Giai Điệu Của Annie
-
Chương 25
Ba tuần sau đó, khi Alex tiễn chân Annie và bà Maddy ở ga Medford, trời buổi sáng lạnh lẽo, u ám và ẩm ướt, phản ánh đúng tâm trạng mà ít nhất cũng là thê lương của anh. Anh đã hãi hùng khoảnh khắc này hơn hai tháng qua, không muốn đối mặt với nó, và đáng lẽ anh đã phải nghĩ ra hàng chục lý do hoàn toàn hợp lẽ để thay đổi hẳn ý định, rồi đưa vợ con về nhà.
“Hai người có vé chưa?”
Cau mặt, Alex nhận ra mình đang gào lên, cố át tiếng động cơ xe lửa để Annie có thể nghe được tiếng anh nói. Đưa tay xuống bên dưới những lớp áo choàng len thật dày của cô, anh nắm lấy tay và kéo cô dừng lại, ngả người để cô thấy được mặt mình khi anh nhắc lại câu hỏi. Cô mở chiếc túi lụa xanh, nhỏ nhắn, đính đầy hạt cườm đen ra, và bắt đầu mò tìm trong mớ đồ lộn xộn. Alex thoáng thấy thứ gì đó nhỏ nhỏ, nâu nâu đang ngọ nguậy trong đống giấy má. Trước khi anh kịp xác định xem nó là cái gì hay cần phải phản ứng ra sao thì vật đó đã nhảy xổ ra.
“Khuu… ôong!”, Annie thét lên.
“Chúa ơi!”, Alex rủa.
“Chuột!”, một quý bà mũm mĩm hét toáng lên.
Từ lúc đó trở đi, tất cả trở nên hoàn toàn rối loạn, phụ nữ kêu thất thanh và nhảy lên băng ghế, đàn ông giậm mạnh gót giày, cố nghiền nát con vật nhỏ bé đang nhốn nháo chạy. Alex nhảy vào trận chiến, không hoàn toàn chắc chắn rằng mình muốn làm cái gì, ngoại trừ việc hành động như một kẻ điên. Vì tất cả những tiếng ầm ĩ và nhặng xị, anh không chắc rằng con chuột đáng thương đó sẽ chịu đứng yên để anh bắt. Nhưng khi ánh mắt tôn sùng của Annie dán chặt vào anh và nét mặt cô ngợi ca anh như một người hùng thì anh không thể cứ đứng lì ra đấy.
Con chuột núp giữa thùng rác và cây cột trụ, phía bên trên, một người phụ nữ vừa dùng một tay túm váy xung quanh đầu gối, vừa lấy túi xách quật như điên dại vào chỗ con chuột đang ẩn nấp. Tất cả những gì Alex có thể nghĩ được là con thú cưng của Annie đang bị nện túi bụi đến chết ngay trước mắt cô. Anh lao vào giữa người phụ nữ và thùng rác, dùng vai mình ngăn cản các cú đập của bà ta. Khi ngón tay chạm đến cơ thể bé nhỏ lông lá đó, anh túm lấy nó không một chút thương tiếc. Hàm răng tí xíu cắm phập vào ngón trỏ của anh.
“Chúa ơi! Đồ chết tiệt vô ơn!”
“Ăn nói cho cẩn thận, thưa ngài!” Bốp. Cái túi của bà ta giáng thẳng vào tai anh. Vừa đứng thẳng người, Alex vừa giơ cánh tay ra để bảo vệ lấy mặt mình. “Sao ngài dám thả rông con chuột đó ở nơi công cộng chứ?”, bà ta gào lên. “Thiếu chút nữa là tôi suy tim mất rồi!”
Alex thấy bà ta có vẻ ổn. Anh né một cú quật túi nữa của bà ta. “Thưa bà, làm ơn ngừng quật cái túi đó vào tôi đi, được không?”
Bà ta thụi vào vai anh. “Quấy rối trật tự! Làm người vô tội kinh hãi! Và một người trưởng thành như ngài, không kém. Mấy trò tai quái đó phải bắt nguồn từ mấy đứa choai choai chứ. Vậy mà ngài? Tôi không ngại tố giác ngài đâu. Bọn gặm nhấm là loài nhiễm bệnh. Bệnh dại! Bệnh dịch! Sao ngài dám bắt người khác phải chịu…” Alex khum tay giữ con chuột vừa được cứu thoát vào ve áo choàng của mình. “Đây không phải là chuột thường đâu. Nó là”, anh tóm lấy từ đầu tiên nảy ra trong đầu, “loài gácmai(1) thuần chủng. Rất hiếm. Vợ tôi sẽ không bán nó để lấy một nghìn đô la đâu.”
(1) Trong văn bản gốc, Alex sử dụng từ ‘attica’ – lấy ý từ từ ‘attic’, nghĩa là ‘gác mái’.
Người phụ nữ chớp mắt. “Ngài nói là hiếm á?”
“Bà không biết đâu.”
Bà ta bĩu môi, làm đầu mũi mình bị kéo căng ra và hai cánh mũi bành ra. “Liệu tôi có hiểu đúng ý không khi ngài nói là con chuột này đáng giá một nghìn đô la?”
“Ngần ấy và hơn thế nữa.”
“Ôi, trời…” Bà ta chạm một tay vào cổ họng. “Ôi, tôi thật sự xin lỗi. Thoạt nhìn, trông nó không khác gì một con chuột bình thường.”
“Thưa bà”, Alex vừa nói, vừa nở một nụ cười điêu luyện, “chỉ có một kẻ điên mới chạy bừa quanh nhà ga để cố bắt một con chuột thường mà thôi. Hãy cảm tạ những ngôi sao may mắn của bà vì đã không làm con chuột này bị thương nặng”.
Bà ta nhướng đôi lông mày kẻ chì lên và ngả người sang bên để ngó qua bàn tay đang khum lại của anh. “Thật ư? Loài gácmai sao? Ngài biết đấy, giờ ngài nói đến, tôi mới nhớ là mình đã nghe qua. Thực tình, tôi nghĩ mình thấy một con được trưng bày ở hội chợ năm ngoái. Ồ, vâng, tôi chắc chắn... một con thuộc loài gácmai. Đúng rồi, đúng là nó. Thật hết sức lạ thường!”
“Tôi có thể nói với bà rằng bà sẽ không thấy nhiều người mang theo một con như thế này quanh đây đâu.”
Bà ra hiệu cho một người đàn ông mảnh khảnh, bé nhỏ đứng gần đó. “Horace, lại đây xem này. Ngài đây có một con chuột gácmai. Ngạc nhiên không? Chúng ta đã thấy một con ở hội chợ năm ngoái, nhớ không?”
Vuốt vuốt bộ ria và lắc lư qua lại trên gót giày, ông Horace trông có vẻ ngạc nhiên khi nghe điều đó. “Hừm... à, đúng rồi. Một con chuột loài... bà vừa nói gì nhỉ?”
“Một con chuột loài gácmai! Chúng quý giá vô kể. Ông nhớ mà.” Bà ta lại gần Alex. “Tôi xem được không?”
Vài người khác tụ tập quanh đó. Alex khum khum hai tay giữ lấy con chuột và hé ngón cái ra để người phụ nữ ngó vào được. Bà ta ra chiểu hiểu biết và gật đầu. “Ồ, đúng rồi. Nhìn kỹ hơn, tôi thấy nó đúng không phải là chuột thường. Đôi tai của con chuột loài gácmai thuần chủng này khá đặc biệt, đúng không?”
Một quý ông ăn mặc lượt là rướn người qua vai bà ta để nhìn con chuột. “Cái mũi nó cũng khá đặc biệt. Lạy Chúa, một con chuột loài gácmai. Thật là một phép lạ khi mấy kẻ ngu dốt không nghiền nát nó.”
“Ôi, nó có dễ thương không?”, một người phụ nữ khác kêu lên. “Paul, em muốn có một con loài này. Thật là một con vật gây nhiều sự chú ý. Ngài đã lùng sục mua được cục cưng này ở đâu vậy, thưa ngài?”
“Thật sự thì tôi không mua”, Alex đáp lại. “Bà có thể nói là tôi kiếm được nó qua một mối quan hệ đặc biệt. Các mối kết giao, bà biết đấy. Như tôi đã nói rồi đấy, không phải ai cũng có một con đâu.”
Ngay sau đó, Annie lao tới. Alex nhường con chuột lại cho cô. Cô đưa nó lên má, phát ra âm thanh gù gù khe khẽ. Không một ai trong số những người xem có vẻ nghĩ rằng điều này thật lạ và không phải lúc này khi mà họ biết rằng con chuột này là loài gácmai đắt đỏ và quý hiếm.
Alex biết lúc nào phải rút lui. Anh tóm lấy cánh tay Annie và vội vàng đi khỏi đó. Nhận ra bà Maddy đang đứng gần bậc thang lên xe lửa, anh chuyển sang hướng đó. “Cậu đã bắt được con chuột đẹp đẽ đó rồi chứ?”, bà hỏi khi hai người trở về bên cạnh mình.
“Nói khẽ thôi”, Alex thì thầm. “Người phụ nữ đằng kia suýt nữa đòi mời chính quyền đấy. Bà ta nói chuột là mối nguy hại cho sức khỏe, và của tất cả những thứ điên rồ.”
“Chà, tôi sẽ không bao giờ!”, bà Maddy gắt gỏng.
“Từ giờ trở đi, nó là chuột giống gácmai. Rất hiếm, rất đắt. Bằng không sau đó, họ có thể sẽ phát hiện ra và tống khứ hai người khỏi tàu đấy.”
Bà Maddy nhìn sang Annie, cô đang cẩn thận đặt con thú cưng của mình trở lại túi xách. “Chúng ta không thể mang thứ này đi được.”
“Không, chúng ta không thể làm thế.”
“Một con chuột giống gácmai.” Bà Maddy gật đầu. “Có vẻ thú vị đây. Con cầm vé chưa?”
Tim Alex nhảy lên khi anh thấy Annie lại mở chiếc túi nhỏ ra để lấy vé, nhưng lần này, cô dùng một tay nắm con chuột trong khi tìm kiếm. Lúc cô tìm được chiếc vé đã thanh toán, anh gần như thở phào nhẹ nhõm. Nếu cô và bà Maddy lỡ tàu, thì ngày mai họ mới đi Albany được. Dù muốn giữ hai người ở nhà thêm một ngày nữa nhưng anh không nghĩ mình có thể chịu được việc nói tất cả những lời tạm biệt đó thêm một lần nữa. Đêm qua, ôm Annie trong tay thật sự rất đau đớn khi anh không biết phải bao lâu nữa mình mới được gặp lại cô.
Sau khi lấy được vé, Alex muốn chắc chắn rằng cô đã giấu con chuột đi một cách an toàn. “Trên tàu đừng có bỏ nó ra nhé”, anh cảnh báo cô. “Không phải ai cũng yêu mến”, anh hạ thấp giọng, “chuột đâu, em biết đấy. Kỳ thực, một số người còn cảm thấy hết sức kỳ quái về chúng nữa”.
“Tất cả lên tàu!”, vị trưởng tàu la lớn.
Alex nắm lấy cánh tay Annie, kéo cô đuổi kịp bà Maddy đang lên tàu theo lời kêu gọi của vị trưởng tàu.
“Tất cả lên tàu! Tất cả lên tàu!”, vị trưởng tàu tiếp tục la lớn.
Khi hai người đuổi kịp bà Maddy. Alex nhét vé vào tay bà và bế lấy bé Bart từ tay bà để ôm con lần cuối. Những giọt nước mắt bỏng rát khi anh dí mũi bên miếng mền và áp má vào mái tóc tơ của con. Đưa đứa con bé bỏng cho bà quản gia đang dang tay chờ đợi xong, anh quay sang Annie. Miệng cô run run và đôi mắt ngấn lệ.
“Anh sẽ viết thư”, anh cam đoan. “Sẽ không tệ đâu em yêu. Rồi em sẽ thấy. Một khi bắt đầu đi học, em sẽ rất thích đấy.”
Cô gật đầu, trông thật ảo não và đau khổ, đến độ anh phải gắng hết sức để không ngừng tất cả lại.
“Anh yêu em, Annie yêu dấu. Anh sẽ nhớ em từng phút, từng giây.”
Đầu mũi cô bắt đầu chuyển sang màu đỏ. Alex cúi xuống hôn lên chóp mũi cô rồi ôm cô vào lòng. Anh nhắm mắt lại, áp mặt vào mái tóc cô, và nặng nhọc hít một hơi thật sâu, cố gắng ghi nhớ mùi hương của cô.
“Em không muốn đi”, cô nói.
Vờ không để ý, Alex hôn lên trán cô. Rồi quay sang bà Maddy. “Vú sẽ viết thư chứ? Ít nhất là tuần một lần.”
“Nhất định rồi. Tôi nói với cậu rồi đó, cậu Alex, tôi sẽ viết cho cậu hằng tuần, không ngơi nghỉ!” Bà vú đưa vé cho vị trưởng tàu, rồi một tay ẵm đứa bé, một tay nắm lấy eo Annie. “Đi nào, con gái ơi. Họ sắp bỏ hai ta mà đi rồi.”
“Nếu có bất cứ chuyện gì không ổn, hãy đánh điện cho tôi. Tôi sẽ đến đó sớm nhất có thể.”
“Không phải lo”, bà Maddy nói lớn. “Tôi sẽ đánh điện nếu chúng tôi cần cậu.”
Alex cắn chặt răng và đưa mắt sang nhìn Annie. Đôi mắt to xanh biếc dán chặt lấy anh. Khi bà Maddy bước lên bậc thang xe lửa, Annie nghển cổ quay lại nhìn anh. Anh giơ tay vẫy vẫy. Rồi, cứ như thế, cô biến mất.
Anh bước dọc theo xe lửa, tìm kiếm gương mặt cô trong những ô cửa sổ. Con tàu bắt đầu lăn bánh. Anh rảo bước nhanh hơn, kiếm tìm trong tuyệt vọng, nhất quyết phải được nhìn thấy gương mặt cô lần nữa. Chỉ một lần thôi. Khi xe lửa đã chạy thật xa, anh lảo đảo dừng lại, trân trối nhìn từ phía sau, cảm giác bơ vơ hơn bất cứ lúc nào trong đời.
***
Khi Alex trở về Montgomery Hall, căn nhà lặng ngắt như tờ. Cảm giác cô đơn khôn tả xiết, anh lang thang từ phòng này qua phòng khác, tìm kiếm hình bóng của Annie hay con trai ở bất cứ đâu mình đặt chân tới. Đi cả rồi. Anh trở về thư phòng và ngồi trước lò sưởi, đưa mắt nhìn đăm đăm vào khung lò sưởi bám đầy bồ hóng, và những nghĩ suy, rằng bóng tối chính là một điềm báo, bất chợt tìm tới anh. Họ đã đi rồi, và chẳng còn chút cơ hội nào là họ sẽ quay trở lại. Anh phải chấp nhận sự thực đó dù có khó khăn đến thế nào đi nữa.
Ông quản nô Frederick đưa tay gõ cửa thư phòng. “Cậu có muốn tôi lấy cho cậu thứ gì không, cậu Alex? Một tách cà phê chẳng hạn? Hay gọi một cô hầu gái mang bữa trưa lên cho cậu?”
Alex thở dài. “Tôi thực sự không thấy đói, chú Frederick ạ. Dù sao cũng cảm ơn chú.”
Ông quản nô bước vào sâu hơn. Khi tới cạnh lò sưởi, ông làm một việc mà mình chưa từng làm và ngồi lên chiếc ghế đối diện. “Tôi biết chuyện này không thể nguôi ngoai được, nhưng cậu đã làm đúng, cậu chủ ạ. Thật khó, tôi biết. Nhưng cuối cùng, đó sẽ là điều tốt nhất cho mợ, và cho cả đứa bé.”
Lời công nhận này là niềm an ủi nho nhỏ. Alex không nói gì.
“Bà Maddy sẽ viết thư thường xuyên, tôi chắc chắn thế. Và chẳng mấy chốc, mợ Annie sẽ gửi thư về.”
Alex gật đầu. “Tôi cho rằng sau này sẽ dễ dàng hơn. Nhưng cũng phải mất một thời gian trước khi cô ấy học được cách đọc và viết, chú Frederick à.”
“Vâng thưa cậu, tôi biết mà.” Người đàn ông im lặng một lúc, đưa hai tay ra phía lò sưởi như thể để sưởi ấm dù trong thanh chắn không hề có lửa. “Cậu cần có một vài kế hoạch để làm mình bận rộn. Một thứ mà hai chúng ta có lẽ phải dành cả tâm trí để thực hiện nữa là chiếc lồng chuột. Tôi ghét phải phàn nàn, nhưng từ khi mợ Annie bật hết các bẫy trên gác mái thì nhà chúng ta đang bị bọn chuột hoành hành. Sáng nay còn có phân chuột trong bột nữa, tôi không nói sai đâu.”
“Lạy Chúa. Tôi hy vọng là chú vứt đống bột đó đi rồi.”
“Chà, thưa cậu, không hoàn toàn. Vì bọn chuột xem ra khá thích thú với đống bột đó, nên tôi, ừm... đã mang lên trên gác rồi. Tôi nghĩ có thể... ừm, nếu có thức ăn ở trên đó, biết đâu chúng sẽ không còn vào bếp nữa.”
Alex rên lên và xoa xoa trán. Rồi anh cười nhạt. “Chú Frederick ơi, điều đó thật điên rồ. Cho lũ chuột gác mái ăn ư? Chú có biết chúng sẽ sinh sôi nảy nở nhanh đến thế nào không? Tôi không nhớ con số chính xác đã được học ở trường đại học, nhưng hệ số nhân là vô độ đấy.”
“Tất nhiên là cậu đúng. Chuyện cho chuột ăn khá điên rồ.” Ông liếc nhìn Alex. “Tôi sẽ để cậu đặt lại mấy cái bẫy nếu cậu tốt bụng đến vậy.”
Alex lại kêu lên. “Tôi không làm được đâu. Chắc như đinh đóng cột, tôi sẽ bẫy phải loài vật yêu thích của cô ấy mất. Có thể chú có lý. Tôi sẽ phải đóng một cái lồng cho bọn chúng.” Nhớ lại sự cố ở nhà ga, anh kể chi tiết câu chuyện cho ông Frederick. “Có lẽ chúng ta có thể kinh doanh và bán bọn chuột đáng ghét này”, anh đùa cợt. “Năm trăm một con. Một món hời làm sao!”
Ông Frederick nhoẻn miệng cười. “Tôi rất sẵn lòng tống chúng đi, thưa cậu.”
“Không vấn đề gì. Đáng lẽ tôi đã có thể tống khứ được hơn hai chục con sáng nay một cách dễ dàng. Thật khó tin phải không? Nói với người ta cái gì đó là quý hiếm và đắt giá, rồi ngay lập tức họ muốn một cái.”
Khi Alex lại rơi vào im lặng, ông Frederick nói, “Nếu cậu muốn giúp đóng lồng thì tôi cầm sẵn búa và đinh rồi.”
“Cảm ơn chú Frederick. Tôi rất cảm kích lời đề nghị của chú.”
“Sau khi dồn được lũ bạn bé nhỏ của mợ Annie, chúng ta có thể đặt lại đống bẫy chứ?”
“Ý kiến hay đấy.”
“Về chuyện chúng sinh sôi nảy nở, có lẽ tôi có thể”, ông quản gia đằng hắng và thấp giọng nói, “bí mật vứt bỏ mọi con chuột con không mong muốn”.
“Chúng ta sẽ phải làm gì đó”, Alex tán thành một cách yếu ớt, rồi đưa mắt trở lại nhìn lò sưởi.
“Đừng có phiền muộn nữa, cậu Alex. Đâu phải cậu không thể thăm mợ bất cứ lúc nào cậu muốn.”
“Không thể sớm được. Tôi cần cho cô ấy cơ hội để thích nghi hoặc là cô ấy sẽ tha thiết muốn về nhà, và nói khá thành thật là, tôi không biết liệu mình có thể từ chối cô ấy mà không cảm thấy như bây giờ hay không. Nhìn đâu cũng có thứ gì đó gợi tôi nhớ về cô ấy hay bé Bart. Tôi cứ nghĩ mãi về những gì mình sẽ bỏ lỡ. Thằng bé sẽ lớn rất nhanh trong khoảng thời gian giữa các cuộc viếng thăm, tôi chắc sẽ không còn nhận ra nó.” Điều thật sự làm Alex bận tâm là ngược lại, điều tương tự rõ ràng cũng có thể xảy ra. Chỉ nghĩ đến điều đó thôi cũng đủ làm tim anh gần như tan nát. Cuối cùng, anh đã có một đứa con trai, và giờ anh không thể góp phần vào những năm đầu đời của nó.
Ông Frederick thở dài và đứng dậy. “Nếu thỉnh thoảng cậu thích có cạ chơi cờ tướng thì tôi là một tay chơi khá cừ đấy.”
Lời đề nghị đó khiến Alex mỉm cười. “Chú nghe có vẻ cũng buồn chẳng khác gì tôi đâu.”
“Vâng, chà... Mọi thứ quanh đây có vẻ sẽ chẳng còn như cũ khi không có bà Maddy ca cẩm vào mặt tôi nữa, đúng không?”
Alex ngước lên. Sau khi nhìn vào mắt ông quản nô một lúc lâu, anh cười khùng khục. “Tôi chết mất thôi.”
Mặt ông Frederick ửng lên. “Tôi hy vọng cậu sẽ không mách lẻo với bà ấy. Chính tôi còn chưa kịp thổ lộ. Bà ấy có vẻ hơi... dễ cáu giận, bà Maddy của chúng ta ấy.”
“Tôi khóa miệng rồi.”
Ông quản gia chỉnh thẳng lại áo khoác đen của mình, rồi nhặt nhạnh vài xơ vải trên cánh tay áo. “Tôi nói chuyện đó chỉ vì...”, ông hắng giọng. “Ồ, thưa cậu, tục ngữ có câu đồng bệnh lắm lúc cũng tương lân, và không có liều thuốc Ireland cáu kỉnh ngày một lần để giữ cho cuộc đời thú vị thì tôi sẽ ít nhiều khốn khổ.”
“Lúc nào đó, tôi sẽ đi mấy chuyến đến Albany, chú muốn đi cùng chứ?”
Ông Frederick sụt sịt. “Đó thật là một ý tưởng hay, lịch làm việc của tôi cho phép mà.”
Sau khi ông quản nô rời đi, Alex đứng dậy khỏi ghế và thơ thẩn đi khắp phòng. Lúc tới chỗ cây đàn organ, anh lướt một tay lên bề mặt sáng bóng của nó. Rồi anh bước qua và dừng lại để gõ vài nhịp vào dàn chuông. Sau đó, anh tới bàn làm việc. Một trong những ống nghe của Annie nằm trên bảng giấy thấm. Anh nhặt lên, đăm đăm nhìn nó một lúc lâu, và rồi nhắm mắt lại trong đợt sóng đớn đau dữ dội đến nỗi làm anh cảm thấy cơ thể trở nên thật khó chịu.
Từ hôm đó trở đi, cuộc sống của Alex thu hẹp lại vào một vấn đề trọng tâm, đó là những bức thư từ bà Maddy. Một tuần rưỡi sau, lá thư đầu tiên đến. Anh giam mình trong thư phòng và run rẩy mở thư.
Chà, chúng tôi đã tới nơi, bà Maddy viết. Một nơi nhỏ như Albany vậy mà Annie đã cảm thấy khiếp sợ khi vừa mới đến đây, nhưng giờ con bé đang dần thích nghi và có vẻ rất thích lớp học của mình.
Alex nuốt xuống thật nhanh. Anh không muốn cô thích học ở đó, chết tiệt thật. Trước ý nghĩ ấy, một cảm giác tội lỗi bỗng cuộn xoáy trong anh. Anh ép mình đọc tiếp.
Các giáo viên đều có vẻ tốt bụng, và ngay trong ngày đầu tiên, con bé đã có một vài bạn mới. Tất nhiên là nó muốn về nhà. Chiều chiều, khi tôi đến trường để đón con bé, giáo viên có nói với tôi rằng Annie không ngừng biểu lộ khát khao được trở về. Tôi chắc chắn là cuối cùng con bé sẽ vượt qua được chuyện ấy, còn ngay lúc này thì thật khó cho nó, và cả cho tôi nữa. Tôi không khỏi thấy thương cảm cho con bé tội nghiệp.
Tiếp đó là thư cập nhật cho anh xem bé Bart thế nào và miêu tả thị trấn Albany bé nhỏ cùng căn nhà nơi Annie và bà Maddy đang sống. Alex đọc, đọc lại, và rồi lại đọc lần nữa. Tôi không khỏi thấy thương cảm cho con bé tội nghiệp.
Tiếp đó là thư cập nhật cho anh xem bé Bart thế nào và miêu tả thị trấn Albany bé nhỏ cùng căn nhà nơi Annie và bà Maddy đang sống. Alex đọc lại, đọc lại, và rồi lại đọc lần nữa. Đó là một lá thư ngắn, nên chẳng bao lâu anh đã nhớ hết mọi câu chữ.
Tin tức của Annie. Cập nhật về bé Bart. Alex biết điều này thật điên rồ, nhưng anh thực sự cảm giác rằng đó là tất cả lẽ sống còn lại của mình. Một buổi chiều, bà Edie Trimble ghé qua. Alex cho bà xem lá thư của bà Maddy. Đọc xong, bà ngước lên rồi run run mỉm cười.
“Ta biết con nhớ họ đến mức nào”, bà nói.
Alex không chắc điều ấy. Đâu phải chỉ là anh nhớ vợ con mình. Anh cảm giác như tim mình đang bị xé toạc ra khỏi lồng ngực. “Thật... khó khăn. Lắm lúc con không chắc liệu mình có quyết định đúng không nữa.”
Bà Edie nhoài người lại gần để chạm vào tay anh. “Đừng nghĩ thế, dù chỉ một phút giây. Rõ ràng, đây là món quà quý báu nhất mà con có thể tặng con bé, Alex ạ. Giờ nó không hiểu nhưng rồi nó sẽ hiểu. Trong tương lai, nó sẽ hiểu.”
Alex chỉ có thể hy vọng.
Một tuần sau, thêm một lá thư nữa từ bà Maddy được gửi đến. Annie đang làm rất tốt, bà nói, và bé Bart thì đang lớn nhanh như thổi. Thời tiết đã chuyển sang ấm áp dù trái mùa và hoa đang nở trước sân nhà. Về chuyện trường lớp thì cho đến giờ, chỉ có một vấn đề duy nhất thôi, đó là Annie nói bằng ký hiệu, con bé luôn làm rất nhiều ký hiệu tay sai. Cũng không có gì nghiêm trọng lắm, chỉ là hơi biến tấu tí thôi. Khi biết tình hình, giáo viên của Annie nói rằng Alex đã hướng dẫn cho cô rất tuyệt. Chỉ đơn giản là anh đã dịch nhầm các hướng dẫn trong cuốn cẩm nang, đây là lỗi thường hay xuất hiện, và cũng dễ điều chỉnh. Tuy nhiên, Annie không chịu hợp tác, cô cứ giải thích đi trình bày lại rằng cô bắt đầu ra hiệu khác đi, thì Alex sẽ không hiểu được cô nữa.
Điều này làm Alex rơm rớm nước mắt. Anh hồi âm cho bà Maddy và bảo bà nói với Annie rằng cô không phải lo về chuyện anh không hiểu. Khi cô ở xa, anh sẽ hỏi xin cô Irene Small các tài liệu hướng dẫn rõ ràng hơn và tự học cách nói bằng ngôn ngữ ký hiệu thật chuẩn xác. Ngay sau khi dán bì lá thư gửi bà Maddy lại, anh viết một bức thư ngắn gửi cho cô Small để hoàn thành lời hứa đó của mình.
Khoảng trung tuần tháng Tư, Alex nhận được một bức thư mà theo dấu bưu điện thì nó đã bị gửi sai địa chỉ và gửi thẳng đến San Fransico. Khi đọc kỹ những chữ cái được viết rời rạc thật vụng về trên mặt ngoài phong bì thì anh chẳng thấy ngạc nhiên. Hopervile, Orgen ư? Không có địa chỉ người gửi và anh không nhận ra những nét chữ rời rạc, nguệch ngoạc đó. Anh xé dấu dán bì thư và rút ra một mảnh giấy gấp của tệp giấy có dòng kẻ rộng. Khi anh trải phẳng bức thư ra, sự chú ý của anh bị hút vào lời chào kết thư. Ye an nheu, Anie(2). Trái tim anh thắt lại. Bán tính bán nghi, anh vật lộn để dịch những câu văn bị kết hợp gượng gạo, anh kinh ngạc vì trong một thời gian ngắn như vậy mà cô đã học được biết bao điều. En nho an. En mon ve na. Lam on(3).
(2) Yêu anh nhiều, Annie.
(3) Em nhớ anh. Em muốn về nhà. Làm ơn.
Ở dòng cuối, cô viết, en nho an nheu(4). Alex đọc những chữ cuối đó trong nhạt nhòa nước mắt. Anh buông mình lên góc bàn rồi đưa bức thư lên mũi. Hương hoa hồng thoang thoảng vấn vít trên tờ giấy. Anh nhắm mắt lại, tưởng tượng cảm giác được ôm cô trong vòng tay, được vùi mặt vào đường con yêu kiều nơi cổ cô. Nỗi khát khao mãnh liệt đến độ làm anh run rẩy.
(4) Em nhớ anh nhiều.
Khi đã lấy lại bình tĩnh, anh viết thư hồi âm cho cô, viết rõ từng từ, viết các câu văn ngắn và đơn giản. Một bức thư ngắn vui vẻ để động viên cô học tốt, và vui chơi các hoạt động xã hội.
Đó là những câu ngắn khó nhấ anh từng viết trong cuộc đời mình.
Đều đặn như nhịp tim đồng hồ, sau đó các lá thư từ bà Maddy được gửi đến hàng tuần. Bà giúp Alex theo kịp các tin tức, nhưng cũng không có gì nhiều. Annie học tốt. Thằng nhỏ đang lớn. Cả ba người họ đều khỏe.
Ngày mồng Một tháng Năm, Alex nhận được một bức thư khác của Annie. Lần này, ngoài việc khẩn cầu anh cho cô về nhà, cô còn viết ba câu khiến cho anh lo cuống cuồng. En co mo ngui ba moi. An ay bi dec. Chug en cui nheu(5).
(5) Em có một người bạn mới. Anh ấy bị điếc. Chúng em cưới nhau.
Phản ứng sợ hãi đến tái mét ban đầu của Alex cuối cùng đã nhường lối cho sự chấp nhận tuân theo định mệnh. Nếu Annie tìm thấy ai khác, nếu cô ấy yêu anh ta, thì cuộc hôn nhân của anh và Annie sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cả cuộc đời mình, cô đã bị ngăn cấm khỏi những điều mà người khác coi là lẽ đương nhiên. Nếu anh yêu cô, yêu thật sự, thì anh sẽ không để những khát khao ích kỷ của riêng mình tước đoạt cơ hội duy nhất trong cuộc sống bình thường này của cô.
Không lâu sau, một lá thư khác từ bà Maddy lại được gửi tới. Bà tả người bạn mới của Annie, tên là Bruce, đó là một anh chàng trẻ trung, đẹp trai và dễ chịu. Anh ta quý mến con bé ra mặt và anh ta đối xử rất tuyệt với thằng nhỏ, điều này làm con bé cảm thấy rất mến anh ta. Đọc thư xong, Alex ngồi trong thư phòng, trân trối nhìn vào cõi hư vô. Có phải bà Maddy đang đưa ra lời cảnh báo không? Ý nghĩ đó làm anh nhức nhối. Bruce.... Dù chưa khi nào thấy gã đó nhưng Alex bỗng thấy ghê tởm hắn ta. Tuyệt với thằng nhỏ sao? Một gã đê tiện đểu giả, dùng thằng nhỏ để đánh vào tình cảm của Annie. Đó là mánh khóe cổ lổ sĩ nhất trong sách vở. Điều làm Alex sợ hãi là có thể mánh khóe đó sẽ có hiệu quả.
Anh sắp mất Annie sao? Không có cô và con, anh không chắc phần đời còn lại của mình có còn đáng sống nữa hay không.
Khổ sở vì tin đó, anh vào chuồng ngựa làm việc đến tận khuya, ép mình làm đến kiệt sức để có thể chợp mắt được. Cuối cùng, khi gieo mình lên giường, nó vẫn cứ ám ảnh anh ngay cả trong những giấc mơ. Giấc mơ về Annie... khiêu vũ điệu valse trong vòng tay một người đàn ông khác.
Mười lăm tháng Năm, một bức thư khác từ Annie được gửi đến. Sau lời cảnh cáo ngầm của bà Maddy về gã Bruce cổ lỗ, tốt bụng đó, Alex gần như sợ phải mở thư. Anh chỉ thấy một bức vẽ ở bên trong. Trải bức vẽ lên mặt bàn làm việc để ngắm cho kỹ, anh nhíu mày lại. Giống như lần cô đã làm ở trên phòng trẻ khá lâu về trước, Annie đã vẽ một bức tranh thật giống mặt cô và mặt anh, với những chi tiết được chăm chút đáng kinh ngạc. Chỉ là trong bức vẽ này, Annie có tai còn Alex thì không. Không lời nhắn nhủ. Không có gì để giải thích. Chỉ có bức vẽ anh không có tai?
Alex liên tục chăm chú nhìn bức vẽ, không biết phải hiểu thế nào. Rồi giống như bị giáng một cú đấm dữ dội vào chính giữa hai mắt, anh cuối cùng cũng ngộ ra cô đang cố nói điều gì.
En mon ve na. Cô đã viết vậy. En nho an nheu. Và anh đã làm ngơ lời yêu cầu khẩn thiết đó rồi hồi âm thư cô cứ như thể mình chẳng hề đọc được thông điệp, nào là động viên cô học tốt rồi vui chơi các hoạt động xã hội. Quyết tâm làm điều tốt nhất cho cô mà anh lại làm thinh trước điều cô đang nghĩ và điều cô mong muốn, cứ như cảm nhận và ước nguyện của cô chẳng đáng gì cả.
Anh đã cố mời gọi cô đến với thế giới, và khi nỗ lực làm điều đó, anh đã dối gạt cô một điều quan trọng nhất, đó là cô có quyền lựa chọn.
“Ôi, Annie, em yêu ơi...”
Alex nhắm mắt trong đợt sóng trào của niềm ân hận. Đáng lẽ ra anh không bao giờ nên nghe lời bác sĩ Muir và bà Edie Trimble. Không ai biết rõ Annie hơn Alex. Không ai hiểu cô hơn. Và không ai yêu cô hơn.
Trong nháy mắt, anh thấy mình đang ở bên cô trong một chiều xa vắng trên gác mái, nhặt những mảnh chén vỡ, bụng bảo dạ rằng tiệc trà đó đã kết thúc, nhưng cuộc đời Annie chỉ vừa mới bắt đầu. Trong thời khắc đó, anh đã thề rằng mình sẽ làm tất cả những gì có thể để hiện thực hóa mọi tưởng tượng của cô. Nhớ lại, anh tái dựng cảnh đó trong đầu. Một phòng khách ấm cúng. Annie, rót trà vào những chiếc chén lệch bộ. Annie, khiêu vũ trong vòng tay của người đàn ông trong mơ trên nền nhạc tưởng tượng. Không có những cuốn sách dày cộp. Không lớp học. Không có hàng đám người xa lạ. Chỉ một thế giới nhỏ bé giản đơn, được sắp xếp theo ý thích của cô, được sống bởi những cá thể cho phép cô được là ai đó.
Một cuộc sống bình thường... Đó là giấc mơ của cô. Được công nhận là một con người với nhu cầu, suy nghĩ và xúc cảm. Được yêu. Được chấp nhận là chính cô. Thay vì cho cô tất cả những thứ kia, anh lại bắt đầu cố thay đổi cô. Vì anh yêu chính con người Annie nên lý do anh làm vậy là một điều bí ẩn.
Bao hình ảnh của cô chợt vụt lên trong tâm trí anh, tất cả đều khiến anh nhoẻn miệng cười. Annie, lùng sục tìm một quả trứng trong đống chăn ga. Annie, ngồi trong lòng anh, môi trề ra, đôi mắt chất đầy những bối rối khi anh cởi áo lót của cô. Annie, đánh đi đánh lại một phím trên cây đàn organ, với nét mặt rạng ngời hạnh phúc. Annie, nằm ườn trên bàn ăn, váy áo tốc quá eo, khăn ăn nhét vào miệng để không ai nghe thấy tiếng cô hét khi anh đưa cô lên cực đỉnh. Annie, hả hê sau cuộc hoạn lạc, với một con chuột bám trên vai. Annie, với đôi mắt sáng ngời và nụ cười hiền dịu. Cô hoàn hảo khi là chính cô. Cực kỳ hoàn hảo.
“Hai người có vé chưa?”
Cau mặt, Alex nhận ra mình đang gào lên, cố át tiếng động cơ xe lửa để Annie có thể nghe được tiếng anh nói. Đưa tay xuống bên dưới những lớp áo choàng len thật dày của cô, anh nắm lấy tay và kéo cô dừng lại, ngả người để cô thấy được mặt mình khi anh nhắc lại câu hỏi. Cô mở chiếc túi lụa xanh, nhỏ nhắn, đính đầy hạt cườm đen ra, và bắt đầu mò tìm trong mớ đồ lộn xộn. Alex thoáng thấy thứ gì đó nhỏ nhỏ, nâu nâu đang ngọ nguậy trong đống giấy má. Trước khi anh kịp xác định xem nó là cái gì hay cần phải phản ứng ra sao thì vật đó đã nhảy xổ ra.
“Khuu… ôong!”, Annie thét lên.
“Chúa ơi!”, Alex rủa.
“Chuột!”, một quý bà mũm mĩm hét toáng lên.
Từ lúc đó trở đi, tất cả trở nên hoàn toàn rối loạn, phụ nữ kêu thất thanh và nhảy lên băng ghế, đàn ông giậm mạnh gót giày, cố nghiền nát con vật nhỏ bé đang nhốn nháo chạy. Alex nhảy vào trận chiến, không hoàn toàn chắc chắn rằng mình muốn làm cái gì, ngoại trừ việc hành động như một kẻ điên. Vì tất cả những tiếng ầm ĩ và nhặng xị, anh không chắc rằng con chuột đáng thương đó sẽ chịu đứng yên để anh bắt. Nhưng khi ánh mắt tôn sùng của Annie dán chặt vào anh và nét mặt cô ngợi ca anh như một người hùng thì anh không thể cứ đứng lì ra đấy.
Con chuột núp giữa thùng rác và cây cột trụ, phía bên trên, một người phụ nữ vừa dùng một tay túm váy xung quanh đầu gối, vừa lấy túi xách quật như điên dại vào chỗ con chuột đang ẩn nấp. Tất cả những gì Alex có thể nghĩ được là con thú cưng của Annie đang bị nện túi bụi đến chết ngay trước mắt cô. Anh lao vào giữa người phụ nữ và thùng rác, dùng vai mình ngăn cản các cú đập của bà ta. Khi ngón tay chạm đến cơ thể bé nhỏ lông lá đó, anh túm lấy nó không một chút thương tiếc. Hàm răng tí xíu cắm phập vào ngón trỏ của anh.
“Chúa ơi! Đồ chết tiệt vô ơn!”
“Ăn nói cho cẩn thận, thưa ngài!” Bốp. Cái túi của bà ta giáng thẳng vào tai anh. Vừa đứng thẳng người, Alex vừa giơ cánh tay ra để bảo vệ lấy mặt mình. “Sao ngài dám thả rông con chuột đó ở nơi công cộng chứ?”, bà ta gào lên. “Thiếu chút nữa là tôi suy tim mất rồi!”
Alex thấy bà ta có vẻ ổn. Anh né một cú quật túi nữa của bà ta. “Thưa bà, làm ơn ngừng quật cái túi đó vào tôi đi, được không?”
Bà ta thụi vào vai anh. “Quấy rối trật tự! Làm người vô tội kinh hãi! Và một người trưởng thành như ngài, không kém. Mấy trò tai quái đó phải bắt nguồn từ mấy đứa choai choai chứ. Vậy mà ngài? Tôi không ngại tố giác ngài đâu. Bọn gặm nhấm là loài nhiễm bệnh. Bệnh dại! Bệnh dịch! Sao ngài dám bắt người khác phải chịu…” Alex khum tay giữ con chuột vừa được cứu thoát vào ve áo choàng của mình. “Đây không phải là chuột thường đâu. Nó là”, anh tóm lấy từ đầu tiên nảy ra trong đầu, “loài gácmai(1) thuần chủng. Rất hiếm. Vợ tôi sẽ không bán nó để lấy một nghìn đô la đâu.”
(1) Trong văn bản gốc, Alex sử dụng từ ‘attica’ – lấy ý từ từ ‘attic’, nghĩa là ‘gác mái’.
Người phụ nữ chớp mắt. “Ngài nói là hiếm á?”
“Bà không biết đâu.”
Bà ta bĩu môi, làm đầu mũi mình bị kéo căng ra và hai cánh mũi bành ra. “Liệu tôi có hiểu đúng ý không khi ngài nói là con chuột này đáng giá một nghìn đô la?”
“Ngần ấy và hơn thế nữa.”
“Ôi, trời…” Bà ta chạm một tay vào cổ họng. “Ôi, tôi thật sự xin lỗi. Thoạt nhìn, trông nó không khác gì một con chuột bình thường.”
“Thưa bà”, Alex vừa nói, vừa nở một nụ cười điêu luyện, “chỉ có một kẻ điên mới chạy bừa quanh nhà ga để cố bắt một con chuột thường mà thôi. Hãy cảm tạ những ngôi sao may mắn của bà vì đã không làm con chuột này bị thương nặng”.
Bà ta nhướng đôi lông mày kẻ chì lên và ngả người sang bên để ngó qua bàn tay đang khum lại của anh. “Thật ư? Loài gácmai sao? Ngài biết đấy, giờ ngài nói đến, tôi mới nhớ là mình đã nghe qua. Thực tình, tôi nghĩ mình thấy một con được trưng bày ở hội chợ năm ngoái. Ồ, vâng, tôi chắc chắn... một con thuộc loài gácmai. Đúng rồi, đúng là nó. Thật hết sức lạ thường!”
“Tôi có thể nói với bà rằng bà sẽ không thấy nhiều người mang theo một con như thế này quanh đây đâu.”
Bà ra hiệu cho một người đàn ông mảnh khảnh, bé nhỏ đứng gần đó. “Horace, lại đây xem này. Ngài đây có một con chuột gácmai. Ngạc nhiên không? Chúng ta đã thấy một con ở hội chợ năm ngoái, nhớ không?”
Vuốt vuốt bộ ria và lắc lư qua lại trên gót giày, ông Horace trông có vẻ ngạc nhiên khi nghe điều đó. “Hừm... à, đúng rồi. Một con chuột loài... bà vừa nói gì nhỉ?”
“Một con chuột loài gácmai! Chúng quý giá vô kể. Ông nhớ mà.” Bà ta lại gần Alex. “Tôi xem được không?”
Vài người khác tụ tập quanh đó. Alex khum khum hai tay giữ lấy con chuột và hé ngón cái ra để người phụ nữ ngó vào được. Bà ta ra chiểu hiểu biết và gật đầu. “Ồ, đúng rồi. Nhìn kỹ hơn, tôi thấy nó đúng không phải là chuột thường. Đôi tai của con chuột loài gácmai thuần chủng này khá đặc biệt, đúng không?”
Một quý ông ăn mặc lượt là rướn người qua vai bà ta để nhìn con chuột. “Cái mũi nó cũng khá đặc biệt. Lạy Chúa, một con chuột loài gácmai. Thật là một phép lạ khi mấy kẻ ngu dốt không nghiền nát nó.”
“Ôi, nó có dễ thương không?”, một người phụ nữ khác kêu lên. “Paul, em muốn có một con loài này. Thật là một con vật gây nhiều sự chú ý. Ngài đã lùng sục mua được cục cưng này ở đâu vậy, thưa ngài?”
“Thật sự thì tôi không mua”, Alex đáp lại. “Bà có thể nói là tôi kiếm được nó qua một mối quan hệ đặc biệt. Các mối kết giao, bà biết đấy. Như tôi đã nói rồi đấy, không phải ai cũng có một con đâu.”
Ngay sau đó, Annie lao tới. Alex nhường con chuột lại cho cô. Cô đưa nó lên má, phát ra âm thanh gù gù khe khẽ. Không một ai trong số những người xem có vẻ nghĩ rằng điều này thật lạ và không phải lúc này khi mà họ biết rằng con chuột này là loài gácmai đắt đỏ và quý hiếm.
Alex biết lúc nào phải rút lui. Anh tóm lấy cánh tay Annie và vội vàng đi khỏi đó. Nhận ra bà Maddy đang đứng gần bậc thang lên xe lửa, anh chuyển sang hướng đó. “Cậu đã bắt được con chuột đẹp đẽ đó rồi chứ?”, bà hỏi khi hai người trở về bên cạnh mình.
“Nói khẽ thôi”, Alex thì thầm. “Người phụ nữ đằng kia suýt nữa đòi mời chính quyền đấy. Bà ta nói chuột là mối nguy hại cho sức khỏe, và của tất cả những thứ điên rồ.”
“Chà, tôi sẽ không bao giờ!”, bà Maddy gắt gỏng.
“Từ giờ trở đi, nó là chuột giống gácmai. Rất hiếm, rất đắt. Bằng không sau đó, họ có thể sẽ phát hiện ra và tống khứ hai người khỏi tàu đấy.”
Bà Maddy nhìn sang Annie, cô đang cẩn thận đặt con thú cưng của mình trở lại túi xách. “Chúng ta không thể mang thứ này đi được.”
“Không, chúng ta không thể làm thế.”
“Một con chuột giống gácmai.” Bà Maddy gật đầu. “Có vẻ thú vị đây. Con cầm vé chưa?”
Tim Alex nhảy lên khi anh thấy Annie lại mở chiếc túi nhỏ ra để lấy vé, nhưng lần này, cô dùng một tay nắm con chuột trong khi tìm kiếm. Lúc cô tìm được chiếc vé đã thanh toán, anh gần như thở phào nhẹ nhõm. Nếu cô và bà Maddy lỡ tàu, thì ngày mai họ mới đi Albany được. Dù muốn giữ hai người ở nhà thêm một ngày nữa nhưng anh không nghĩ mình có thể chịu được việc nói tất cả những lời tạm biệt đó thêm một lần nữa. Đêm qua, ôm Annie trong tay thật sự rất đau đớn khi anh không biết phải bao lâu nữa mình mới được gặp lại cô.
Sau khi lấy được vé, Alex muốn chắc chắn rằng cô đã giấu con chuột đi một cách an toàn. “Trên tàu đừng có bỏ nó ra nhé”, anh cảnh báo cô. “Không phải ai cũng yêu mến”, anh hạ thấp giọng, “chuột đâu, em biết đấy. Kỳ thực, một số người còn cảm thấy hết sức kỳ quái về chúng nữa”.
“Tất cả lên tàu!”, vị trưởng tàu la lớn.
Alex nắm lấy cánh tay Annie, kéo cô đuổi kịp bà Maddy đang lên tàu theo lời kêu gọi của vị trưởng tàu.
“Tất cả lên tàu! Tất cả lên tàu!”, vị trưởng tàu tiếp tục la lớn.
Khi hai người đuổi kịp bà Maddy. Alex nhét vé vào tay bà và bế lấy bé Bart từ tay bà để ôm con lần cuối. Những giọt nước mắt bỏng rát khi anh dí mũi bên miếng mền và áp má vào mái tóc tơ của con. Đưa đứa con bé bỏng cho bà quản gia đang dang tay chờ đợi xong, anh quay sang Annie. Miệng cô run run và đôi mắt ngấn lệ.
“Anh sẽ viết thư”, anh cam đoan. “Sẽ không tệ đâu em yêu. Rồi em sẽ thấy. Một khi bắt đầu đi học, em sẽ rất thích đấy.”
Cô gật đầu, trông thật ảo não và đau khổ, đến độ anh phải gắng hết sức để không ngừng tất cả lại.
“Anh yêu em, Annie yêu dấu. Anh sẽ nhớ em từng phút, từng giây.”
Đầu mũi cô bắt đầu chuyển sang màu đỏ. Alex cúi xuống hôn lên chóp mũi cô rồi ôm cô vào lòng. Anh nhắm mắt lại, áp mặt vào mái tóc cô, và nặng nhọc hít một hơi thật sâu, cố gắng ghi nhớ mùi hương của cô.
“Em không muốn đi”, cô nói.
Vờ không để ý, Alex hôn lên trán cô. Rồi quay sang bà Maddy. “Vú sẽ viết thư chứ? Ít nhất là tuần một lần.”
“Nhất định rồi. Tôi nói với cậu rồi đó, cậu Alex, tôi sẽ viết cho cậu hằng tuần, không ngơi nghỉ!” Bà vú đưa vé cho vị trưởng tàu, rồi một tay ẵm đứa bé, một tay nắm lấy eo Annie. “Đi nào, con gái ơi. Họ sắp bỏ hai ta mà đi rồi.”
“Nếu có bất cứ chuyện gì không ổn, hãy đánh điện cho tôi. Tôi sẽ đến đó sớm nhất có thể.”
“Không phải lo”, bà Maddy nói lớn. “Tôi sẽ đánh điện nếu chúng tôi cần cậu.”
Alex cắn chặt răng và đưa mắt sang nhìn Annie. Đôi mắt to xanh biếc dán chặt lấy anh. Khi bà Maddy bước lên bậc thang xe lửa, Annie nghển cổ quay lại nhìn anh. Anh giơ tay vẫy vẫy. Rồi, cứ như thế, cô biến mất.
Anh bước dọc theo xe lửa, tìm kiếm gương mặt cô trong những ô cửa sổ. Con tàu bắt đầu lăn bánh. Anh rảo bước nhanh hơn, kiếm tìm trong tuyệt vọng, nhất quyết phải được nhìn thấy gương mặt cô lần nữa. Chỉ một lần thôi. Khi xe lửa đã chạy thật xa, anh lảo đảo dừng lại, trân trối nhìn từ phía sau, cảm giác bơ vơ hơn bất cứ lúc nào trong đời.
***
Khi Alex trở về Montgomery Hall, căn nhà lặng ngắt như tờ. Cảm giác cô đơn khôn tả xiết, anh lang thang từ phòng này qua phòng khác, tìm kiếm hình bóng của Annie hay con trai ở bất cứ đâu mình đặt chân tới. Đi cả rồi. Anh trở về thư phòng và ngồi trước lò sưởi, đưa mắt nhìn đăm đăm vào khung lò sưởi bám đầy bồ hóng, và những nghĩ suy, rằng bóng tối chính là một điềm báo, bất chợt tìm tới anh. Họ đã đi rồi, và chẳng còn chút cơ hội nào là họ sẽ quay trở lại. Anh phải chấp nhận sự thực đó dù có khó khăn đến thế nào đi nữa.
Ông quản nô Frederick đưa tay gõ cửa thư phòng. “Cậu có muốn tôi lấy cho cậu thứ gì không, cậu Alex? Một tách cà phê chẳng hạn? Hay gọi một cô hầu gái mang bữa trưa lên cho cậu?”
Alex thở dài. “Tôi thực sự không thấy đói, chú Frederick ạ. Dù sao cũng cảm ơn chú.”
Ông quản nô bước vào sâu hơn. Khi tới cạnh lò sưởi, ông làm một việc mà mình chưa từng làm và ngồi lên chiếc ghế đối diện. “Tôi biết chuyện này không thể nguôi ngoai được, nhưng cậu đã làm đúng, cậu chủ ạ. Thật khó, tôi biết. Nhưng cuối cùng, đó sẽ là điều tốt nhất cho mợ, và cho cả đứa bé.”
Lời công nhận này là niềm an ủi nho nhỏ. Alex không nói gì.
“Bà Maddy sẽ viết thư thường xuyên, tôi chắc chắn thế. Và chẳng mấy chốc, mợ Annie sẽ gửi thư về.”
Alex gật đầu. “Tôi cho rằng sau này sẽ dễ dàng hơn. Nhưng cũng phải mất một thời gian trước khi cô ấy học được cách đọc và viết, chú Frederick à.”
“Vâng thưa cậu, tôi biết mà.” Người đàn ông im lặng một lúc, đưa hai tay ra phía lò sưởi như thể để sưởi ấm dù trong thanh chắn không hề có lửa. “Cậu cần có một vài kế hoạch để làm mình bận rộn. Một thứ mà hai chúng ta có lẽ phải dành cả tâm trí để thực hiện nữa là chiếc lồng chuột. Tôi ghét phải phàn nàn, nhưng từ khi mợ Annie bật hết các bẫy trên gác mái thì nhà chúng ta đang bị bọn chuột hoành hành. Sáng nay còn có phân chuột trong bột nữa, tôi không nói sai đâu.”
“Lạy Chúa. Tôi hy vọng là chú vứt đống bột đó đi rồi.”
“Chà, thưa cậu, không hoàn toàn. Vì bọn chuột xem ra khá thích thú với đống bột đó, nên tôi, ừm... đã mang lên trên gác rồi. Tôi nghĩ có thể... ừm, nếu có thức ăn ở trên đó, biết đâu chúng sẽ không còn vào bếp nữa.”
Alex rên lên và xoa xoa trán. Rồi anh cười nhạt. “Chú Frederick ơi, điều đó thật điên rồ. Cho lũ chuột gác mái ăn ư? Chú có biết chúng sẽ sinh sôi nảy nở nhanh đến thế nào không? Tôi không nhớ con số chính xác đã được học ở trường đại học, nhưng hệ số nhân là vô độ đấy.”
“Tất nhiên là cậu đúng. Chuyện cho chuột ăn khá điên rồ.” Ông liếc nhìn Alex. “Tôi sẽ để cậu đặt lại mấy cái bẫy nếu cậu tốt bụng đến vậy.”
Alex lại kêu lên. “Tôi không làm được đâu. Chắc như đinh đóng cột, tôi sẽ bẫy phải loài vật yêu thích của cô ấy mất. Có thể chú có lý. Tôi sẽ phải đóng một cái lồng cho bọn chúng.” Nhớ lại sự cố ở nhà ga, anh kể chi tiết câu chuyện cho ông Frederick. “Có lẽ chúng ta có thể kinh doanh và bán bọn chuột đáng ghét này”, anh đùa cợt. “Năm trăm một con. Một món hời làm sao!”
Ông Frederick nhoẻn miệng cười. “Tôi rất sẵn lòng tống chúng đi, thưa cậu.”
“Không vấn đề gì. Đáng lẽ tôi đã có thể tống khứ được hơn hai chục con sáng nay một cách dễ dàng. Thật khó tin phải không? Nói với người ta cái gì đó là quý hiếm và đắt giá, rồi ngay lập tức họ muốn một cái.”
Khi Alex lại rơi vào im lặng, ông Frederick nói, “Nếu cậu muốn giúp đóng lồng thì tôi cầm sẵn búa và đinh rồi.”
“Cảm ơn chú Frederick. Tôi rất cảm kích lời đề nghị của chú.”
“Sau khi dồn được lũ bạn bé nhỏ của mợ Annie, chúng ta có thể đặt lại đống bẫy chứ?”
“Ý kiến hay đấy.”
“Về chuyện chúng sinh sôi nảy nở, có lẽ tôi có thể”, ông quản gia đằng hắng và thấp giọng nói, “bí mật vứt bỏ mọi con chuột con không mong muốn”.
“Chúng ta sẽ phải làm gì đó”, Alex tán thành một cách yếu ớt, rồi đưa mắt trở lại nhìn lò sưởi.
“Đừng có phiền muộn nữa, cậu Alex. Đâu phải cậu không thể thăm mợ bất cứ lúc nào cậu muốn.”
“Không thể sớm được. Tôi cần cho cô ấy cơ hội để thích nghi hoặc là cô ấy sẽ tha thiết muốn về nhà, và nói khá thành thật là, tôi không biết liệu mình có thể từ chối cô ấy mà không cảm thấy như bây giờ hay không. Nhìn đâu cũng có thứ gì đó gợi tôi nhớ về cô ấy hay bé Bart. Tôi cứ nghĩ mãi về những gì mình sẽ bỏ lỡ. Thằng bé sẽ lớn rất nhanh trong khoảng thời gian giữa các cuộc viếng thăm, tôi chắc sẽ không còn nhận ra nó.” Điều thật sự làm Alex bận tâm là ngược lại, điều tương tự rõ ràng cũng có thể xảy ra. Chỉ nghĩ đến điều đó thôi cũng đủ làm tim anh gần như tan nát. Cuối cùng, anh đã có một đứa con trai, và giờ anh không thể góp phần vào những năm đầu đời của nó.
Ông Frederick thở dài và đứng dậy. “Nếu thỉnh thoảng cậu thích có cạ chơi cờ tướng thì tôi là một tay chơi khá cừ đấy.”
Lời đề nghị đó khiến Alex mỉm cười. “Chú nghe có vẻ cũng buồn chẳng khác gì tôi đâu.”
“Vâng, chà... Mọi thứ quanh đây có vẻ sẽ chẳng còn như cũ khi không có bà Maddy ca cẩm vào mặt tôi nữa, đúng không?”
Alex ngước lên. Sau khi nhìn vào mắt ông quản nô một lúc lâu, anh cười khùng khục. “Tôi chết mất thôi.”
Mặt ông Frederick ửng lên. “Tôi hy vọng cậu sẽ không mách lẻo với bà ấy. Chính tôi còn chưa kịp thổ lộ. Bà ấy có vẻ hơi... dễ cáu giận, bà Maddy của chúng ta ấy.”
“Tôi khóa miệng rồi.”
Ông quản gia chỉnh thẳng lại áo khoác đen của mình, rồi nhặt nhạnh vài xơ vải trên cánh tay áo. “Tôi nói chuyện đó chỉ vì...”, ông hắng giọng. “Ồ, thưa cậu, tục ngữ có câu đồng bệnh lắm lúc cũng tương lân, và không có liều thuốc Ireland cáu kỉnh ngày một lần để giữ cho cuộc đời thú vị thì tôi sẽ ít nhiều khốn khổ.”
“Lúc nào đó, tôi sẽ đi mấy chuyến đến Albany, chú muốn đi cùng chứ?”
Ông Frederick sụt sịt. “Đó thật là một ý tưởng hay, lịch làm việc của tôi cho phép mà.”
Sau khi ông quản nô rời đi, Alex đứng dậy khỏi ghế và thơ thẩn đi khắp phòng. Lúc tới chỗ cây đàn organ, anh lướt một tay lên bề mặt sáng bóng của nó. Rồi anh bước qua và dừng lại để gõ vài nhịp vào dàn chuông. Sau đó, anh tới bàn làm việc. Một trong những ống nghe của Annie nằm trên bảng giấy thấm. Anh nhặt lên, đăm đăm nhìn nó một lúc lâu, và rồi nhắm mắt lại trong đợt sóng đớn đau dữ dội đến nỗi làm anh cảm thấy cơ thể trở nên thật khó chịu.
Từ hôm đó trở đi, cuộc sống của Alex thu hẹp lại vào một vấn đề trọng tâm, đó là những bức thư từ bà Maddy. Một tuần rưỡi sau, lá thư đầu tiên đến. Anh giam mình trong thư phòng và run rẩy mở thư.
Chà, chúng tôi đã tới nơi, bà Maddy viết. Một nơi nhỏ như Albany vậy mà Annie đã cảm thấy khiếp sợ khi vừa mới đến đây, nhưng giờ con bé đang dần thích nghi và có vẻ rất thích lớp học của mình.
Alex nuốt xuống thật nhanh. Anh không muốn cô thích học ở đó, chết tiệt thật. Trước ý nghĩ ấy, một cảm giác tội lỗi bỗng cuộn xoáy trong anh. Anh ép mình đọc tiếp.
Các giáo viên đều có vẻ tốt bụng, và ngay trong ngày đầu tiên, con bé đã có một vài bạn mới. Tất nhiên là nó muốn về nhà. Chiều chiều, khi tôi đến trường để đón con bé, giáo viên có nói với tôi rằng Annie không ngừng biểu lộ khát khao được trở về. Tôi chắc chắn là cuối cùng con bé sẽ vượt qua được chuyện ấy, còn ngay lúc này thì thật khó cho nó, và cả cho tôi nữa. Tôi không khỏi thấy thương cảm cho con bé tội nghiệp.
Tiếp đó là thư cập nhật cho anh xem bé Bart thế nào và miêu tả thị trấn Albany bé nhỏ cùng căn nhà nơi Annie và bà Maddy đang sống. Alex đọc, đọc lại, và rồi lại đọc lần nữa. Tôi không khỏi thấy thương cảm cho con bé tội nghiệp.
Tiếp đó là thư cập nhật cho anh xem bé Bart thế nào và miêu tả thị trấn Albany bé nhỏ cùng căn nhà nơi Annie và bà Maddy đang sống. Alex đọc lại, đọc lại, và rồi lại đọc lần nữa. Đó là một lá thư ngắn, nên chẳng bao lâu anh đã nhớ hết mọi câu chữ.
Tin tức của Annie. Cập nhật về bé Bart. Alex biết điều này thật điên rồ, nhưng anh thực sự cảm giác rằng đó là tất cả lẽ sống còn lại của mình. Một buổi chiều, bà Edie Trimble ghé qua. Alex cho bà xem lá thư của bà Maddy. Đọc xong, bà ngước lên rồi run run mỉm cười.
“Ta biết con nhớ họ đến mức nào”, bà nói.
Alex không chắc điều ấy. Đâu phải chỉ là anh nhớ vợ con mình. Anh cảm giác như tim mình đang bị xé toạc ra khỏi lồng ngực. “Thật... khó khăn. Lắm lúc con không chắc liệu mình có quyết định đúng không nữa.”
Bà Edie nhoài người lại gần để chạm vào tay anh. “Đừng nghĩ thế, dù chỉ một phút giây. Rõ ràng, đây là món quà quý báu nhất mà con có thể tặng con bé, Alex ạ. Giờ nó không hiểu nhưng rồi nó sẽ hiểu. Trong tương lai, nó sẽ hiểu.”
Alex chỉ có thể hy vọng.
Một tuần sau, thêm một lá thư nữa từ bà Maddy được gửi đến. Annie đang làm rất tốt, bà nói, và bé Bart thì đang lớn nhanh như thổi. Thời tiết đã chuyển sang ấm áp dù trái mùa và hoa đang nở trước sân nhà. Về chuyện trường lớp thì cho đến giờ, chỉ có một vấn đề duy nhất thôi, đó là Annie nói bằng ký hiệu, con bé luôn làm rất nhiều ký hiệu tay sai. Cũng không có gì nghiêm trọng lắm, chỉ là hơi biến tấu tí thôi. Khi biết tình hình, giáo viên của Annie nói rằng Alex đã hướng dẫn cho cô rất tuyệt. Chỉ đơn giản là anh đã dịch nhầm các hướng dẫn trong cuốn cẩm nang, đây là lỗi thường hay xuất hiện, và cũng dễ điều chỉnh. Tuy nhiên, Annie không chịu hợp tác, cô cứ giải thích đi trình bày lại rằng cô bắt đầu ra hiệu khác đi, thì Alex sẽ không hiểu được cô nữa.
Điều này làm Alex rơm rớm nước mắt. Anh hồi âm cho bà Maddy và bảo bà nói với Annie rằng cô không phải lo về chuyện anh không hiểu. Khi cô ở xa, anh sẽ hỏi xin cô Irene Small các tài liệu hướng dẫn rõ ràng hơn và tự học cách nói bằng ngôn ngữ ký hiệu thật chuẩn xác. Ngay sau khi dán bì lá thư gửi bà Maddy lại, anh viết một bức thư ngắn gửi cho cô Small để hoàn thành lời hứa đó của mình.
Khoảng trung tuần tháng Tư, Alex nhận được một bức thư mà theo dấu bưu điện thì nó đã bị gửi sai địa chỉ và gửi thẳng đến San Fransico. Khi đọc kỹ những chữ cái được viết rời rạc thật vụng về trên mặt ngoài phong bì thì anh chẳng thấy ngạc nhiên. Hopervile, Orgen ư? Không có địa chỉ người gửi và anh không nhận ra những nét chữ rời rạc, nguệch ngoạc đó. Anh xé dấu dán bì thư và rút ra một mảnh giấy gấp của tệp giấy có dòng kẻ rộng. Khi anh trải phẳng bức thư ra, sự chú ý của anh bị hút vào lời chào kết thư. Ye an nheu, Anie(2). Trái tim anh thắt lại. Bán tính bán nghi, anh vật lộn để dịch những câu văn bị kết hợp gượng gạo, anh kinh ngạc vì trong một thời gian ngắn như vậy mà cô đã học được biết bao điều. En nho an. En mon ve na. Lam on(3).
(2) Yêu anh nhiều, Annie.
(3) Em nhớ anh. Em muốn về nhà. Làm ơn.
Ở dòng cuối, cô viết, en nho an nheu(4). Alex đọc những chữ cuối đó trong nhạt nhòa nước mắt. Anh buông mình lên góc bàn rồi đưa bức thư lên mũi. Hương hoa hồng thoang thoảng vấn vít trên tờ giấy. Anh nhắm mắt lại, tưởng tượng cảm giác được ôm cô trong vòng tay, được vùi mặt vào đường con yêu kiều nơi cổ cô. Nỗi khát khao mãnh liệt đến độ làm anh run rẩy.
(4) Em nhớ anh nhiều.
Khi đã lấy lại bình tĩnh, anh viết thư hồi âm cho cô, viết rõ từng từ, viết các câu văn ngắn và đơn giản. Một bức thư ngắn vui vẻ để động viên cô học tốt, và vui chơi các hoạt động xã hội.
Đó là những câu ngắn khó nhấ anh từng viết trong cuộc đời mình.
Đều đặn như nhịp tim đồng hồ, sau đó các lá thư từ bà Maddy được gửi đến hàng tuần. Bà giúp Alex theo kịp các tin tức, nhưng cũng không có gì nhiều. Annie học tốt. Thằng nhỏ đang lớn. Cả ba người họ đều khỏe.
Ngày mồng Một tháng Năm, Alex nhận được một bức thư khác của Annie. Lần này, ngoài việc khẩn cầu anh cho cô về nhà, cô còn viết ba câu khiến cho anh lo cuống cuồng. En co mo ngui ba moi. An ay bi dec. Chug en cui nheu(5).
(5) Em có một người bạn mới. Anh ấy bị điếc. Chúng em cưới nhau.
Phản ứng sợ hãi đến tái mét ban đầu của Alex cuối cùng đã nhường lối cho sự chấp nhận tuân theo định mệnh. Nếu Annie tìm thấy ai khác, nếu cô ấy yêu anh ta, thì cuộc hôn nhân của anh và Annie sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cả cuộc đời mình, cô đã bị ngăn cấm khỏi những điều mà người khác coi là lẽ đương nhiên. Nếu anh yêu cô, yêu thật sự, thì anh sẽ không để những khát khao ích kỷ của riêng mình tước đoạt cơ hội duy nhất trong cuộc sống bình thường này của cô.
Không lâu sau, một lá thư khác từ bà Maddy lại được gửi tới. Bà tả người bạn mới của Annie, tên là Bruce, đó là một anh chàng trẻ trung, đẹp trai và dễ chịu. Anh ta quý mến con bé ra mặt và anh ta đối xử rất tuyệt với thằng nhỏ, điều này làm con bé cảm thấy rất mến anh ta. Đọc thư xong, Alex ngồi trong thư phòng, trân trối nhìn vào cõi hư vô. Có phải bà Maddy đang đưa ra lời cảnh báo không? Ý nghĩ đó làm anh nhức nhối. Bruce.... Dù chưa khi nào thấy gã đó nhưng Alex bỗng thấy ghê tởm hắn ta. Tuyệt với thằng nhỏ sao? Một gã đê tiện đểu giả, dùng thằng nhỏ để đánh vào tình cảm của Annie. Đó là mánh khóe cổ lổ sĩ nhất trong sách vở. Điều làm Alex sợ hãi là có thể mánh khóe đó sẽ có hiệu quả.
Anh sắp mất Annie sao? Không có cô và con, anh không chắc phần đời còn lại của mình có còn đáng sống nữa hay không.
Khổ sở vì tin đó, anh vào chuồng ngựa làm việc đến tận khuya, ép mình làm đến kiệt sức để có thể chợp mắt được. Cuối cùng, khi gieo mình lên giường, nó vẫn cứ ám ảnh anh ngay cả trong những giấc mơ. Giấc mơ về Annie... khiêu vũ điệu valse trong vòng tay một người đàn ông khác.
Mười lăm tháng Năm, một bức thư khác từ Annie được gửi đến. Sau lời cảnh cáo ngầm của bà Maddy về gã Bruce cổ lỗ, tốt bụng đó, Alex gần như sợ phải mở thư. Anh chỉ thấy một bức vẽ ở bên trong. Trải bức vẽ lên mặt bàn làm việc để ngắm cho kỹ, anh nhíu mày lại. Giống như lần cô đã làm ở trên phòng trẻ khá lâu về trước, Annie đã vẽ một bức tranh thật giống mặt cô và mặt anh, với những chi tiết được chăm chút đáng kinh ngạc. Chỉ là trong bức vẽ này, Annie có tai còn Alex thì không. Không lời nhắn nhủ. Không có gì để giải thích. Chỉ có bức vẽ anh không có tai?
Alex liên tục chăm chú nhìn bức vẽ, không biết phải hiểu thế nào. Rồi giống như bị giáng một cú đấm dữ dội vào chính giữa hai mắt, anh cuối cùng cũng ngộ ra cô đang cố nói điều gì.
En mon ve na. Cô đã viết vậy. En nho an nheu. Và anh đã làm ngơ lời yêu cầu khẩn thiết đó rồi hồi âm thư cô cứ như thể mình chẳng hề đọc được thông điệp, nào là động viên cô học tốt rồi vui chơi các hoạt động xã hội. Quyết tâm làm điều tốt nhất cho cô mà anh lại làm thinh trước điều cô đang nghĩ và điều cô mong muốn, cứ như cảm nhận và ước nguyện của cô chẳng đáng gì cả.
Anh đã cố mời gọi cô đến với thế giới, và khi nỗ lực làm điều đó, anh đã dối gạt cô một điều quan trọng nhất, đó là cô có quyền lựa chọn.
“Ôi, Annie, em yêu ơi...”
Alex nhắm mắt trong đợt sóng trào của niềm ân hận. Đáng lẽ ra anh không bao giờ nên nghe lời bác sĩ Muir và bà Edie Trimble. Không ai biết rõ Annie hơn Alex. Không ai hiểu cô hơn. Và không ai yêu cô hơn.
Trong nháy mắt, anh thấy mình đang ở bên cô trong một chiều xa vắng trên gác mái, nhặt những mảnh chén vỡ, bụng bảo dạ rằng tiệc trà đó đã kết thúc, nhưng cuộc đời Annie chỉ vừa mới bắt đầu. Trong thời khắc đó, anh đã thề rằng mình sẽ làm tất cả những gì có thể để hiện thực hóa mọi tưởng tượng của cô. Nhớ lại, anh tái dựng cảnh đó trong đầu. Một phòng khách ấm cúng. Annie, rót trà vào những chiếc chén lệch bộ. Annie, khiêu vũ trong vòng tay của người đàn ông trong mơ trên nền nhạc tưởng tượng. Không có những cuốn sách dày cộp. Không lớp học. Không có hàng đám người xa lạ. Chỉ một thế giới nhỏ bé giản đơn, được sắp xếp theo ý thích của cô, được sống bởi những cá thể cho phép cô được là ai đó.
Một cuộc sống bình thường... Đó là giấc mơ của cô. Được công nhận là một con người với nhu cầu, suy nghĩ và xúc cảm. Được yêu. Được chấp nhận là chính cô. Thay vì cho cô tất cả những thứ kia, anh lại bắt đầu cố thay đổi cô. Vì anh yêu chính con người Annie nên lý do anh làm vậy là một điều bí ẩn.
Bao hình ảnh của cô chợt vụt lên trong tâm trí anh, tất cả đều khiến anh nhoẻn miệng cười. Annie, lùng sục tìm một quả trứng trong đống chăn ga. Annie, ngồi trong lòng anh, môi trề ra, đôi mắt chất đầy những bối rối khi anh cởi áo lót của cô. Annie, đánh đi đánh lại một phím trên cây đàn organ, với nét mặt rạng ngời hạnh phúc. Annie, nằm ườn trên bàn ăn, váy áo tốc quá eo, khăn ăn nhét vào miệng để không ai nghe thấy tiếng cô hét khi anh đưa cô lên cực đỉnh. Annie, hả hê sau cuộc hoạn lạc, với một con chuột bám trên vai. Annie, với đôi mắt sáng ngời và nụ cười hiền dịu. Cô hoàn hảo khi là chính cô. Cực kỳ hoàn hảo.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook