Kẻ Mạo Danh
-
Chương 56
“Cây hổ trượng Nhật Bản?”
“Vâng, chúng tôi tin rằng cây hổ trượng Nhật Bản là câu trả lời,” Bresson nói. “Mặc dù tôi phải nói rằng chúng tôi rất bối rối về câu hỏi được đưa ra.”
Danny không định giải thích gì thêm, vì anh mới vừa học được cần làm sao để đối phó với người Thụy Sĩ theo đúng cách của họ. “Vậy tại sao đó lại là câu trả lời?” anh hỏi.
“Nếu người ta phát hiện ra loài cây này tại mặt bằng của một dự án xây dựng, điều đó có thể làm chậm lại việc cấp giấy phép cho kế hoạch xây dựng ít nhất một năm. Một khi loài cây này bị phát hiện, cần phải mời chuyên gia tới để loại bỏ triệt để chúng, và quá trình xây dựng chỉ có thể bắt đầu khi ủy ban sức khỏe và an toàn địa phương xác nhận địa điểm đó đã đạt yêu cầu của những kiểm tra cần thiết.”
“Vậy làm thế nào để loại bỏ cây hổ trượng Nhật Bản?”
“Một công ty chuyên trách sẽ tới và đốt sạch toàn bộ khu vực. Sau đó ông cần phải đợi thêm ba tháng nữa để đảm bảo không còn lại dù chỉ một mẩu rễ của loài cây đó trước khi xin lại giấy phép.”
“Việc đó chắc là không rẻ.”
“Chắc chắn là không hề rẻ với vị chủ sở hữu khu đất. Chúng tôi đã gặp qua một vụ điển hình về chuyện này xảy ra tại Liverpool,” Segat nói thêm. “Hội đồng thành phố phát hiện ra cây hổ trượng Nhật Bản ở một khu đất rộng ba mươi mẫu đã được cấp phép lập kế hoạch xây dựng chừng một trăm căn nhà ở xã hội. Họ đã mất hơn một năm để loại bỏ chúng với phí tổn hơn ba trăm nghìn bảng. Cuối cùng, khi những ngôi nhà được xây xong, người chủ dự án phải may lắm mới hòa vốn.”
“Tại sao thứ cây đó lại nguy hiểm đến vậy?” Danny hỏi.
“Nếu ông không tận diệt chúng,” Bresson nói, “rễ của nó sẽ ăn sâu vào nền móng của bất cứ công trình xây dựng nào, kể cả bê tông cốt thép, và mười năm sau, không một dấu hiệu báo trước, toàn bộ công trình đổ sập xuống, để lại cho ông một hóa đơn thanh toán bảo hiểm đủ để làm hầu hết các công ty phá sản. Tại Osaka, cây hổ trượng Nhật Bản đã phá hủy hoàn toàn cả một khối nhà chung cư, và đó chính là nguồn gốc cho cái tên của nó.”
“Vậy làm cách nào tôi có thể tìm được vài cây này?” Danny hỏi.
“À, tất nhiên ông không thể tìm thấy chúng trên giá của trung tâm bán cây cảnh và đồ làm vườn gần nhà mình đâu,” Bresson nói. “Tuy nhiên, tôi cho rằng bất cứ công ty nào chuyên làm công việc tiêu diệt chúng cũng có thể chỉ cho ông đi đúng hướng.” Bresson ngừng lại giây lát. “Tất nhiên trồng chúng lên đất của người khác là bất hợp pháp,” ông ta nói, mắt nhìn thẳng vào Danny.
“Nhưng trên đất của chính ông thì không,” Danny đáp, câu trả lời làm cả hai nhà ngân hàng im lặng. “Các vị đã có được giải pháp nào cho vấn đề còn lại của tôi chưa?”
Segal là người lên tiếng trả lời. “Một lần nữa, yêu cầu của ông nói khiêm tốn ra cũng là bất bình thường, và chắc chắn được xếp vào hạng nguy cơ cao. Tuy nhiên, người của tôi cho rằng họ có thể tìm ra một đám đất ở khu đông London đáp ứng được tất cả những criterion(1) ông đưa ra.” Danny nhớ lại Nick đã có lần chỉnh anh về cách dùng đúng của từ criteria, nhưng quyết định sẽ không lên lớp Segat. “London, như ông hẳn cũng biết rõ,” Segat nói tiếp, “đang chạy đua đăng cai Olympic 2012, trong đó phần lớn các hoạt động quan trọng đều dự kiến diễn ra tại Stratford tại vùng khu đông London. Mặc dù vẫn chưa rõ việc chạy đua này có thành công hay không, nó đã tạo ra một thị trường đầu cơ quy mô lớn dành cho các địa điểm nằm ở khu vực đó. Trong số các địa điểm mà Ủy ban Olympic hiện đang cân nhắc đến có một nơi dành cho việc xây dựng sân đua xe đạp, nơi sẽ tổ chức toàn bộ các bộ môn thi đấu xe đạp trong nhà. Các mối liên hệ của tôi cho biết có sáu địa điểm tiềm năng nhất đã được xác định, trong đó chỉ có hai địa điểm có triển vọng được đưa vào danh sách cân nhắc cuối cùng. Ông đang ở vào một vị thế rất may mắn, có khả năng mua cả hai địa điểm đó, và mặc dù ban đầu chắc hẳn ông cần phải trả một khoản khá nặng, song vẫn có triển vọng thu về một khoản lợi nhuận không tồi.”
“Khoản trả ban đầu đó nặng đến mức nào?” Danny hỏi.
“Chúng tôi đã định giá hai địa điểm đó,” Bresson nói, “vào khoảng một triệu bảng cho mỗi địa điểm, nhưng cả hai chủ sở hữu hiện tại đều đang đòi một triệu rưỡi. Nhưng nếu như cả hai địa điểm đó đều lọt vào danh sách cân nhắc cuối cùng, rất có thể cuối cùng chúng sẽ có giá lên tới sáu triệu. Và nếu rốt cuộc một trong hai địa điểm trở thành nơi được chọn, con số đó còn có khả năng tăng gấp đôi.”
“Nhưng nếu không,” Danny nói, “tôi sẽ phải chịu lỗ ba triệu.” Anh ngừng lại. “Tôi sẽ phải cân nhắc rất kỹ lưỡng về báo cáo của các ông trước khi sẵn sàng mạo hiểm một khoản tiền như vậy.”
“Ông sẽ chỉ có một tháng để quyết định,” Bresson nói, “bởi vì đến lúc đó danh sách cân nhắc cuối cùng sẽ được công bố. Nếu cả hai địa điểm đều nằm trong danh sách, chắc chắn ông không thể có được chúng với giá đó nữa.”
“Ông sẽ tìm thấy mọi tư liệu cần thiết để giúp ông ra quyết định trong đây,” Segat nói thêm, đưa cho Danny hai cặp tài liệu.
“Cảm ơn các ông,” Danny nói. “Tôi sẽ cho các ông biết quyết định của mình vào cuối tuần này.” Segat gật đầu. “Bây giờ, tôi muốn biết tình hình mới nhất về tiến triển của cuộc thương lượng các ông tiến hành với Tower Hamlets về địa điểm gara Wilson ở đường Mile End.”
“Luật sư của chúng tôi tại London đã gặp Chủ tịch ủy ban kế hoạch của Hội đồng địa phương tuần trước,” Segat nói, “nhằm cố tìm ra xem những gì ủy ban của ông ta sẽ coi là chấp nhận được trong trường hợp ông nộp đơn xin giấy phép xây dựng. Hội đồng địa phương đã luôn dự kiến xây dựng một khu chung cư giá rẻ tại khu đất đó, nhưng họ chấp nhận thực tế bất cứ nhà thầu nào cũng phải kiếm được lãi. Họ đã đi tới một đề xuất nêu rõ nếu có bảy mươi căn hộ được xây lên ở khu đất đó, một phần ba trong số này bắt buộc phải thuộc hạng nhà ở giá rẻ.”
“Về mặt toán học điều này là không thể,” Danny nói.
Lần đầu tiên từ đầu cuộc gặp Segat mỉm cười. “Chúng tôi đã không nghĩ sẽ là khôn ngoan khi chỉ ra rằng đáng lẽ ra phải là sáu mươi chín hay bảy mươi hai căn hộ, như thế chúng ta sẽ còn chỗ để điều đình. Tuy nhiên, nếu chúng ta đồng ý về nguyên tắc với đề xuất của họ, họ sẽ bán cho chúng ta lô đất với giá bốn trăm nghìn bảng, đồng thời cấp giấy phép xây dựng ngay. Trên cơ sở đó, chúng tôi khuyên ông nên chấp nhận mức giá họ đưa ra, nhưng cố gắng thuyết phục Hội đồng chấp nhận để ông xây chín mươi căn hộ. Ông chủ tịch ủy ban kế hoạch nghĩ việc này có thể gây ra tranh cãi khá gay gắt tại văn phòng Hội đồng, nhưng nếu chúng ta chịu nâng mức giá mua lên, thành năm trăm nghìn chẳng hạn, ông ta sẽ tìm ra cách để ủng hộ đề xuất của chúng ta.”
“Nếu đề xuất này được Hội đồng thông qua,” Bresson nói, “ông sẽ sở hữu toàn bộ khu vực mà chỉ mất trên một triệu bảng.”
“Nếu chúng ta làm được điều đó, các ông có đề xuất gì cho bước tiếp theo tôi nên thực hiện không?”
“Ông có hai lựa chọn,” Bresson nói. “Ông có thể bán cho một nhà thầu, hay tự mình xây dựng và quản lý dự án đó.”
“Tôi không hề có hứng thú với việc bỏ ra ba năm tiếp theo ở một công trường xây dựng,” Danny nói. “Trong trường hợp đó, sau khi chúng ta đã thỏa thuận được các điều kiện giao dịch và có được giấy phép xây dựng tạm thời, hãy bán lại cho ai trả giá cao nhất.”
“Tôi nhất trí rằng đó là giải pháp sáng suốt hơn cả,” Segat nói. “Và tôi tin tưởng ông sẽ thu về vẫn tăng gấp đôi lượng đầu tư của mình trong một thời gian ngắn.”
“Các ông đã làm rất tốt,” Danny nói.
“Chúng ta đã không thể tiến hành chóng vánh đến thế,” Segat nói, “nếu không nhờ đến hiểu biết của ông về khu đất đó cũng như tiền sử của nó.”
Danny không hề phản ứng lại câu thăm dò. “Cuối cùng, có lẽ các ông có thể cho tôi biết tình hình tài chính hiện tại của mình.”
“Tất nhiên rồi,” Bresson nói, lấy một tập tài liệu nữa từ trong cặp ra. “Chúng tôi đã sát nhập hai tài khoản của ông làm một theo đúng yêu cầu và thành lập ba công ty thương mại, không công ty nào đứng tên ông. Tài khoản cá nhân của ông hiện có số dư năm mươi lăm triệu ba trăm bảy mươi ba nghìn tám trăm bảy mươi mốt đô la, hơi giảm đi so với ba tháng trước đây. Tuy nhiên, ông đã thực hiện một số hoạt động đầu tư trong thời gian đó, những hoạt động này chắc chắn cuối cùng sẽ đem lại một khoản thu nhập đáng kể. Chúng tôi cũng đã mua, nhân danh ông, một số cổ phần mà ông đã lựa chọn trong cuộc gặp trước của chúng ta, thực hiện một khoản đầu tư hơn hai triệu bảng nữa - ông sẽ tìm thấy các chi tiết ở trang chín của tập tài liệu màu lục. Cũng như vậy, theo chỉ thị của ông, chúng tôi đã chuyển mọi khoản dư ra vào các định chế được xếp loại AAA trên thị trường tiền tệ cho vay qua đêm, những khoản này hiện đem lại một lợi tức hàng năm xấp xỉ mười một phần trăm.”
Danny quyết định không bình phẩm về sự khác biệt giữa mức lãi suất 2,75 phần trăm ngân hàng đã đề xuất ban đầu và mức 11 phần trăm hiện anh đang có được. “Cảm ơn các ông,” anh nói. “Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại sau một tháng nữa.” Segat và Bresson gật đầu và thu dọn các tập tài liệu của họ. Danny đứng dậy và đưa họ ra cửa trước, biết rõ không ai trong hai nhà ngân hàng này có nhu cầu chuyện vãn.
“Tôi sẽ liên lạc lại,” anh nói, “ngay khi tôi có quyết định về hai địa điểm Olympic kia.”
Sau khi hai người khách đã đi khỏi, Danny đi lên gác, vào phòng làm việc, lấy cặp tài liệu về Gerald Payne ra khỏi giá đặt lên bàn làm việc và dành phần còn lại của buổi sáng để bổ sung tất cả các chi tiết có thể giúp ích cho kế hoạch của anh nhằm hủy diệt gã. Nếu anh muốn mua hai địa điểm kia, vậy thì anh sẽ cần phải gặp Payne mặt đối mặt. Không biết gã đã bao giờ nghe nói đến cây hổ trượng Nhật Bản chưa?
***
Có phải những người làm cha làm mẹ lúc nào cũng đặt nhiều tham vọng vào những đứa con của mình hơn vào chính bản thân họ hay không, Beth thầm tự hỏi trong khi bước vào phòng làm việc của cô hiệu trưởng.
Cô Sutherland đứng dậy từ sau bàn làm việc, bước tới bắt tay Beth. Cô hiệu trưởng không hề mỉm cười khi mời nàng ngồi xuống một chiếc ghế, sau đó đọc lại tờ đơn xin đăng ký học. Beth cố không để lộ ra nàng đang lo lắng đến mức nào.
“Vậy tôi cần phải hiểu, cô Wilson,” cô hiệu trưởng nói, nhấn mạnh vào từ cô, “rằng cô hy vọng con gái mình được vào học lớp mẫu giáo của chúng tôi tại St Veronica vào học kỳ tới?”
“Vâng, đúng vậy,” Beth trả lời. “Tôi nghĩ Christy sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ sự dạy dỗ mà ngôi trường của cô đem đến.”
“Không nghi ngờ gì nữa, con gái cô rất tiến bộ so với lứa tuổi của cháu,” cô Sutherland nói, trong khi xem xét hồ sơ xin học của cô bé. “Tuy nhiên, có một điều mà tôi chắc cô sẽ thông cảm, trước khi cháu được nhận vào học tại St Veronica, còn những khía cạnh khác mà tôi cần phải cân nhắc.”
“Tất nhiên rồi,” Beth nói, thầm lo sợ điều tồi tệ nhất.
“Chẳng hạn, tôi không thấy đề cập gì đến bố của cháu trong đơn xin học.”
“Không,” Beth nói. “Bố cháu đã mất năm ngoái.”
“Tôi rất tiếc phải biết điều này,” cô Sutherland nói, giọng chẳng hề có chút đồng cảm. “Tôi có thể biết nguyên nhân cái chết được không?”
Beth do dự, như nàng luôn cảm thấy mỗi khi phải nói ra những từ đó.”Anh ấy tự sát.”
“Tôi hiểu rồi,” cô hiệu trưởng nói. “Lúc đó cô đã thành hôn với bố của cháu bé chưa?”
“Chưa,” Beth thừa nhận. “Chúng tôi đã đính hôn.”
“Tôi rất xin lỗi phải hỏi câu này, cô Wilson, nhưng vị hôn phu của cô đã chết trong hoàn cảnh nào?”
“Lúc đó anh ấy đang ở trong tù,” Beth khẽ trả lời.
“Tôi hiểu rồi,” cô Sutherland nói. “Tôi có thể biết hôn phu của cô đã bị kết án về tội danh gì không?”
“Giết người,” Beth nói, lúc này nàng hiểu rõ cô Sutherland đã biết trước câu trả lời cho mọi câu hỏi của mình.
“Cô Wilson, tôi chắc cô cũng biết, với nhà thờ Thiên chúa, cả tự sát và giết người đều là tội trọng,” Beth không nói gì. “Tôi cũng cảm thấy có trách nhiệm phải chỉ ra,” cô hiệu trưởng nói tiếp, “rằng hiện tại không có đứa trẻ ngoài giá thú nào được đăng ký vào St Veronica. Tuy nhiên, tôi sẽ cân nhắc nghiêm túc tới trường hợp xin đăng ký học của con gái cô, và sẽ cho cô biết quyết định của tôi sau vài ngày nữa.”
Vào khoảnh khắc đó, Beth cảm thấy Slobodan Milosevic còn có nhiều cơ hội đoạt giải Nobel Hòa bình hơn so với cơ hội Christy được đặt chân vào St Veronica.
Cô hiệu trưởng đứng dậy, đi tới bên cửa ra vào phòng làm việc và mở cửa.
“Tạm biệt, cô Wilson,”
Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng nàng, Beth òa khóc. Tại sao lỗi lầm của người cha...
“Vâng, chúng tôi tin rằng cây hổ trượng Nhật Bản là câu trả lời,” Bresson nói. “Mặc dù tôi phải nói rằng chúng tôi rất bối rối về câu hỏi được đưa ra.”
Danny không định giải thích gì thêm, vì anh mới vừa học được cần làm sao để đối phó với người Thụy Sĩ theo đúng cách của họ. “Vậy tại sao đó lại là câu trả lời?” anh hỏi.
“Nếu người ta phát hiện ra loài cây này tại mặt bằng của một dự án xây dựng, điều đó có thể làm chậm lại việc cấp giấy phép cho kế hoạch xây dựng ít nhất một năm. Một khi loài cây này bị phát hiện, cần phải mời chuyên gia tới để loại bỏ triệt để chúng, và quá trình xây dựng chỉ có thể bắt đầu khi ủy ban sức khỏe và an toàn địa phương xác nhận địa điểm đó đã đạt yêu cầu của những kiểm tra cần thiết.”
“Vậy làm thế nào để loại bỏ cây hổ trượng Nhật Bản?”
“Một công ty chuyên trách sẽ tới và đốt sạch toàn bộ khu vực. Sau đó ông cần phải đợi thêm ba tháng nữa để đảm bảo không còn lại dù chỉ một mẩu rễ của loài cây đó trước khi xin lại giấy phép.”
“Việc đó chắc là không rẻ.”
“Chắc chắn là không hề rẻ với vị chủ sở hữu khu đất. Chúng tôi đã gặp qua một vụ điển hình về chuyện này xảy ra tại Liverpool,” Segat nói thêm. “Hội đồng thành phố phát hiện ra cây hổ trượng Nhật Bản ở một khu đất rộng ba mươi mẫu đã được cấp phép lập kế hoạch xây dựng chừng một trăm căn nhà ở xã hội. Họ đã mất hơn một năm để loại bỏ chúng với phí tổn hơn ba trăm nghìn bảng. Cuối cùng, khi những ngôi nhà được xây xong, người chủ dự án phải may lắm mới hòa vốn.”
“Tại sao thứ cây đó lại nguy hiểm đến vậy?” Danny hỏi.
“Nếu ông không tận diệt chúng,” Bresson nói, “rễ của nó sẽ ăn sâu vào nền móng của bất cứ công trình xây dựng nào, kể cả bê tông cốt thép, và mười năm sau, không một dấu hiệu báo trước, toàn bộ công trình đổ sập xuống, để lại cho ông một hóa đơn thanh toán bảo hiểm đủ để làm hầu hết các công ty phá sản. Tại Osaka, cây hổ trượng Nhật Bản đã phá hủy hoàn toàn cả một khối nhà chung cư, và đó chính là nguồn gốc cho cái tên của nó.”
“Vậy làm cách nào tôi có thể tìm được vài cây này?” Danny hỏi.
“À, tất nhiên ông không thể tìm thấy chúng trên giá của trung tâm bán cây cảnh và đồ làm vườn gần nhà mình đâu,” Bresson nói. “Tuy nhiên, tôi cho rằng bất cứ công ty nào chuyên làm công việc tiêu diệt chúng cũng có thể chỉ cho ông đi đúng hướng.” Bresson ngừng lại giây lát. “Tất nhiên trồng chúng lên đất của người khác là bất hợp pháp,” ông ta nói, mắt nhìn thẳng vào Danny.
“Nhưng trên đất của chính ông thì không,” Danny đáp, câu trả lời làm cả hai nhà ngân hàng im lặng. “Các vị đã có được giải pháp nào cho vấn đề còn lại của tôi chưa?”
Segal là người lên tiếng trả lời. “Một lần nữa, yêu cầu của ông nói khiêm tốn ra cũng là bất bình thường, và chắc chắn được xếp vào hạng nguy cơ cao. Tuy nhiên, người của tôi cho rằng họ có thể tìm ra một đám đất ở khu đông London đáp ứng được tất cả những criterion(1) ông đưa ra.” Danny nhớ lại Nick đã có lần chỉnh anh về cách dùng đúng của từ criteria, nhưng quyết định sẽ không lên lớp Segat. “London, như ông hẳn cũng biết rõ,” Segat nói tiếp, “đang chạy đua đăng cai Olympic 2012, trong đó phần lớn các hoạt động quan trọng đều dự kiến diễn ra tại Stratford tại vùng khu đông London. Mặc dù vẫn chưa rõ việc chạy đua này có thành công hay không, nó đã tạo ra một thị trường đầu cơ quy mô lớn dành cho các địa điểm nằm ở khu vực đó. Trong số các địa điểm mà Ủy ban Olympic hiện đang cân nhắc đến có một nơi dành cho việc xây dựng sân đua xe đạp, nơi sẽ tổ chức toàn bộ các bộ môn thi đấu xe đạp trong nhà. Các mối liên hệ của tôi cho biết có sáu địa điểm tiềm năng nhất đã được xác định, trong đó chỉ có hai địa điểm có triển vọng được đưa vào danh sách cân nhắc cuối cùng. Ông đang ở vào một vị thế rất may mắn, có khả năng mua cả hai địa điểm đó, và mặc dù ban đầu chắc hẳn ông cần phải trả một khoản khá nặng, song vẫn có triển vọng thu về một khoản lợi nhuận không tồi.”
“Khoản trả ban đầu đó nặng đến mức nào?” Danny hỏi.
“Chúng tôi đã định giá hai địa điểm đó,” Bresson nói, “vào khoảng một triệu bảng cho mỗi địa điểm, nhưng cả hai chủ sở hữu hiện tại đều đang đòi một triệu rưỡi. Nhưng nếu như cả hai địa điểm đó đều lọt vào danh sách cân nhắc cuối cùng, rất có thể cuối cùng chúng sẽ có giá lên tới sáu triệu. Và nếu rốt cuộc một trong hai địa điểm trở thành nơi được chọn, con số đó còn có khả năng tăng gấp đôi.”
“Nhưng nếu không,” Danny nói, “tôi sẽ phải chịu lỗ ba triệu.” Anh ngừng lại. “Tôi sẽ phải cân nhắc rất kỹ lưỡng về báo cáo của các ông trước khi sẵn sàng mạo hiểm một khoản tiền như vậy.”
“Ông sẽ chỉ có một tháng để quyết định,” Bresson nói, “bởi vì đến lúc đó danh sách cân nhắc cuối cùng sẽ được công bố. Nếu cả hai địa điểm đều nằm trong danh sách, chắc chắn ông không thể có được chúng với giá đó nữa.”
“Ông sẽ tìm thấy mọi tư liệu cần thiết để giúp ông ra quyết định trong đây,” Segat nói thêm, đưa cho Danny hai cặp tài liệu.
“Cảm ơn các ông,” Danny nói. “Tôi sẽ cho các ông biết quyết định của mình vào cuối tuần này.” Segat gật đầu. “Bây giờ, tôi muốn biết tình hình mới nhất về tiến triển của cuộc thương lượng các ông tiến hành với Tower Hamlets về địa điểm gara Wilson ở đường Mile End.”
“Luật sư của chúng tôi tại London đã gặp Chủ tịch ủy ban kế hoạch của Hội đồng địa phương tuần trước,” Segat nói, “nhằm cố tìm ra xem những gì ủy ban của ông ta sẽ coi là chấp nhận được trong trường hợp ông nộp đơn xin giấy phép xây dựng. Hội đồng địa phương đã luôn dự kiến xây dựng một khu chung cư giá rẻ tại khu đất đó, nhưng họ chấp nhận thực tế bất cứ nhà thầu nào cũng phải kiếm được lãi. Họ đã đi tới một đề xuất nêu rõ nếu có bảy mươi căn hộ được xây lên ở khu đất đó, một phần ba trong số này bắt buộc phải thuộc hạng nhà ở giá rẻ.”
“Về mặt toán học điều này là không thể,” Danny nói.
Lần đầu tiên từ đầu cuộc gặp Segat mỉm cười. “Chúng tôi đã không nghĩ sẽ là khôn ngoan khi chỉ ra rằng đáng lẽ ra phải là sáu mươi chín hay bảy mươi hai căn hộ, như thế chúng ta sẽ còn chỗ để điều đình. Tuy nhiên, nếu chúng ta đồng ý về nguyên tắc với đề xuất của họ, họ sẽ bán cho chúng ta lô đất với giá bốn trăm nghìn bảng, đồng thời cấp giấy phép xây dựng ngay. Trên cơ sở đó, chúng tôi khuyên ông nên chấp nhận mức giá họ đưa ra, nhưng cố gắng thuyết phục Hội đồng chấp nhận để ông xây chín mươi căn hộ. Ông chủ tịch ủy ban kế hoạch nghĩ việc này có thể gây ra tranh cãi khá gay gắt tại văn phòng Hội đồng, nhưng nếu chúng ta chịu nâng mức giá mua lên, thành năm trăm nghìn chẳng hạn, ông ta sẽ tìm ra cách để ủng hộ đề xuất của chúng ta.”
“Nếu đề xuất này được Hội đồng thông qua,” Bresson nói, “ông sẽ sở hữu toàn bộ khu vực mà chỉ mất trên một triệu bảng.”
“Nếu chúng ta làm được điều đó, các ông có đề xuất gì cho bước tiếp theo tôi nên thực hiện không?”
“Ông có hai lựa chọn,” Bresson nói. “Ông có thể bán cho một nhà thầu, hay tự mình xây dựng và quản lý dự án đó.”
“Tôi không hề có hứng thú với việc bỏ ra ba năm tiếp theo ở một công trường xây dựng,” Danny nói. “Trong trường hợp đó, sau khi chúng ta đã thỏa thuận được các điều kiện giao dịch và có được giấy phép xây dựng tạm thời, hãy bán lại cho ai trả giá cao nhất.”
“Tôi nhất trí rằng đó là giải pháp sáng suốt hơn cả,” Segat nói. “Và tôi tin tưởng ông sẽ thu về vẫn tăng gấp đôi lượng đầu tư của mình trong một thời gian ngắn.”
“Các ông đã làm rất tốt,” Danny nói.
“Chúng ta đã không thể tiến hành chóng vánh đến thế,” Segat nói, “nếu không nhờ đến hiểu biết của ông về khu đất đó cũng như tiền sử của nó.”
Danny không hề phản ứng lại câu thăm dò. “Cuối cùng, có lẽ các ông có thể cho tôi biết tình hình tài chính hiện tại của mình.”
“Tất nhiên rồi,” Bresson nói, lấy một tập tài liệu nữa từ trong cặp ra. “Chúng tôi đã sát nhập hai tài khoản của ông làm một theo đúng yêu cầu và thành lập ba công ty thương mại, không công ty nào đứng tên ông. Tài khoản cá nhân của ông hiện có số dư năm mươi lăm triệu ba trăm bảy mươi ba nghìn tám trăm bảy mươi mốt đô la, hơi giảm đi so với ba tháng trước đây. Tuy nhiên, ông đã thực hiện một số hoạt động đầu tư trong thời gian đó, những hoạt động này chắc chắn cuối cùng sẽ đem lại một khoản thu nhập đáng kể. Chúng tôi cũng đã mua, nhân danh ông, một số cổ phần mà ông đã lựa chọn trong cuộc gặp trước của chúng ta, thực hiện một khoản đầu tư hơn hai triệu bảng nữa - ông sẽ tìm thấy các chi tiết ở trang chín của tập tài liệu màu lục. Cũng như vậy, theo chỉ thị của ông, chúng tôi đã chuyển mọi khoản dư ra vào các định chế được xếp loại AAA trên thị trường tiền tệ cho vay qua đêm, những khoản này hiện đem lại một lợi tức hàng năm xấp xỉ mười một phần trăm.”
Danny quyết định không bình phẩm về sự khác biệt giữa mức lãi suất 2,75 phần trăm ngân hàng đã đề xuất ban đầu và mức 11 phần trăm hiện anh đang có được. “Cảm ơn các ông,” anh nói. “Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại sau một tháng nữa.” Segat và Bresson gật đầu và thu dọn các tập tài liệu của họ. Danny đứng dậy và đưa họ ra cửa trước, biết rõ không ai trong hai nhà ngân hàng này có nhu cầu chuyện vãn.
“Tôi sẽ liên lạc lại,” anh nói, “ngay khi tôi có quyết định về hai địa điểm Olympic kia.”
Sau khi hai người khách đã đi khỏi, Danny đi lên gác, vào phòng làm việc, lấy cặp tài liệu về Gerald Payne ra khỏi giá đặt lên bàn làm việc và dành phần còn lại của buổi sáng để bổ sung tất cả các chi tiết có thể giúp ích cho kế hoạch của anh nhằm hủy diệt gã. Nếu anh muốn mua hai địa điểm kia, vậy thì anh sẽ cần phải gặp Payne mặt đối mặt. Không biết gã đã bao giờ nghe nói đến cây hổ trượng Nhật Bản chưa?
***
Có phải những người làm cha làm mẹ lúc nào cũng đặt nhiều tham vọng vào những đứa con của mình hơn vào chính bản thân họ hay không, Beth thầm tự hỏi trong khi bước vào phòng làm việc của cô hiệu trưởng.
Cô Sutherland đứng dậy từ sau bàn làm việc, bước tới bắt tay Beth. Cô hiệu trưởng không hề mỉm cười khi mời nàng ngồi xuống một chiếc ghế, sau đó đọc lại tờ đơn xin đăng ký học. Beth cố không để lộ ra nàng đang lo lắng đến mức nào.
“Vậy tôi cần phải hiểu, cô Wilson,” cô hiệu trưởng nói, nhấn mạnh vào từ cô, “rằng cô hy vọng con gái mình được vào học lớp mẫu giáo của chúng tôi tại St Veronica vào học kỳ tới?”
“Vâng, đúng vậy,” Beth trả lời. “Tôi nghĩ Christy sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ sự dạy dỗ mà ngôi trường của cô đem đến.”
“Không nghi ngờ gì nữa, con gái cô rất tiến bộ so với lứa tuổi của cháu,” cô Sutherland nói, trong khi xem xét hồ sơ xin học của cô bé. “Tuy nhiên, có một điều mà tôi chắc cô sẽ thông cảm, trước khi cháu được nhận vào học tại St Veronica, còn những khía cạnh khác mà tôi cần phải cân nhắc.”
“Tất nhiên rồi,” Beth nói, thầm lo sợ điều tồi tệ nhất.
“Chẳng hạn, tôi không thấy đề cập gì đến bố của cháu trong đơn xin học.”
“Không,” Beth nói. “Bố cháu đã mất năm ngoái.”
“Tôi rất tiếc phải biết điều này,” cô Sutherland nói, giọng chẳng hề có chút đồng cảm. “Tôi có thể biết nguyên nhân cái chết được không?”
Beth do dự, như nàng luôn cảm thấy mỗi khi phải nói ra những từ đó.”Anh ấy tự sát.”
“Tôi hiểu rồi,” cô hiệu trưởng nói. “Lúc đó cô đã thành hôn với bố của cháu bé chưa?”
“Chưa,” Beth thừa nhận. “Chúng tôi đã đính hôn.”
“Tôi rất xin lỗi phải hỏi câu này, cô Wilson, nhưng vị hôn phu của cô đã chết trong hoàn cảnh nào?”
“Lúc đó anh ấy đang ở trong tù,” Beth khẽ trả lời.
“Tôi hiểu rồi,” cô Sutherland nói. “Tôi có thể biết hôn phu của cô đã bị kết án về tội danh gì không?”
“Giết người,” Beth nói, lúc này nàng hiểu rõ cô Sutherland đã biết trước câu trả lời cho mọi câu hỏi của mình.
“Cô Wilson, tôi chắc cô cũng biết, với nhà thờ Thiên chúa, cả tự sát và giết người đều là tội trọng,” Beth không nói gì. “Tôi cũng cảm thấy có trách nhiệm phải chỉ ra,” cô hiệu trưởng nói tiếp, “rằng hiện tại không có đứa trẻ ngoài giá thú nào được đăng ký vào St Veronica. Tuy nhiên, tôi sẽ cân nhắc nghiêm túc tới trường hợp xin đăng ký học của con gái cô, và sẽ cho cô biết quyết định của tôi sau vài ngày nữa.”
Vào khoảnh khắc đó, Beth cảm thấy Slobodan Milosevic còn có nhiều cơ hội đoạt giải Nobel Hòa bình hơn so với cơ hội Christy được đặt chân vào St Veronica.
Cô hiệu trưởng đứng dậy, đi tới bên cửa ra vào phòng làm việc và mở cửa.
“Tạm biệt, cô Wilson,”
Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng nàng, Beth òa khóc. Tại sao lỗi lầm của người cha...
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook