lên đường rời khỏi cửa cung.
Vào mùa thu năm Nguyên Phong thứ ba, Trần A Kiều gả chồng cho đứa con gái yêu quý nhất trong cuộc đời mình, mặc dù sau này vẫn có thể thường xuyên gặp mặt nhưng đã không còn là đứa con gái bé bỏng có thể tùy ý làm nũng với nàng nữa. Lòng nàng vui buồn lẫn lộn.
Tháng Mười hai năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán đánh bại nước Xa Sư.
Vào lễ đầu năm mới của năm Nguyên Phong thứ tư, Công chúa Duyệt Trữ vào cung thăm phụ hoàng và mẫu thân. Cô nắm tay A Kiều, líu ríu nói mấy chuyện riêng của phụ nữ. Trần A Kiều nhìn vào mắt con thấy vẫn trong veo thì trong lòng cũng được an ủi. Là người mẹ, nàng luôn lo lắng cho hạnh phúc của con gái.
Cuối năm Nguyên Phong thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh bỗng nhiên ngất xỉu ở điện Bác Vọng, ngự y thăm khám xong liền bẩm: “Chúc mừng Hoàng hậu nương nương, chúc mừng Thái tử điện hạ, Thái tử phi điện hạ có thai. Hoàng gia đã có người nối dõi, thật là chuyện vui lớn.” Trần A Kiều và Lưu Mạch nghe xong đều vui mừng.
Vào mùa xuân năm Nguyên Phong thứ năm, Thượng Quan Linh sinh đứa cháu gái trưởng của hoàng gia sớm mấy ngày. Đứa bé nhỏ đến nỗi A Kiều bế chiếc áo gấm mềm mại bọc thân hình bé nhỏ của nó trên tay rồi mà còn hoài nghi liệu nó có biến mất hay không. Thời gian thấm thoắt, mới năm nào nàng ôm hai đứa con song sinh quyết tâm sống tốt cuộc đời này, chớp mắt một cái, nàng đã không còn nhớ được cảm giác khi bế một đứa trẻ mới sinh trên tay thế nào nữa. Lưu Triệt ban cho đứa cháu gái đầu của y cái tên là Yêu.
“Hoa đào yêu kiều,
Sắc màu rực rỡ.
Rồi sẽ vu quy,
Yên bề gia thất”[2]
[2] Bài Đào yêu 1 của Khổng Tử được ghi chép trong Kinh Thi.
A Kiều cho rằng cái tên này hàm chứa những kỳ vọng của y đối với hạnh phúc của đứa bé mới sinh.
Tháng Tư, Hoàng đế thiết lập thứ sử ở mười ba châu, dùng sáu điều hỏi chuyện[3].
[3] Đây là một loại chuẩn tắc được đặt ra để giám sát quan viên, bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế chia đất nước thành mười ba châu, mỗi một châu cử tới một thứ sử, mỗi năm trong đợt tuần hành vào mùa thu, sẽ dùng sáu câu hỏi để nắm được tình hình quận quốc, giám sát viên khu vực.
Tháng Chín, danh tướng một đời Vệ Thanh lâm bệnh mất ở phủ Trường Bình hầu, còn chưa đến tuổi biết mệnh trời[4]. Đêm khuya hôm đó, Lưu Triệt và A Kiều đã thay thường phục, đang xem sách nói chuyện vui vẻ trong điện Trường Môn thì nghe nội thị bẩm báo việc này. Lưu Triệt thấy lòng sầu thảm. Người vừa đi mất chính là tri kỷ của y thời niên thiếu, chinh chiến vì chí hướng của y nhưng sau này lớn lên lại bị chính trị làm cho xa cách. Chỉ là nghe tin hắn qua đời trong một đêm thu như thế này, y lại nhớ tới quãng thời gian trong sáng vui vẻ cùng nhau đi săn thú trong Thượng Lâm Uyển thuở còn niên thiếu. Lưu Triệt càng nghĩ càng cảm thấy già nua. Vệ Thanh cùng thế hệ với y cũng đã ra đi, vậy bọn họ còn bao nhiêu thời gian trên thế gian này.
[4] Tuổi biết mệnh trời tức tuổi năm mươi. Theo câu “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh” trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới năm mươi tuổi mới có thể thông suốt chân lý của tạo hóa, hiểu được mệnh trời.
Lưu Triệt xưa nay hùng tâm vạn trượng, trong lòng bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi. Y ôm chặt lấy A Kiều, trầm mặc một lát rồi nhẹ giọng hỏi, “Sao Kiều Kiều lại không hề tức giận một chút nào thế?”
“Cái gì?” Trần A Kiều giật mình, một lúc sau mới có phản ứng, hỏi ngược lại, “Sao thiếp lại phải tức giận?”
Mặc dù Vệ Thanh là người họ Vệ nhưng nàng vẫn thừa nhận hắn là anh hùng. Còn nguyên nhân hắn không còn được Lưu Triệt tin dùng, truy đến cùng, có một phần do tính toán của nàng. Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
“Thiếp biết.” Nàng mỉm cười nói, “Vệ Thanh là một người quan trọng trong cuộc đời bệ hạ, không có gì đáng ngạc nhiên. Giống như A Kiều là thê tử của bệ hạ nhưng A Kiều vẫn có sư phụ, Mạch Nhi, Tảo Tảo, sư huynh.” Bọn họ đều là những người không thể thay thế trong cuộc đời.
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng. Nghe A Kiều nhắc tới Tiêu Phương, y không khỏi nhớ lại cảnh trong Thượng Lâm Uyển năm Nguyên Đỉnh nguyên niên, người đàn ông đẹp như ngọc kia bởi vì A Kiều đau đớn mà bộc phát ra một phần tâm tư vẫn luôn giấu kín. Cho tới bây giờ, cả linh hồn lẫn thể xác A Kiều đều đã thuộc về y nhưng y vẫn không thể nào xóa đi sự kính trọng của nàng với Tiêu Phương. Y nồng nàn hôn lên khuôn mặt kiều diễm ở trong lòng, khiến nàng ngây ngất. Tất cả những ý nghĩ vẩn vơ đều tạm thời ném lên tận chín tầng mây.
Vào năm Nguyên Phong thứ sáu, Ích Châu, Côn Minh làm phản. Lưu Triệt sai Tiết Thực xuất quân bình định. Vào năm sau nhà Hán đổi niên hiệu thành Thái Sơ. Tháng Năm năm Thái Sơ đầu tiên, triều đình ban chiếu dùng “Thái Sơ lịch”, lấy tháng Giêng là tháng đầu năm chọn màu vàng làm chính, tính theo ngũ hành, quy định các chức quan, âm luật và lễ nghi của tông miếu, của bá quan thành chuẩn mực cho đời sau.
Tháng Tám năm Thái Sơ thứ hai, Lưu Triệt phái sứ giả đem vàng đến Đại Uyển đổi lấy Hãn huyết bảo mã. Đại Uyển vương khâm phục uy thế của Đại Hán nên dâng tặng bảo mã. Trần A Kiều nghe danh Hãn huyết bảo mã đã lâu, đợi sau khi sứ giả từ ngàn dặm xa xôi đem bảo mã trở về vườn ngự uyển ở Trường An, không nén nổi tò mò, kéo Lưu Triệt đi xem. Con ngựa toàn thân đỏ rực, cao lớn nhanh nhẹn, ánh mắt ngạo nghễ, danh bất hư truyền. A Kiều nóng lòng muốn thử, Lưu Triệt lo lắng cho thân thể của nàng, nói: “Chờ để thuần phục đã.”
Hãn huyết bảo mã cực kỳ cao ngạo, liên tục hất ngã mấy người thuần ngựa, sắc mặt Lưu Triệt trầm xuống, “Đại Hán được xưng anh tài xuất hiện lớp lớp, sao ngay cả một con tuấn mã cũng không thể thuần phục nổi?”
“Phụ hoàng”, Lưu Mạch đứng bên cạnh, thấy đúng là bảo mã, lại muốn mẫu thân hân hoan, chắp tay nói, “Xin để nhi thần thử một lần.”
“Thái tử?” Lưu Triệt do dự, vẫn nói con của thiên tử làm gì cũng phải cẩn thận. Thái tử là người kế vị một nước, có thân phận cao quý, thuần phục ngựa lại là một công việc nguy hiểm, chẳng may té ngã thì ắt là không hay, vì dù không làm sao thì riêng việc không thuần phục được ngựa cũng đã mất thể diện rồi. Nhưng thời niên thiếu của y cũng từng mạo hiểm như vậy, lúc đạp trên đầu sóng ngọn gió, đã bao giờ biết sợ hãi?
“Mạch Nhi”, A Kiều thì lại tin tưởng con mình, thay y sửa sang lại cổ áo cho con trai rồi dặn dò: “Cẩn thận đấy.”
“Dạ.” Lưu Mạch giao mũ qua cho Thành Liệt, buộc lại tóc, vào trường ngựa, bước tới trước con Hãn huyết bảo mã. Con tuấn mã liên tục hất văng mấy người nên cũng có phần mệt mỏi, hơi chồm vó trước lên, thở phì phì. Lưu Mạch nhìn thấy ánh mắt nó lấp lánh, cực kỳ kiêu hãnh. Hắn thình lình phóng lên ngồi vững vàng trên lưng ngựa. Hãn huyết bảo mã sửng sốt một lúc rồi tung vó phóng như điên, nhảy lên chồm chồm, định hất người trên lưng xuống. Song trên lưng nó là người kế thừa công phu của Triêu Thiên Môn mà những người thuần ngựa bình thường không thể sánh kịp. Lưu Mạch bình tĩnh ngồi trên lưng ngựa, cảm giác như đang ở trên một con thuyền nhỏ giữa đại dương, sóng gió mạnh hơn nữa vẫn vững tựa Thái Sơn. Cũng không biết trải qua bao lâu, con tuấn mã bên dưới rốt cục nhụt chí, dần ổn định lại, cả người lẫn ngựa đều đầm đìa mồ hôi.
“Hay!!!” Tiếng reo hò chung quanh vang lên như sấm. Có cung nhân cơ trí khen, “Thái tử điện hạ quả nhiên dũng mãnh phi thường, hàng phục được bảo mã.” Lưu Mạch coi như không nghe thấy, ngồi yên trên lưng ngựa, cười tươi tắn. Ánh mặt trời mùa thu chiếu nhàn nhạt trên trường ngựa. Nhiều năm về sau, đám cung nhân vẫn còn nhớ mãi nụ cười trong sáng của Chiêu hoàng đế có thể so sánh với ánh mặt trời mùa thu ấm áp lúc ấy. Chiêu hoàng đế không giống với Vũ hoàng đế vì miệng của hắn luôn có nếp nhăn khi cười, nhưng nó chỉ ôn hòa chứ không nồng ấm. Vì ngày đó có Hiếu Vũ Trần hoàng hậu đứng ở bên ngoài nhìn, cho nên hắn mới có thể cười thật lòng.
Mở đầu truyện của Ban Siêu đời sau về Hiếu Chiêu hoàng đế có viết: Hiếu Chiêu hoàng đế chí hiếu với mẫu thân.
Lưu Mạch nhảy xuống ngựa, sai thị tòng làm một bộ yên cương hợp với ngựa, quay lại nhìn mẫu thân đang bước tới, mỉm cười nói, “Giờ mẫu thân có thể cưỡi được rồi.”
Hãn huyết bảo mã lấy hết ngạo khí còn sót lại gõ gõ chân, liền bị Lưu Mạch trừng mắt. Nó dường như hiểu sự quan trọng của người phụ nữ này đối với chủ nhân nên yên tĩnh trở lại. Truyền thuyết quả nhiên là thật, mồ hôi của Hãn huyết bảo mã đỏ như máu, nhuộm hồng cả thân nó, cũng nhuộm hồng phần dưới y phục của Lưu Mạch. A Kiều nhìn thấy cau mày, mất hứng nói: “Nhuộm thành như vậy, coi như y phục bỏ đi một nửa.”
Lưu Mạch không ngờ mẫu thân lại đáp lại như thế, cất tiếng cười lớn. Hãn huyết bảo mã nghe tiếng cười, cảm giác mình bị sỉ nhục, quay đầu nhìn hai mẹ con trước mặt vẻ tò mò.
“Vậy thì xin mẫu thân ban cho nó một cái tên”, Lưu Mạch nói.
“Con ngựa này là lương câu[5] của thiên hạ, lông đỏ như máu, mồ hôi cũng đỏ như máu”, A Kiều suy nghĩ một chút nói, “Vậy đặt tên là Chu Ly đi.”
[5] Lương câu: Ngựa tốt.
Bởi vì Lưu Mạch thuần phục được Chu Ly nên Lưu Triệt ban nó cho Lưu Mạch. Khi Lưu Mạch trở lại điện Bác Vọng, Thượng Quan Linh đã nghe nói chuyện ở trường ngựa. Cho dù mắt thấy Lưu Mạch không hề bị tổn thương nhưng nghĩ lại vẫn kinh tâm động phách, bước ra đón, lo lắng hỏi: “Điện hạ có chuyện gì không?”
“Không sao.” Lưu Mạch thay y phục, vẫn còn hăng hái: “Linh Nhi, ta tập võ từ thuở nhỏ, chẳng qua là một con ngựa mà thôi, sao làm khó được ta.”
Lưu Yêu đã ba tuổi, có thể nói được mấy từ, bi bô gọi, “Phụ thân.” Gương mặt cô bé không giống cha mẹ mấy, nhưng lại giống hệt A Kiều thậm chí còn giống hơn cả cô cô Lưu Sơ. Vì vậy, cô bé được phụ thân Lưu Mạch và tổ phụ Lưu Triệt vô cùng yêu thích. Đối với Lưu Triệt, nói là yêu thích cũng không hoàn toàn chính xác. Lúc gặp Lưu Yêu thì vẻ mặt y hòa ái, ban thưởng rất nhiều nhưng y lại không muốn Thượng Quan Linh thường xuyên đưa Lưu Yêu đến điện Trường Môn chơi, càng không thích thấy Lưu Mạch yêu thương con gái. Lưu Mạch loáng thoáng phát hiện ra điều này nên cũng ít khi dẫn con gái xuất hiện trước mặt phụ hoàng.
Năm Thái Sơ thứ tư, Ô Tôn sai vợ chồng Quân Tu Mỹ đưa cống phẩm tới hiến tặng cho hoàng đế Đại Hán, ngoài mấy hòm nhân sâm và da chồn, còn có một thứ nhìn rất bắt mắt. Đó là một con cáo tuyết chưa đến nửa tuổi được sứ giả Ô Tôn cẩn thận đem tới. Con cáo tuyết rất khôn ngoan, không hề có mùi hồ ly khó ngửi trên người, lại được huấn luyện qua nên không sợ người, đôi mắt đen nhánh linh động không ngừng đảo tròn.
“Vương tôn đại nhân của chúng tôi sai người tốn rất nhiều công sức mới bắt được con cáo tuyết này. Ô Tôn khí trời rét lạnh, có nhiều động vật tuyết nhưng cáo tuyết là động vật vô cùng cảnh giác, cũng không thể thuần phục. Con cáo tuyết này là do thợ săn Ô Tôn trải qua ngàn vạn gian khổ tìm kiếm ở núi cao mới tìm được huyệt động của cáo tuyết, lúc vừa mới chào đời đã bị bắt về. Vương tôn sợ cáo tuyết không thích nghi được khí hậu ngoài Tuyết Sơn nên đặc biệt đeo cho nó một khối băng ngọc ở trước ngực.”
Lưu Triệt chỉ nhìn thoáng qua con cáo tuyết. Dù cáo tuyết đẹp đẽ nhưng bản tính y lại không thích nhũng thứ quá mức tinh xảo đẹp đẽ. Là đế vương điều tối kỵ nhất chính là mê muội mất đi cả ý chí. “Đưa con cáo tuyết đến điện Trường Môn”, y quyết định.
Bởi vì có con cáo tuyết nên vật phẩm theo lệ cách một năm một lần ban tặng cho Quận chúa Tế Quân kết hôn cầu hòa với Ô Tôn năm nay càng thêm phong phú. Lúc ôm con cáo tuyết, Trần A Kiều hơi kinh ngạc. Nàng chưa từng nghĩ rằng năm đó chẳng qua thuận miệng nhắc tới mà Lưu Triệt lại thật sự tìm kiếm suốt bao năm qua cho nàng như vậy. Tuy không phải là tìm kiếm tận trên trời hay dưới địa ngục nhưng chỉ cần làm thì sẽ có người phát hiện ra. Đến cuối cùng thì Lưu Mạch, Lưu Sơ đều biết, duy chỉ có nàng là bị giấu giếm.
“Chúc mừng Hoàng hậu nương nương.” Lục Y che miệng len lén cười không nhịn được, yêu thích nhìn con vật khả ái, nói: “Nương nương đặt tên cho nó nhé, nếu không chúng ta biết gọi nó thế nào đây?”
“Lại đặt tên à?” Trần A Kiều khẽ nhíu mày, nói: “Nó là cáo tuyết đến từ Ô Tôn, vậy thì gọi là Tuyết Ô đi.” Tuyết Ô rúc vào lòng A Kiều ấm áp, ngẩng đầu lên kêu chít chít mấy tiếng, cảm giác được sự an ổn toát ra từ người phụ nữ này.
Vào năm Lưu Yêu lên năm tuổi, đã có thể bước đi lũn cũn. Nó rất thích Tuyết Ô được A Kiều nuôi trên điện, nhõng nhẽo với A Kiều, “Hoàng tổ mẫu, để cho Tuyết Ô đi theo Yêu Yêu về điện Bác Vọng ở vài ngày có được không?”
A Kiều nhìn Lưu Yêu, trong lòng thầm nghĩ, nếu nàng dám đồng ý thì không biết vẻ mặt Lưu Triệt sẽ thế nào? Nàng không thể làm gì khác hơn là dỗ dành Lưu Yêu, “Nếu Yêu Yêu thích Tuyết Ô thì đến Trường Môn ở vài ngày là được rồi.”
Ngày hôm đó, Lưu Sơ hồi cung thăm mẫu thân, ôm Tuyết Ô, nghe kể chuyện của Lưu Yêu thì cười khanh khách, “Yêu Yêu muốn có được Tuyết Ô”, cô bày cách: “trước hết cháu phải đi xin hoàng gia gia đã.”
Lưu Yêu dù luôn được Lưu Triệt cưng chiều nhưng thỉnh thoảng nhìn thấy vẻ mặt lạnh lùng của Lưu Triệt đối với người khác thì trong lòng vẫn thấy sợ hãi, rùng mình một cái, nói: “Thôi ạ, coi như cháu không cần nữa là được.”
A Kiều nghe nói Quách Giải trở lại Trường An, cuộc sống khá tốt. Xa cách quá lâu, nàng cũng không có ý rời cung đến thăm, biết hắn mạnh khỏe là an tâm rồi. Vào một năm khác, Thượng Quan Linh cùng Lưu Sơ đều có thai, đều sinh một bé trai vào năm Thiên Hán đầu tiên.
Cái tên Thiên Hán cũng rất có thâm ý. Bởi vì hàng năm đều bị hạn hán nên Lưu Triệt cải niên hiệu thành Thiên Hán. Từ đó về sau, niên hiệu triều Hán Vũ được sửa từ sáu năm một vòng thành bốn năm một vòng. Năm Thiên Hán đầu tiên, con trai trưởng của Tang Hoằng Dương là Tang Duẫn đầy mười sáu tuổi, lấy vợ là cháu gái đầu của phủ Mạt Lăng hầu, muội muội của Lưu Sách là Lưu Hiệt.
Năm Thiên Hán thứ ba, trưởng nữ Đông Phương Mi của Trưởng công chúa Phi Nguyệt đầy tuổi mười lăm, rốt cục thuyết phục được phụ thân Đông Phương Sóc gả cho nghĩa tử Liễu Ninh của Trường Tín hầu vẫn gắn bó với cô từ thuở nhỏ. Có lẽ, trên đời này thật sự tồn tại duyên phận. Nếu không, tại sao khôn khéo như Đông Phương Mi lại một mực thích Liễu Ninh chất phác. Duyên phận nếu có chắc cũng khởi nguồn từ lần chọn đồ vật đoán tương lai hồi năm Nguyên Đỉnh thứ năm. Trần A Kiều nhớ tới lần chọn đồ vật đoán tương lai hoang đường đó liền không nhịn được cười.
Các con trai con gái đều kết hôn cả rồi, chẳng phải bọn họ đã già thật rồi sao? Đúng vậy, thời gian chẳng buồn để ý xem ngươi là quân vương hay hắn là tên ăn mày. Theo thời gian, khuôn mặt người đàn ông bên cạnh nàng cũng đã in dấu gió sương. Chỉ là, tinh thần của y không hề thua kém thời tuổi trẻ, đôi mắt sắc bén càng trở nên thâm trầm, dáng người ngồi trên điện Tuyên Thất vẫn thẳng tắp. Một hôm ở điện Trường Môn, trước khi đi ngủ, Lưu Triệt vuốt ve mái tóc đen nhánh của A Kiều như có điều suy nghĩ, “Chẳng lẽ Kiều Kiều là người trời hay sao mà mãi không thấy già đi chút nào cả?”
A Kiều cười thảng thốt, “Đâu có?”
Trên đời này nào có ai không già chứ? Mái tóc đen dày của nàng dù không thấy sợi bạc nhưng cũng dần không còn mềm mượt như thời thiếu nữ. Thỉnh thoảng nàng soi vào chiếc gương đồng cũng thấy vài nếp nhăn như có như không ở khóe mắt. Có ai kéo được thời gian, nhưng nếu như người thương yêu cứ già đi thì mình trường sinh bất lão để làm gì? Thế nên nếu phải già đi thì cứ già đi thôi.
Năm Thiên Hán thứ tư, Lưu Yêu đầy chín tuổi. Con gái Hoàng gia dù không cần trị quốc an bang nhưng vẫn phải học hành. Cô bé học Kinh thi, ngâm nga mấy câu: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, thấy tình yêu cũng đẹp như mùa xuân tươi thắm.
“Phụ thân.” Cô bé quấn lấy Lưu Mạch làm nũng, “Con nghe cung nhân nói rằng phụ thân không phải sinh ra ở cung Vị Ương mà khi mấy tuổi rồi mới được hoàng tổ mẫu mang về hoàng cung. Tại sao vậy chứ?”
Lúc đó Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng của thánh thượng, phục hồi ngôi vị làm mẫu nghi thiên hạ đã được rất nhiều năm. Người trong cung đã thôi không bàn tán về những việc xảy ra trước kia, chẳng còn ai nhắc tới chuyện vì sao Trần hoàng hậu lại rời xa bệ hạ, hay chuyện nàng đã làm những gì lúc ở ngoài cung. Lưu Yêu lần đầu thấy sắc mặt lạnh lẽo của phụ thân luôn thương yêu mình. “Trẻ con không được nghe ngóng lung tung”, hắn trách mắng.
Lưu Yêu cảm thấy rất ấm ức, cô bé là cháu gái trưởng của hoàng gia, được cưng chiều nhất ở cả hai cung Kiến Chương và Vị Ương, ngay cả đệ đệ ruột đôi khi cũng không được hoàng gia gia và hoàng tổ mẫu yêu thương bằng.
“Yêu Yêu”, mẫu thân kéo cô bé, nói: “Cha con xưa nay kính trọng hoàng nãi nãi nhất. Quãng thời gian đó”, Thượng Quan Linh chần chừ chốc lát, nói xa xôi: “Cha con vẫn cảm thấy hoàng gia gia có lỗi với hoàng nãi nãi. Cho nên, sau này con đừng nhắc tới.”
Lưu Yêu gật đầu cho có lệ, sao lại có thể như vậy chứ? Cô bé ngầm cảm thấy nghi hoặc, hoàng gia gia yêu thương hoàng tổ mẫu đến mức cô bé cũng cảm thấy ngưỡng mộ, thì sao lại có lỗi với hoàng tổ mẫu. Mặc dù không dám nhắc, nhưng nỗi nghi ngờ trong lòng Lưu Yêu lại tựa như một hạt giống đã bén rễ đâm chồi, nếu không được ai giải tỏa thì có thể lớn dần lên thành đại thụ chọc trời.
Mùa xuân năm Thái Thủy đầu tiên, mộ các hào kiệt của đất nước được di dời vào Mậu Lăng. Đến mùa hè, Công chúa Duyệt Trữ sinh hạ một bé gái trông khá giống với cô năm xưa. Lưu Triệt cực kỳ thương đứa bé, ban cho danh hiệu là Thuận Hoa ngay từ khi còn nằm trong tã lót, ý nghĩa là cả một đời hòa thuận vinh hoa.
Tháng Ba năm Thái Thủy thứ hai, đổi đúc tiền vàng, mở Bạch Cừ[6], phát triển thủy lợi.
[6] Bạch cừ: Công trình thủy lợi nổi tiếng thời cổ đại ở Quan Trung, Thiểm Tây, Trung Quốc.
Tháng Giêng năm Thái Thủy thứ ba có sứ giả từ nước khác tới. Lưu Triệt mở đại yến chiêu đãi ở cung Cam Tuyền. Mấy sứ thần đều luôn miệng ca tụng Trường An là đô thành phồn hoa nhất thế giới thời bấy giờ.
“Thế nhưng”, bọn họ khẽ giọng, “Chúng ta nghe nói hoàng đế Đại Hán bỏ mặc ba nghìn phi tần ở hậu cung, chỉ sủng ái một mình hoàng hậu, điều này là thật sao?”
“Đúng vậy.” Người hầu dâng rượu thản nhiên đáp.
“Sao lại như vậy chứ?” Nhũng người này thốt lên “Làm gì có chuyện quân vương của một quốc gia lớn như thế này lại chỉ thích duy nhất một người phụ nữ. Ngay đến những quốc gia như của chúng tôi cũng chẳng có vị quốc vương nào là không nuôi mấy người thiếp đẹp.”
“Có thể là do Hoàng hậu nương nương của chúng tôi rất đẹp, rất thông minh, rất ôn hòa.” Người hầu vẫn không đổi giọng.
Đám khách ngoại quốc lắc đầu, “Có điều”, bọn họ ngưỡng mộ nói: “đó thật đúng là câu chuyện tình đẹp. Có ba ngàn mỹ nhân mà chỉ yêu duy nhất một người. Ha ha!”
Năm Thái Thủy thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh sinh được người con trai thứ hai là Lưu Việt. Đây cũng là đứa con út của nàng.
Chớp mắt đã đến năm Chinh Hòa đầu tiên. Vào năm đó, Hoàng trưởng tôn Lưu Việt đã tám tuổi. Con cháu hoàng tộc luyện tập cưỡi ngựa bắn cung từ thuở nhỏ. Tổ phụ lẫn phụ thân của cậu đều rất am hiểu những thứ này. Bản thân cậu cũng tỏ ra rất có thiên phú, chưa tới nửa năm đã đòi lấy luôn con ngựa Chu Ly trong chuồng ngựa của phụ thân.
Theo truyền thuyết, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã đệ nhất thiên hạ, phi nhanh như gió, ngày đi ngàn dặm, mồ hôi như máu, bình sinh chỉ nhận một mình Lưu Mạch làm chủ nhân. Trong điện Bác Vọng, Lưu Mạch nhìn đứa con trai của mình, lắc đẩu: “Con còn quá nhỏ.” Ở tuổi như cậu mà cưỡi con ngựa mạnh mẽ như Chu Ly, thật quá nguy hiểm.
“Nhưng”, Lưu Việt không phục nói: “chẳng phải lúc phụ thân tám tuổi cũng đã làm vậy rồi sao?”
Lưu Mạch nhớ lại hồi mình tám tuổi. Hắn làm thái tử ở điện Bác Vọng đã quá nhiều năm nên dần quên đi quãng thời gian niên thiếu tài hoa. Ở tuổi nhỏ hơn Lưu Việt hiện giờ, hắn còn chưa biết phụ thân mình là ai trên cõi đời này, sống nương tựa với mẫu thân và muội muội. Sau đó hắn mới biết phụ thân của mình là người tôn qúy nhất Đại Hán. Nhưng như vậy thì sao chứ? Có tôn quý đến đâu thì ông đã ruồng bỏ ba mẹ con hắn. Hắn sợ phải trông thấy nước mắt của mẫu thân nên không chịu tha thứ cho người đàn ông đã khiến mẫu thân phải khóc. Hắn theo mẫu thân đi khắp núi sông Đại Hán trong nửa năm trời mà lòng không nuôi hy vọng có ngày phải quay về Trường An. Điều này chỉ là ước mơ xa vời, vì Tảo Tảo vẫn còn ở đó. Bởi thế, cuối cùng bọn họ vẫn phải trở về cái nơi tù túng này.
Lần đầu tiên đối mặt với phụ thân trong cung Trường Môn, hắn mới thấy giật mình vì thấy bọn họ giống nhau đến như vậy. Giống từ cặp lông mày lưỡi mác hiên ngang, ánh mắt sắc bén, cho đến cặp môi mỏng như giấy. Điều khác biệt chính là sự sắc bén của hắn luôn ẩn dưới nụ cười ôn hòa, còn sự sắc bén của phụ hoàng lúc nào cũng bộc lộ ra ngoài như một thanh kiếm lạnh giá đã tuốt khỏi vỏ. Ông đã là người có quyền lực lớn nhất trên thế gian nên không cần che giấu sự sắc bén của bản thân.
Sau khi gặp phụ hoàng, hắn thừa nhận phụ hoàng là một quân vương tốt. Dưới sự cai trị của ông, Đại Hán quốc thái dân an, dương danh bốn biển. Nhưng ông không phải là phụ thân tốt, lại càng không là một phu quân tốt. Một phu quân tốt không thể làm tổn thương người vợ mà bản thân mình yêu sâu sắc. Hắn cũng đã từng gặp Vệ Tử Phu, không thể hiểu nổi người phụ nữ nhợt nhạt đó có điều gì tốt mà khiến phụ hoàng năm xưa ruồng rẫy mẫu thân để chọn bà ta.
Sau cùng hắn dần trưởng thành, cũng đùa giỡn với quyền mưu đến mức thành thục không hề có chút sơ suất, nhưng trong lòng vẫn nhớ lời dạy trước đây của mẫu thân là hãy luôn tin tưởng trên thế gian vẫn còn tồn tại những điều tốt đẹp. Mẫu thân khi xưa đã dạy hắn như thế nào? Bà thương yêu hắn nhưng vẫn nén đau để cho hắn ra đi bởi vì người chưa từng trông thấy đất trời rộng lớn sẽ không chịu tu tâm xây dựng gia đình, không tự mình trải nghiệm sẽ không thể thật sự trưởng thành.
Hắn mỉm cười, nói: “Nếu thế thì con hãy đi đi.”
Lưu Việt hoan hô ầm lên: “Cám ơn phụ thân!”
“Khoan đã.” Hắn căn dặn, “Bảo Hà công công đứng bên theo dõi. Hãy cẩn thận đấy.”
Năm xưa phụ hoàng đã theo dõi hắn như thế nào? Hắn chưa từng suy nghĩ đến vấn đề này, giờ đột nhiên lại hiểu ra khi quan tâm đến đứa con trai của mình. Đó là đứa con tạo thành từ cốt nhục của mình nên hắn luôn mong nó tốt, mong nó ngày sau có thể kế thừa, phát huy công lao sự nghiệp của mình. Nhưng cũng bởi vì lợi ích mà cha con vĩnh viễn không thể có khả năng gần gũi. Cha con bọn họ cùng bảo vệ hai người phụ nữ hoặc nói cách khác là đều yêu sâu sắc các nàng nhưng bọn họ lại không thể không đề phòng lẫn nhau. Quan hệ kỳ lạ như vậy cứ thế kéo dài mấy chục năm, hai bên đều cho rằng đó là phương thức phù hợp nhất. Lưu Mạch khẽ cúi đầu cười nhạt. Không thể lặp lại những chuyện trước kia nữa, hắn không hy vọng quan hệ cha con lạnh lùng đó lại tiếp tục kéo dài sang cả hắn và con trai của mình.
Chu Ly được dẫn ra khỏi chuồng ngựa thì có chút cảm động. Chủ nhân quá bận rộn nên rất ít có cơ hội cưỡi nó. Dù chuồng ngựa của điện Bác Vọng sang trọng nhưng nó vẫn cảm thấy tù túng. Huống chi, nó cảm nhận được mùi vị quen thuộc của chủ nhân trên bộ y phục cậu bé phía trước đang mặc nên ngoan ngoãn để cậu cưỡi lên.
Cung nhân chăm ngựa tấm tắc cho là lạ, nói: “Hãn huyết bảo mã xưa nay không để cho người lạ chạm vào nhưng lại phục tùng trưởng tôn điện hạ. Điện hạ quả nhiên là phúc dày mạng lớn.”
Lưu Việt cưỡi trên lưng Chu Ly vui mừng hỏi, “Hoàng tỷ của ta đâu?”
“Yêu quận chúa đang chơi với Hoàng hậu nương nương ở điện Trường Môn.” Cung nhân bẩm.
Lưu Việt quen hành động theo ý mình, tưởng tượng ra cảnh bản thân mình có thể khoe tư thế oai hùng trên lưng Chu Ly với người tỷ tỷ lớn hơn sáu tuổi, liền phi ngựa chạy xuyên qua cung đình rộng lớn, vòng qua ngọn giả sơn, rồi phóng một mạch tới điện Trường Môn. Một đám cung nhân kinh hãi chạy theo sau la hét í ới, sợ thuật cưỡi ngựa của Hoàng trưởng tôn chưa thạo, lỡ may không cẩn thận va phải giả sơn đình đài, nếu bị ngã thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng chẳng may vị điện hạ tôn quý này bị thương thì bọn họ dù có tới mười cái mạng cũng không đủ chôn cùng.
Cũng may, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã cực kỳ có linh tính khéo léo vòng qua tất cả chướng ngại, phóng tới trước điện Trường Môn. Lúc đó là mùa đông nhưng vẫn có ánh mặt trời hiếm hoi. A Kiều sai người kê ghế dài ra ngoài ngồi sưởi nắng. Lưu Yêu lấy một quyển sách đọc chầm chậm cho A Kiều nghe, nhưng giọng đọc cứ nhỏ dần khi liếc thấy vẻ mặt mơ màng của hoàng tổ mẫu. Cô nghe thấy tiếng động phía sau, quay đầu lại thấy là đệ đệ liền vội vàng đưa tay lên miệng làm hiệu im lặng.
Lưu Việt ở trên lưng Chu Ly cúi xuống, dần dần nguôi phấn khích, chăm chú nhìn tổ mẫu đã ngủ thiếp đi dưới ánh nắng. “Năm nay tổ mẫu bao tuổi rồi nhỉ?” Cậu thầm hỏi đầy nghi hoặc. Hoàng gia gia đã dần già đi nhưng sao thoạt nhìn, hoàng tổ mẫu lại còn trẻ như vậy, không già hơn mẫu thân của mình là bao nhiêu.
Ánh nắng soi rọi khuôn mặt ấm áp, an tĩnh mà mỹ lệ của A Kiều. Lưu Việt là hoàng trưởng tôn nên dĩ nhiên đã quen nhìn người đẹp. Mẫu thân, cô cô, tỷ tỷ của cậu, thậm chí cả các cung nữ đi đi lại lại trong cung Vị Ương và cung Kiến Chương, có ai là không có dung nhan xuất chúng? Ngay cả hoàng tổ mẫu, cậu cũng thường gặp mặt. Nhưng trong ngày mùa đông này, cậu đã chứng kiến một vẻ đẹp khác biệt, không liên quan đến dung nhan.
Sau này, cậu bị phụ thân phạt cấm chế vì sự bồng bột hôm nay. Phụ thân nói vẫn còn may, chứ nếu mà đã là hoàng tử, lại tùy ý phóng ngựa trong cung Kiến Chương như thế này, thì hoàng gia gia chắc chắn sẽ lấy mạng tất cả cung nhân theo hầu chứ không chỉ trách phạt đơn giản như vậy. Vô tình đến mức đó sao, cậu thầm nghi ngờ. Hiện giờ cung Kiến Chương rất tốt. Hoàng gia gia đối với tất cả đám con cháu cũng rất hòa ái. Nhưng cậu chợt nhớ tới chuyện về người thúc thúc bị cấm cố vĩnh viễn ở Bắc cung thì bất chợt rùng mình. Còn hiện giờ, cậu nhẹ nhàng xuống ngựa, cùng tỷ tỷ chờ ở bên cạnh hoàng tổ mẫu cho đến khi người tỉnh lại.
Tuvết Ô đang nằm cuộn tròn dưới chân hoàng tổ mẫu ngẩng đầu, giương cặp mắt linh động lên nhìn cậu vẻ dò xét. Nó vừa trông thấy Chu Ly đứng gần đó, liền quật mạnh đuôi nhảy vọt lên, nghe véo một tiếng, đã hạ xuống trên đầu Chu Ly. Chu Ly hí dài, dựng thẳng hai chân trước, muốn hất Tuyết Ô xuống. Song Tuyết Ô nhẹ bẫng nên nào dễ hất xuống được, ngược lại, làm cho A Kiều tỉnh giấc.
“Hoàng tổ mẫu”, Lưu Việt trừng mắt nhìn Chu Ly và Tuyết Ô rồi lén nhìn A Kiều vẻ biết lỗi: “Là cháu không tốt, để Chu Ly làm kinh động đến người.”
“Không sao.” A Kiều mỉm cười đáp rồi nhìn Chu Ly và Tuyết Ô chơi đùa, rõ ràng một lớn một nhỏ, một đỏ một trắng, một như lửa một như băng nhưng trong lúc này lại dung hợp vói nhau vô cùng hài hòa.
Cuối năm Chinh Hòa thứ ba, quân Hán diệt nước Xa Sư. Sau mấy năm lấy niên hiệu Chinh Hòa, Lưu Triệt đổi sang niên hiệu Hậu Nguyên, đây cũng là niên hiệu cuối cùng của triều Hán Vũ. Năm Hậu Nguyên đầu tiên, Hoàng đế và Hoàng hậu cùng tới cung Cam Tuyền, Trưởng thị vệ Mã Hà La theo hầu có ý đồ phản bội hành thích đế vương nhưng bị hôn phu của Công chúa Duyệt Trữ là Kim Nhật Đan phát hiện, bắt giữ tại trận. Hoàng đế nổi giận, tru di cửu tộc Mã Hà La, phong thưởng Kim Nhật Đan được hưởng thực ấp một ngàn lẻ năm hộ.
Đêm hôm đó, Trần A Kiều nằm trong lòng Lưu Triệt mà vẫn không hết lo sợ. Không phải nàng lo sợ vì Mã Hà La phản bội mà vì nàng hiểu rõ hơn ai hết mái tóc phu quân của mình đã chuyển màu bạc trắng. Bọn họ đã sống quá lâu trên thế gian này và giờ cũng tới lúc ông trời muốn lấy lại ân sủng. Người đàn ông bầu bạn bên cạnh nàng suốt bao năm sắp qua đời, sẽ rời xa nàng mãi mãi không bao giờ trở lại. Nàng không muốn tin vào sự thật tàn khốc đó nhưng lại không thể thuyết phục bản thân mình. Nàng không muốn y rời xa, nhưng chẳng có cách nào ngăn lại được. Y thuật dù cao minh đến đâu cũng bất lực trước quy luật già lão của tự nhiên.
Tháng Hai năm Hậu Nguyên thứ hai, Hoàng đế ban chiếu mời các vương gia chư hầu tới gặp mặt ở cung Cam Tuyền. Đại yến hết sức vui vẻ, Hoàng đế rất sảng khoái nhưng bất ngờ lại trúng phải gió lạnh, không ngừng ho khan. Ngự y cẩn thận điều chế thuốc thang để Trần hoàng hậu đích thân cho y uống. Lưu Triệt ngủ một giấc thật say, sáng hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng rõ. Y thấy Trần A Kiều đang ngồi trên ghế trước giường, ngây người nhìn mình thì lập tức có linh cảm rằng mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu trên cõi đời này nữa.
Ở tuổi thiếu niên bừng bừng tráng chí kiến công lập nghiệp, y đã từng có lúc cực kỳ sợ hãi khi nghĩ về tuổi già và cái chết, không sao tưởng tượng được hình dáng của bản thân khi hai từ này vận vào mình, nhưng bây giờ, giáp mặt với nó thì lại thấy lòng bình thản. Y thầm cảm thấy may mắn vì luôn có nàng ở bên cạnh trong nửa cuộc đời này.
“Kiều Kiều”, y gọi khẽ, “Nàng biết không? Thời trẻ trẫm từng nghĩ đến lúc mình trăm tuổi thì sẽ bắt tất cả phi tần cung nữ trong chốn hậu cung phải chôn cùng, không lưu lại một ai để phòng ngừa lần nữa phát sinh chuyện Lữ hậu[7] ở Lưu gia.”
[7] Lữ hậu người Đan Phụ (nay là huyện Đan tỉnh Sơn Đông) là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán – vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang. Bà là người phụ nữ tàn ác, chuyên quyền. Sau khi Hán Cao Tổ mất, con trai bà là Huệ đế làm vua nhưng toàn bộ quyền lực đều nằm trong tay bà. Huệ đế buồn phiền sinh bệnh chết, Lữ hậu nắm giữ chính quyền, phong tước phong hầu cho con cháu nhà họ Lữ, đàn áp con cháu họ Lưu, đối với những người không nghe lời, Lữ hậu giết không tha, số người bị Lữ hậu giết nhiều tới nỗi chính bà cũng không nhớ nổi. Năm 180 TCN, Lữ hậu chết, thiên hạ thuộc về tay Lưu Hằng, con trai thứ ba của Lưu Bang.
Y nhìn chằm chằm vào mặt nàng với hy vọng có thể thấy thoáng kinh sợ, vì dù sao thì thủ đoạn này cùng quá tàn khốc, từ cổ chí kim chưa từng có ai làm, thế nhưng A Kiều chỉ òa khóc nức nở, nước mắt chan hòa rơi xuống tay y từng giọt từng giọt nóng hổi, làm lòng y tan nát. Đã nói tới mức như vậy, có phải ngay cả bản thân y thừa nhận sẽ có một điểm cuối của cuộc đời?
“Đừng khóc nữa.” Lưu Triệt bất đắc đĩ than thở “bây giờ thì trẫm sao nỡ động tới Kiều Kiều. Hơn nữa Thái tử sáng suốt, Kiều Kiều lại không hề có dã tâm, chẳng cần nói tới chuyện này nữa.”
“Những người còn lại trong cung Vị Ương”, ánh mắt y lóe lên tia lạnh lẽo. “dù có hợp sức lại với nhau cũng không phải là đối thủ của Kiều Kiều, trẫm cũng không cần động đến bọn họ.”
Tháng Hai, thánh giá lên đường trở về Trường An, nào ngờ đang đi bệnh tình trở nên trầm trọng hơn nên đành phải dừng lại ở cung Ngũ Tộ. Trần hoàng hậu truyền ý chỉ, lệnh cho các hoàng tử hoàng nữ ở khắp nơi tập trung về cung Ngũ Tộ, cũng niệm tình cha con mà đặc cách cho phép cả Lưu Hoành đang bị giam lỏng ở Bắc cung được đi theo Thái tử đến.
Lưu Triệt lướt nhìn bốn đứa con trai, sáu đứa con gái trước mặt, thầm cười lạnh. A Kiều luôn tin tưởng rằng trong lòng mọi người ít nhiều đều có tính chân thiện mỹ, nhưng theo như y thấy thì mấy đứa con gái cùng có bộ dạng bi thương nhưng chỉ có một mình Duyệt Trữ là chân thành.
“Mạch Nhi”, rất hiếm khi y gọi con mình thân thiết như thế, “Con phải nhớ kỹ rằng ngày sau thừa kế giang sơn Đại Hán của trẫm, dù phải trên hiếu kính với mẫu thân, dưới bao bọc đệ, muội, nhưng chuyện cần làm vẫn phải làm, không được quá e dè.” Tề vương Lưu Cứ đang quỳ ở phía sau Lưu Mạch nghe thấy vậy ứa lệ, rét lạnh trong lòng vì biết rằng đây là lời cảnh cáo cuối cùng của phụ hoàng với hắn. Nhưng có một số chuyện dù biết cũng chẳng đặng đừng.
“Phụ hoàng”, Lưu Sơ nắm tay y, nước mắt giàn giụa.
“Được rồi, Sơ Nhi.” Trong suốt cuộc đời này y vẫn luôn kiên quyết không chịu gọi con gái bằng tên mụ như A Kiều thường gọi, “Con đã có mẫu hậu và ca ca chiếu cố rồi, phụ hoàng không còn gì phải lo lắng nữa.” Y nhìn qua tất cả các con trai, con gái một vòng, nhìn đến cả Di An mà y rất ít khi gặp, rồi phất tay, “Các con ra ngoài hết đi.”
Mấy đứa con đều biết, Hoàng đế muốn ở lại với Hoàng hậu một chút nên lặng lẽ thối lui. Y ho khan vài tiếng, quay đầu định gọi A Kiều nhưng đột nhiên ngưng bặt. A Kiều vẫn đứng bên cạnh, hơi cúi đầu, vẻ ưu tư. Y nhớ lại người con gái năm xưa đã gặp.
“Kiều Kiều.” Y gọi rất chậm.
Trần A Kiều giật mình bước tới bên cạnh, nắm lấy tay y. Cánh tay y gầy đét, bàn tay từng rất có lực nhưng giờ ngay cả việc nắm lấy tay nàng cũng khó khăn. Chỉ là dù sao hai người cũng đã làm được như câu “vợ chồng nắm tay nhau đến bạc đầu”. Nàng đã từng cho rằng không thể đạt được như câu nói này, y lại dùng hơn ba mươi năm để thực hiện nó. Nàng nghĩ, nàng không có tư cách để hoài nghi nhưng vẫn muốn hỏi một câu rằng, y có từng hối hận về chuyện năm xưa? Khi y nhướng mày, nhìn nàng sâu thẳm, “Trẫm không hối hận” thì nàng mới phát hiện mình vừa vô tình, buột miệng hỏi thành lời.
“Trẫm biết rằng quyết định năm đó của trẫm khiến nàng đau đớn, oán hận suốt đời, nhưng trẫm không hề hối hận. Bởi vì nếu không phải như thế thì sao trẫm có được nàng như ngày hôm nay. Cho nên, ngay cả khi thời gian có quay trở lại, ngay cả có mỏi mòn đau đớn vì phải làm tổn thương nàng thì trẫm sẽ vẫn một lần nữa lựa chọn cách làm như vậy.” Y khẽ nhíu mày. Y vốn không quen nói chuyện rõ ràng, nhưng đã đến lúc này thì còn điều gì là không thể nói?
Lưu Triệt khẽ thở một hơi thật dài, nhìn Trần A Kiều: “Trẫm thích A Kiều của năm xưa và lấy làm tiếc vì đã phụ lòng tin cậy của nàng. Nhưng người trẫm yêu là Kiều Kiều của bây giờ.”
A Kiều sững sờ, ngước lên nhìn thẳng vào đôi mắt y. Chúng rất sáng, toát lên vẻ thấu hiểu. Nàng chợt hiểu, cắn chặt môi không thể nào tin nổi, nước mắt nhạt nhòa không còn trông rõ ánh mắt của y, chỉ còn nghe tiếng rủ rỉ bên tai, “Sau khi trẫm mất”, y hơi ngừng lại rồi nói tiếp, “Mậu Lăng được xây dựng đã nhiều năm, chẳng bao lâu nữa sẽ hoàn thành nhưng quy chế của tổ tiên tuy cho Hoàng đế và Hoàng hậu cùng lăng nhưng không cùng tẩm, càng không cho cùng bậc. Trẫm lại không muốn tách rời Kiều Kiều nên đành phải tòng quyền[8] thôi. Trẫm đã viết trong di chiếu về chuyện này, Kiều Kiều xem là sẽ hiểu.”
[8] Tòng quyền: ứng phó linh hoạt tùy theo hoàn cảnh, không cố chấp, không câu nệ.
Trên đời này không có điều gì là hoàn toàn bí mật. Hơn nữa người mà y gần gũi ngày đêm là một người thông minh biết nhường nào. Y cứ cho là mình giữ được bí mật nhưng lại không hay rằng người bên cạnh đã biết rõ, chỉ là không nói ra mà thôi. Hai người dù yêu nhau đến đâu cũng vẫn là hai người, vĩnh viễn không thể hợp thành một. Cả hai cùng tự cho là mình hiểu rõ lẫn nhau, thật ra trong nội tâm sâu thẳm vẫn có một khoảng không thể nhìn tới, hoặc là nhìn thấy nhưng chẳng thể làm được gì. Dù có gần gũi đến đâu thì tâm hồn cũng không chạm tới được.
Nàng chẳng còn để ý đến việc nàng yêu y thì y có yêu mình hay không nữa, mà chỉ thấy tình yêu dần khiến nàng bớt đi sự hờ hững lạnh đạm. Vào năm sau khi từ lễ Phong Thiện trở về, nàng sẽ bỏ qua những chuyện năm xưa, chỉ cần y không nhắc đến thì nàng cũng sẽ im lặng.
Nàng có thể không nghĩ tới những tổn thương, coi như không nhìn thấy vết sẹo trong lòng nên không đau đớn. Nhưng nàng không thể không nghĩ xem rốt cuộc y yêu là yêu bản thân nàng hay yêu vì cảm thấy có lỗi với A Kiều năm xưa. Trần A Kiều, ngươi đừng vô vị như vậy, quá khứ hay hiện tại đều chẳng phải là một mình ngươi sao? Nhưng sự thật có phải là thế? Suy nghĩ này dù không nặng nề nhưng chất chứa trong lòng lâu ngày cũng thành một nỗi ám ảnh. Hôm nay y đã nói là yêu bản thân nàng. Bọn họ ở bên nhau suốt bao năm, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, quấn quýt không rời nhưng chưa hề nói một chữ yêu. Nàng cho là mình giữ một bí mật động trời nhưng nào ngờ y đã biết từ lâu. Y cho là nàng hiểu được tình yêu của mình nhưng đâu hay rằng nếu không nói ra thì nàng vẫn luôn ám ảnh nghi ngờ. Bọn họ đều là những người quá kín đáo, có cảm thụ về nhau nhưng lại không chịu nói thành lời.
“Kiều Kiều, đừng thương tâm nữa.” Lưu Triệt dịu dàng, “Trẫm đăng cơ năm mười bảy tuổi, năm nay đã bảy mươi, tại vị hơn năm mươi năm cũng đủ rồi, chẳng còn gì tiếc nuối nữa. Trẫm ở Mậu Lăng chờ nàng, tới giờ cũng chẳng biết là nên cầu mong cho Kiều Kiều sống lâu thêm một chút hay mong Kiều Kiều đến với trẫm sớm hơn một chút.”
Ngày Đinh mão, Lưu Triệt băng hà ở cung Ngũ Tộ, thọ bảy mươi tuổi. Ngày Giáp thân tháng Ba, y được chôn cất ở Mậu Lăng, lấy thụy hiệu là Vũ, chính là Hiếu Vũ Đế. Hoàng tử để tang chưa đầy một tháng thì Tề vương Lưu Cứ làm phản, viện lý do rằng Thái tử Lưu Mạch là con của Trần A Kiều sinh khi lưu lạc ở ngoài cung, chưa chắc là con của Vũ Đế. Lúc hịch văn dấy loạn truyền tới tay Lưu Mạch, hắn chỉ cười lạnh. Lưu Cứ quả thật đã nóng lòng đến loạn trí rồi, suốt bao nhiêu năm qua, không có ai dám hoài nghi về việc này chẳng phải vì tướng mạo của hắn và Vũ hoàng đế giống nhau như đúc sao? Nhưng nếu Lưu Cứ không phản lúc này mà đợi đến khi Lưu Mạch dùng ngôi vị thái tử ổn định thiên hạ thì chắc chắn Lưu Cứ sẽ hết cách.
Tháng Tư, sau khi hết ba mươi sáu ngày mãn tang, Lưu Mạch đăng cơ hoàng đế; hiệu lệnh toàn bộ Đại Hán, chính là Chiêu hoàng đế sau này. Hắn tôn mẫu thân Trần A Kiều làm Hoàng thái hậu, theo như tổ chế chuyển tới cung Trường Nhạc. Lập chính thê Thượng Quan Linh làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu, muội muội Lưu Sơ làm Duyệt Trữ trưởng công chúa, trưởng nữ Lưu Yêu được phong làm Dương Hà công chúa. Ngoại trừ đất Tề, chúng thần đều thần phục, kinh sư Trường An vẫn duy trì ổn định.
Tháng Tám, Lưu Cứ bị đánh bại. Đại tướng Tiết Thực chém Ninh Triệt, tuân theo thánh ý, giải Lưu Cứ về Trường An. Tội mưu phản vốn không thể tha nhưng Lưu Mạch mới mãn tang phụ hoàng chưa lâu, không đành lòng để phụ hoàng khó an giấc dưới suối vàng bởi cảnh huynh đệ tương tàn nên tha mạng cho Lưu Cứ, phế làm thứ dân, giam lỏng cả đời ở cung Ngũ Tộ.
Trần A Kiều ở trong cung Trường Nhạc ôm Tuyết Ô cũng biết được hết thảy. Nàng biết con trai mình đủ khôn khéo và từng trải nên không lo nó không xử lý được những chuyện nhỏ này. Bản thân nàng đã kiệt sức trước những bi thương liên tiếp kéo đến, chẳng thể để ý. Sau khi Lưu Triệt mất, nàng chuyển ra ngoài Trường Môn, không muốn ở lại nơi mà nhìn đâu cũng vấn vương hình bóng của y. Nhưng nàng lại quên rằng cung Trường Nhạc cũng không phải chỗ yên vui gì. Đó là nơi nàng lớn lên từ nhỏ, lưu giữ bao nhiêu ký ức vui vẻ với y thuở còn niên thiếu. Có thể nói, thành Trường An, Đại Hán, thậm chí cả thiên hạ này đều có bóng dáng của y, dù nhắm mắt che tai vẫn còn hiển hiện. Cuối cùng nàng bất lực, cứ để mặc cho nỗi nhớ nhung giày vò.
Nàng tưởng nhớ về ánh mắt của y, gương mặt của y, nét đáng yêu của y khi còn nhỏ, vẻ âm trầm khi trẻ trung, sau cùng lại tràn ngập yêu thương. Từ trước đến giờ nàng vẫn không thể đoán được đến lúc cuối cùng, hồi tưởng về chuyện thời niên thiếu thì mình sẽ có cảm giác thế nào. Giờ nàng rốt cuộc đã biết. Nàng nhớ về căn phòng ngoài của điện Tiêu Phòng hun hút gió năm xưa, y tỏ vẻ lạnh lẽo, thái độ vô tình, cứ thế bỏ đi. Vào lúc đó nàng cảm thấy buốt giá đến tận xương tủy, cả đời này chắc không thể có giây phút nào lạnh giá hơn. Hôm nay nàng nhớ lại vẫn còn cảm thấy cái lạnh ấy, chỉ là lần này không chỉ có cảm giác đó mà còn có cả niềm đau xót. Đau xót vì y đã vô tình làm tổn thương mình, đau xót vì y đã không còn bên cạnh nữa, nàng có tìm khắp trên trời dưới đất cũng không thể thấy một người tên Lưu Triệt gọi nàng một tiếng Kiều Kiều. Điều trớ trêu là, nếu y không rời khỏi thế gian này thì nàng lại không thể yêu thương y hết mình.
Sau khi Vũ hoàng đế mất được một năm, hoàng đế mới lên ngôi đổi niên hiệu là Hiển Thủy. Trong gia yến mừng năm mới, Lưu Mạch kinh hãi phát hiện thấy một lọn tóc bạc trắng trên mái tóc đen của mẫu thân mình. Chẳng lẽ tương tư lại khiến cho mẫu thân chỉ trong một năm ngắn ngủi đã bạc đầu? Chiêu Đế và Công chúa trưởng Duyệt Trữ lo mẫu thân cô đơn nên không chỉ thường xuyên tự mình tới Trường Nhạc thăm hỏi mà còn bảo con cái tới cùng vui vầy. Nhưng mấy đứa cháu trai phải học tập vất vả, Công chúa Dương Hà lại vừa xuất giá, cuối cùng chỉ có một mình Thuận Hoa là hay tới chơi với A Kiều.
Năm Hiển Thủy đầu tiên, Thuận Hoa đã được mười một tuổi mụ, bắt đầu biết mộng mơ. Dù vẫn nhớ cha mẹ nhưng cô lại thích ở trong Trường Nhạc vắng lặng với ngoại tổ mẫu luôn điềm tĩnh. Rất nhiều năm sau, cô vẫn nhớ tới ngoại tổ mẫu trong những năm Hiển Thủy có mái tóc đen dài đã pha sương nhưng không thể che lấp được vẻ mỹ lệ. Người thường đốt một lò hương rồi ngồi viết chữ hoặc đánh đàn, lúc thời tiết tốt thì bế Tuyết Ô ngồi sưởi nắng mặt trời. Tuyết Ô được người vuốt ve bộ lông cổ dày, nằm duỗi dài biếng nhác. Thỉnh thoảng, ngoại tổ mẫu lại khe khẽ hát mấy khúc ca rất êm đềm mà cô chưa bao giờ nghe thấy. Có một lần, người từng hát rõ cho cô nghe một bài rất thanh thoát mà nhiều năm sau cô có quên đi giai điệu nhưng vẫn còn nhớ rõ ca từ.
“Lúc còn thơ bé rất nghịch ngợm, bà ngoại thường hát để dỗ dành. Mùa hè sau giờ Ngọ, bà ngoại lại hát ru, lời ca như vậy: Trời tối đen muốn mưa rơi, khắp nơi một màu đen.
Ta yêu một người đến quên bản thân, coi người đó là cả thế giới. Nhưng khi ta lẫn lộn với cuộc đời đầy dối trá và lừa lọc, mới tự hỏi phải chăng thế giới khi ta trưởng thành luôn không trọn vẹn. Mỗi ngày ta đều phải đối diện với muôn vạn nẻo đường, ta hoài niệm quá khứ đơn thuần chính là một niềm hạnh phúc nhỏ. Yêu luôn làm cho người ta khóc, làm cho người ta cảm thấy không vừa lòng, bầu trời rất lớn nhưng mịt mờ, ta cô độc một mình. Khi trời tối, ta lại nghĩ tới bài hát, đột nhiên mong đợi cơn mưa bình yên. Hóa ra bà ngoại đã sớm hát cho ta nghe chân ỉý, dù mưa có rơi xuống cũng phải dũng cảm bước tới…”
Lúc đó, cô cho là ngoại tổ mẫu cố ý hát để mình nghe. Rất nhiều năm sau hồi tưởng lại, mới chợt giật mình nhận ra, biết đâu đó chính là ngoại tổ mẫu cảm thương cho cuộc đời mình, bởi vì khi còn bé ngoại tổ mẫu lớn lên ở cung Trường Nhạc. Khi đó chủ nhân của cung Trường Nhạc là Đậu thái hậu, ngoại tổ mẫu của ngoại tổ mẫu.
Người trong cung Trường Nhạc dần lén nghĩ, chẳng lẽ Thuận Hoa quận chúa sẽ trở thành một Hiếu Vũ Trần hoàng hậu khác? Cả hai cùng lớn lên ở cung Trường Nhạc, đều có một hoàng đế là ông ngoại, một hoàng đế là cữu cữu. Thuận Hoa quận chúa cũng có giao tình tốt với hai vị hoàng tử, có thể nói là thanh mai trúc mã. Thanh mai trúc mã là một từ ngữ mỹ lệ trong đoạn thơ “Thiếp phát sơ phúc ngạch, môn tiền chiết họa kịch. Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai.”[9]
[9] Câu thơ “Thiếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi, Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi” trong bài Trường can hành của Lý Bạch.
Chẳng lẽ chỉ có Vũ hoàng đế và Trần thái hậu mới thật sự là thanh mai trúc mã? Có một vị hoàng đế nào đó sẽ làm phu quân của Thuận Hoa? Người đó có yêu nàng cả đời, đến chết vẫn không thôi? Trần A Kiều nghe được lời bàn tán, liền nhíu mày trách mắng: “Nói lung tung gì đó?” Nàng xưa nay vốn ôn hòa, hiếm khi nghiêm mặt nên cung nhân lập tức đều câm như hến. Thuận Hoa thế này đã rất tốt rồi không cần làm một hoàng hậu như vậy để dệt hoa trên gấm nữa. Hoa khoe sắc trên gấm tuy đẹp nhưng Vị Ương lại không phải là một chỗ thích hợp cho hoa khoe sắc, không vào chốn này ngược lại còn là hạnh phúc. Huống chi, huyết thống của nàng và Lưu Triệt đã rất gần nhau, nàng không muốn lại thêm một lần như vậy.
Thuận Hoa không để ý lắm, chỉ thỉnh thoảng thấy Ánh Chu và Phiếu Tử phía sau ngoại tổ mẫu tỏ vẻ thương cảm. Bọn họ đều nói “Thái hậu nhất định là nhớ tói Vũ hoàng đế rồi.”
“Vũ hoàng đế?”, Thuận Hoa thầm nghĩ. Nghe nói, danh hiệu Thuận Hoa của cô chính là được ngoại tổ phụ[10] đích thân ban cho. Lúc cô biết chuyện thì Vũ hoàng đế đã bắt đầu già rồi. Nghe nói ngoại tổ mẫu lớn hơn Vũ hoàng đế hai tuổi nhưng sao đến giờ ngoại tổ mẫu vẫn còn xinh đẹp đến thế? Khó trách mà Vũ hoàng đế yêu người nhiều năm như vậy. Tình yêu là gì chứ?
[10] Ngoại tổ phụ: Ông ngoại.
Thoáng cái đã đến tháng Mười bắt đầu vào mùa đông. Khi những cơn gió bắc đầu mùa thổi qua thành Trường An thì Thuận Hoa ngoan ngoãn cũng gần mười hai tuổi, thỉnh thoảng lại bồn chồn đi tới đi lui trong nhà và cung Trường Nhạc tịch mịch, len lén mang theo thị nữ ra phố, tự nghĩ là đã giấu được nhưng lại không biết các bậc trưởng bối ngầm đồng ý. Bọn họ cũng từng có một thời niên thiếu háo hức như vậy.
Thành Trường An vẫn phồn hoa như cũ, cảnh ồn ào tấp nập không hề bị vụ phản loạn năm trước ảnh hưởng, tiếng người huyên náo cho Thuận Hoa những cảm giác mới mẻ, không nhịn được thò đầu ra khỏi xe. Một cậu bé ăn mày quần áo rách rưới chạy ào ào trên đường, đâm sầm vào một thiếu niên ăn mặc sang trọng định trộm túi tiền của thiếu niên kia nhưng lại bị bắt quả tang, chịu một trận đấm đá chửi rủa. Cậu bé ăn mày cũng là một người quật cường, tuy ngã sóng xoài trên đất nhưng không hề cất tiếng van xin, cặp mắt vẫn ánh lên như sao sáng. Thuận Hoa nhìn cặp mắt đó, sinh lòng thương xót, nếu chẳng may đánh chết người thì thật quá mức. Cô đang định lên tiếng ngăn lại thì một thiếu niên mặc đồ xanh đã tiến tới, mỉm cười nói, “Huynh đài đã dạy dỗ rồi, có thể khoan dung được thì xin hãy độ lượng hơn chăng.”
Lúc này người xem đã vây quanh bốn phía nên Trần Đình không thể xuống thang trước mặt đám đông liền cao giọng: “Ngươi muốn ta tha thì ta phải tha sao?” Hắn vừa nói xong đã biến sắc, thiếu niên mặc đồ xanh kia trông rất văn nhã, đôi tay nhìn cũng không có lực nhưng lại khiến hắn không thể giãy giụa mảy may. Lúc này hắn mới chú ý, ở thắt lưng của thiếu niên có quấn ngang một thanh nhuyễn kiếm, tuy lưỡi kiếm còn nằm trong vỏ nhưng vẫn không thể che lấp sự sắc bén.
“Đấu rượu Tân Phong giá chục ngàn,
Thiếu niên du hiệp đất Trường An
Tương đồng chí khí cùng nâng chén
Buộc ngựa lầu cao liễu thẳng hàng.”
Bài thơ nổi tiếng về du hiệp này tương truyền là do Trần thái hậu viết ra năm xưa. Thoạt nhìn thì thiếu niên mặc đồ xanh hẳn là một du hiệp.
Trần Đình đã hơi biến sắc, nhưng vẫn cố làm bộ hùng hổ: “Ngươi biết ta là ai không?” Hắn nghĩ đến việc này thì lại thêm phần tự tin, ưỡn ngực nói: “Nói cho ngươi biết, Trần thái hậu trong cung Trường Nhạc hiện nay là cô nãi nãi của ta đây.”
“Ổ.” Dân chúng bốn phía đồng loạt ồ lên, hóa ra là con cháu Trần gia.
“Thật à?” Thiếu niên mặc đồ xanh cười vang, nói vẻ hài hước “Thật là trùng hợp, tính ra thì Trần thái hậu cũng là sư cô của ta đây. Như vậy chẳng phải vai vế ngươi thấp hơn ta rồi sao? Nào, chào một tiếng thế thúc[11] đi.”
[11] Thế thúc: Cách xưng hô với người bằng hữu nhỏ tuổi hơn cha của mình.
Sắc mặt Trần Đình trở nên xám xịt. Năm xưa Trần thái hậu lưu lạc ngoài cung đúng thật đã từng bái làm đệ tử của môn phái du hiệp đệ nhất thiên hạ. Theo lời đồn, năm xưa bệ hạ từng muốn thanh trừng du hiệp nhưng nể mặt Trần hoàng hậu nên mới chịu bỏ qua. Bản thân các du hiệp sau đó khi tung hoành thiên hạ cũng bớt phóng túng nên hết thảy bình an vô sự. Hắn chẳng biết đáng tin hay không nhưng cũng dần nhụt chí, đành nói mấy câu khách sáo rồi bỏ đi. Cậu bé ăn mày bò dậy, nói: “Đa tạ cứu giúp.” Cậu cúi đầu thật sâu nhưng bị thiếu niên ngăn lại, thở dài, “Ta không mong ngươi tạ ơn, nhưng ngươi cũng không ăn trộm được gì của ta đâu vì trên người ta không có đồng nào.”
Hắn nghe thấy tiếng cười lanh lảnh như chuông bạc từ phía sau truyền đến liền quay đầu lại, thấy một thiếu nữ còn nhỏ tuổi đang nhìn mình. Cô xinh đẹp tuyệt trần, mặc bộ y phục may từ gấm vân sa dù có tiền cũng khó mua được.
“Được rồi.” Thuận Hoa ném ra một xâu tiền Ngũ Thù lớn “Ta không cần ngươi trộm, đưa luôn cho ngươi là được.” Nhìn nụ cười hiền hậu của cô, cậu bé ăn mày bất giác đỏ mặt lùi lại một bước, vòng tay lên bái, nói: “Vốn ta không muốn lấy tiền của tiểu thư nhưng bất đắc dĩ nhà có việc cần dùng gấp, xin ghi nhớ ân huệ của tiểu thư.” Cậu nói xong không hề liếc mắt nhìn bọn họ, xoay người rời đi.
Quách Lãng ra vẻ bất bình, “Ta cứu mạng của hắn mà hắn lại tạ ơn người khác, như vậy chẳng phải là nhất bên trọng nhất bên khinh ư?”
Thuận Hoa hé miệng cười để lộ chiếc lúm đồng tiền, “Ta vừa nghe ngươi nói là sư chất[12] của Trần thái hậu có đúng không?”
[12] Sư chất ở đây có nghĩa là cháu của sư phụ Trần A Kiều.
Quách Lãng liếc thấy miếng ngọc bội có đóng dấu hoàng gia đeo bên thắt lưng liền suy đoán được thân phận của cô, bình thản nói, “Tất nhiên rồi.”
“Như vậy”, Thuận Hoa háo hức hỏi, “ngoại tổ Thái hậu nương nương đã làm những việc gì lúc ở ngoài cung vậy?”
“Lúc ta ra đời thì Hoàng hậu nương nương đã hồi cung lâu rồi.” Quách Lãng nói, “Chỉ nghe cha mẹ có kể rằng năm xưa Trần sư cô bị người ta đuổi giết, được sư thúc tổ cứu mạng nên bái làm môn hạ, dẫn theo hai người con trở lại Đường Cổ Lạp Sơn ở mấy năm mãi tới đại chiến Hán Hung sau đó mới xuống núi.”
Thuận Hoa nghe vậy liền ra sức đoán chuyện năm xưa. Nếu ngoại tổ mẫu từng bị truy sát thì hồi đó Vũ hoàng đế có biết hay không? Chắc là người không biết, nếu không thì làm sao có thể để người vợ kết tóc của mình lưu lạc nhiều năm bên ngoài như vậy. Nhiều năm sau gặp lại, Vũ hoàng đế chắc hết sức vui mừng? Cô nhớ bản thân từ khi hiểu chuyện tới nay vẫn luôn chứng kiến tình cảm ân ái mặn nồng đẹp đẽ của Hoàng đế và Hoàng hậu trong điện Trường Môn. Ngày sau liệu cô có được như vậy? Thuận Hoa suy nghĩ vẩn vơ, ngẩng đầu lên bỗng vô tình bắt gặp gương mặt tuấn tú của Quách Lãng thì tự dưng thấy mặt mình nóng bừng.
Đến mùa xuân năm Hiển Thủy thứ hai, Kim Nhật Đan đưa Thuận Hoa về phủ đón năm mới. Lúc cô đi là ban ngày nên cung Trường Nhạc còn náo nhiệt, nhưng đến buổi tối tĩnh mịch thì Trần A Kiều mới cảm thấy trống trải. Chiếc giường trong cung Trường Nhạc rất rộng, rất mềm mại thư thái, nàng xoay nghiêng người và cảm giác thấy bên cạnh hụt hẫng, người bầu bạn bao năm qua với mình đã không còn nữa. Nàng thấy cay cay ở sống mũi, vội vàng mở mắt để xua đi nỗi buồn bã rồi đứng dậy khoác thêm chiếc áo ngoài và đi tới trước cửa sổ. Trên bầu trời đêm đông giá lạnh có ngàn sao đang lấp lánh, ngôi sao nào là ánh mắt của y đang ngắm nhìn nàng? Y xưa nay vẫn luôn khí phách không cho phép nàng cự tuyệt, nếu thật sự mỗi ngôi sao là đại biểu cho một linh hồn thì y nhất định sẽ lấy bóng đém làm cánh tay ôm siết. Nàng đã phải mất tận một năm mới học được cách không để lòng dậy sóng khi nhớ nhung y, nhưng đêm nay, chỉ riêng một đêm nay lại khiến nàng nhớ thương vừa dịu dàng vừa mãnh liệt.
Sáng hôm sau, Trần thái hậu lâm bệnh trầm kha, không thể ngồi dậy. Chiêu Đế lo lắng, tuyên các ngự y vào chữa trị. Bọn họ đều nói Thải hậu nương nương lúc còn trẻ đã mấy lần bị trọng thương động tới căn cốt, giờ tuổi cao mới phát nên không có cách gì cứu vãn. Lưu Mạch tức giận nghiến răng ken két, nhớ tới Triêu Thiên môn ngoài kiếm thuật cũng rất giỏi về y thuật bèn phái người không quản đường xa vạn dặm tới Đường Cổ Lạp Sơn cầu người. Trường An cách Đường Cổ Lạp Sơn cực xa, lúc mời được người về thì đã là tháng Năm.
Tính ra thì Tiêu Phương cũng đã già lắm rồi nhưng khi Lưu Mạch lần đầu tiên trông thấy ông đứng trên hành lang cung Trường Nhạc quay đầu nhìn lại thì trong đầu vẫn như cũ nghĩ đến hai từ ấm áp. Một vẻ ấm áp vượt qua những nét đẹp bên ngoài, thấm sâu vào tâm can người đối diện.
“Sư công.” Hắn gật đầu chào hỏi, liếc nhìn cô gái đứng sau Tiêu Phương, cảm giác khá bất ngờ. Thời gian đã trôi qua hơn hai mươi năm, kiều nữ hồng nhan năm đó đã già đi, khuôn mặt cũng trở nên tròn trịa hơn. Nàng khẽ dập đầu bái lạy: “Dân nữ tham kiến bệ hạ.”
“Năm đó cô ấy được người cứu giúp rồi lưu lạc đến làm môn hạ của ta.” Tiêu Phương biết hắn nghi ngờ nên giải thích.
Người ra tay cứu giúp kia biết khúc mắc cùa nàng với hoàng gia, không muốn dẫn lửa thiêu thân nhưng lại không nỡ bỏ mặc người con gái yếu đuối không cứu giúp, nên mách bảo Thượng Quan Vân ngàn dặm tìm tới. Năm đó, Tiêu Phương gặp người thiếu nữ này dưới chân Đường Cổ Lạp Sơn. Chỉ qua một tháng gió sương đã làm mất đi hoàn toàn sự kiêu ngạo của cô, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ quật cường. Vẻ quật cường đó khiến Tiêu Phương bất giác nhớ lại sắc mặt tái nhợt của Nhạn Thanh lúc té ngã ở ngoài thành Trường An năm xưa.
“Triêu Thiên môn được xưng Y kiếm song tuyệt nhưng sau ta thì người học y chỉ có một mình mẫu thân người. Mẫu thân người ở địa vị cao, không cách nào tĩnh tâm học tiếp nên ta đành phải tìm người truyền y bát[13].”
[13] Truyền y bát: Cụm từ xuất phát từ Phật giáo. Y và bát là hai vật được đức Phật coi trọng, truyền lại cho đệ tử, tương trưng cho việc truyền thụ và kế thừa Phật pháp. Cụm từ truyền y bát còn được hiểu rộng là sự truyền thụ và kế thừa sự nghiệp của sư phụ.
Vũ hoàng đế đã mất, Tề vương Lưu Cứ lại bị phế làm thứ dân, Lưu Mạch dĩ nhiên không muốn không nể mặt Tiêu Phương mà cứ thế trị tội chị gái của vợ mình vì những chuyện trước kia, mỉm cười nói, “Sư công đã đến thì mời vào thăm mẫu thân đi.”
Trước đây Tiêu Phương đã từng tới cung Trường Nhạc không ít lần. Khi đó, chủ nhân của cung Trường Nhạc là Vương thái hậu, bây giờ đã đổi tới Nhạn Nhi. Trần A Kiều nghe tiếng bước chân, liền quay đầu lại, nhìn thấy Tiêu Phương thì sững người giây lát rồi dịu dàng mỉm cười cất tiếng chào: “Sư phụ.” Thượng Quan Vân thấy người mà lòng xót xa, bao nhiêu năm đã qua rồi và Trần hoàng hậu xinh đẹp ở Lâm Phần ngày nào bây giờ rốt cục cũng đã già.
Tiêu Phương bắt mạch kê đơn. Sau khi xong chuyện, vì đàn ông bên ngoài không được ở trong cung nên ông đành rời đi, để Thượng Quan Vân ở lại chăm sóc Trần thái hậu. Trần thái hậu uống thuốc xong, chợt bật cười, “Không ngờ vận mệnh thật kỳ lạ, ngươi lại trở thành sư muội của ta.”
“Thái hậu nương nương nói quá rồi, dân nữ không dám nhận.” Thượng Quan Vân thản nhiên đáp, hai người đàn ông quan trọng nhất trong cuộc đời cô đều có liên quan đến người phụ nữ này thật là kỳ lạ!
“Thái hậu nương nương.” Ánh Chu vén rèm bẩm, “Hoàng hậu nương nương tới đây thỉnh an.”
A Kiều gật đầu: “Bảo Hoàng hậu vào đi”, nói xong quay sang bảo Thượng Quan Vân: “Tỷ muội các ngươi đã không gặp nhau nhiều năm rồi, nói chuyện thoải mái một chút.”
Thượng Quan Vân ngước lên nhìn muội muội đang ung dung tiến vào. Đã nhiều năm không gặp, thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần năm xưa đã ra dáng một bậc mẫu nghi thiên hạ, cúi nhìn lại thấy mình thật sự lại giống như một người phụ nữ nông thôn. Nhưng ít ra như vậy còn tốt hơn là năm đó gả cho Tề vương, để sau này lại xảy ra chuyện binh đao. Thượng Quan Linh cũng đánh giá qua người tỷ tỷ xa cách nhiều năm, vẻ kiêu ngạo thời trẻ đã mất đi, hiện rõ vẻ đằm thắm. Tỷ tỷ vốn đẹp hơn cô, giờ lại càng như vậy. Cô mỉm cười, nắm tay Thượng Quan Vân, nước mắt rưng rưng, chân thành nói: “Lần này tỷ tỷ trở về hãy ở lại luôn nhé. Ca ca đã khôi phục chức quan, sau này ba huynh muội chúng ta sẽ đoàn tụ có được không?”
Cô không ngờ Thượng Quan Vân lại chầm chậm rút tay về, nói khẽ nhưng cương quyết: “Duyên tới thì tụ, duyên hết thì tán. Hoàng hậu nương nương đừng cưỡng cầu khi duyên phận tỷ muội giữa chúng ta đã hết.”
A Kiều ở một bên nghe, nhướng mày cười nói, “Vân Nhi nói vậy dường như đã tham khảo Phật pháp rồi.” Thượng Quan Vân cúi đầu, ‘Đúng vậy. Những năm trước đây khi còn là thái tử thì bệ hạ đã từng đi sứ Thân Độc. Từ đó một tôn giáo của Thân Độc đã theo con đường giao thương giữa Đại Hán và Thân Độc mà lưu truyền sang Đại Hán. Sư phụ đã một lần được nghe thuyết giảng và cảm thấy rất hứng thú nên những năm qua vẫn thường đọc kinh Phật. Vân Nhi hầu hạ ở bên cạnh sư phụ, dĩ nhiên mưa mãi cũng thấm.”
Cô ngước lên trông thấy sắc mặt trang nghiêm của A Kiều, liền thôi không nói nữa mà nghe A Kiều niệm đều đều, “Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại[14] là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần[15] là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm mắt, thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai.”
[14] Tứ đại: Trong quan niệm nhà Phật, tứ đại để chỉ vật chất.
[15] Trong giáo lý nhà Phật có ba khái niệm cơ bản là lục căn, lục trần và lục thức. Lục căn là sáu giác quan của con người, lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần sẽ sinh ra lục thức. Nếu tâm không tĩnh thì cái thức chúng ta nhận được sẽ là ảo ảnh, hay chính là huyễn ảnh.
“Đây là Viên giác kinh mà sư phụ thường đọc. Thái hậu nương nương cũng học Phật Sao?” Cô hơi kinh ngạc nhưng thoáng cái đã hiểu, chuyện này xảy ra trước khi cô nhập môn và không liên quan gì đến cô cả.
Trần A Kiều nhớ lại năm Nguyên Quang thứ năm từ thời gian đó tới giờ sao thật xa xôi cứ giống như đã qua một kiếp người. Lúc đó Mạch Nhi và Tảo Tảo còn chưa ra đời, nàng vẫn chỉ là Nhạn Thanh. Ngày đó nàng nhìn sư phụ chằm chằm, cười khanh khách “Gặp sư phụ thì mới biết được cái gì là ‘Quân tử khiêm cung, sáng láng như ngọc’.”
“Thật không?” Hắn không tức giận, chỉ đáp vẻ cáu kỉnh, ngay cả cặp mày cũng không nhướng lên.
“Đúng vậy.” Nàng gật đầu như có thật, “Khi còn bé, mẫu thân từng đọc một đoạn kinh văn, con đọc cho sư phụ nghe: Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai….”
Những tháng ngày đó vui vẻ, trong trẻo như dòng suối mùa xuân. Nếu như, nếu như không phải xảy ra những chuyện sau đó mà cứ sống như vậy cũng là một loại hạnh phúc. Nhưng đời người nào có được bao nhiêu chữ “Nếu như” chứ? Nếu nói trong cuộc đời này, người có lỗi với nàng nhất là Lưu Triệt, vậy người mà nàng có lỗi nhất thì không thể nghi ngờ, chính là Tiêu Phương.
Nửa tháng sau đó, Lưu Mạch xử lý xong chính sự ở điện Tuyên Thất liền tới cung Trường Nhạc thỉnh an mẫu thân. Cung nhân nói cho hắn biết Thái hậu nương nương đã ra khỏi điện. Hắn thong thả bước trên hành lang cung Trường Nhạc, bỗng nhiên dừng lại, nhìn thấy mẫu thân và sư công đang ở cùng nhau tại sơn đình phía trước, cách nhau một khoảng không xa cũng không gần. Có một số người trên thế gian này, ngay cả tuổi già cũng không thể lấy đi vẻ đẹp của họ, ngược lại lắng đọng lên men qua năm tháng, ủ ra một vẻ đẹp thuần khiết. Mẫu thân và sư công, không thể nghi ngờ là hai người trong số đó.
Ngoài đình lất phất mấy cánh hoa hạnh, lẻ loi xoáy tròn trong không trung, Trần A Kiều bắt lấy một cánh, chầm chậm vo tròn, thở dài, nói: “Nếu như Nhạn Nhi chỉ đơn thuần là Nhạn Nhi, chắc sẽ lựa chọn ở lại bên cạnh sư phụ.” Chỉ tiếc rằng nàng không phải như vậy.
Tiêu Phương cảm giác một nỗi đau đớn dịu dàng dâng lên trong lòng, nhưng ông ôm mối tình câm nửa cuộc đời, có được một câu này cũng tốt. Ông không muốn nàng khó xử, hỏi, “Vậy kiếp sau con chỉ là Nhạn Nhi được không?
“Kiếp sau?” A Kiều nhìn ra xa, “Con vốn không tin kiếp sau, nhưng nếu thực sự có kiếp sau, con không thể hứa hẹn điều gì. Bởi vì con sợ rằng bản thân con ở kiếp sau sẽ tự oán hận mình. Nhưng”, nàng từ từ quay đầu lại, nhìn Tiêu Phương, chân thành nói, “kiếp sau, sư phụ có thể sớm tới tìm con.”
Nếu ông tới gặp nàng trước Lưu Triệt, biết đâu lại có một kết cục khác. Chẳng qua, nàng rất hoài nghi, một người có tính cách ngang tàng như Lưu Triệt chắc chắn sẽ không để xảy ra chuyện như vậy.
“Được rồi.” Tièu Phương gật đầu.
Lại qua mấy ngày, khí trời mát mẻ. Đám cung nhân đỡ Thái hậu nhẹ nhàng hỏi, “Người có muốn chuẩn bị ghế nằm ở ngoài điện không?”
“Không cần.” Nàng như có điều suy nghĩ lắc đầu, nói: “Ta muốn trở về xem lại điện Trường Môn.”
Cung nhân hơi kinh ngạc. Từ sau khi Vũ hoàng đế mất đi thì Trần thái hậu chưa bao giờ trở lại điện Trường Môn cả, chắc là sợ thấy cảnh nhớ người. Nhưng người các cô hầu hạ là người phụ nữ tôn quý nhất triều Đại Hán, dù cả bệ hạ đến đây cũng không phản đối nên quỳ gối đáp, “Dạ.”
Điện Trường Môn từ lâu không có người ở nhưng vẫn được quét dọn hết sức sạch sẽ. Trần A Kiều nhắm mắt cũng có thể chỉ ra sau chiếc án kia, Lưu Triệt đã từng ôm nàng cùng xem sách, sau tấm bình phong kia, nàng đã từng sửa lại áo mũ cho y, sau tấm màn trướng kia, bọn họ từng vô số lần hoan ái…
Triệt Nhi, thoáng một cái mà người đã rời xa thiếp hai năm rồi. Nàng cho là mình sẽ rơi lệ nhưng bây giờ lại rất bình tĩnh. Bình tĩnh nhìn chỗ ngồi này tràn ngập ký ức giữa y và nàng, vừa đau nhói vừa ngọt ngào.
Mai Phi thời nhà Đường đời sau có viết: “Trường Môn cứ tựa không người quét”[16]. Y dùng tình yêu của mình biến Trường Môn thành Trung cung vạn người kính ngưỡng không ai sánh bằng. Nếu thật sự còn có một Giang Thải Bình[17] đa tài đa nghệ thì nàng sẽ ra sao?
[16] Bài thơ của Mai Phi trả ngọc châu cho Đường Huyền tông khi không còn được sủng ái:
“Mày liễu không tô lâu lắm rồi
Son thừa nhuốm lệ ở bờ môi
Trường Môn cứ tựa không người quét
Há tặng trân châu để đãi bôi.”
[17] Giang Thải Bình chính là Mai Phi.
A Kiều bước ra khỏi Trường Môn, ngồi xuống tấm bồ đoàn mà cung nhân trải trên chiếc ghế đá bên ngoài điện. Nàng đã cao tuổi nên chỉ lát sau liền ngủ thiếp đi trong ánh nắng ấm áp. Không biết qua bao lâu, nàng bị nhẹ nhàng lay tỉnh, thấy một khuôn mặt quen thuộc với đôi mày sắc như lưỡi kiếm, đôi môi mỏng đang ở gần trong gang tấc, liền ngơ ngẩn gọi, “Triệt Nhi.”
“Mẫu thân”, Lưu Mạch nghe không rõ, gọi lần nữa. Nàng nhìn kỹ lại, than thở: “Là Mạch Nhi à!” Một cảm giác thất vọng mơ hồ dâng lên trong đầu nàng.
Hơn một tháng sau thì Trần thái hậu mất ở cung Trường Nhạc, thọ bảy mươi tuổi nhưng nhìn dung mạo như chưa đầy bốn mươi bốn. Các cung nữ như lệ thường định vào hầu hạ Thái hậu rửa mặt vẫn thấy Thái hậu có vẻ mặt tươi tắn, bờ môi còn hơi mỉm cười nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh dậy thì hoảng hốt, vội vàng đến điện Tuyên Thất bẩm báo với bệ hạ. Nhưng không ngờ bệ hạ có thần giao cách cảm với Thái hậu nên từ sớm đã có dự cảm không lành, chưa đợi cung nữ nói đã vội vã chạy tới cung Trường Nhạc, nhìn dung nhan Trần thái hậu, khóc lên thất thanh.
Trong cung tức thì tràn ngập tiếng khóc lóc khiến Tuyết Ô uốn mình nhảy xuống đất, mở to cặp mắt long lanh nhìn mọi người, không rõ hôm nay có chuyện gì mà đám người kia khóc lóc thống thiết như thế. Có lẽ là nó cũng đã hiểu, người phụ nữ quanh năm bế nó đã không còn ở trên cõi đời này nữa. Theo di chỉ của Vũ hoàng đế, Chiêu Đế chôn cất Trần A Kiều ở cùng chung tẩm với Vũ hoàng đế trong Mậu Lăng. Trong cung để tang ba tháng tưởng niệm Trần thái hậu.
Đến thời điểm hoa đào đua nở vào năm sau, Chiêu Đế tách khỏi mọi người, một mình một ngựa cưỡi Chu Ly tới Mậu Lăng, đứng trầm mặc tưởng niệm ở trước mộ cha mẹ. Cả cuộc đời này cha mẹ của hắn sống được ở bên nhau, khi chết cùng chôn chung huyệt là cặp phu thê ân ái hiếm có trong nhà đế vương. Mẫu thân, đây cũng là mong muốn trong lòng của người phải không? Hắn miên man suy nghĩ.
Hoa đào trong gió rơi lất phất xuống bên mộ trông như mưa máu lại tựa như những giọt nước mắt vừa rực rỡ yêu dị vừa long lanh mỹ lệ. Lưu Mạch khẽ mỉm cười, xoay người dắt Chu Ly rời khỏi khu lăng tẩm hoàng đế rồi lên ngựa, thét lớn: “Đi thôi!”
Chu Ly hí một tràng dài, tung vó phi nhanh về hướng cung Vị Ương, để lại phía sau một vùng trời hoa đào rực rỡ.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook