Dưới Nắng Trời Châu Âu
-
Chương 3: Áo: VIENNA và mối tình của cô gái xứ Bavaria
TÔI ĐẶT CHÂN TỚI THỦ ĐÔ Vienna của nước Áo xinh đẹp quê hương của thần đồng âm nhạc Mozart vào những ngày tháng Ba khi trời còn se lạnh. Anh bạn ở Sài Gòn nhắn tin sang dặn: “Thủ đô Vienna tuyệt lắm, có dòng sông Danube, những quán cà phê, những chiếc xe ngựa và điệu valse đầy quyến rũ. Nhớ ghé Nhà thờ Stephan em nhé, đó thức sự là một tuyệt tác đấy!” Tôi mỉm cười và bắt đầu chuyến hành trình thú vị của mình.
Đã từ lâu người ta biết đến Vienna không chỉ là thủ đô âm nhạc của thế giới mà còn là thành phố của kiến trúc với những tòa lâu đài tráng lệ và những công trình kiến trúc độc đáo bậc nhất châu Âu. Ấn tượng đầu tiên của tôi khi tới Vienna là những chiếc xe ngựa chạy thong dong trên đường phố, lẫn đâu đó là tiếng xe điện và những chiếc xe hơi hiện đại. Vienna khoác lên mình vẻ đẹp của một thành phố cổ nhưng cũng rất trẻ trung và hiện đại.
Cung điện Schonbrunn
Tôi lang thang một mình trong cái lạnh của thành phố với tấm bản đồ trên tay, địa điểm đầu tiên tôi đặt chân đến là Cung điện Schonbrunn – một trong những cung điện được xây dựng theo kiến trúc Baroque1 lớn và tráng lệ nhất ở Trung Âu, nơi có một khu vường rộng lớn bao quanh và cũng là một trong những dinh thự quan trọng nhất ở Áo, Schonbrunn dịch ra tiếng Việt có nghĩa là một giếng nước đẹp, tên gọi này bắt nguồn từ một giếng phun nước để cung cấp cho triều đình. Cung điện này có một hồ nước rất đẹp và ở phía bên trên hồ là đồi Gloriette cao chừng 60m. Đứng ở đó, người ta có thể ngắm toàn bộ thành phố Vienna. Có lẽ không quá ngạc nhiên khi ngày nay nơi này trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Áo và cũng là nơi tổ chức các lễ hội quan trọng của người dân Vienna. Ban đầu, đây là nơi săn bắn cho các gia đình quý tộc của Đế quốc Áo, sau đó một cung điện đã được dựng lên nhưng phần lớn cung điện này chỉ là nơi nghỉ hè cho các bà quả phụ của Hoàng đế Ferdinand II. Đến khi Hoàng đến Franz Joseph I lên ngôi, ông mới chọn nơi này là nơi ở chính của mình, bởi thế nên khi dừng chân ở đây, người ta dễ dàng liên tưởng tới câu chuyện tình giữa Hoàng đế Franz Joseph I và cô gái 16 tuổi xứ Bavaria mang tên Elizabeth mà sau này nhiều người biết đến qua bộ phim Hoàng hậu Sissi do nữ tài tử điện ảnh quá cố Romy Schneider thủ vai. Nàng Elizabeth xinh đẹp, quý phái này là một trong những người phụ nữ đẹp nhất châu Âu thế kỷ XIX, có điều bà chưa bao giờ yêu Vienna. Lúc nào bà cũng muốn thoát khỏi những ràng buộc của dòng họ Habsburg bởi bà cảm thấy cô độc khi ở nơi đây. Là một người yêu tự do, thích du lịch và khám phá, bà luôn tìm mọi cơ hội để thoát khỏi nơi “đè nén” cuộc đời bà, nhưng vì tình yêu dàhnh cho Hoàng đế Franz Joseph 1 nên bà đã ở lại Vienna.
1 Kiến trúc Banroque: Là thuật ngữ dùng để mô tả phong cách xây dựng của thời kì Banroque, Ý, bắt đầu vào cuối thế kỷ XVII, tận dụng những ngôn ngữ của kiến trúc Phục Hưng theo một cách thức mới, với sự vận động liên tục của những bức tường uốn lượn.
Lâu đài Hoàng Gia
Rời Cung điện, tôi tới Lâu đài Hoàng gia (Hofburg) – biểu tượng của nền di sản văn hóa Vienna – được xây dựng từ năm 1275. Toàn bộ các công trình của cung điện này nằm trên một diện tích khá rộng với những vườn hoa, đài phun nước và những tòa nhà dành cho Hoàng gia. Trước đây, Lâu đài Hofburg là Cung điện Mùa đông của hoàng tộc Áo nhưng hiện nay, nơi đây một phần đã trở thành Thư viện Quốc gia, một phần thành Bảo tàng dân tộc và một phần nữa thành phủ Tổng thống. Phía trước lâu đài có rất nhiều xe ngựa làm tôi liên tưởng đến cuộc sống ngày xưa ở Áo. Trong cung điện Hofburg la viện bảo tàng của Hoàng hậu Sissi và phòng ở của Hoàng đế. Vốn rất mê bà hoàng hậu của nước Áo nên khi tới đây tôi đã dành cả buổi chiều để ngắm nhìn mọi bức hình, đồ vật và tất cả những gì liên quan đến cuộc sống của bà thời xa xưa. Tôi cứ ngỡ như mình đang lạc vào chính nơi bà từng sống…
Giữa trưa, ánh mặt trời len lỏi vào trong thành phố. Tôi hòa vào dòng người đi trên phố và bách bộ ra Heldenplatz (Còn gọi là Quảng trường Anh hùng) – biểu tượng của sự thống nhất và độc lập của Áo. Đây là một quảng trường khá lớn, thu hút được rất nhiều khách du lịch. Quả là một nơi lý tưởng để chiêm ngưỡng những vẻ đẹp tiềm ẩn của Vienna. Ngày trước, khi học lịch sử của Đức và Áo, tôi đã được nghe thầy giáo kể về Hoàng tử Eugène của xứ Savoie, người đã đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ để mang lại vinh quang cho nước Áo. Thế nên, khi đến Vienna, tôi đã muốn tới bằng được quảng trường này. Ngoài bức tượng của hoàng tử Eugène, trên quảng trường còn có bức tượng người anh hùng Archduke Karl đang cưỡi ngựa khoe chiến thắng của mình trong trận Aspern – Essling năm 1809.
Từ đây, người ta có thể đi xe buýt về hướng ga phía Đông để tới Cung điện Belvedere. Nếu như người ta đến Vienna và yêu thích Schonbrunn thì tôi lại thích Belvedere hơn. Tôi không lý giải được ví sao nhưng tôi thích cái cảm giác lang thang từ “cung điện trên” xuống “cung điện dưới”, thích ngồi bên chiếc ghế đã ngắm những chiếc vòi phun nước và những luống hoa đủ sắc màu. Thích đứng ở “cung điện trên” nhìn xuống “cung điện dưới” và có cảm giác như mình đang được ngắm một bức tranh thiên nhiên thơ mộng. Những bức tượng, vườn hoa được chăm tỉa rất kỹ tưỡng. Lác đác xung quanh là những bạn trẻ ngồi đọc sách, nghe nhạc và tận hưởng “vùng trời bình yên” của riêng họ.
Nói đến Vienna thì không thể tới nhà Hunderwasserhaus do nghệ sỹ người Áo Friedenreich Hunderwasserhaus thiết kế. Bởi đây không đơn thuần là một khu căn hộ mà là một tác phẩm nghệ thuật sinh động góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp cho thành phố vốn đã nổi tiếng về văn hóa, nghệ thuật và kiến trúc như Vienna. Cũng như người ta không thể bỏ qua Stephandom với cái chóp cao chót vót và được người dân Áo gọi với cái tên trìu mến là “Steffl”. Với độ cao 137m, Stephandom cũng là thánh đường cao nhất ở châu Âu đồng thời cũng là biểu tượng của thủ đô Vienna. Tôi thích những buổi chiều khi nắng vừa tắt và những ánh đèn điện bắt đầu được bật lên, xung quanh là tiếng nhạc của người nghệ sĩ đường phố, là hò reo của những người đang đứng xem ảo thuật, là tiếng xuýt xoa của các em nhỏ khi nhìn những bức hình của những người họa sỹ vẽ “y như thật”, là những tiếng cười của những đôi tình nhân nắm chặt tay nhau. Dường như khi màn đêm bắt đầu buông xuống, xung quanh Stephandom là nơi lý tưởng để gặp gỡ, hẹn hò. Tự nhiên tôi ước giá như mình cũng có một người để… hẹn hò ở đây, để học lại cách nắm tay một người, điều mà đã từ lâu rồi tôi không còn làm nữa.
Dọc theo con đường Ringstraβe – nơi tập trung những địa danh nổi tiếng của thành phố như Tòa nhà Quốc hội. Lâu đài Hofburg, Bảo tàng Mỹ thuật, tôi lang thang trên những con đường, có rất nhiều nhạc sĩ đường phố với những bản nhạc không tên hoặc cũng có thể là những bản nhạc bất hủ của Mozart, của Strauss được vang lên. Đã từ lâu, Vienna được mệnh danh là chiếc nôi âm nhạc cổ điển của châu Âu, có lẽ vì thế nên tới đây, tôi cũng không quá ngạc nhiên khi thấy ngay cả trên những con hẻm nhỏ bé nhất ở Vienna, những điệu nhạc vẫn được vang lên. Ở nơi đây, người ta dễ dàng thấy những quán cà phê xinh đẹp, thu hút rất nhiều khách du lịch. Dường như đối với người dân Vienna, những quán cà phê ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Bước vào quán cà phê, du khách như lạc vào một thế giới khác. Hình thức các quán cà phê cũng rất bắt mắt, những bức tường thường được chạm trổ rất kì công và trên trần nhà còn treo những chùm đèn pha lê lơ lửng.
Tới Vienna, người ta không thể không ghé thăm nhà hát Vienna Opera House – một rtong những nhà hát lớn và đẹp nhất thế giới được xây dựng từ năm 1861 tới năm 1869. Nhà hát này được mệnh danh là Trung tâm ca kịch của thế giới bởi công trình kiến trúc hùng vĩ mang phong cách La Mã này gồm sáu tầng với 1.600 chỗ ngồi, riêng tầng sáu có sức chứa hơn 500 khán giả. Mỗi năm, nhà hát có khoảng 300 buổi biểu diễn.
Trước khi đến Vienna, tôi tự nhủ là phải đến bằng được Naschmarkt – khu chợ lớn nhất của Vienna. Tôi đi từ đầu chợ tới cuối chợ và đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ở đây cái gì cũng có, nhất là các món ăn, đặc biệt là phomat và ô liu. Mùi thơm của các loại trái cây như mít, sầu riêng và cả mùi phở làm tôi nhớ đến những ngày còn ở Việt Nam. Khi đi hết con đường, tôi vòng lại và dừng chân ở một quán ăn Việt Nam, mùi bún bò Huế thơm lừng khiến tôi thấy mình đang sống những khoảnh khắc thật đặc biệt ở một nơi không phải quê hương mình.
Có lẽ đến với Vienna cũng là một cách để yêu và hiểu thêm về dòng sông Danube. Dòng sông dài thứ hai của châu Âu này khi tôi đặt chân tới này vẫn xanh và hiền hòa như tôi từng tưởng tượng. Mùa hè ở đây luôn tấp nập khách du lịch, những quán cà phê và nhà hàng mọc lên ở khắp nơi. Trên dòng sông, có rất nhiều đôi tình nhân rủ nhau đi chèo thuyền. Biết bao nhiêu người từng ao ước được ngắm dòng sông ấy một lần, còn tôi đứng giữa nơi này, chợt nhớ về câu chuyện tình đẹp và buồn của Sissi – người mà sau này từng nói rằng trở thành Hoàng hậu của nước Áo là điều bà vô cùng hối tiếc.
Tôi tới Vienna vào một buổi tối mùa đông se lạnh và rời Vienna vài ngày sau đó vào một sáng sớm tinh mơ buốt giá. Anh đưa tôi ra ga mà tôi thấy lòng mình trĩu nặng. Dù chưa một lần vào một quán cà phê để ngồi nghe những bản nhạc cổ điển, dù chưa ngồi lên xe ngựa để dạo quanh thành phố như người ta vẫn thường làm khi tới Vienna, nhưng kỉ niệm về thành phố này có lẽ sẽ còn đi theo tôi trên suốt những chặng đường phía trước.
Salzburg - Giai điệu tình yêu
TỪ MUNICH, TÔI ĐẾN Salzburg vào những ngày đầu tháng Ba cùng một chị bạn khi những bông tuyết còn sót lại trên pháo đài Hohensazburg hòa cùng tiếng nhạc của Mozart vang lên trên những góc đường và những con phố nhỏ dẫn vào lòng thành phố.
Trước đây, khi nghe đến Salzburg, tôi chỉ biết đó là quê hương của nhà soạn nhạc nổi tiếng, đồng thời cũng là đứa con cừng của Salzburg: Wolfgang Amadeus Mozart. Nhưng khi tới Salzburg rồi, tôi mới biết, nơi này không chỉ có âm nhạc mà còn có cả sự thơ mộng trữ tình và một vẻ đẹp cổ kính mà người ta khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Chúng tôi lái xe vào trung tâm thành phố, tìm chỗ đậu xe, rồi dừng chân tại ngôi nhà của Mozart – bây giờ đã trở thành viện bảo tàng. Chị Bình mua hai chiếc vẽ và chúng tôi bước vào một căn nhà chứa đầy những kỉ vật thời xa xưa của người nghệ sĩ tài hoa này: những bản nhạc viết tay, những bức hình theo dấu thời gian vẫn chưa ngả màu. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào căn phòng của Mozart thuở xưa với những tiếng nhạc đang vang lên đâu đó xung quanh mình.
Rời viện bảo tàng, chúng tôi đi qua cây cầu bắc ngang dòng sông Salzach và bước vào khu phố cổ. Dù thời tiết còn se lạnh nhưng người ta vẫn cảm nhận được sự ấm áp của thành phố nhỏ bé này. Bên trong những quán cà phê, tôi đang tưởng tượng ra khung cảnh những cặp tình nhân đang ngồi nhâm nhi ly cà phê và nghe nhạc Mozart, tận hưởng sự bình yên của cuộc sống.
Từ năm 1997, khu phố cổ ở Salzburg đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, bởi thế nên khi đi qua những con phố nhỏ như Getreidegasse, Judengasse, Goldgase, người ta có thể chiêm ngưỡng nhiều công trình kiến trúc cổ, đan xen nhiều nét hiện đại. Tôi thích nhất là được ngắm nhìn những đồ lưu niệm bé nhỏ xinh xắn có in hình Mozart và cách bày biện của người dân Salzburg để “níu chân” khách du lịch khi đặt chân tới đây, khiến họ không thể “về không”.
Hầu hết những địa điểm tham quan trong thành phố này đều nằm rất sát nhau nên mọi con đường đều dẫn đến những nơi chúng tôi muốn tới thăm. Chị Bình và tôi dừng lại trước một tiệm Imbiss1 nhỏ và mua xúc xích ăn tạm, tôi chọn xúc xích trắng, chị chọn xúc xích màu và hai chị em đứng ăn ngon lành giữa mùi xúc xích nóng và cái lạnh căm căm ở ngoài trời, dù đeo găng tay nhưng tôi vẫn thấy cái lạnh đang tìm cách len lỏi vào từng thớ thịt trong người mình. Chúng tôi dừng chân ở Nhà thờ Dom uy nghi và lộng lẫy. Khi bước vào, chị Bình xuýt xoa: “Nếu được cưới lại một lần nữa, chị sẽ làm lễ cưới tại nhà thờ này!” Tôi bật cười và mường tượng ra cảnh chị xúnh xính trong chiếc váy cô dâu bước vào nhà thờ. Đúng lúc đó, tôi nhận được tin nhắn từ một người đặc biệt: “Em đang ở đâu đấy?” Tôi cầm điện thoại và nhắn lại: “Em đang ở trong Nhà thờ Salzburger Dom ở Salzburg, anh có muốn em nguyện cầu điều gì không?” Tin nhắn trả lời chỉ vẻn vẹn dòng chữ: “Hãy cầu nguyện cho chúng ta, em nhé?”
1 Quán ăn nhanh không có chỗ ngồi và không có nhà vệ sinh
Tôi quan sát nhà thờ - nơi ngày xưa từng làm lễ rửa tội cho cậu bé Mozart. Nhà thờ này được khánh thành vào ngày 24 tháng 9 năm 774 và cũng là nhà thờ lớn nhất ở Salzburg. Kể từ ngày ra đời, nhà thờ này đã bị cháy vài lần và sau đó liên tục được tu sửa và nâng cấp, nếu để ý kĩ ở phía bên ngoài, bạn sẽ nhìn thấy những còn số 774, 1628 và 1939 – đây là ba thời điểm đánh dấu sự hoạt động trở lại của nhà thờ sau mỗi lần bị hủy hoại.
Đứng trước Nhà thờ Salzburger Dom, tôi đã nhìn thấy Pháo đài Hohensalzburg ở trên cao, lúc đầu tôi bảo chị Bình: “Mình trèo thang bộ lên đó nhé, trèo cho lãng mạn, ngắm được nhiều cảnh hơn” nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng phải đầu hàng vì chẳng thấy ai lãng mạn như mình cả, có lẽ bởi nó dốc và phải trèo quá nhiều bậc thang mới lên được đến đỉnh nên cả hai chị em ngậm ngùi mua vé để “đi thang máy” ở phía trên nhìn xuống, chị Bình xuýt xoa: “May mà chị không nghe lời em đi bộ lên đây, chứ nếu không chắc chị phải mất ba ngày mới lên được đến đây mất!” Pháo đài Honhensalzburg nằm trên đỉnh núi sát bờ sông và cũng là biểu tượng của thành phố Salzburg. Pháo đài này được hình thành vào năm 1077 và sau đó liên tục được mở rộng thêm. Ngày nay, pháo đài là Viện Bảo tàng Nghệ thuật Quân sự của Áo. Với hơn 900 năm tuổi, pháo đài này được xem là pháo đài cổ và nguyên vẹn nhất châu Âu. Nghe nói nguyên nhân của việc xây pháo đài này bắt nguồn từ một cuộc xung đột giữa nhà thờ với triều đình và pháo đài này được xây dựng để chống lại sự tấn công của lính triều đình và pháo đài này được được xây dựng để chống lại sự tấn công của lính triều đình. Đi dạo ở phía bên trong pháo đài, người ta có thể chiêm ngưỡng các căn phòng từ thưở xa xưa và đời sống thời Trung cổ với những hiện vật còn được trưng bày và lưu trữ trong các ngăn tủ kính. Không biết pháo đài có tất cả bao nhiêu căn phòng nhưng tôi thầm nghĩ nếu được chơi trốn tìm ở đây thì có lẽ thật khó mà tìm ra nhau. Từ trên pháo đài, người ta có thể nhìn thấy những khu phố cổ, thấy dòng sông Salzach thơ mộng và ở phía xa là những dãy núi trùng trùng điệp điệp phủ đầy tuyết trắng. Tôi đoán rằng chắc chắn ở trên núi cao kia sẽ là một trong những khu trượt tuyết nổi tiếng nhất của nước Áo. Đã từ lâu, không chỉ khách du lịch từ nước Đức láng giềng mới khăn gói sang Áo trượt tuyết mà người dân ở các nước Trung Âu khác cũng đua nhau tới nơi này trong mùa đông khi tuyết bắt đầu rơi.
Có lẽ Salzburg nổi tiếng không chỉ bơi Pháo đài Hohensalzburg và ngôi nhà của Mozart mà còn bởi vô số những lâu đài khác. Trước khi quay trở lại bãi đỗ xe, chúng tôi đi dạo một vong quanh Lâu đài Mirabell. Lâu đài này được tổng giám mục Wolf Dietrich von Raitenair cho xây dựng vào năm 1606 cho người tình của ông Salome Ait. Bà đã sinh cho ông 15 người con và là mối tình lớn nhất của ông. Ông đã xây dựng lâu đài này cho bà và các con của mình. Những khu vườn rất rọng với những vòi phun nước thật đẹp, tôi thầm tiếc vì đã tới thăm lâu đài này khi trời vẫn còn quá lạnh và hoa chưa kịp nở đủ giờ đã là gần nửa tháng Ba. Có lẽ nếu đến đây vào mùa xuân, khi hoa nở rộ khắp khu vườn, người ta sẽ dễ dàng cảm nhận được sự bình yên và thư thái khi đi bộ xung quanh đó. Ngày nay, lâu đài đã trở thành trụ sở làm việc của thành phố và tòa thị chính.
Trước khi rời Salzburg để trở về Munich, tôi và chị Bình bằng mọi giá phải ghé thăm lâu đài Hullbrunn. Tôi đã nhìn thấy bảng hướng dẫn chỉ đường trên phố nên cứ nghĩ là nó cũng nằm đâu đó xung quanh đây nhưng đi mãi mà vẫn không thấy, trong khi trên biển bảo ngoài đường đã chỉ hướng về Munich. Chúng tôi dừng lại hỏi một người đi đường và cô gái người Áo ấy đã chỉ sang phía bên kia đường và cô gái người Áo ấy đã chỉ sang phía bên kia đường, thì ra từ trung tâm thành phố lái xe tới đây cũng phải mất hơn 30 phút. Lâu đài này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới với rất nhiều hang động và nhiều hình thức trình diễn bằng sức nước. Ngoài ra, còn có cả sở thú trong khuôn viên lâu đài này, nhưng khi chúng tôi tới thì phần lớn những loài thú vẫn còn ngủ đông, nên chỉ có một số ít con vật người ta vẫn để ở bên ngoài cho du khách tới chiêm ngưỡng.
Rời Salzburg, nơi được mệnh danh là thiên đường nhỏ bé của nước Áo, tôi cứ nghĩ mãi về khung cảnh bình yên của nơi này. Khác với vẻ đẹp lộng lẫy của Vienna, Salzburg khoác lên mình chiếc áo thơ mộng, thanh bình hơn. Thành phố nhỏ bé này đã làm say đắm không biết bao nhiêu người từng tới đây và bây giờ thì tôi cũng đã biết: Salzburg không chỉ có Mozart mà còn nhiều, nhiều hơn thế nữa!
Đã từ lâu người ta biết đến Vienna không chỉ là thủ đô âm nhạc của thế giới mà còn là thành phố của kiến trúc với những tòa lâu đài tráng lệ và những công trình kiến trúc độc đáo bậc nhất châu Âu. Ấn tượng đầu tiên của tôi khi tới Vienna là những chiếc xe ngựa chạy thong dong trên đường phố, lẫn đâu đó là tiếng xe điện và những chiếc xe hơi hiện đại. Vienna khoác lên mình vẻ đẹp của một thành phố cổ nhưng cũng rất trẻ trung và hiện đại.
Cung điện Schonbrunn
Tôi lang thang một mình trong cái lạnh của thành phố với tấm bản đồ trên tay, địa điểm đầu tiên tôi đặt chân đến là Cung điện Schonbrunn – một trong những cung điện được xây dựng theo kiến trúc Baroque1 lớn và tráng lệ nhất ở Trung Âu, nơi có một khu vường rộng lớn bao quanh và cũng là một trong những dinh thự quan trọng nhất ở Áo, Schonbrunn dịch ra tiếng Việt có nghĩa là một giếng nước đẹp, tên gọi này bắt nguồn từ một giếng phun nước để cung cấp cho triều đình. Cung điện này có một hồ nước rất đẹp và ở phía bên trên hồ là đồi Gloriette cao chừng 60m. Đứng ở đó, người ta có thể ngắm toàn bộ thành phố Vienna. Có lẽ không quá ngạc nhiên khi ngày nay nơi này trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Áo và cũng là nơi tổ chức các lễ hội quan trọng của người dân Vienna. Ban đầu, đây là nơi săn bắn cho các gia đình quý tộc của Đế quốc Áo, sau đó một cung điện đã được dựng lên nhưng phần lớn cung điện này chỉ là nơi nghỉ hè cho các bà quả phụ của Hoàng đế Ferdinand II. Đến khi Hoàng đến Franz Joseph I lên ngôi, ông mới chọn nơi này là nơi ở chính của mình, bởi thế nên khi dừng chân ở đây, người ta dễ dàng liên tưởng tới câu chuyện tình giữa Hoàng đế Franz Joseph I và cô gái 16 tuổi xứ Bavaria mang tên Elizabeth mà sau này nhiều người biết đến qua bộ phim Hoàng hậu Sissi do nữ tài tử điện ảnh quá cố Romy Schneider thủ vai. Nàng Elizabeth xinh đẹp, quý phái này là một trong những người phụ nữ đẹp nhất châu Âu thế kỷ XIX, có điều bà chưa bao giờ yêu Vienna. Lúc nào bà cũng muốn thoát khỏi những ràng buộc của dòng họ Habsburg bởi bà cảm thấy cô độc khi ở nơi đây. Là một người yêu tự do, thích du lịch và khám phá, bà luôn tìm mọi cơ hội để thoát khỏi nơi “đè nén” cuộc đời bà, nhưng vì tình yêu dàhnh cho Hoàng đế Franz Joseph 1 nên bà đã ở lại Vienna.
1 Kiến trúc Banroque: Là thuật ngữ dùng để mô tả phong cách xây dựng của thời kì Banroque, Ý, bắt đầu vào cuối thế kỷ XVII, tận dụng những ngôn ngữ của kiến trúc Phục Hưng theo một cách thức mới, với sự vận động liên tục của những bức tường uốn lượn.
Lâu đài Hoàng Gia
Rời Cung điện, tôi tới Lâu đài Hoàng gia (Hofburg) – biểu tượng của nền di sản văn hóa Vienna – được xây dựng từ năm 1275. Toàn bộ các công trình của cung điện này nằm trên một diện tích khá rộng với những vườn hoa, đài phun nước và những tòa nhà dành cho Hoàng gia. Trước đây, Lâu đài Hofburg là Cung điện Mùa đông của hoàng tộc Áo nhưng hiện nay, nơi đây một phần đã trở thành Thư viện Quốc gia, một phần thành Bảo tàng dân tộc và một phần nữa thành phủ Tổng thống. Phía trước lâu đài có rất nhiều xe ngựa làm tôi liên tưởng đến cuộc sống ngày xưa ở Áo. Trong cung điện Hofburg la viện bảo tàng của Hoàng hậu Sissi và phòng ở của Hoàng đế. Vốn rất mê bà hoàng hậu của nước Áo nên khi tới đây tôi đã dành cả buổi chiều để ngắm nhìn mọi bức hình, đồ vật và tất cả những gì liên quan đến cuộc sống của bà thời xa xưa. Tôi cứ ngỡ như mình đang lạc vào chính nơi bà từng sống…
Giữa trưa, ánh mặt trời len lỏi vào trong thành phố. Tôi hòa vào dòng người đi trên phố và bách bộ ra Heldenplatz (Còn gọi là Quảng trường Anh hùng) – biểu tượng của sự thống nhất và độc lập của Áo. Đây là một quảng trường khá lớn, thu hút được rất nhiều khách du lịch. Quả là một nơi lý tưởng để chiêm ngưỡng những vẻ đẹp tiềm ẩn của Vienna. Ngày trước, khi học lịch sử của Đức và Áo, tôi đã được nghe thầy giáo kể về Hoàng tử Eugène của xứ Savoie, người đã đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ để mang lại vinh quang cho nước Áo. Thế nên, khi đến Vienna, tôi đã muốn tới bằng được quảng trường này. Ngoài bức tượng của hoàng tử Eugène, trên quảng trường còn có bức tượng người anh hùng Archduke Karl đang cưỡi ngựa khoe chiến thắng của mình trong trận Aspern – Essling năm 1809.
Từ đây, người ta có thể đi xe buýt về hướng ga phía Đông để tới Cung điện Belvedere. Nếu như người ta đến Vienna và yêu thích Schonbrunn thì tôi lại thích Belvedere hơn. Tôi không lý giải được ví sao nhưng tôi thích cái cảm giác lang thang từ “cung điện trên” xuống “cung điện dưới”, thích ngồi bên chiếc ghế đã ngắm những chiếc vòi phun nước và những luống hoa đủ sắc màu. Thích đứng ở “cung điện trên” nhìn xuống “cung điện dưới” và có cảm giác như mình đang được ngắm một bức tranh thiên nhiên thơ mộng. Những bức tượng, vườn hoa được chăm tỉa rất kỹ tưỡng. Lác đác xung quanh là những bạn trẻ ngồi đọc sách, nghe nhạc và tận hưởng “vùng trời bình yên” của riêng họ.
Nói đến Vienna thì không thể tới nhà Hunderwasserhaus do nghệ sỹ người Áo Friedenreich Hunderwasserhaus thiết kế. Bởi đây không đơn thuần là một khu căn hộ mà là một tác phẩm nghệ thuật sinh động góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp cho thành phố vốn đã nổi tiếng về văn hóa, nghệ thuật và kiến trúc như Vienna. Cũng như người ta không thể bỏ qua Stephandom với cái chóp cao chót vót và được người dân Áo gọi với cái tên trìu mến là “Steffl”. Với độ cao 137m, Stephandom cũng là thánh đường cao nhất ở châu Âu đồng thời cũng là biểu tượng của thủ đô Vienna. Tôi thích những buổi chiều khi nắng vừa tắt và những ánh đèn điện bắt đầu được bật lên, xung quanh là tiếng nhạc của người nghệ sĩ đường phố, là hò reo của những người đang đứng xem ảo thuật, là tiếng xuýt xoa của các em nhỏ khi nhìn những bức hình của những người họa sỹ vẽ “y như thật”, là những tiếng cười của những đôi tình nhân nắm chặt tay nhau. Dường như khi màn đêm bắt đầu buông xuống, xung quanh Stephandom là nơi lý tưởng để gặp gỡ, hẹn hò. Tự nhiên tôi ước giá như mình cũng có một người để… hẹn hò ở đây, để học lại cách nắm tay một người, điều mà đã từ lâu rồi tôi không còn làm nữa.
Dọc theo con đường Ringstraβe – nơi tập trung những địa danh nổi tiếng của thành phố như Tòa nhà Quốc hội. Lâu đài Hofburg, Bảo tàng Mỹ thuật, tôi lang thang trên những con đường, có rất nhiều nhạc sĩ đường phố với những bản nhạc không tên hoặc cũng có thể là những bản nhạc bất hủ của Mozart, của Strauss được vang lên. Đã từ lâu, Vienna được mệnh danh là chiếc nôi âm nhạc cổ điển của châu Âu, có lẽ vì thế nên tới đây, tôi cũng không quá ngạc nhiên khi thấy ngay cả trên những con hẻm nhỏ bé nhất ở Vienna, những điệu nhạc vẫn được vang lên. Ở nơi đây, người ta dễ dàng thấy những quán cà phê xinh đẹp, thu hút rất nhiều khách du lịch. Dường như đối với người dân Vienna, những quán cà phê ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Bước vào quán cà phê, du khách như lạc vào một thế giới khác. Hình thức các quán cà phê cũng rất bắt mắt, những bức tường thường được chạm trổ rất kì công và trên trần nhà còn treo những chùm đèn pha lê lơ lửng.
Tới Vienna, người ta không thể không ghé thăm nhà hát Vienna Opera House – một rtong những nhà hát lớn và đẹp nhất thế giới được xây dựng từ năm 1861 tới năm 1869. Nhà hát này được mệnh danh là Trung tâm ca kịch của thế giới bởi công trình kiến trúc hùng vĩ mang phong cách La Mã này gồm sáu tầng với 1.600 chỗ ngồi, riêng tầng sáu có sức chứa hơn 500 khán giả. Mỗi năm, nhà hát có khoảng 300 buổi biểu diễn.
Trước khi đến Vienna, tôi tự nhủ là phải đến bằng được Naschmarkt – khu chợ lớn nhất của Vienna. Tôi đi từ đầu chợ tới cuối chợ và đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ở đây cái gì cũng có, nhất là các món ăn, đặc biệt là phomat và ô liu. Mùi thơm của các loại trái cây như mít, sầu riêng và cả mùi phở làm tôi nhớ đến những ngày còn ở Việt Nam. Khi đi hết con đường, tôi vòng lại và dừng chân ở một quán ăn Việt Nam, mùi bún bò Huế thơm lừng khiến tôi thấy mình đang sống những khoảnh khắc thật đặc biệt ở một nơi không phải quê hương mình.
Có lẽ đến với Vienna cũng là một cách để yêu và hiểu thêm về dòng sông Danube. Dòng sông dài thứ hai của châu Âu này khi tôi đặt chân tới này vẫn xanh và hiền hòa như tôi từng tưởng tượng. Mùa hè ở đây luôn tấp nập khách du lịch, những quán cà phê và nhà hàng mọc lên ở khắp nơi. Trên dòng sông, có rất nhiều đôi tình nhân rủ nhau đi chèo thuyền. Biết bao nhiêu người từng ao ước được ngắm dòng sông ấy một lần, còn tôi đứng giữa nơi này, chợt nhớ về câu chuyện tình đẹp và buồn của Sissi – người mà sau này từng nói rằng trở thành Hoàng hậu của nước Áo là điều bà vô cùng hối tiếc.
Tôi tới Vienna vào một buổi tối mùa đông se lạnh và rời Vienna vài ngày sau đó vào một sáng sớm tinh mơ buốt giá. Anh đưa tôi ra ga mà tôi thấy lòng mình trĩu nặng. Dù chưa một lần vào một quán cà phê để ngồi nghe những bản nhạc cổ điển, dù chưa ngồi lên xe ngựa để dạo quanh thành phố như người ta vẫn thường làm khi tới Vienna, nhưng kỉ niệm về thành phố này có lẽ sẽ còn đi theo tôi trên suốt những chặng đường phía trước.
Salzburg - Giai điệu tình yêu
TỪ MUNICH, TÔI ĐẾN Salzburg vào những ngày đầu tháng Ba cùng một chị bạn khi những bông tuyết còn sót lại trên pháo đài Hohensazburg hòa cùng tiếng nhạc của Mozart vang lên trên những góc đường và những con phố nhỏ dẫn vào lòng thành phố.
Trước đây, khi nghe đến Salzburg, tôi chỉ biết đó là quê hương của nhà soạn nhạc nổi tiếng, đồng thời cũng là đứa con cừng của Salzburg: Wolfgang Amadeus Mozart. Nhưng khi tới Salzburg rồi, tôi mới biết, nơi này không chỉ có âm nhạc mà còn có cả sự thơ mộng trữ tình và một vẻ đẹp cổ kính mà người ta khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Chúng tôi lái xe vào trung tâm thành phố, tìm chỗ đậu xe, rồi dừng chân tại ngôi nhà của Mozart – bây giờ đã trở thành viện bảo tàng. Chị Bình mua hai chiếc vẽ và chúng tôi bước vào một căn nhà chứa đầy những kỉ vật thời xa xưa của người nghệ sĩ tài hoa này: những bản nhạc viết tay, những bức hình theo dấu thời gian vẫn chưa ngả màu. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào căn phòng của Mozart thuở xưa với những tiếng nhạc đang vang lên đâu đó xung quanh mình.
Rời viện bảo tàng, chúng tôi đi qua cây cầu bắc ngang dòng sông Salzach và bước vào khu phố cổ. Dù thời tiết còn se lạnh nhưng người ta vẫn cảm nhận được sự ấm áp của thành phố nhỏ bé này. Bên trong những quán cà phê, tôi đang tưởng tượng ra khung cảnh những cặp tình nhân đang ngồi nhâm nhi ly cà phê và nghe nhạc Mozart, tận hưởng sự bình yên của cuộc sống.
Từ năm 1997, khu phố cổ ở Salzburg đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, bởi thế nên khi đi qua những con phố nhỏ như Getreidegasse, Judengasse, Goldgase, người ta có thể chiêm ngưỡng nhiều công trình kiến trúc cổ, đan xen nhiều nét hiện đại. Tôi thích nhất là được ngắm nhìn những đồ lưu niệm bé nhỏ xinh xắn có in hình Mozart và cách bày biện của người dân Salzburg để “níu chân” khách du lịch khi đặt chân tới đây, khiến họ không thể “về không”.
Hầu hết những địa điểm tham quan trong thành phố này đều nằm rất sát nhau nên mọi con đường đều dẫn đến những nơi chúng tôi muốn tới thăm. Chị Bình và tôi dừng lại trước một tiệm Imbiss1 nhỏ và mua xúc xích ăn tạm, tôi chọn xúc xích trắng, chị chọn xúc xích màu và hai chị em đứng ăn ngon lành giữa mùi xúc xích nóng và cái lạnh căm căm ở ngoài trời, dù đeo găng tay nhưng tôi vẫn thấy cái lạnh đang tìm cách len lỏi vào từng thớ thịt trong người mình. Chúng tôi dừng chân ở Nhà thờ Dom uy nghi và lộng lẫy. Khi bước vào, chị Bình xuýt xoa: “Nếu được cưới lại một lần nữa, chị sẽ làm lễ cưới tại nhà thờ này!” Tôi bật cười và mường tượng ra cảnh chị xúnh xính trong chiếc váy cô dâu bước vào nhà thờ. Đúng lúc đó, tôi nhận được tin nhắn từ một người đặc biệt: “Em đang ở đâu đấy?” Tôi cầm điện thoại và nhắn lại: “Em đang ở trong Nhà thờ Salzburger Dom ở Salzburg, anh có muốn em nguyện cầu điều gì không?” Tin nhắn trả lời chỉ vẻn vẹn dòng chữ: “Hãy cầu nguyện cho chúng ta, em nhé?”
1 Quán ăn nhanh không có chỗ ngồi và không có nhà vệ sinh
Tôi quan sát nhà thờ - nơi ngày xưa từng làm lễ rửa tội cho cậu bé Mozart. Nhà thờ này được khánh thành vào ngày 24 tháng 9 năm 774 và cũng là nhà thờ lớn nhất ở Salzburg. Kể từ ngày ra đời, nhà thờ này đã bị cháy vài lần và sau đó liên tục được tu sửa và nâng cấp, nếu để ý kĩ ở phía bên ngoài, bạn sẽ nhìn thấy những còn số 774, 1628 và 1939 – đây là ba thời điểm đánh dấu sự hoạt động trở lại của nhà thờ sau mỗi lần bị hủy hoại.
Đứng trước Nhà thờ Salzburger Dom, tôi đã nhìn thấy Pháo đài Hohensalzburg ở trên cao, lúc đầu tôi bảo chị Bình: “Mình trèo thang bộ lên đó nhé, trèo cho lãng mạn, ngắm được nhiều cảnh hơn” nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng phải đầu hàng vì chẳng thấy ai lãng mạn như mình cả, có lẽ bởi nó dốc và phải trèo quá nhiều bậc thang mới lên được đến đỉnh nên cả hai chị em ngậm ngùi mua vé để “đi thang máy” ở phía trên nhìn xuống, chị Bình xuýt xoa: “May mà chị không nghe lời em đi bộ lên đây, chứ nếu không chắc chị phải mất ba ngày mới lên được đến đây mất!” Pháo đài Honhensalzburg nằm trên đỉnh núi sát bờ sông và cũng là biểu tượng của thành phố Salzburg. Pháo đài này được hình thành vào năm 1077 và sau đó liên tục được mở rộng thêm. Ngày nay, pháo đài là Viện Bảo tàng Nghệ thuật Quân sự của Áo. Với hơn 900 năm tuổi, pháo đài này được xem là pháo đài cổ và nguyên vẹn nhất châu Âu. Nghe nói nguyên nhân của việc xây pháo đài này bắt nguồn từ một cuộc xung đột giữa nhà thờ với triều đình và pháo đài này được xây dựng để chống lại sự tấn công của lính triều đình và pháo đài này được được xây dựng để chống lại sự tấn công của lính triều đình. Đi dạo ở phía bên trong pháo đài, người ta có thể chiêm ngưỡng các căn phòng từ thưở xa xưa và đời sống thời Trung cổ với những hiện vật còn được trưng bày và lưu trữ trong các ngăn tủ kính. Không biết pháo đài có tất cả bao nhiêu căn phòng nhưng tôi thầm nghĩ nếu được chơi trốn tìm ở đây thì có lẽ thật khó mà tìm ra nhau. Từ trên pháo đài, người ta có thể nhìn thấy những khu phố cổ, thấy dòng sông Salzach thơ mộng và ở phía xa là những dãy núi trùng trùng điệp điệp phủ đầy tuyết trắng. Tôi đoán rằng chắc chắn ở trên núi cao kia sẽ là một trong những khu trượt tuyết nổi tiếng nhất của nước Áo. Đã từ lâu, không chỉ khách du lịch từ nước Đức láng giềng mới khăn gói sang Áo trượt tuyết mà người dân ở các nước Trung Âu khác cũng đua nhau tới nơi này trong mùa đông khi tuyết bắt đầu rơi.
Có lẽ Salzburg nổi tiếng không chỉ bơi Pháo đài Hohensalzburg và ngôi nhà của Mozart mà còn bởi vô số những lâu đài khác. Trước khi quay trở lại bãi đỗ xe, chúng tôi đi dạo một vong quanh Lâu đài Mirabell. Lâu đài này được tổng giám mục Wolf Dietrich von Raitenair cho xây dựng vào năm 1606 cho người tình của ông Salome Ait. Bà đã sinh cho ông 15 người con và là mối tình lớn nhất của ông. Ông đã xây dựng lâu đài này cho bà và các con của mình. Những khu vườn rất rọng với những vòi phun nước thật đẹp, tôi thầm tiếc vì đã tới thăm lâu đài này khi trời vẫn còn quá lạnh và hoa chưa kịp nở đủ giờ đã là gần nửa tháng Ba. Có lẽ nếu đến đây vào mùa xuân, khi hoa nở rộ khắp khu vườn, người ta sẽ dễ dàng cảm nhận được sự bình yên và thư thái khi đi bộ xung quanh đó. Ngày nay, lâu đài đã trở thành trụ sở làm việc của thành phố và tòa thị chính.
Trước khi rời Salzburg để trở về Munich, tôi và chị Bình bằng mọi giá phải ghé thăm lâu đài Hullbrunn. Tôi đã nhìn thấy bảng hướng dẫn chỉ đường trên phố nên cứ nghĩ là nó cũng nằm đâu đó xung quanh đây nhưng đi mãi mà vẫn không thấy, trong khi trên biển bảo ngoài đường đã chỉ hướng về Munich. Chúng tôi dừng lại hỏi một người đi đường và cô gái người Áo ấy đã chỉ sang phía bên kia đường và cô gái người Áo ấy đã chỉ sang phía bên kia đường, thì ra từ trung tâm thành phố lái xe tới đây cũng phải mất hơn 30 phút. Lâu đài này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới với rất nhiều hang động và nhiều hình thức trình diễn bằng sức nước. Ngoài ra, còn có cả sở thú trong khuôn viên lâu đài này, nhưng khi chúng tôi tới thì phần lớn những loài thú vẫn còn ngủ đông, nên chỉ có một số ít con vật người ta vẫn để ở bên ngoài cho du khách tới chiêm ngưỡng.
Rời Salzburg, nơi được mệnh danh là thiên đường nhỏ bé của nước Áo, tôi cứ nghĩ mãi về khung cảnh bình yên của nơi này. Khác với vẻ đẹp lộng lẫy của Vienna, Salzburg khoác lên mình chiếc áo thơ mộng, thanh bình hơn. Thành phố nhỏ bé này đã làm say đắm không biết bao nhiêu người từng tới đây và bây giờ thì tôi cũng đã biết: Salzburg không chỉ có Mozart mà còn nhiều, nhiều hơn thế nữa!
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook