Khi Lỗi Thuộc Về Những Vì Sao
-
Chương 15
Vài ngày sau, tại nhà anh Gus, mọi người gồm ba mẹ anh, Ba Mẹ tôi, anh Gus và tôi ngồi chen chúc quanh bàn ăn, thưởng thức món ớt nhồi trên một tấm khăn trải bàn mà theo lời ba Gus, thì lần cuối cùng nó được sử dụng là từ thế kỷ trước.
Ba tôi: “Emily, món cơm Ý này…”
Mẹ tôi: “Thật là ngon.”
Mẹ anh Gus: “Ồ, cảm ơn anh chị. Tôi rất sẵn lòng chỉ chị cách làm món này.”
Anh Gus, nuốt một miếng: “Thật ra con thấy mùi vị chính không giống như ở Oranjee.”
Tôi: “Vị giác anh tốt lắm, Gus. Đúng là món này dù ngon nhưng không giống hương vị ở Oranjee.”
Mẹ tôi: “Kìa Hazel,”
Anh Gus: “Nó có vị như thể…”
Tôi: “Đồ ăn hàng ngày.”
Anh Gus: “Đúng, chính xác. Món này có vị giống như đồ ăn hàng ngày được mẹ chuẩn bị công phu. Nhưng nó không có hương vị, chà, làm sao để con diễn đạt một cách khéo léo nhỉ…?”
Tôi: “Nó không giống hương vị mà chính Đấng Tối Cao vào bếp và đem thiên đường chế biến thành một loạt năm món ngũ vị rồi sau đó mang ra phục vụ chúng ta, kèm theo chùm bóng plasma sáng chói, trong khung cảnh những cánh hoa lững lờ trôi bên dưới con kênh ngay cạnh bàn chúng ta.”
Anh Gus: “Nói hay lắm!”
Ba anh Gus: “Mấy đứa con của chúng ta lạ quá.”
Ba tôi: “Nói hay lắm!”
Một tuần sau bữa tối sum vầy đó, anh Gus phải vào Cấp cứu vì chứng đau ngực, và bác sĩ đã giữ anh lại suốt đêm. Sáng hôm sau tôi lái xe qua Bệnh viện Memorial thăm anh đang nằm trên tầng bốn. Tôi đã không có bất kỳ bức tường nào có màu sơn lòe loẹt hay những bức tranh vẽ hình cún con lái xe ô-tô giống một bức đang treo ở Bệnh viện Nhi đồng, sự vô trùng tuyệt đối ở bên này khiến tôi thấy luyến tiếc niềm hạnh phúc kiểu con nít rất nhảm nhí ở Bệnh viện Nhi đồng. Bệnh viện Memorial thiên về chức năng chữa trị hơn. Nó như một cơ sở lưu trữ. Một cơ sở phòng bệnh.
Khi cửa thang máy mở ra ở tầng bốn, tôi thấy mẹ anh Gus đang đi đi lại lại trong phòng chờ, nghe điện thoại di động. Bà nhanh chóng cúp máy, quay qua ôm tôi và đưa tay đỡ lấy giá ô-xy của tôi.
“Dạ được rồi ạ,” tôi nói. “Anh Gus sao rồi bác?”
“Thằng bé đã trải qua một đêm khó khăn, Hazel à,” mẹ anh nói. “Tim nó làm việc quá sức nên cần ít vận động lại. Từ đây đến khi ra viện sẽ phải dùng xe lăn. Bệnh viện đang cho thằng bé thử một số loại thuốc mới để giảm đau tốt hơn. Các chị nó vừa vào thăm.”
“Dạ,” tôi đáp lời. “Thế cháu vào thăm có được không?”
Bà choàng tay ôm tôi và siết chặt vai tôi, một hành động khiến tôi lấy làm lạ. “Cháu biết rằng gia đình bác rất quý cháu mà Hazel. Nhưng thời điểm này các bác chỉ muốn người trong gia đình thôi. Gus đồng ý như vậy. Được không cháu?”
“Dạ được rồi,” tôi trả lời.
“Bác sẽ nói với Gus là cháu có ghé thăm.”
“Dạ được rồi,” tôi nói. “Cháu chỉ ngồi đây đọc báo một lát thôi.”
Bà đi dọc hành lang, quay lại phòng anh. Tôi hiểu, nhưng tôi vẫn nhớ anh. Tôi cứ nghĩ có lẽ mình đã bỏ lỡ cơ hội cuối cùng để gặp anh, nói lời tạm biệt hay gì đó. Phòng chờ trải toàn thảm màu nâu và tất cả ghế cũng bọc vải màu nâu. Tôi ngồi lẻ loi trên chiếc ghế đôi trong một lúc, giá ô-xy kẹp giữa hai chân. Tôi mang đôi giày Chuck Taylor và mặc chiếc áo Ceci n’est pas une pipe, đúng bộ trang phục tôi đã diện hai tuần trước đó, vào Buổi Chiều Muộn của Biểu Đồ Venn, và anh sẽ không được nhìn thấy nó. Tôi lấy điện thoại di động ra và vào thư viện ảnh xem lại những bức hình đã chụp, giống như một đoạn phim chiếu chậm quay ngược lại khoảng thời gian vài tháng vừa qua, bắt đầu bằng hình anh và anh Isaac ‘quậy’ ở trước cả nhà chị Monica và kết thúc là tấm hình đầu tiên tôi chụp anh trên đường đến xem Bộ Xương Tân Thời. Cảm giác giống như đã từ rất lâu rồi vậy, cứ như chúng tôi đã có những giây phút ngắn ngủi bên nhau nhưng kéo dài vô tận. Có những dãy vô tận dài hơn những dãy vô tận khác.
Hai tuần sau, tôi đẩy xe anh Gus băng qua công viên nghệ thuật về hướng Bộ Xương Tân Thời trong khi anh ôm một chai sâm-banh đắt tiền và bình ô-xy của tôi trong lòng. Chai rượu này anh Gus được một trong những bác sĩ điều trị tặng – anh Gus thuộc tuýp người dễ dụ dỗ các bác sĩ tặng rượu sâm-banh cho trẻ em. Chúng tôi ngồi đó, anh Gus trên xe lăn còn tôi trên bãi cỏ ẩm ướt, ở cự li gần nhất có thể để chúng tôi nhìn trọn vẹn tác phẩm Bộ Xương Tân Thời. Tôi chỉ vào những đứa trẻ đang tranh nhau nhảy từ ngực lên vai của bộ xương và anh Gus đáp khẽ chỉ vừa đủ cho tôi nghe trong tiếng trẻ con chơi đùa ầm ĩ, “Lần trước khi đến đây, anh thấy mình như một đứa trẻ. Lần này thì giống bộ xương.”
Chúng tôi uống rượu bằng cốc giấy in hình Winnie-the-Pooh.
Ba tôi: “Emily, món cơm Ý này…”
Mẹ tôi: “Thật là ngon.”
Mẹ anh Gus: “Ồ, cảm ơn anh chị. Tôi rất sẵn lòng chỉ chị cách làm món này.”
Anh Gus, nuốt một miếng: “Thật ra con thấy mùi vị chính không giống như ở Oranjee.”
Tôi: “Vị giác anh tốt lắm, Gus. Đúng là món này dù ngon nhưng không giống hương vị ở Oranjee.”
Mẹ tôi: “Kìa Hazel,”
Anh Gus: “Nó có vị như thể…”
Tôi: “Đồ ăn hàng ngày.”
Anh Gus: “Đúng, chính xác. Món này có vị giống như đồ ăn hàng ngày được mẹ chuẩn bị công phu. Nhưng nó không có hương vị, chà, làm sao để con diễn đạt một cách khéo léo nhỉ…?”
Tôi: “Nó không giống hương vị mà chính Đấng Tối Cao vào bếp và đem thiên đường chế biến thành một loạt năm món ngũ vị rồi sau đó mang ra phục vụ chúng ta, kèm theo chùm bóng plasma sáng chói, trong khung cảnh những cánh hoa lững lờ trôi bên dưới con kênh ngay cạnh bàn chúng ta.”
Anh Gus: “Nói hay lắm!”
Ba anh Gus: “Mấy đứa con của chúng ta lạ quá.”
Ba tôi: “Nói hay lắm!”
Một tuần sau bữa tối sum vầy đó, anh Gus phải vào Cấp cứu vì chứng đau ngực, và bác sĩ đã giữ anh lại suốt đêm. Sáng hôm sau tôi lái xe qua Bệnh viện Memorial thăm anh đang nằm trên tầng bốn. Tôi đã không có bất kỳ bức tường nào có màu sơn lòe loẹt hay những bức tranh vẽ hình cún con lái xe ô-tô giống một bức đang treo ở Bệnh viện Nhi đồng, sự vô trùng tuyệt đối ở bên này khiến tôi thấy luyến tiếc niềm hạnh phúc kiểu con nít rất nhảm nhí ở Bệnh viện Nhi đồng. Bệnh viện Memorial thiên về chức năng chữa trị hơn. Nó như một cơ sở lưu trữ. Một cơ sở phòng bệnh.
Khi cửa thang máy mở ra ở tầng bốn, tôi thấy mẹ anh Gus đang đi đi lại lại trong phòng chờ, nghe điện thoại di động. Bà nhanh chóng cúp máy, quay qua ôm tôi và đưa tay đỡ lấy giá ô-xy của tôi.
“Dạ được rồi ạ,” tôi nói. “Anh Gus sao rồi bác?”
“Thằng bé đã trải qua một đêm khó khăn, Hazel à,” mẹ anh nói. “Tim nó làm việc quá sức nên cần ít vận động lại. Từ đây đến khi ra viện sẽ phải dùng xe lăn. Bệnh viện đang cho thằng bé thử một số loại thuốc mới để giảm đau tốt hơn. Các chị nó vừa vào thăm.”
“Dạ,” tôi đáp lời. “Thế cháu vào thăm có được không?”
Bà choàng tay ôm tôi và siết chặt vai tôi, một hành động khiến tôi lấy làm lạ. “Cháu biết rằng gia đình bác rất quý cháu mà Hazel. Nhưng thời điểm này các bác chỉ muốn người trong gia đình thôi. Gus đồng ý như vậy. Được không cháu?”
“Dạ được rồi,” tôi trả lời.
“Bác sẽ nói với Gus là cháu có ghé thăm.”
“Dạ được rồi,” tôi nói. “Cháu chỉ ngồi đây đọc báo một lát thôi.”
Bà đi dọc hành lang, quay lại phòng anh. Tôi hiểu, nhưng tôi vẫn nhớ anh. Tôi cứ nghĩ có lẽ mình đã bỏ lỡ cơ hội cuối cùng để gặp anh, nói lời tạm biệt hay gì đó. Phòng chờ trải toàn thảm màu nâu và tất cả ghế cũng bọc vải màu nâu. Tôi ngồi lẻ loi trên chiếc ghế đôi trong một lúc, giá ô-xy kẹp giữa hai chân. Tôi mang đôi giày Chuck Taylor và mặc chiếc áo Ceci n’est pas une pipe, đúng bộ trang phục tôi đã diện hai tuần trước đó, vào Buổi Chiều Muộn của Biểu Đồ Venn, và anh sẽ không được nhìn thấy nó. Tôi lấy điện thoại di động ra và vào thư viện ảnh xem lại những bức hình đã chụp, giống như một đoạn phim chiếu chậm quay ngược lại khoảng thời gian vài tháng vừa qua, bắt đầu bằng hình anh và anh Isaac ‘quậy’ ở trước cả nhà chị Monica và kết thúc là tấm hình đầu tiên tôi chụp anh trên đường đến xem Bộ Xương Tân Thời. Cảm giác giống như đã từ rất lâu rồi vậy, cứ như chúng tôi đã có những giây phút ngắn ngủi bên nhau nhưng kéo dài vô tận. Có những dãy vô tận dài hơn những dãy vô tận khác.
Hai tuần sau, tôi đẩy xe anh Gus băng qua công viên nghệ thuật về hướng Bộ Xương Tân Thời trong khi anh ôm một chai sâm-banh đắt tiền và bình ô-xy của tôi trong lòng. Chai rượu này anh Gus được một trong những bác sĩ điều trị tặng – anh Gus thuộc tuýp người dễ dụ dỗ các bác sĩ tặng rượu sâm-banh cho trẻ em. Chúng tôi ngồi đó, anh Gus trên xe lăn còn tôi trên bãi cỏ ẩm ướt, ở cự li gần nhất có thể để chúng tôi nhìn trọn vẹn tác phẩm Bộ Xương Tân Thời. Tôi chỉ vào những đứa trẻ đang tranh nhau nhảy từ ngực lên vai của bộ xương và anh Gus đáp khẽ chỉ vừa đủ cho tôi nghe trong tiếng trẻ con chơi đùa ầm ĩ, “Lần trước khi đến đây, anh thấy mình như một đứa trẻ. Lần này thì giống bộ xương.”
Chúng tôi uống rượu bằng cốc giấy in hình Winnie-the-Pooh.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook