Khí Vận Quốc Gia
Chương 189

Hãy kể về thần Manu. Manu có nghĩa là « người » (Latin: Humanus, Anh: Human). Manu là con của đấng tối cao Brahma. Thần Brahma tự tách mình ra hai nửa đực, cái hoặc âm và dương. Hai nửa kết hợp nhau sinh ra Manu.

Manu làm ra bộ luật Manu, theo luật đó mà cai quản thế giới cổ sơ. Buổi sáng kia, Manu rửa tay trong dòng nước, bỗng thấy có con cá bơi tới, Manu bắt lấy – cá nói “Hãy nuôi ta rồi có ngày ta sẽ cứu sống người. Sắp đến ngày xảy ra nạn hồng thuỷ, lúc đó ta sẽ cứu người thoát chết “.

Manu bỏ cá nuôi trong chậu Cá lớn nhanh. Manu chuyển cá sang thùng, rồi sang hồ, từ hồ chuyển sang sông Hằng, từ đó ra biển, ca cứ lớn mãi. Theo lời cá, Manu đóng sẵn một con thuyền. Khi cơn lũ lụt xãy ra, Manu gọi cá và ngồi vào thuyền. Manu buộc thuyền vào mõm cá.

Cá đưa thuyền vượt qua dãy núi Himallaya đến ngọn núi cao nhất. Theo lời cá dặn, Manu buộc thuyền vào gốc cây, ngồi chờ nước rút. Sau khi nước rút, mặt đất trơ trọi, không một sinh vật nào sống sót. Manu thèm khát có đồng loại bèn cầu nguyện Brahma, một cô gái xuất hiện. Hai người ăn ở chung chạ, cùng lao động sinh sống và sinh hạ một đứa con trai.

Giống như Eros của Hi lạp, Cupidon của La mã, Kama là thần tình yêu Ấn Độ. Cuộc đời chàng là một trong những truyện thần thoại Ấn Độ hay nhất. Lúc đầu, Kama chỉ là một ý niệm về nguồn gốc vũ trụ và muôn loài. Người Ấn Độ cổ tin rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất là do sự phối hợp giữa giống đực (purusa) và giống cái (prakriti). Hai giống ấy có ở khắp nơi và luôn luôn tìm gặp nhau theo “ý muốn tự nhiên” – tức là Kama.

Đến người Arian, họ quan niệm Kama là sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống, làm phấn chấn và lôi cuốn muôn loài, muôn vật. Bộ kinh Rig Veda (vệ đà) có đoạn “Kama là mầm mống của lòng người, của trí tuệ, là sợi dây ràng buộc cái bản thể với cái không bản thể “.

Họ coi Kama là vị thần có tất cả trước mọi loài. Người đời luôn luôn ước mong Kama đến với mình. Trong buổi tế lễ, người cầu nguyện: “Hỡi Kama vị thần có mũi tên bắn trúng đích. Cánh tên là nỗi sầu muộn, lòng tên là mong mỏi, mũi tên là dục tình, mong thần hãy xuyên qua trái tim con”.

Kama được miêu tả như một chàng trai tuấn tú ngồi trên chiếc xe do chim vẹt kéo, cầm chiếc cung, cánh cung làm bằng cây mía uốn cong, dây cung làm bằng đàn ong mật kết cánh với nhau, mũi tên làm bằng hoa xoài mềm mại. Chàng có vợ là nàng Rati (có nghĩa là: say đắm) và bạn chàng là chúa xuân Vasanta, đi theo chàng còn có các chàng trai mục đồng Gandarva và các vũ nữ Apsara.

Thần Tình yêu được miêu tả như một biểu hiện độc đáo của nghệ thuật dân gian Ấn Độ. Thiên nhiên gắn liền với tình cảm con người. Kama trở thành nguồn trữ tình lai láng, đắm đuối của con người và là lực lượng đáng kể chống lại lối tu hành khổ hạnh. Các vị thần linh, giáo sĩ đạo Bà la môn và Hindu, kể cả chúa tể Brahma đã nhiều phen điêu đứng vì mũi tên của Kama.

Truyện kể rằng: “Taraka là con quỷ có uy lực ghê gớm khiến cả đấng tối cao Brahma cũng phải kính nể. Nó bắt thần Brahma truyền cho nó phép trường sinh bất tử. Từ khi có phép đó nó trở nên kiêu ngạo, khinh rẻ các thần linh. Các thần muốn tiêu diệt Taraka nhưng biết chắc rằng không có ai ngoài con trai của thần Silva sinh ra mới đủ sức tiêu diệt nó.

Nhưng khốn nỗi Siva theo chủ nghĩa khổ hạnh, không chịu lấy vợ. Các thần bàn cách làm sao cho Silva cưới Uma – con gái thần núi Himallahya. Kama nhận nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Chàng mang “vũ khí”, dẫn đoàn tuỳ tòng và nàng Uma lên đỉnh núi Kailasa, nơi thần Siva đang ngồi tu luyện.

Uma được trang điểm lộng lẫy, nàng tìm mọi cách khêu gợi dục tình của Silva, nhưng Silva không mảy may xao động, đôi mắt vẫn lim dim hướng về thượng đế. Chờ đến khi nàng Uma có sức quyến rũ và xinh đẹp tuyệt trần, Kama gương cung bắn thẳng mũi tên vào trái tim Silva. Thần Silva bàng hoàng, nhức nhối trái tim, vùng đứng dậy, quắc mắt tìm kiếm xem kẻ nào dám cả gan quấy rối.

Trông thấy Kama, thần mở to con mắt thứ ba trên trán, phun lửa hừng hực đốt cháy Kama thành tro. Nhưng trái tim Silva vẫn nhức nhối, ngọn lửa tình trong người cứ bừng cháy. Silva ẩn nấp vào bóng cây râm mát hòng dập tắt lửa tình. Vô hiệu, vì xung quanh có nhiều sơn nữ xinh đẹp đang nhìn Silva khiến cho ngọn lửa càng nóng hơn.

Thần chạy trốn xuống hồ nước, nước hồ lại càng sôi lên khi nàng Uma đứng trên bờ hồ chờ đón. Cuối cùng Silva nhảy lên bờ. Nàng Uma chạy tới ôm chặt lấy thần. Lúc ấy Silva mới cảm thấy lòng mình êm dịu. Thế là Siva lấy vợ và sinh con trai.

Sau khi thần Kama chết thế giới trở nên khô cằn, lạnh lẽo vì Thần tình yêu không còn nữa. Thần linh và loài người đều vô cùng lo sợ. Mọi người lập đàn tế lễ cầu xin Silva cải tử hoàn sinh cho Kama. Nàng Rati goá bụa, đau khổ tìm nàng Uma năn nỉ cầu xin Silva cho chồng sống lại. Silva đồng ý cho Kama sống lại nhưng phải chịu vô hình vô ảnh. Và Kama tồn tại mãi với muôn loài cho đến ngày nay.

Tết Holy vào dịp mùa xuân được coi là ngày giỗ thần tình yêu Kama. Tục truyền sau khi Kama chết. Người đời lấy tro xác Kama hoà vào nước, nước hoá ra màu đỏ tía. Từ đó người Ấn Độ xem màu đỏ tía là màu hạnh phúc.

Vào dịp tết Holy, nam nữ thanh niên dùng một thứ bột màu hoặc nước đỏ tía để xoa lên mặt hoặc vẩy lên quần áo, chúc nhau hạnh phúc. Cô gái nào đã có chồng thì chấm một chấm đỏ giữa trán, ghi nhận mình đã có hạnh phúc (nhưng ngày nay thì bất kỳ cô gái nào cũng có thể chấm đỏ nếu thích). Thanh niên tổ chức nhảy múa, hát ca ngợi Kama và ca ngợi những mối tình chung thuỷ của chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita, mối tình của chàng Krisna và Rada.

Trong đoàn tuỳ tòng của Kama, còn có các chàng trai thiên thần mục đồng Gandarva. Đó chính là hình ảnh thực của những thanh niên thổ dân ở miền Bắc Ấn Độ nơi có phong cảnh hữu tình, có nhiều rượu ngọt, thích ca hát nhảy múa – họ sống tự do, chuyên đi tìm bạn gái và kết hôn tự do không theo phép tắc của gia đình và xã hội. Lối kết hôn đặc biệt đó gọi là tục Gandarva, về sau nhà nước nô lệ và phong kiến chỉ dành riêng tục kết hôn Gandarva cho vua chúa.

Các vũ nữ Apsara: apsara có nghĩa là “lượn trong nước”. Hình tượng này giống như nữ thần Nymph trong thần thoại HiLạp, Lamã. Hoặc giống các tiên nữ trong thần thoại Trung Quốc và Việt Nam. Apsara thường sống trong nước, thích bơi lội múa hát, có hình dáng rất đẹp. Các cô thường bị các chàng trai Gandarva trêu ghẹo, thu trộm quần áo khi các cô đang tắm dưới sông hồ. Apsara được coi là thần múa và thần khêu gợi dục tình.

Hình ảnh và điệu múa Hoan Lạc của Apsara phổ biến rộng khắp vùng Đông Nam Á. Ở Trung Quốc có điệu múa “Nghê thường vũ y khúc” bắt nguồn từ điệu múa Apsara. Có người cho rằng các động tác múa chèo Đông Lào cũng có thể bắt nguồn từ Apsara.

Trong hệ thống thần tinh thần, tình cảm, còn có Yama (thần Chết) cũng là một vị thần quan trọng, nhiều quyền lực.

Đạo Bà La Môn còn có tên là Hin đu giáo, sau này đổi tên thành Ấn Độ Giáo với hệ thống bộ ba thần tối cao Brahma – Vishnu – Silva (gọi chung là : Trimuty)

Brahma là đấng tối cao của thần thoại Bà La Môn. Có nhiều nguồn gốc khác nhau đẻ ra thần Brahma. Brahma là thuỷ tổ của văn học – nghệ thuật, kiến trúc hội hoạ ca múa nhạc và ban phát tri thức cho nhân loại.

Brahma được miêu tả có 4 cánh tay, tay thứ nhất cầm pho sách Veda, tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cung, tay thứ tư cầm bình nước. Đó là người có bốn đầu, cưỡi một con thiên nga.

“Vishnu” do từ gốc là “wish” có nghĩa là tràn lan, thâm nhập. Visnu là thần bảo vệ. Ngài có tới 24 hình ảnh và hàng chục kiếp hoá thân khác nhau. Hai hình ảnh thông thường nhất là Visnu nằm nghỉ trên mình con rắn thần Sesa bồng bềnh trên mặt biển Ananta vô biên, hoặc Visnu đứng thẳng, 4 tay nắm gữi 4 vật: vỏ ốc, dĩa tròn, bông sen và cây chuỳ.

Thần tích Visnu rất nhiều, đó là những kiếp hoá thân của ngài thường kể về 10 kiếp hoá thân: 5 kiếp vật cá, rùa, lợn, sư tử và ngựa, và 5 kiếp người: người lùn, dũng sĩ Parasurama, hoàng tử Rama, anh hùng Krisna và đức Phật Budda.

Silva có nghĩa là tốt lành. Nhưng tính cách thần lại giống như thần Rudra (Bão táp) Indra (Sấm sét), Marut (Giông tố). Thần Sliva vừa ác vừa thiện, có khi gây nỗi lo sợ cho con người, lúc khác đem lại niềm vui. Thần có nhiệm vụ phá huỷ và tiêu diệt vạn vật, sinh linh nhưng sau đó lại hồi phục sự sống và sức khoẻ cho muôn loài.

Hình tượng Siva được miêu tả: da trắng, tượng trương cho bản chất tinh khiết, ba con mắt chỉ mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian, có thể nhìn thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc rối tượng trưng thần gió, sông Hằng chảy từ mái tóc xuống. Ngài có 4 cánh tay tượng trưng 4 phương trời, thể hiện chức năng thống trị.

Một tay cầm cây chĩa ba thể hiện ba chức năng: sáng tạo, huỷ diệt và bảo vệ. Một tay cầm rìu biểu hiện sức mạnh tuyệt đối, một tay ra hiệu xua đuổi sự sợ hãi và một tay ban phước lành. Thuộc tính triết học của Silva là phá huỷ nên thần được đồng nhất với thần thời gian và thần chết.

Một hình tượng khác của Silva cũng khá quen thuộc. Silva đứng một chân theo điệu múa Tandarva (vũ trụ đại hoà điệu). Chân phải đạp trên một người lùn, chân trái nâng cao và chéo sang phải. Silva có 4 cánh tay, tay phải cầm trống, tay trái cầm ngon lửa, tay phải dưới xoè ra và chĩa lên trời biểu thị một ấn quyết, tay trái dưới đưa chéo qua phải và bàn tay chĩa xuống đất. Người ta hiểu hình tượng Silva như sau:

Tiếng trống gióng lên, gọi con người trở về với tâm linh, ngon lửa là tri thức diệt trừ u tối, dấu ấn quyết là quyền lực tuyệt đối, chân đè lên người lùn chứng tỏ sức mạnh Silva chế ngự được tội lỗi. Một con rắn quấn quanh mình Siva tượng trưng cho tri thức nội tại. Mái tóc tượng trưng sức mạnh và các thứ trang sức trên tóc là biểu thị các đức tính cao quí.

Ba vị thần tối cao được hiểu là ba thuộc tính của một quá trình luân hồi. Sáng tạo – bảo vệ – huỷ diệt diễn ra như một chu kỳ liên tục. Người ta đã nhất thể hoá vị thần thành một bức tượng một đầu 3 mặt. Hình tượng đó là kết quả của sự hoà hợp các giáo phái và trở thành truyền thống đấu tranh cho sự hoà bình hoà hợp giữa các dân tộc.

-------

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương