Hỏa Thần
Chương 5

TEL AVIV, NGÀY 10 THÁNG 3

Gabriel đến Tổng hành dinh ở Đại lộ King Saul lúc tám giờ ngay sáng hôm sau. Hai nhân viên phòng nhân sự đang đứng chờ anh tại đó. Họ mặc áo sơ mi vải cotton đồng phục, và có cùng một điệu cười giống nhau - những nụ cười mím chặt đầy lạnh lùng của những viên chức được giao quyền tra hỏi những câu hỏi cắc cớ. Trong mắt của các nhân viên này, việc quay trở về để chịu hình thức kỷ luật của Gabriel đã quá trễ. Anh như một loại rượu tinh túy mà người thưởng thức phải nhấm nháp từng giọt một và bình luận. Anh đã tự về nộp mình cho tổ chức sau những ngày dài rong ruổi trốn chạy và đuổi bắt.

Nào là kí nhận lời khai, tuyên thệ và những câu hỏi vô cớ về tình hình tài chính của anh. Rồi anh bị chụp ảnh cùng với một cái biển nhận diện treo lủng lẳng quanh cổ như một tên tội phạm. Anh bị lấy dấu vân tay mới vì người ta không thể tìm ra dấu vân tay cũ của anh kể từ năm 1972. Tiếp đó anh bị kiểm tra sức khỏe toàn diện. Vị bác sĩ đã vô cùng sửng sốt trước thân thể đầy vết sứt sẹo của anh và hối hả tìm mạch ở cổ tay rồi tìm ven để đo huyết áp. Anh cũng phải trải qua một cuộc kiểm tra nghiêm ngặt với chuyên viên tâm lý. Ông này chỉ ghi qua loa vài chữ vào hồ sơ của Gabriel rồi rời phòng. Đội xe công cấp cho anh chiếc mui trần Skoda để dùng tạm; bộ phận quản lý văn phòng thì nhét anh vào một phòng không có cửa sổ ngay ở tầng hầm và những vật dụng cần thiết cho tới khi anh có thể tự tìm ra chỗ ở. Vì muốn giữ một khoảng cách cần thiết với Tổng hành dinh ở King Saul, Gabriel đã dọn đến một căn hộ bỏ hoang nhưng an toàn trên đường Narkiss tại Jerusalem, không xa trường Đại học Nghệ thuật Bezalel.

Khi hoàng hôn xuống, anh được điều đến phòng làm việc của viên sĩ quan cao cấp để hoàn tất khâu thủ tục cho sự trở về của mình. Những ánh đèn trên cửa phòng Lev chuyển sang màu xanh. Cô nàng thư ký hấp dẫn với cặp chân dài rám nắng và mái tóc nâu nhạt nhấn một chiếc nút vô hình làm cánh cửa nhẹ nhàng kéo lên như mở ra một lối vào căn hầm bí mật của ngân hàng.

Garbriel bước vào trong, nhưng dừng lại trước khi tiến thêm về phía trước. Một cảm giác lạ lẫm dâng lên trong anh. Giống như cảm giác của một người đàn ông tưởng quay trở về chiếc giường ngủ lúc nhỏ quen thuộc của mình nhưng hóa ra nó lại là chỗ làm việc của cha mình. Căn phòng này từng là nơi làm việc của Shamron. Chiếc bàn gỗ với những vết cứa chằng chịt, cặp hồ sơ bằng thiếc và chiếc radio tần sóng ngắn của Đức mà Shamron hay sử dụng để nghe ngóng tin tức đã không còn nữa. Giờ đây cách bài trí trong phòng hiện đại hơn với tông màu xám. Sàn nhà lót bằng vải sơn đã bị xé đi và được thay bằng một tấm thảm lông dày. Người ta cố tình sắp đặt những tấm thảm Phương Đông đắt tiền quanh phòng. Trên trần cao là một bóng đèn halogen âm tường chiếu thẳng xuống khu vực tiếp khách với bộ bàn ghế bọc da đen bóng, Gadriel liên tưởng ngay đến những chỗ ngồi ở khoang hạng nhất trên máy bay. Bức tường gần chỗ ngồi được thay thế bằng một chiếc tivi plasma màn hình rộng với độ phân giải cao. Thiết bị điều khiển nằm trên chiếc bàn uống cà phê cạnh đó, nó to gần bằng cuốn kinh thánh và trông như thể chỉ những kỹ sư lành nghề mới có khả năng điều khiển được.

Trước đây Shamron đặt bàn làm việc khá bất tiện cho việc ra vào nên Lev đã chọn một vị trí khác gần cửa sổ. Tấm màn màu xám nhạt đã được kéo ra nhưng lại xếp nếp nên vẫn có thể nhận ra đường chân trời ngoằn nghèo từ phía khu phố Tel Aviv dưới ánh mặt trời cam vàng khổng lồ đang dần dần chìm trong Địa Trung Hải. Bàn làm việc của Lev, với tấm kính ám đầy khói thuốc, trống trơn ngoài một chiếc máy tính và hai chiếc điện thoại bàn. Ông đang ngồi trước màn hình, đôi bàn tay khoanh lại trông như con bọ ngựa nằm bên dưới chiếc cằm ngang ngạnh của mình. Cái đầu hói của ông hơi ánh lên dưới ánh đèn mờ. Gabriel nhận thấy cặp mắt kính của Lev không hề phản chiếu. Ông ta đeo cặp kính đặc biệt này nhằm làm cho kẻ thù của ông - những người trong Văn phòng vốn luôn chống đối ông, không thể biết được ông đang nghĩ gì.

“Gabriel”, ông cất giọng, ra vẻ vô cùng ngạc nhiên vì sự có mặt của anh. Ông bước ra khỏi bàn làm việc và bắt tay Gabriel một cách từ tốn. Rồi với một ngón tay xương xẩu ấn vào sườn Gabriel như một nòng súng, ông đưa Gabriel băng qua phòng đến chỗ ngồi. Khi đang ngồi vào ghế, một vài hình ảnh trên màn hình tivi khiến ông chú ý, nhưng Garbriel không biết điều gì trên tivi khiến ông ta phải bận tâm. Ông thở dài nặng nề, rồi chầm chậm quay sang nhìn Gabriel với ánh mắt dò xét của một kẻ săn mồi.

Những hình ảnh về cuộc trạm trán cuối cùng giữa hai người chợt hiện về. Nơi gặp gỡ không phải là căn phòng này mà là tại văn phòng của Phó Thủ tướng ở Jerusalem. Một trong những vấn đề đưa ra thảo luận ngày hôm đó là liệu Văn phòng có nên bắt Erich Radek và áp tải hắn về Israel để chịu phán xét của công lý hay không. Lev đã kịch liệt phản đối, dẫu có một sự thật rành rành rằng Radek đã suýt giết chết mẹ của Gabriel trong cuộc thảm chiến ở Auschwitz hồi tháng Giêng năm 1945. Phó Thủ tướng đã bác bỏ phản đối của Lev và giao trọng trách cho Gabriel phải theo đuổi Radek và trục xuất hắn ra khỏi Áo. Radek giờ đây đang bị tống giam ở Jaffa, và Lev, trong hai tháng cuối cùng, đã hết sức nỗ lực để chuộc lại những lỗi lầm của mình vì đã phản đối việc bắt giữ. Từ đó uy thế của Lev trong quân đội tại Đại lộ King Saul giảm sút trầm trọng. Thậm chí tại Jerusalem, một số người cũng bắt đầu tự hỏi liệu có phải thời kỳ hoàng kim của Lev đã hết rồi không.

“Tôi được quyền sắp xếp lại trật tự trong đội của anh”, Lev nói. Ông nhấn nút nội bộ trên điện thoại và cho gọi thư ký. Cô thư ký bước vào phòng với một xấp hồ sơ trên tay. Những cuộc họp của Lev luôn luôn được lên kế hoạch và trình bày một cách rất khoa học. Ông không muốn người nghe khó hiểu trước những biểu đồ phức tạp khi trình bày các vụ án.

Khi cô thư ký quay ra cửa, Lev nhìn Gabriel để xem rằng liệu anh có nhìn theo cô ta hay không. Rồi không nói lời nào, ông đưa cho Gabriel xấp tài liệu, mắt lại hướng về màn hình tivi. Gabriel mở xấp tài liệu ra và thấy bên trong chứa rất nhiều trang, mỗi trang mô tả chi tiết về các thành viên của nhóm như: tên, bộ phận, chuyên môn. Mặt trời đã khuất sau đường chân trời và căn phòng trở nên tối hẳn. Để đọc được những tài liệu đó, Gabriel phải rướn người về phía bên trái và giữ những trang tài liệu ngay dưới những chiếc đèn halogen° trên tường. Sau một hồi lâu, anh ngước mắt lên nhìn Lev.

“Chỉ còn thiếu những đại diện của Hadassah và Liên đoàn thể thao Maccabee”. Gabriel ném một tia nhìn sắc lạnh về phía Lev như ném một viên đá với tốc lực của một chiếc tàu hàng.

“Ý anh là sao, Gabriel?”

“Quá đông. Vướng tay vướng chân”. Có vẻ như Gabriel hiểu rằng Lev muốn anh nói rõ ý mình hơn. “Tôi có thể tiến hành điều tra với một đội gồm nửa số người này”.

Lev miễn cưỡng vẫy tay đồng ý để Gabriel hạn chế bớt số lượng người trong đội. Gabriel bắt đầu loại bỏ một số hồ sơ và đặt chúng lên bàn cà phê. Lev nhau mày. Việc Gabriel cắt giảm một nửa số người này nghiễm nhiên hạ thấp vai trò cung cấp thông tin của Lev.

“Thế này sẽ tốt hơn”, Gabriel nói, đưa lại tập hồ sơ nhân sự cho Lev. “Chúng tôi cần địa điểm để họp bàn. Văn phòng của tôi thì quá nhỏ”.

“Bộ phận quản lý đã chuẩn bị sẵn phòng 456C rồi đấy”.

Gabriel biết rõ căn phòng này. Nó nằm ở tầng hầm thứ 3, phòng 456C. Nó chẳng có gì ngoài một cái sàn đổ nát với những chiếc ghế cũ kỹ, thiết bị máy tính hỏng, và thường bị những nhân viên trực đêm dùng cho những cuộc mây mưa của họ.

“Tốt thôi”, Gabriel nói.

Lev bắt chéo chân lại và nhặt lấy một sợi tơ nhỏ xíu trên quần ra. “Anh chưa bao giờ làm việc tại Tổng hành dinh, đúng không Gabriel?”

“Ông biết rõ tôi làm ở đâu mà”.

“Đó là lý do vì sao tôi cần phải nhắc anh vài điều. Bất kỳ một tiến triển nào trong cuộc điều tra của anh đều không được nói cho bất cứ ai biết ngoài cơ quan tình báo. Và anh phải báo cáo cho tôi, chỉ tôi thôi. Anh rõ chứ?”

“Tôi nghĩ ông đang ám chỉ đến người bạn già đã từng làm ở đây”.

“Anh biết rõ tôi đang nói đến ai”.

“Xét về mối quan hệ cá nhân, Shamron và tôi là bạn thân. Tôi sẽ không phá hỏng mối quan hệ này chỉ để làm ông hài lòng”.

“Nhưng anh vẫn phải hạn chế bàn luận vụ này với ông ta. Tôi nói thế anh đã hiểu rõ rồi chứ?”

Dù là tay ăn trắng mặc trơn, không phải đổ tí xương máu nào cho các cuộc chiến đấu, nhưng Lev lại là tay sừng sỏ trong các cuộc đấu khẩu với các sĩ quan cấp cao.

“Rõ rồi, Lev”, Gabriel nói. “Tôi biết rõ vị trí của ông mà”.

Lev đứng thẳng người dậy, ra vẻ cuộc nói chuyện đã kết thúc, nhưng Gabriel vẫn ngồi yên.

“Còn vài việc tôi muốn bàn thêm với ông”.

“Thời gian của tôi hạn hẹp lắm”, Lev nói, mắt nhìn xuống.

“Không lâu đâu. Chuyện về Chiara”.

Lev thản nhiên quay về chỗ ngồi, ông ta tiến đến gần cửa sổ và nhìn xuống những ánh đèn ở Tel Aviv. “Cô ấy thì sao?”

“Tôi không muốn cô ấy tiếp tục bị lợi dụng cho đến khi chúng ta xác định được ngoài cô ta ra, còn ai đã nhìn thấy nội dung của chiếc đĩa dữ liễu đó”.

Lev xoay người chầm chậm, trông như một bức tượng đang di chuyển trên đế xoay. Với ánh sáng mờ nhạt sau lưng, trông ông không khác nào một chiếc mặt nạ tối tăm tựa vào mép bức rèm.

“Tôi lấy làm mừng vì anh cảm thấy đủ thoải mái đến văn phòng này chỉ để nói ra những yêu cầu của mình”, ông ta nói với vẻ gay gắt, “nhưng tương lai của Chiara sẽ do nhóm điệp vụ và dĩ nhiên, trên hết, là do tôi quyết định”.

“Cô ta chỉ là một nữ trợ thủ tình báo. Phải chăng ông đang cố tình nói với tôi rằng ông không thể kiếm một cô gái nào khác để tháp tùng?”

“Cô ta có được tấm hộ chiếu Ý, và lại làm rất tốt công việc của mình. Anh biết đấy, tốt hơn bất cứ ai”.

“Lev, rồi cô ấy cũng sẽ bị cho nổ tung. Nếu ông giao trọng trách điệp viên cho cô ấy thì ông đã đẩy cô ấy đến bờ vực nguy hiểm. Tôi sẽ không hợp tác với cô ấy nữa”.

“Cũng may là hầu hết các nhân viên điều tra hiện trường của chúng ta không hề kiêu ngạo như anh”.

“Tôi chẳng biết một tay nhân viên điều tra hiện trường tài giỏi nào lại không kiêu ngạo cả, Lev ạ”.

Một bầu không khí nặng nề bao trùm hai người. Lev tiến đến bàn làm việc và nhấn nút điện thoại. Cánh cửa tự động mở ra, và một luồng ánh sáng hắt lại từ khu vực tiếp tân.

“Kinh nghiệm cho thấy hầu hết các nhân viên mật vụ đều không hoàn toàn tuân thủ theo các quy định do Văn phòng đưa ra. Ở hiện trường, họ tự làm ra luật, nhưng ở đây, tôi mới là người ban hành luật”.

“Tôi sẽ cố gắng nhớ lấy điều này, thưa sếp”.

“Đừng có chế nhạo như thế”, Lev nói với theo khi Gabriel hướng về phía cửa. “Nếu anh cứ thế này, thậm chí ngay cả Shamron cũng không thể bảo vệ được anh”.

Ngay sáng hôm sau, họ tập trung tại phòng 456C để họp lúc 9 giờ. Nhân viên vệ sinh cũng chẳng màng đến việc dọn dẹp phòng ốc lại cho gọn gàng. Trong phòng có một chiếc bàn gỗ đã cũ dựng ngay chính giữa, vài cái ghế ngổn ngang xung quanh. Phía xa, gần bức tường, những mảng vôi vữa thừa vung vãi. Vừa bước vào căn phòng, Gabriel chợt nhớ ngay đến những chiếc ghế dài dựng sát tường ở nhà thờ San Giovanni Crisostomo. Mọi thứ sắp đặt trong căn phòng này chỉ là tạm bợ, kể cả những xấp tài liệu để lộn đầu bừa bãi, và cả tấm biển treo ngoài cửa ra vào cũng vậy: PHÒNG HỌP TẠM THỜI DÙNG ĐỂ ĐIỀU TRA CÁC VỤ KHỦNG BỐ TÂY ÂU. Gabriel ngán ngẩm nhìn bao quát toàn bộ đống hỗn độn. Nhưng biết đâu lại như Shamron đã từng nói, trong cái rủi lại có cái may.

Đội của anh có tất cả bốn người, hai nam, hai nữ, tất cả bọn họ đều rất hào hứng, nhiều tham vọng, và trẻ tuổi đến không ngờ. Yossi được cử đến từ bộ phận Nghiên cứu, đó là một người có bộ óc phân tích siêu phàm và đã đọc hết quyển Greats của Oxford; tiếp theo là cô gái mắt sẫm màu tên Dina, đến từ bộ phận Lịch Sử, người có thể thuật lại từng chi tiết từ thời gian, địa điểm, và nạn nhân của mọi vụ khủng bố bị kết án ở toà án Israel. Cô bước đi hơi tập tễnh, và những người xung quanh luôn đối xử với cô thật dịu dàng. Gabriel biết rõ nguyên do tại sao Dina lại bị tập tễnh như thế nhờ vào tập hồ sơ cá nhân của cô. Thực tế là Dina đã đứng tại ngay con đường Tel Aviv Dizzengoff vào một ngày tháng 10 năm 1944, khi một tên đánh bom tự sát Hammas biến toàn bộ chiếc xe buýt số 5 thành một nấm mồ chôn sống hai mươi mốt người trong đó. Cả mẹ và hai người em gái của cô cũng chết trong vụ nổ bom thảm khốc này. Dina bị chấn thương khá nặng.

Hai thành viên khác của nhóm không thuộc Văn phòng. Bộ Ngoại giao Arập của Shabak đã gửi cho Gabriel một tay bất trị tên Yaakov, trong suốt gần mười năm qua, anh ta đã luôn cố gắng trà trộn vào bộ máy khủng bố đáng sợ của những người Palestine cực đoan. Cục tình báo quân đội còn gửi cho Gabriel một đội trưởng tên Rimona, là cháu gái của Shamron. Lần cuối cùng Gabriel thấy Rimona là lúc cô này đang khóc to nhưng không hề sợ hãi lái chiếc xe ba bánh lao thẳng xuống con dốc nhà Shamron. Giờ đây, Rimona có lẽ đang ở đâu đó trong khu tập kết máy bay ở phía bắc Tel Aviv, mải mê nghiên cứu những hồ sơ lấy được từ phía cơ quan tình báo khủng bố Arập tại Ramallah.

Theo bản năng, Gabriel tiếp cận vụ điều tra được giao như ngắm nghía một tác phẩm hội họa. Nó khiến anh nhớ lại bức tranh mình đã phục chế không lâu sau khi kết thúc quá trình tập sự. Đó là bức vẽ Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá của một họa sĩ Cima, đến từ Venice giai đoạn đầu thời kỳ Phục Hưng. Sau khi làm sạch lớp vécni phủ bên ngoài, Gabriel phát hiện ra rằng gần như không còn sót lại chút vết tích nào của tác phẩm nguyên thủy. Sau đó anh đã phải chắp nối những mảnh vụn về cuộc đời và tác phẩm của người họa sĩ. Cuối cùng khi bắt tay vào phục chế bức tranh, anh cảm nhận được như có Cima bên cạnh để chỉ dẫn mình.

Trong trường hợp này, tay họa sĩ là một thành viên trong nhóm khủng bố và đã bị nhận dạng rõ ràng: Daoud Hadawi. Hiện Hadawi đang là kẻ ngáng đường, và chỉ mấy ngày sau, sơ lược về cuộc đời hắn đã in sâu vào tâm trí Gabriel. Hắn lớn lên từ một trại tị nạn ọp ẹp ở Jenin, tham gia vào các cuộc bạo động ném đá và đánh bom xe trong cuộc nổi dậy vũ trang lần thứ nhất, và được chọn vào Lực lượng 17. Không một ngóc ngách cuộc đời nào của Hadawi mà Gabriel không tìm hiểu: thời đi học, tín ngưỡng, gia đình, người thân, bè phái và sức ảnh hưởng của hắn ta.

Các thành viên của Lực lượng 17 đều bị điểm mặt và xác định nơi ẩn náu. Những tên sở hữu hoặc được trang bị kỹ năng cần thiết để tạo ra quả bom đã san bằng Lãnh sự quán Úc được đặc biệt chú ý. Những tay cung cấp thông tin người Arập rải rác từ vùng Ramallah đến Dải Gaza, từ Rome đến Luân Đôn đều được triệu tập để tra hỏi. Thông tin liên lạc đứt quãng suốt hai năm qua nay được máy tính sàng lọc và tách riêng những dữ liệu có liên quan đến mạng lưới hoạt động rộng khắp ở Châu Âu. Các báo cáo hiện trường được xem xét lại, danh sách hành khách đi máy bay bị lục tung thêm lần nữa. Rimona trở lại căn cứ riêng của mình mỗi sáng để tìm kiếm manh mối về Rome trong xấp hồ sơ lấy được từ cơ quan tình báo khủng bố Arập.

Ngày qua ngày, căn phòng 456C càng giống như căn cứ của đội quân bị vây hãm. Những hình ảnh được ghim đầy trên tường và có vẻ như những hoạt động của họ tại văn phòng này đang bị dòm ngó bởi một đám đông người Arập. Các cô gái trở ra từ phòng dữ liệu đã tận dụng lối thoát ở bên ngoài hành lang để chất hồ sơ. Gabriel thì trưng dụng căn phòng kế bên cùng với giường chõng và chăn mền. Anh còn yêu cầu một tấm bảng đen và giá đỡ. Yossi mỉa mai phát biểu rằng chưa có ai tìm thấy được tấm bảng đen nào trong Văn phòng ở đại lộ King Saul suốt hai mươi năm qua. Và để “tặng thưởng” cho lời phát biểu đường đột đó, cô được yêu cầu phải đi tìm nó về. “Tôi phải chạy đi hỏi khắp nơi”, Yossi nói. “Dụng cụ sẽ có trong tuần sau”.

Hàng ngày Gabriel bắt đầu cuộc họp với một loạt nghi vấn: Ai đã chế tạo quả bom? Ai đã âm mưu và vạch kế hoạch tấn công? Ai cầm đầu? Ai đảm bảo nơi trú ngụ và phương tiện di chuyển? Ai chi tiền? Ai là kẻ chủ mưu? Liệu có sự hậu thuẫn của chính quyền các Thủ đô Đamát, Tehran hoặc Tripoli hay không?

Kết thúc một tuần dài điều tra mà vẫn không có câu hỏi nào được giải đáp. Mọi người bắt đầu hoang mang. Gabriel chỉ đạo thay đổi phương thức tiếp cận khác. “Đôi khi ta có thể giải những bài toán hóc búa nhờ vào các manh mối phát hiện được, nhưng đôi khi chúng còn được giải đáp bằng việc tìm kiếm những manh mối còn thiếu”. Anh đứng trước tấm bảng đen và lau nó cho đến khi sạch bóng. “Hãy bắt đầu tìm kiếm những manh mối còn thiếu”.

Họ ăn tối cùng nhau, ấm cúng như một gia đình. Gabriel động viên mọi người hãy tạm gác lại việc điều tra và nói sang chuyện khác. Anh nghiễm nhiên trở thành tâm điểm chú ý của mọi người. Họ tìm hiểu những chiến tích lẫy lừng của anh và thậm chí có những sự kiện đã đi vào sử sách mà họ đã từng học. Lúc đầu anh chỉ khiêm tốn lắng nghe. Nhưng những lời tán dương ấy đã kéo anh ra khỏi vỏ bọc của mình và lặp lại vai diễn mà Shamron đã từng đóng trước mặt anh không biết bao nhiêu lần. Anh kể họ nghe về tổ chức Tháng Chín Đen và Abu Jihad; cuộc đột nhập vào tòa thánh Vatican và cuộc truy bắt Erich Radek. Rimona thắc mắc về công việc phục chế tranh dùng để ngụy trang cũng như cách thức anh che giấu tung tích. Yossi bắt đầu hỏi về vụ nổ bom ở Vienna, nhưng Dina, vốn là chuyên gia nghiên cứu về khủng bố và chống khủng bố, đã kịp chạm tay ngăn cô lại và tế nhị chuyển sang đề tài khác. Trong khi nói, Gabriel thỉnh thoảng bắt gặp ánh mắt đầy ngưỡng mộ của Dina như thể anh chính là hiện thân của một anh hùng lịch sử. Anh chợt nhận ra rằng, mình cũng như Shamron trước đây, được vượt qua ranh giới giữa cõi chết và hư vô.

Đề tài về Radek kích động họ nhất. Gabriel hiểu vì sao. Họ đang sống trong một đất nước bất ổn ngay cả khi dùng bữa trong nhà hàng hay đi trên xe buýt. Cơn ác mộng về nạn tàn sát người Do Thái cứ ám ảnh họ mỗi đêm. Có thật là anh đã đặt chân đến trại thảm sát Treblinka? Anh đã chạm mặt hắn ta? Làm thế nào anh có thể chịu đựng nổi giọng điệu của hắn ta tại nơi đó? Có phải anh đã từng ao ước sẽ tự tay bắt hắn? Yaakov chỉ hỏi một câu duy nhất: “Hắn có xin lỗi vì đã sát hại ông bà của chúng ta không?”. Dù muốn nói là có, nhưng Gabriel buộc phải nói ra sự thật. “Không, hắn ta không hề xin lỗi. Thậm chí tôi còn bị sốc mạnh khi thấy hắn còn tỏ ra rất tự hào về điều đó”. Yaakov miễn cưỡng gật đầu, như thể sự thật đó chỉ làm tăng thêm cái nhìn bi quan của anh về sự bình đẳng giữa con người.

Vào ngày Shabbat, ngày lễ cuối tuần của người Do Thái, Dina thắp hai ngọn nến và cầu nguyện. Tối hôm đó, thay vì tiếp tục đào sâu quá khứ u ám của Gabriel, họ nói về tương lai. Yaakov chỉ mong muốn được ngồi trong quán cà phê nào đó ở Tel Aviv mà không còn nỗi ám ảnh bởi các vụ vụ đánh bom tự sát. Yossi ao ước làm một chuyến vi hành khắp thế giới Arập từ Marốc cho đến Bátđa. Ước mơ của Rimona là mỗi sáng bật đài phát thanh, cô không còn nghe thấy bất kỳ người nào bị sát hại. Còn Dina? Gabriel tự hỏi liệu ước mơ của cô có giống mình không? Anh ước mơ một căn phòng chiếu phim riêng biệt, tràn ngập hình ảnh máu và lửa.

Sau buổi ăn tối, Gabriel khẽ rời khỏi phòng và đi dạo dọc hành lang. Anh gặp một cái cầu thang, anh leo lên rồi sau đó bị mất phương hướng. Anh tìm được đường ra nhờ sự chỉ dẫn của nhân viên trực đêm. Cửa ra vào đã bị khóa. Gabriel loay hoay xuất trình tấm thẻ ID mới được cấp nhưng nhân viên an ninh chỉ cười xòa và mở cửa cho anh.

Căn phòng lạnh tanh, mờ mờ ảo ảo dưới ánh sáng phát ra từ những chiếc máy vi tính. Các sĩ quan trực đêm di chuyển nhẹ nhàng trong những chiếc áo len bằng lông cừu. Gabriel leo lên đài quan sát và tựa người vào lan can. Trước mặt anh là tấm bản đồ thế giới vi tính đồ sộ, cao 3m, rộng 9m. Khắp bản đồ rải rác những chấm sáng đèn đánh dấu nơi ẩn nấu gần đây nhất của những tên khủng bố trong danh sách truy nã của Israel. Đốm sáng tập trung dày đặc ở vùng Đamát và Bátđa, thậm chí ngay cả ở những nơi vốn được xem là yên bình như Amman và Cairo. Có một dải chấm sáng kéo dài từ Beirut xuống thung lũng Bekaa đến các trại tị nạn dọc biên giới Israel. Riêng Bờ Tây và Dải Gaza sáng rực những chấm đèn. Một vòng tròn điểm sáng bao quanh khu vực Châu Âu trông như sợi dây chuyền kim cương. Các thành phố Nam Mỹ cũng sáng rực.

Gabriel chợt nhận thấy một cảm giác suy sụp đang đè nặng lên đôi vai. Anh đã hi sinh cuộc đời mình vì sự nghiệp bảo vệ Nhà nước và dân tộc Do Thái, nhưng giờ đây, ngay chính trong căn phòng lạnh lẽo, anh phải đối mặt với một sự thật phũ phàng về giấc mơ phục quốc Do Thái: một người đàn ông đã đến độ tuổi trung niên đang nhìn chằm chằm những đốm sáng đánh dấu kẻ thù và chờ đợi kẻ đánh bom tiếp theo.

Dina đang đợi Gabriel ở hành lang với đôi chân mang tất.

“Tôi có cảm giác rất quen thuộc, Gabriel”.

“Về cái gì?”

“Về cách họ thực hiện vụ đánh bom vừa qua. Cách thức tổ chức. Lên kế hoạch. Đặc biệt là sự liều lĩnh. Giống như vụ đánh bom ở Munich và Sabena”. Cô ngừng lại và vén lọn tóc mai. “Có vẻ đây là hành động của tổ chức Tháng Chín Đen”.

“Không có tổ chức Tháng Chín Đen nào ở đây, Dina - ít nhất là không còn tổ chức khủng bố nào như vậy nữa”.

“Anh yêu cầu chúng tôi tìm kiếm những yếu tố còn sót. Anh đã nghĩ đến Khaled chưa?”

“Khaled chỉ là tin đồn. Chỉ là câu chuyện ma quái”.

“Tôi tin có sự tồn tại của Khaled” cô nói. “Khaled đã khiến tôi bật tỉnh giữa đêm”.

“Cô có linh cảm ư?”

“Một giả thuyết”, cô đáp, “và có vài chứng cứ xác minh. Anh có muốn nghe không?”

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương