Hoàng Kim Đài
-
Chương 60: Kinh biến
Đoàn Quy Hồng không có tật xấu thừa nước đục thả câu, ông nói thẳng: “Là Phó Đình Nghĩa.”
Như một cái búa tạ từ trên trời ầm ầm giáng xuống, đập cho Tĩnh Ninh hầu từ mặt đất sụt lún xuống dưới lòng đất. Phó Thâm trố mắt kêu lên: “Ai cơ?”
Y hoài nghi Đoàn Quy Hồng đang gạt mình, không thì là y gặp ảo giác rồi.
“Dĩnh quốc công. Tam thúc của ngươi.” Đoàn Quy Hồng cuối cùng cũng dọa được Phó Thâm một phen, chẳng hiểu sao còn có chút đắc ý, “Không ngờ đúng không?”
Phó Đình Nghĩa, tam gia phế vật nổi tiếng kinh thành, gà mái bay ra từ ổ phượng hoàng, quý tộc trung niên trầm mê tu tiên, cửa lớn không ra cửa nhỏ chẳng bước còn hơn cả tiểu thư khuê tú, sống đến tận giờ mà vẫn chưa chết đói, đều là nhờ đầu thai tốt.
Ngay đến cả Phó Thâm cũng chẳng có bất cứ kỳ vọng nào với ông, ai mà ngờ đại án chấn động kinh thành còn có phần ông nhúng tay vào?
“Ông ấy…… Bao nhiêu năm qua, ông ấy cầu tiên vấn đạo chỉ là vỏ bọc, kỳ thực vẫn luôn âm thầm liên hệ với ngài?”
Phó Thâm tuy kinh ngạc nhưng đầu óc thì vẫn đủ dùng, Đoàn Quy Hồng chỉ điểm một câu, đã đủ cho y suy đoán được đại khái đầu đuôi sự việc. Thanh Hư quan ở kinh thành có tiếng linh nghiệm, Phó Đình Nghĩa lại là người say mê đạo thuật, ông ra vào Thanh Hư quan, đương nhiên sẽ không khiến người ta hoài nghi. Mà Bạch Lộ Tán và tẩu thuốc mà Thuần Dương đạo nhân cần cũng có thể đưa đến tay Phó Đình Tín trước, sau đó ông lại chuyển giao cho Thuần Dương đạo nhân, lão ta là một đạo sĩ, nếu liên tục liên hệ với Tây Nam thì sẽ dễ lộ sơ hở, nhưng đối với phủ Dĩnh Quốc công mà nói thì chuyện này không thành vấn đề…… Thảo nào lúc trước nhóm người Nghiêm Tiêu Hàn điều tra kiểu gì cũng không phát hiện nguồn dược vật là từ tay Thuần Dương đạo nhân.
“Tam thúc của ngươi giấu tài nhiều năm rồi.” Đoàn Quy Hồng nói: “Hành động của Thuần Dương ở kinh thành phần nhiều là dựa thế của ông ấy, ta và tam thúc ngươi liên hệ, cũng là chuyện sau khi ngươi đến Bắc Cương.”
Phó Thâm lại nổi giận một cách hiếm thấy, sắc mặt y sa sầm: “Có giấu tài thì cũng nên đi lo chuyện tu tiên của ông ấy đi chứ! Cứ nhất định phải dính vào mấy việc tồi tệ này, đây là mất hết lương tâm hay là chê phủ Dĩnh quốc công sụp chưa đủ nhanh?”
“Kính Uyên.” Đoàn Quy Hồng bình tĩnh nói, “Ngươi cũng nghĩ giống người kinh thành, đều cảm thấy ông ấy có thể có ngày hôm nay, hoàn toàn là nhờ đầu thai tốt, đúng không?”
“Đúng cái gì mà đúng!” Phó Thâm giận dữ nói, “Ông ấy làm gì mà chẳng được? Tu tiên cũng chả ai ngăn ông ấy! Ta vất vả lắm mới kéo được phủ Dĩnh quốc công ra khỏi đống phiền phức, ông ấy thì lại lao đầu nhảy vào hố lửa, bộ bị nghiện hả!”
“Ngươi om sòm cái gì,” Đoàn Quy Hồng cau mày bảo, “Ngươi không hiểu tam thúc của ngươi đó thôi. Lúc mẹ ông ấy mang thai ông ấy thì bị động thai sinh non, cho nên sức khỏe tam thúc ngươi từ nhỏ đã không được tốt, đại ca và nhị ca ông ấy cũng nhường nhịn đệ đệ, sợ ông ấy va vấp xảy ra chuyện gì nên không dám cho ông ấy tập võ. Ta từng gặp ông ấy vài lần, hồi bé ông ấy gầy gò nhỏ con, không thích nói chuyện, suốt ngày ru rú trong nhà không ra khỏi cửa.”
“Sau đó Bá Tồn và Trọng Ngôn đều đến Bắc Cương, một mình ông ấy lớn lên ở kinh thành, văn võ đều chẳng giỏi giang, nhưng bên trên còn có hai người huynh trưởng bản lĩnh; kết quả hai vị huynh trưởng lần lượt qua đời, cũng may lại có cháu ruột che chở ông ấy.”
“Kính Uyên, ngươi gánh vác trọng trách quen rồi, không cảm thấy đó là gánh nặng, nhưng đối với tam thúc ngươi, đây vốn phải là trách nhiệm của ông ấy. Ông ấy dù gì cũng là trưởng bối của ngươi, không bảo vệ được cho ngươi, ông ấy vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn.”
Phó Thâm mơ hồ nhận ra sự cô đơn ẩn trong lời nói của ông, bỗng chốc hiểu được nỗi hổ thẹn mà Đoàn Quy Hồng không nói ra, cũng như của Phó Đình Nghĩa.
Y nhất thời đơ người.
Phó Thâm đi đến bây giờ không dựa dẫm vào ai, từ lâu đã quen đối mặt với gian lao, bởi vì biết sẽ không có ai che mưa chắn gió cho y, trốn tránh chẳng có tác dụng gì. Mà kể từ khi Phó Đình Tín qua đời, những năm tháng bám lấy trưởng bối nhõng nhẽo của y đã vĩnh viễn trôi qua, sống đến cái tuổi này, dù là giả vờ, y cũng chẳng giả được cái vẻ được người khác cưng chiều chăm bẵm có thể dễ dàng khom lưng cúi đầu, biến mình thành một vãn bối cần được chiếu cố.
“Được rồi, ngừng lại đi, không cần phải thế,” Phó Thâm lầm bầm, “Ai mà thèm chứ, ta đâu có thiếu người thương yêu, cả đống tuổi rồi mà còn chơi cái trò thiết hán nhu tình……. Không thấy sến súa hả?” (Thiết hán nhu tình: mạnh mẽ kiên cường mà vừa có sự dịu dàng tình cảm.)
Đoàn Quy Hồng: “……”
Cái đồ da dày thịt béo sát phong cảnh, người thế này thì có gì đáng mà thương!
“Sau này nhờ ngài chuyển lời tới ông ấy, bảo ông ấy hãy mau dừng lại đi,” Phó Thâm một tay đỡ trán, miễn cưỡng đổi sang giọng điệu không quá nóng nảy, “Ta tự có tính toán riêng, không cần hai vị phải đích thân mạo hiểm. Xin hãy rủ lòng thương, xem như thương xót tiểu điệt, đừng khiến ta ngoài bận tâm Bắc Yến quân ra lại còn phải phân tâm lo lắng cho hai vị, được không?”
Người xuất thân từ Bắc Yến quân bọn họ luôn có một sự bộc trực và đồng cảm lạ kỳ, vậy nên khi Phó Thâm dùng thân phận chủ soái Bắc Yến quân nói chuyện thẳng thắn, y chẳng chút khách khí với Đoàn Quy Hồng, dù cho thân phận của Tây Bình quận vương còn cao hơn y; mà bây giờ không nói chuyện công, Phó Thâm tự xưng là “Tiểu điệt”, Đoàn Quy Hồng còn thấy không dễ chịu hơn cả y, ông nói cứng ngắc: “Được.”
Hai người lúng túng im lặng chốc lát, Đoàn Quy Hồng vội đằng hắng một tiếng, để che giấu sự gượng gạo, ông nói sang chuyện khác: “Ngươi ăn cơm chưa? Nếu chưa thì đêm nay chúng ta uống mấy chén nhé?”
Phó Thâm gật đầu sao cũng được, bỗng nhớ tới gì đó: “Vương gia, Thu Dạ Bạch…..”
“Một khi ôn dịch lan tràn thì sức người sẽ không thể khống chế được,” Đoàn Quy Hồng cười khổ nói, “Thu Dạ Bạch cũng giống như vậy. Dù từ nay về sau ta không tiếp tục để Thu Dạ Bạch lọt ra ngoài nữa, nhưng số lượng đã truyền đi vẫn sẽ không ngừng sinh sôi, giờ mới nhớ dập tắt đầu nguồn thì đã muộn rồi.”
Phó Thâm nói: “Sau khi án Kinh Sở xảy ra, triều đình sẽ tăng cao chú ý tới Thu Dạ Bạch, ta đoán không bao lâu nữa sẽ ban bố pháp lệnh, cấm nhân dân lén lút gieo trồng Thu Dạ Bạch. Số lượng đã tung ra ngoài thì không khống chế được nhưng kỹ thuật điều chế Bạch Lộ Tán thì vẫn nằm trong tay vương gia, đúng không?”
Đoàn Quy Hồng gật đầu, Phó Thâm nói: “Nếu như ngài thu tay lại, nhân gian có được thái bình hay không thì ta không dám chắc, nhưng nếu ngài không thu tay, nhân gian nhất định không được thái bình. Bên nào nặng bên nào nhẹ, mong vương gia hãy suy xét.”
Bạch Lộ Tán tuy vẫn chưa trở thành nguồn tiền quan trọng nhất của Tây Nam, nhưng nó lại có hiệu quả thần kỳ, muốn Đoàn Quy Hồng hạ quyết định chấm dứt nhanh như vậy là bất khả thi. Phó Thâm cũng không hối thúc ông, chỉ nhắc vậy rồi thôi. Hai người uống rượu cả đêm, Phó Thâm bị Tây Bình quận vương lôi kéo lải nhải chuyện cũ Bắc Yến quân suốt nửa buổi tối, đầu váng mắt hoa ngã lên chiếc giường trong khách phòng, cảm thấy mình đã đánh giá cao độ thận trọng của Đoàn Quy Hồng rồi.
Khi sắc trời tờ mờ sáng, bên ngoài bỗng vang lên tiếng sấm, Phó Thâm vốn ngủ rất say, nhưng chẳng biết vì sao, tiếng sấm này lại như truyền từ tai đến tận trong tim, y đột nhiên mở mắt, tim đập điên cuồng chẳng rõ nguyên do.
Hai mươi chín tháng tư, kinh thành về đêm.
Trong hoàng thành lặng ngắt như tờ, các cung đều đóng chặt cửa nẻo, mấy cung nữ thái giám run rẩy ngồi rúc trong góc cung điện, chỉ có Dưỡng Tâm điện đèn đuốc sáng trưng, Tấn vương Tôn Duẫn Thuần mặc áo giáo, phía sau là đội ngũ tạo thành từ Nam Nha thập vệ và tinh binh phủ Tấn vương, đối diện với Bắc Nha cấm quân trước điện.
Tay Ngụy Hư Chu giữ trường đao, trợn tròn mắt: “Cung cấm trọng địa, không có chiếu thì không được tiến vào, Tấn vương điện hạ muốn phạm thượng tác loạn sao?”
Tôn Duẫn Thuần cười khẩy: “Chó giữ cửa mà cũng dám sủa bậy trước mặt bổn cung à, cút mau!”
Dưới ánh lửa chiếu rọi, gượng mặt Ngụy tướng quân lạnh như sắt, sau lưng bị mồ hôi thấm đẫm một mảng lớn. Giờ Tuất Tấn vương dẫn binh kéo thẳng vào từ Thừa Thiên môn, trước tiên đến Đông cung giết chết thái tử, sau đó xông đến Dưỡng Tâm điện. Nam Nha thập vệ đều theo phe Tấn vương, trong cung không nhận được chút tin tức gì. Khi bọn chúng tiến vào Huyền Phúc môn thì Ngụy Hư Chu mới hay tin, vội vàng mang theo Bắc Nha cấm quân đến hộ giá, cuối cùng ngăn cản đội ngũ của Tấn vương ngay trước Dưỡng Tâm điện.
Tấn vương tính toán kỹ càng, Nam Nha phản bội, chỉ dựa vào Bắc Nha cấm quân thì không chống trả được bao lâu, Ngụy Hư Chu mặc dù không sợ chiến, nhưng khách quan mà nói, chính hắn cũng cảm thấy Tấn vương tám, chín phần mười sẽ thành công.
“Ai ở bên ngoài?”
Cửa điện từ từ mở ra, giọng nói già nua uy nghiêm vang lên trong màn đêm xen lẫn ánh lửa, thân ảnh Nguyên Thái đế xuất hiện ở cửa Dưỡng Tâm điện: “Tấn vương, ngươi muốn làm gì?”
Tôn Duẫn Thuần tiến lên một bước: “Thái tử Tôn Duẫn Lương âm mưu phản nghịch, ý đồ bất chính. Nhi thần nhìn thấu mưu đồ, e sợ sinh biến nên lập tức dẫn binh tiến cung hộ giá. Bây giờ phản tặc đã đền tội nên tới đây để thông báo cho phụ hoàng.”
Ở đây người tinh tường đều biết thái tử chẳng qua chỉ là một con quỷ xui xẻo chết oan, Tấn vương làm xong hết thảy, thậm chí còn có thể nói những lời nghĩa chính từ nghiêm sáo rỗng này mà mắt không chớp tim không nhảy.
Nguyên Thái đế nói: “Phản tắc đã chết, ngươi hồi phủ đi.”
Bàn tay sau lưng Tấn vương ra dấu, một quan viên áo tím lập tức tiến lên, quỳ lạy tại chỗ, nói: “Thái tử thất đức, đã bị Tấn vương tru diệt. Đất nước bất ổn, lòng người muốn yên, mong bệ hạ suy xét, truyền ngôi cho Tấn vương, thuận theo nguyện vọng thiên nhân.”
“Thôi Cảnh.” Nguyên Thái đế lạnh lùng liếc hắn, nói: “Cấm quân đâu?”
“Phụ hoàng, nhi thần khuyên người nên từ bỏ hi vọng đi,” Dưới ảnh lửa chập chờn, nụ cười của Tôn Duẫn Thuần trông vô cùng vặn vẹo, khiến người ta liên tưởng đến con rắn độc đang thè lưỡi: “Nam Nha chư vệ đều đã theo bản vương, đừng nói tên tâm phúc Nghiêm Tiêu Hàn của người không có ở đây, cho dù hắn có mặt ở đây, thì Bắc Nha cấm quân cũng chẳng đủ sức đánh một trận đâu.”
Hắn cố ý dừng lại một chốc, cất giọng nói: “Quân Đường Châu đang trên đường đến kinh cần vương rồi, mong phụ hoàng hãy sớm định đoạt!”
Tôn Duẫn Thuần vừa dứt lời, một tiểu thái giám đã loạng choạng chạy vào từ ngoài cửa cung, mũ lệch cả đi, hổn hển bẩm: “Bệ hạ! Bệ hạ! Sứ giả từ kinh doanh báo cáo, có mấy vạn nhân mã đang hướng tới kinh thành, Uông thống lĩnh đang mang Nhuệ Phong doanh và Liệt Lôi doanh đi ngăn cản.”
Nguyên Thái đế nghe tin sét đánh này, lảo đảo lùi về sau một bước, kinh hãi ngã vào vòng tay đỡ của thái giám bên cạnh.
Ba mươi tháng tư, ngoài Lương Khẩu quan của Bắc Yến.
Xe ngựa từ Ô La Hộ bộ của Chá tộc xếp thành hàng dài ở hẻm núi, mùa xuân phương Bắc tới chậm, tuy đã rạng sáng nhưng vẫn còn rất lạnh, quan binh thủ quan mặc áo dày, lau nước đọng trên mi mắt, há miệng ngáp một cái, nói thầm: “Năm nay đến sớm thật.”
Người Chá hộ tống xe ngựa tươi cười đi tới, móc từ tay áo ra một viên trân châu khổng lồ, nhét vào tay quan binh nọ.
Binh sĩ nọ sững sờ, không nhận mà đẩy tay gã lại: “Tướng quân của chúng ta không nhận mấy thứ này, cầm về đi.”
Chá tộc mấy năm trước gây rối bất thành, bị Bắc Yến thiết kỵ xử lý mấy bận, hiện tại năm nào cũng nạp cống cho Đại Chu. Ô La Hộ bộ có nhiều đông châu, theo lệ thì cứ tháng năm – sáu hàng năm sẽ tiến cống đông châu đến kinh thành một lần. Năm nay, còn chưa tới tháng năm mà bọn họ đã tới rồi, binh sĩ phụ trách kiểm tra cống phẩm mặc dù lấy làm lạ, song cũng không nghĩ nhiều, hắn đi tới trước xe ngựa, dùng mũi đao vén tấm bạt phủ trên rương hàng, nói: “Mở rương ra.”
Mấy người Chá tươi cười leo lên xe ngựa, tháo dây, xốc nắp rương lên.
Một tiếng huýt vang lên, dọa chim muông trong rừng bay tán loạn.
Nắp rương mở ra, bên trong không phải đông châu, mà là đao kiếm sáng loáng!
Người Chá hộ tống cống phẩm đều là bính lính được huấn luyện bài bản, chúng rút đao từ trong rương ra, cùng xông lên. Giữa tiếng chém giết khiến người ta kinh hãi, binh sĩ Bắc Yến từ chối trân châu bị đâm thủng ngực, ngửa mặt ngã xuống nền đất bụi mù.
Bàn tay lạnh cứng của hắn khó khăn dịch chuyển, rút từ bên hông ra một cây pháo hoa, run run kéo kíp nổ ——
“Phập” một tiếng, gã người Chá phát hiện ý đồ của hắn, xoay tay bồi thêm một đao, lưỡi đao sắc bén chọc thủng huyết nhục, đâm xuyên trái tim hắn.
Đồng thời, tín hiệu báo địch tấn công bay vút lên không trung, nổ tung thành pháo hoa màu máu, phản chiếu trong con ngươi dần trợn lên của hắn. Thân thể binh sĩ Bắc Yến quân kia co rúm lại, hai mắt nhìn trời, phun ra ngụm khí lạnh cuối cùng từ trong lồng ngực.
Ngày ba mươi tháng tư năm Nguyên Thái thứ hai mươi sáu, trong lúc lâm triều, Nguyên Thái đế Tôn Tuần lệnh cho thái giám tuyên đọc thánh chỉ, truyền ngôi cho Tấn vương Tôn Duẫn Thuần.
Cùng hôm ấy, Ô La Hộ bộ của Chá tộc lợi dụng thời điểm vận chuyển đông châu, đánh lén quân đóng giữ Lương Khẩu quan của Bắc Yến, không lâu sau đó, một lượng lớn quân đội Chá tộc xuôi Nam tràn vào, Bắc Yến thiết kỵ khẩn cấp điều binh tiếp viện, hiểm cảnh Bắc Cương bảy năm về trước lại lần nữa tái diễn.
Như một cái búa tạ từ trên trời ầm ầm giáng xuống, đập cho Tĩnh Ninh hầu từ mặt đất sụt lún xuống dưới lòng đất. Phó Thâm trố mắt kêu lên: “Ai cơ?”
Y hoài nghi Đoàn Quy Hồng đang gạt mình, không thì là y gặp ảo giác rồi.
“Dĩnh quốc công. Tam thúc của ngươi.” Đoàn Quy Hồng cuối cùng cũng dọa được Phó Thâm một phen, chẳng hiểu sao còn có chút đắc ý, “Không ngờ đúng không?”
Phó Đình Nghĩa, tam gia phế vật nổi tiếng kinh thành, gà mái bay ra từ ổ phượng hoàng, quý tộc trung niên trầm mê tu tiên, cửa lớn không ra cửa nhỏ chẳng bước còn hơn cả tiểu thư khuê tú, sống đến tận giờ mà vẫn chưa chết đói, đều là nhờ đầu thai tốt.
Ngay đến cả Phó Thâm cũng chẳng có bất cứ kỳ vọng nào với ông, ai mà ngờ đại án chấn động kinh thành còn có phần ông nhúng tay vào?
“Ông ấy…… Bao nhiêu năm qua, ông ấy cầu tiên vấn đạo chỉ là vỏ bọc, kỳ thực vẫn luôn âm thầm liên hệ với ngài?”
Phó Thâm tuy kinh ngạc nhưng đầu óc thì vẫn đủ dùng, Đoàn Quy Hồng chỉ điểm một câu, đã đủ cho y suy đoán được đại khái đầu đuôi sự việc. Thanh Hư quan ở kinh thành có tiếng linh nghiệm, Phó Đình Nghĩa lại là người say mê đạo thuật, ông ra vào Thanh Hư quan, đương nhiên sẽ không khiến người ta hoài nghi. Mà Bạch Lộ Tán và tẩu thuốc mà Thuần Dương đạo nhân cần cũng có thể đưa đến tay Phó Đình Tín trước, sau đó ông lại chuyển giao cho Thuần Dương đạo nhân, lão ta là một đạo sĩ, nếu liên tục liên hệ với Tây Nam thì sẽ dễ lộ sơ hở, nhưng đối với phủ Dĩnh Quốc công mà nói thì chuyện này không thành vấn đề…… Thảo nào lúc trước nhóm người Nghiêm Tiêu Hàn điều tra kiểu gì cũng không phát hiện nguồn dược vật là từ tay Thuần Dương đạo nhân.
“Tam thúc của ngươi giấu tài nhiều năm rồi.” Đoàn Quy Hồng nói: “Hành động của Thuần Dương ở kinh thành phần nhiều là dựa thế của ông ấy, ta và tam thúc ngươi liên hệ, cũng là chuyện sau khi ngươi đến Bắc Cương.”
Phó Thâm lại nổi giận một cách hiếm thấy, sắc mặt y sa sầm: “Có giấu tài thì cũng nên đi lo chuyện tu tiên của ông ấy đi chứ! Cứ nhất định phải dính vào mấy việc tồi tệ này, đây là mất hết lương tâm hay là chê phủ Dĩnh quốc công sụp chưa đủ nhanh?”
“Kính Uyên.” Đoàn Quy Hồng bình tĩnh nói, “Ngươi cũng nghĩ giống người kinh thành, đều cảm thấy ông ấy có thể có ngày hôm nay, hoàn toàn là nhờ đầu thai tốt, đúng không?”
“Đúng cái gì mà đúng!” Phó Thâm giận dữ nói, “Ông ấy làm gì mà chẳng được? Tu tiên cũng chả ai ngăn ông ấy! Ta vất vả lắm mới kéo được phủ Dĩnh quốc công ra khỏi đống phiền phức, ông ấy thì lại lao đầu nhảy vào hố lửa, bộ bị nghiện hả!”
“Ngươi om sòm cái gì,” Đoàn Quy Hồng cau mày bảo, “Ngươi không hiểu tam thúc của ngươi đó thôi. Lúc mẹ ông ấy mang thai ông ấy thì bị động thai sinh non, cho nên sức khỏe tam thúc ngươi từ nhỏ đã không được tốt, đại ca và nhị ca ông ấy cũng nhường nhịn đệ đệ, sợ ông ấy va vấp xảy ra chuyện gì nên không dám cho ông ấy tập võ. Ta từng gặp ông ấy vài lần, hồi bé ông ấy gầy gò nhỏ con, không thích nói chuyện, suốt ngày ru rú trong nhà không ra khỏi cửa.”
“Sau đó Bá Tồn và Trọng Ngôn đều đến Bắc Cương, một mình ông ấy lớn lên ở kinh thành, văn võ đều chẳng giỏi giang, nhưng bên trên còn có hai người huynh trưởng bản lĩnh; kết quả hai vị huynh trưởng lần lượt qua đời, cũng may lại có cháu ruột che chở ông ấy.”
“Kính Uyên, ngươi gánh vác trọng trách quen rồi, không cảm thấy đó là gánh nặng, nhưng đối với tam thúc ngươi, đây vốn phải là trách nhiệm của ông ấy. Ông ấy dù gì cũng là trưởng bối của ngươi, không bảo vệ được cho ngươi, ông ấy vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn.”
Phó Thâm mơ hồ nhận ra sự cô đơn ẩn trong lời nói của ông, bỗng chốc hiểu được nỗi hổ thẹn mà Đoàn Quy Hồng không nói ra, cũng như của Phó Đình Nghĩa.
Y nhất thời đơ người.
Phó Thâm đi đến bây giờ không dựa dẫm vào ai, từ lâu đã quen đối mặt với gian lao, bởi vì biết sẽ không có ai che mưa chắn gió cho y, trốn tránh chẳng có tác dụng gì. Mà kể từ khi Phó Đình Tín qua đời, những năm tháng bám lấy trưởng bối nhõng nhẽo của y đã vĩnh viễn trôi qua, sống đến cái tuổi này, dù là giả vờ, y cũng chẳng giả được cái vẻ được người khác cưng chiều chăm bẵm có thể dễ dàng khom lưng cúi đầu, biến mình thành một vãn bối cần được chiếu cố.
“Được rồi, ngừng lại đi, không cần phải thế,” Phó Thâm lầm bầm, “Ai mà thèm chứ, ta đâu có thiếu người thương yêu, cả đống tuổi rồi mà còn chơi cái trò thiết hán nhu tình……. Không thấy sến súa hả?” (Thiết hán nhu tình: mạnh mẽ kiên cường mà vừa có sự dịu dàng tình cảm.)
Đoàn Quy Hồng: “……”
Cái đồ da dày thịt béo sát phong cảnh, người thế này thì có gì đáng mà thương!
“Sau này nhờ ngài chuyển lời tới ông ấy, bảo ông ấy hãy mau dừng lại đi,” Phó Thâm một tay đỡ trán, miễn cưỡng đổi sang giọng điệu không quá nóng nảy, “Ta tự có tính toán riêng, không cần hai vị phải đích thân mạo hiểm. Xin hãy rủ lòng thương, xem như thương xót tiểu điệt, đừng khiến ta ngoài bận tâm Bắc Yến quân ra lại còn phải phân tâm lo lắng cho hai vị, được không?”
Người xuất thân từ Bắc Yến quân bọn họ luôn có một sự bộc trực và đồng cảm lạ kỳ, vậy nên khi Phó Thâm dùng thân phận chủ soái Bắc Yến quân nói chuyện thẳng thắn, y chẳng chút khách khí với Đoàn Quy Hồng, dù cho thân phận của Tây Bình quận vương còn cao hơn y; mà bây giờ không nói chuyện công, Phó Thâm tự xưng là “Tiểu điệt”, Đoàn Quy Hồng còn thấy không dễ chịu hơn cả y, ông nói cứng ngắc: “Được.”
Hai người lúng túng im lặng chốc lát, Đoàn Quy Hồng vội đằng hắng một tiếng, để che giấu sự gượng gạo, ông nói sang chuyện khác: “Ngươi ăn cơm chưa? Nếu chưa thì đêm nay chúng ta uống mấy chén nhé?”
Phó Thâm gật đầu sao cũng được, bỗng nhớ tới gì đó: “Vương gia, Thu Dạ Bạch…..”
“Một khi ôn dịch lan tràn thì sức người sẽ không thể khống chế được,” Đoàn Quy Hồng cười khổ nói, “Thu Dạ Bạch cũng giống như vậy. Dù từ nay về sau ta không tiếp tục để Thu Dạ Bạch lọt ra ngoài nữa, nhưng số lượng đã truyền đi vẫn sẽ không ngừng sinh sôi, giờ mới nhớ dập tắt đầu nguồn thì đã muộn rồi.”
Phó Thâm nói: “Sau khi án Kinh Sở xảy ra, triều đình sẽ tăng cao chú ý tới Thu Dạ Bạch, ta đoán không bao lâu nữa sẽ ban bố pháp lệnh, cấm nhân dân lén lút gieo trồng Thu Dạ Bạch. Số lượng đã tung ra ngoài thì không khống chế được nhưng kỹ thuật điều chế Bạch Lộ Tán thì vẫn nằm trong tay vương gia, đúng không?”
Đoàn Quy Hồng gật đầu, Phó Thâm nói: “Nếu như ngài thu tay lại, nhân gian có được thái bình hay không thì ta không dám chắc, nhưng nếu ngài không thu tay, nhân gian nhất định không được thái bình. Bên nào nặng bên nào nhẹ, mong vương gia hãy suy xét.”
Bạch Lộ Tán tuy vẫn chưa trở thành nguồn tiền quan trọng nhất của Tây Nam, nhưng nó lại có hiệu quả thần kỳ, muốn Đoàn Quy Hồng hạ quyết định chấm dứt nhanh như vậy là bất khả thi. Phó Thâm cũng không hối thúc ông, chỉ nhắc vậy rồi thôi. Hai người uống rượu cả đêm, Phó Thâm bị Tây Bình quận vương lôi kéo lải nhải chuyện cũ Bắc Yến quân suốt nửa buổi tối, đầu váng mắt hoa ngã lên chiếc giường trong khách phòng, cảm thấy mình đã đánh giá cao độ thận trọng của Đoàn Quy Hồng rồi.
Khi sắc trời tờ mờ sáng, bên ngoài bỗng vang lên tiếng sấm, Phó Thâm vốn ngủ rất say, nhưng chẳng biết vì sao, tiếng sấm này lại như truyền từ tai đến tận trong tim, y đột nhiên mở mắt, tim đập điên cuồng chẳng rõ nguyên do.
Hai mươi chín tháng tư, kinh thành về đêm.
Trong hoàng thành lặng ngắt như tờ, các cung đều đóng chặt cửa nẻo, mấy cung nữ thái giám run rẩy ngồi rúc trong góc cung điện, chỉ có Dưỡng Tâm điện đèn đuốc sáng trưng, Tấn vương Tôn Duẫn Thuần mặc áo giáo, phía sau là đội ngũ tạo thành từ Nam Nha thập vệ và tinh binh phủ Tấn vương, đối diện với Bắc Nha cấm quân trước điện.
Tay Ngụy Hư Chu giữ trường đao, trợn tròn mắt: “Cung cấm trọng địa, không có chiếu thì không được tiến vào, Tấn vương điện hạ muốn phạm thượng tác loạn sao?”
Tôn Duẫn Thuần cười khẩy: “Chó giữ cửa mà cũng dám sủa bậy trước mặt bổn cung à, cút mau!”
Dưới ánh lửa chiếu rọi, gượng mặt Ngụy tướng quân lạnh như sắt, sau lưng bị mồ hôi thấm đẫm một mảng lớn. Giờ Tuất Tấn vương dẫn binh kéo thẳng vào từ Thừa Thiên môn, trước tiên đến Đông cung giết chết thái tử, sau đó xông đến Dưỡng Tâm điện. Nam Nha thập vệ đều theo phe Tấn vương, trong cung không nhận được chút tin tức gì. Khi bọn chúng tiến vào Huyền Phúc môn thì Ngụy Hư Chu mới hay tin, vội vàng mang theo Bắc Nha cấm quân đến hộ giá, cuối cùng ngăn cản đội ngũ của Tấn vương ngay trước Dưỡng Tâm điện.
Tấn vương tính toán kỹ càng, Nam Nha phản bội, chỉ dựa vào Bắc Nha cấm quân thì không chống trả được bao lâu, Ngụy Hư Chu mặc dù không sợ chiến, nhưng khách quan mà nói, chính hắn cũng cảm thấy Tấn vương tám, chín phần mười sẽ thành công.
“Ai ở bên ngoài?”
Cửa điện từ từ mở ra, giọng nói già nua uy nghiêm vang lên trong màn đêm xen lẫn ánh lửa, thân ảnh Nguyên Thái đế xuất hiện ở cửa Dưỡng Tâm điện: “Tấn vương, ngươi muốn làm gì?”
Tôn Duẫn Thuần tiến lên một bước: “Thái tử Tôn Duẫn Lương âm mưu phản nghịch, ý đồ bất chính. Nhi thần nhìn thấu mưu đồ, e sợ sinh biến nên lập tức dẫn binh tiến cung hộ giá. Bây giờ phản tặc đã đền tội nên tới đây để thông báo cho phụ hoàng.”
Ở đây người tinh tường đều biết thái tử chẳng qua chỉ là một con quỷ xui xẻo chết oan, Tấn vương làm xong hết thảy, thậm chí còn có thể nói những lời nghĩa chính từ nghiêm sáo rỗng này mà mắt không chớp tim không nhảy.
Nguyên Thái đế nói: “Phản tắc đã chết, ngươi hồi phủ đi.”
Bàn tay sau lưng Tấn vương ra dấu, một quan viên áo tím lập tức tiến lên, quỳ lạy tại chỗ, nói: “Thái tử thất đức, đã bị Tấn vương tru diệt. Đất nước bất ổn, lòng người muốn yên, mong bệ hạ suy xét, truyền ngôi cho Tấn vương, thuận theo nguyện vọng thiên nhân.”
“Thôi Cảnh.” Nguyên Thái đế lạnh lùng liếc hắn, nói: “Cấm quân đâu?”
“Phụ hoàng, nhi thần khuyên người nên từ bỏ hi vọng đi,” Dưới ảnh lửa chập chờn, nụ cười của Tôn Duẫn Thuần trông vô cùng vặn vẹo, khiến người ta liên tưởng đến con rắn độc đang thè lưỡi: “Nam Nha chư vệ đều đã theo bản vương, đừng nói tên tâm phúc Nghiêm Tiêu Hàn của người không có ở đây, cho dù hắn có mặt ở đây, thì Bắc Nha cấm quân cũng chẳng đủ sức đánh một trận đâu.”
Hắn cố ý dừng lại một chốc, cất giọng nói: “Quân Đường Châu đang trên đường đến kinh cần vương rồi, mong phụ hoàng hãy sớm định đoạt!”
Tôn Duẫn Thuần vừa dứt lời, một tiểu thái giám đã loạng choạng chạy vào từ ngoài cửa cung, mũ lệch cả đi, hổn hển bẩm: “Bệ hạ! Bệ hạ! Sứ giả từ kinh doanh báo cáo, có mấy vạn nhân mã đang hướng tới kinh thành, Uông thống lĩnh đang mang Nhuệ Phong doanh và Liệt Lôi doanh đi ngăn cản.”
Nguyên Thái đế nghe tin sét đánh này, lảo đảo lùi về sau một bước, kinh hãi ngã vào vòng tay đỡ của thái giám bên cạnh.
Ba mươi tháng tư, ngoài Lương Khẩu quan của Bắc Yến.
Xe ngựa từ Ô La Hộ bộ của Chá tộc xếp thành hàng dài ở hẻm núi, mùa xuân phương Bắc tới chậm, tuy đã rạng sáng nhưng vẫn còn rất lạnh, quan binh thủ quan mặc áo dày, lau nước đọng trên mi mắt, há miệng ngáp một cái, nói thầm: “Năm nay đến sớm thật.”
Người Chá hộ tống xe ngựa tươi cười đi tới, móc từ tay áo ra một viên trân châu khổng lồ, nhét vào tay quan binh nọ.
Binh sĩ nọ sững sờ, không nhận mà đẩy tay gã lại: “Tướng quân của chúng ta không nhận mấy thứ này, cầm về đi.”
Chá tộc mấy năm trước gây rối bất thành, bị Bắc Yến thiết kỵ xử lý mấy bận, hiện tại năm nào cũng nạp cống cho Đại Chu. Ô La Hộ bộ có nhiều đông châu, theo lệ thì cứ tháng năm – sáu hàng năm sẽ tiến cống đông châu đến kinh thành một lần. Năm nay, còn chưa tới tháng năm mà bọn họ đã tới rồi, binh sĩ phụ trách kiểm tra cống phẩm mặc dù lấy làm lạ, song cũng không nghĩ nhiều, hắn đi tới trước xe ngựa, dùng mũi đao vén tấm bạt phủ trên rương hàng, nói: “Mở rương ra.”
Mấy người Chá tươi cười leo lên xe ngựa, tháo dây, xốc nắp rương lên.
Một tiếng huýt vang lên, dọa chim muông trong rừng bay tán loạn.
Nắp rương mở ra, bên trong không phải đông châu, mà là đao kiếm sáng loáng!
Người Chá hộ tống cống phẩm đều là bính lính được huấn luyện bài bản, chúng rút đao từ trong rương ra, cùng xông lên. Giữa tiếng chém giết khiến người ta kinh hãi, binh sĩ Bắc Yến từ chối trân châu bị đâm thủng ngực, ngửa mặt ngã xuống nền đất bụi mù.
Bàn tay lạnh cứng của hắn khó khăn dịch chuyển, rút từ bên hông ra một cây pháo hoa, run run kéo kíp nổ ——
“Phập” một tiếng, gã người Chá phát hiện ý đồ của hắn, xoay tay bồi thêm một đao, lưỡi đao sắc bén chọc thủng huyết nhục, đâm xuyên trái tim hắn.
Đồng thời, tín hiệu báo địch tấn công bay vút lên không trung, nổ tung thành pháo hoa màu máu, phản chiếu trong con ngươi dần trợn lên của hắn. Thân thể binh sĩ Bắc Yến quân kia co rúm lại, hai mắt nhìn trời, phun ra ngụm khí lạnh cuối cùng từ trong lồng ngực.
Ngày ba mươi tháng tư năm Nguyên Thái thứ hai mươi sáu, trong lúc lâm triều, Nguyên Thái đế Tôn Tuần lệnh cho thái giám tuyên đọc thánh chỉ, truyền ngôi cho Tấn vương Tôn Duẫn Thuần.
Cùng hôm ấy, Ô La Hộ bộ của Chá tộc lợi dụng thời điểm vận chuyển đông châu, đánh lén quân đóng giữ Lương Khẩu quan của Bắc Yến, không lâu sau đó, một lượng lớn quân đội Chá tộc xuôi Nam tràn vào, Bắc Yến thiết kỵ khẩn cấp điều binh tiếp viện, hiểm cảnh Bắc Cương bảy năm về trước lại lần nữa tái diễn.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook