Địa Đồ Di Cốt
-
Chương 8: Bài thơ câu đố
Ngày 25 tháng 7, 6 giờ 23 phút
Rome, Italy
“Tôi cần bút và giấy”, Gray nói tay vẫn cầm chiếc máy điện thoại dò định vị vệ tinh.
Cả nhóm đang đứng chờ tại một quán nhỏ bên hè, đối diện ga xe lửa trung tâm Rome. Ngay khi tới Rome, Rachel đã điều hai xe cảnh sát tới để hộ tống cả nhóm tới Vatican. Trong khi chờ đợi, Gray quyết định đã đến lúc phải phá vỡ sự im lặng với chỉ huy trung tâm. Lập tức, anh được nối máy với Giám đốc Crowe.
Sau khi trình bày vắn tắt diễn biến sự việc ở Cologne và Milan, Giám đốc Crowe đã cung cấp cho anh một tin rất đáng ngạc nhiên.
“Tại sao cô ta lại gọi ngài?” Gray hỏi ngài giám đốc khi Monk đưa cho anh giấy bút.
Painter trả lời, “Seichan đang chơi trò dùng cả hai nhóm đánh lẫn nhau để thực hiện ý đồ riêng của mình. Thậm chí, cô ta thậm chí không buồn che giấu điều đó. Tin tình báo cô ta cung cấp cho chúng ta được lấy cắp từ một nhân viên thực địa của Long Đình, tên gã là Raoul.”
Gray nhớ ra gã này và việc gã làm tại Milan.
“Tôi không tin cô ta có thể tự mình giải mã tin tình báo đó,” Painter tiếp tục. “Vì vậy cô ta chuyển lại cho chúng ta - nhằm giải quyết cả hai mục đích vừa là giải mã cái đó cho cô ta vừa là giữ anh theo đuôi Long Đình. Cô ta không phải là con ngốc. Tài giật dây của cô ta chắc phải vào loại siêu đẳng khi đã được Hiệp hội lựa chọn để giám sát phi vụ này… cùng với việc hai người đã biết nhau rồi. Mặc dù cô ta có giúp vài việc tại Cologne và Milan, nhưng không thể tin được. Chắc chắn cô ta sẽ quay ngoắt lại chống anh để đạt điểm hòa.”
Gray thấy đồng xu kim loại trong túi mình bỗng nặng hơn. Thực ra anh cũng đâu cần sếp phải cảnh báo. Người đàn bà này quả là băng đá và sắt thép.
“Ok.” Gray nói khi anh đã có giấy bút trong tay, tay kia vẫn cầm điện thoại. “Tôi đã sẵn sàng”.
Gray ghi lại từng lời Painter chuyển lại tin nhắn.
“Nó được sắp xếp kiểu văn vần, giống một bài thơ à?” Gray hỏi.
“Chính xác là như vậy.” Ông giám đốc tiếp tục đọc trong lúc Gray cẩn thận ghi lại theo từng hàng.
Sau khi đọc xong, Painter nói. “Tôi đã giao cho bộ phận giải mã bài thơ này tại đây và N.S.A.”
Gray chau mày trước những gì được ghi trên giấy. “Tôi sẽ xem có thể làm được gì. Biết đâu có thể sử dụng vài nguồn ở Vatican, chúng tôi sẽ bắt đầu hành động từ đây.”
“Lúc này cứ tiếp tục hành động” Painter ra lệnh. “Nhân vật Seichan có thể còn nguy hiểm hơn toàn thể Long Đình gộp lại”.
Gray không muốn tranh luận về câu nói cuối cùng này. Hỏi thêm vài chi tiết nữa anh tắt máy rồi đút vào túi. Những người khác nhìn anh vẻ chờ đợi.
“Cái gì thế này?” Monk hỏi.
“Long nương gọi Sigma. Cô ả chuyển giao một bí mật nhờ chúng ta giải đáp. Hình như cô ả chưa biết Long Đình sẽ làm gì tiếp, và trong khi họ chuẩn bị cô ả muốn chúng ta theo gót chân chúng. Vì vậy, ả đã tiết lộ một bài văn cổ, nó được bọn Long Đình phát hiện hai tháng trước đây ở Ai Cập. Không biết nội dung nói gì nhưng cô ả nói chính cái đó khởi động phi vụ hiện hành”.
Vigor đi vào từ một chiếc bàn kê ngoài vỉa hè. Với tách cà phê nhỏ trên tay, ông cúi đầu vào trang giấy đọc cho những người khác nghe.
Khi trăng tròn giao hòa với mặt trời
Được sinh ra già nhất
Cái gì vậy?
Nơi nó chết đuối
Trôi trong bóng tối và chăm chú hướng về vị vua đã mất.
Cái gì vậy?
Cặp song sinh chờ nước,
Nhưng sẽ bị thiêu cháy từng đốt xương trên bàn thờ.
Cái gì vậy?
“Ồ, được đấy.” Monk làu bàu.
Kat lắc đầu: “Cái này có liên quan gì đến Long Đình, các kim loại có độ quay tròn cao và một hội hè nào đó đã mất của các nhà giả kim?”
Rachel liếc nhìn đường phố. “Các nhà học giả ở Vatican có thể giúp được. Hồng y Spera đã hứa sẽ tận tâm giúp đỡ.”
Gray để ý Vigor chỉ thoáng nhìn mẩu giấy rồi quay đi. Ông nhâm nhi tách cà phê.
Gray cảm thấy đã quá đủ với sự im lặng của ông ta. Anh thực sự ngán kiểu tôn trọng ranh giới của nhau một cách lịch sự. Nếu Vigor muốn tiếp tục ở lại nhóm, giờ đã đến lúc ông ta phải hành động.
“Ông biết gì chăng?” Gray mở màn.
“Anh cũng vậy.” Vigor trả lời.
“Ông nói vậy là có ý gì?”
“Tôi đã mô tả điều này khi ở trên tàu.” Vigor quay lại lấy ngón tay gõ vào mảnh giấy.
“Ngữ điệu của đoạn văn này cũng quen thuộc. Tôi đã mô tả một cuốn sách với một mẫu văn bản tương tự. Sự lặp lại của đoạn Cái gì vậy?”
Kat là người đầu tiên nhớ ra. “Từ cuốn Sách của Người chết của Ai Cập phải không?”
“Papyrus of Ani - nếu nói cho chính xác.” Vigor tiếp tục. “Nó được tách ra thành từng dòng theo lối văn mô tả, cứ từng dòng một rồi nhắc lại câu Cái gì vậy?”
“Hoặc nếu nói theo tiếng Hebrew là manna.” Gray sực nhớ ra.
Monk lấy tay xoa xoa lên cái đầu cạo nhẵn thín của mình. “Nếu như đoạn văn này được trích từ một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, tại sao nó lại bốc cháy dưới Long Đình hiện nay?”
“Đoạn văn trên không phải trích trong cuốn Sách của Người chết.” Vigor trả lời. “Tôi cũng quá quen với cuốn Papyrus of Ani để thấy rằng đoạn văn không tìm thấy ở các cuốn khác.”
“Thế vậy nó từ đâu tới?” Rachel hỏi.
Vigor quay lại Gray. “Anh nói Long Đình đã tìm thấy cái này ở Ai Cập mới tháng trước.”
“Chính xác.”
Vigor quay sang Rachel. “Bác tin rằng là nhân viên cảnh sát chống ăn trộm di sản văn hóa, cháu đã được thông báo về vụ lộn xộn mới đây ở Bảo tàng Ai Cập ở thủ đô Cairo. Bảo tàng đã gửi thông báo khẩn cấp tới Interpol.”
Rachel gật đầu rồi giải thích cho những người khác: “Hội đồng tối cao Di vật cổ đại của Ai Cập đã tiến hành sửa sang căn hầm của Bảo tàng vào năm 2004. Nhưng khi mở căn hầm ra, họ đã phát hiện hàng ngàn cổ vật từ thời các vua Pharaoh và các thời kỳ khác đặt trong mê cung này, mà thực chất đã trở thành một kho hổ lốn những loại cổ vật mà người ta đã lãng quên.”
“Họ ước tính phải mất năm năm mới có thể thống kê đủ tất cả.” Vigor nói. “Là giáo sư khảo cổ, tôi đã nghe nhiều chuyện giật gân chung quanh mấy vụ này. Có một căn phòng chứa những cuộn giấy toàn là văn bản cổ mà các nhà học giả nghi được đưa về từ thư viện thất lạc của Alexandre, một nơi chuyên nghiên cứu về Ngộ đạo.”
Gray bỗng nhớ lại cuộc tranh luận với Vigor về Chủ nghĩa ngộ đạo cũng như việc theo đuổi các kiến thức bí hiểm. “Những phát hiện như vậy chắc chắn hấp dẫn Long Đình.”
“Giống như loài mối đối với ngọn lửa.”
Vigor tiếp tục: “Một trong những thứ được nhắc đến là tuyển tập của Abd el-Latif, một nhà vật lý và nhà thám hiểm có tên tuổi của Ai Cập sống ở Cairo vào thế kỷ XV. Tuyển tập của ông được lưu giữ trong một cái rương bằng đồng, có một bản sao minh họa từ thế kỷ thứ XIV của cuốn sách “Sách của người chết”, một diễn giải toàn bộ của cuốn Papyrus of Ani.” Vigor lại nhìn Gray. “Nó đã bị mất bốn tháng trước đây.”
Gray thấy như tim mình đập mạnh hơn. “Do Long Đình làm.”
“Hoặc ai đó được chúng thuê. Bàn tay của chúng ở khắp nơi.”
”Nhưng nếu như cuốn đó chỉ là mô phỏng của quyển sách thật, thì điều đó có ý nghĩa gì?” Monk hỏi.
“Cuốn Papyrus of Ani có hàng trăm khổ thơ. Tôi đánh cá là có ai đó đã làm giả mạo bản copy rồi giấu hàng trăm vần thơ cụ thể trong số những vần thơ cổ hơn.” Ông gõ vào cuốn sổ tay của Monk.
“Những nhà giả kim học mất tích của chúng ta.” Kat chen vào.
“Giấu chiếc kim trong đống rơm.” Monk nói tiếp.
Gray gật đầu. “Cho đến khi vài nhà học giả trong Long Đình đã khôn ngoan nhặt chúng ra, giải mã những gợi ý rồi hành động theo đó. Nhưng điều ấy dẫn chúng ta đến đâu?”
Vigor quay ra phía đường phố: “Khi ở trên tàu hỏa, anh đã đề cập đến ý đồ theo kịp rồi vượt Long Đình. Giờ đó là cơ hội của chúng ta.”
“Vậy ư?”
“Chúng ta phải giải mã câu đố này.”
“Nhưng phải mất nhiều ngày.”
Vigor nhìn qua vai anh. “Thực ra tôi đã bắt đầu giải nó.”
Ông ra hiệu đem cuốn sổ lại rồi vạch vào trang giấy trắng: “Để tôi chỉ cho.”
Sau ông làm một chuyện thật kỳ quặc. Ông nhúng ngón tay mình vào cốc cà phê, xoa vào đáy chiếu cốc nhỏ. Sau đấy ấn chiếc cốc vào tờ giấy trắng để lại một vòng tròn cà phê hoàn hảo trên đó. Ông lặp lại in tiếp một vòng tròn thứ hai, vòng nọ tiếp vòng kia, tạo ra hình dạng giống như người tuyết.
“Mặt trăng tròn giao hòa với mặt trời.”
“Điều đó chỉ ra cái gì?” Gray hỏi.
“Vesica Pisces.” Rachel nói, khuôn mặt bừng sáng.
Vigor cười lớn. “Đã bao giờ tôi nói với các bạn rằng tôi rất tự hào về cô cháu gái chưa?”
***
7 giờ 2 phút
Rachel không muốn bỏ tốp cảnh sát hộ tống, nhưng cô hiểu sự phấn chấn của bác Vigor. Bác cô đã khăng khăng đòi họ sử dụng phương tiện khác để điều tra theo hướng mới.
Vì vậy cô đã liên lạc với đồn, thôi không điều động xe tuần tra nữa. Cô cũng gửi một bức điện có tính chất ẩn dụ cho tướng Rende nói họ có việc cần phải làm. Điều này thực hiện theo gợi ý của Gray. Anh nghĩ tốt nhất không nên công bố điểm đến của họ. Chừng nào chưa điều tra gì thêm.
Càng ít người biết về những phát hiện của họ càng tốt.
Vì vậy, họ kiếm phương tiện giao thông khác.
Rachel đi theo đôi vai vuông vức của Gray xuống cuối chiếc xe buýt công cộng, còn Kat và Monk ngồi luôn vào hàng ghế trống. Hệ thống điều hòa được bật lên trong khi động cơ rồ lên đẩy chiếc xe buýt lao vào dòng xe bất tận. Rachel ngồi cùng ghế với Gray. Hàng ghế của họ đối mặt với Monk, Kat và bác Vigor. Kat nhìn rất nghiêm nghị. Cô đã đề nghị nên đi thẳng tới Vatican rồi tìm đội hộ tống trước. Nhưng Gray đã bác ý kiến của cô. Cô cảm thấy không thoải mái trước quyết định này.
Rachel liếc nhìn Gray. Trông anh lúc này có vẻ khắt khe hơn thì phải. Cô lại nhớ tới thái độ của anh khi họ ở trên ngọn tháp bốc lửa ở Cologne, sự chắc chắn trong cách hành xử. Đôi mắt anh bừng lên với quyết tâm đã mất sau vụ tấn công đầu tiên. Giờ đây nó đã trở lại... dù làm cô hơi sợ nhưng cũng làm trái tim cô đập nhanh hơn.
Xe buýt tiếp tục chạy.
“Ok,” Gray nói. “Tôi đã theo lời của ngài là chuyến đi này rất cần thiết. Liệu có thể làm rõ hơn được không?”
Bác Vigor nói. “Nếu tôi đi sâu vào chi tiết, sợ rằng chúng ta sẽ nhỡ xe buýt.”
Ông lại mở quyển sổ ra. “Cái hình các vòng tròn đan xen nhau này có thể được thấy trong suốt kỷ nguyên Thiên chúa giáo. Tất cả các nhà thờ, đền đài, miếu mạo trên thế giới. Từ cái hình này, tất cả các loại hình học đã phát triển. Ví dụ như.” Ông chỉ vào chỗ giao nhau của hai hình tròn. “Ở đây, các bạn có thể nhìn thấy sự đan xen của hai vòng tròn. Hình mái vòm cong. Tất cả các cửa sổ và kiến trúc đều mang hình dáng này.”
Rachel cũng đã nghe bài thuyết giảng ấy khi cô còn là một đứa bé. Đối với ai có quan hệ thân thích với một nhà khảo cổ Vatican thì không thể nào không biết về tầm quan trọng của hai vòng tròn giao nhau.
“Đối với tôi, trông chúng giống như hai trái hạnh đào đập vào nhau.” Monk nói.
Vigor chỉnh lại bức vẽ.
“Hoặc trông giống như mặt trăng tròn giao hòa với mặt trời.” Ông bác nói, trích dẫn câu thơ trong khổ thơ bí hiểm đó. “Càng nghiền ngẫm về những dòng này, tôi lại gặp nhiều tầng nhiều lớp như bóc vỏ một củ hành.”
“Ngài định nói gì?” Gray hỏi.
“Người ta đã chôn vùi điều này trong cuốn sách Ai Cập Sách của Người chết. Cuốn sách đầu tiên có đề cập đến manna. Sau đó các văn bản Ai Cập đã đề cập đến cái đấy như bánh mỳ trắng. Như thể là các nhà kim giả đã giấu chúng ta điều gì đó từ đầu. Nhưng câu trả lời cho dấu vết đầu tiên này đưa trở lại từ kỷ nguyên đầu tiên của Thiên chúa giáo. Nhiều sự khởi đầu. Ngay cả câu trả lời cũng ám chỉ sự nhân gấp. Từ một trở thành nhiều.”
Rachel hiểu bác mình muốn nói điều gì. “Sự tăng gấp bội của loài cá.”
Vigor gật đầu.
“Liệu có ai đó giải thích cho chúng tôi - những kẻ mới toanh?” Monk hỏi.
“Hai cái vòng tròn giao nhau ấy gọi là Vesica Pisces, hoặc Binh Cá.” Vigor cúi xuống rồi bôi đen chỗ giao nhau để lộ ra như hình một con cá nằm lọt giữa hai vòng tròn.
Gray nhìn gần hơn. “Chính là hình tượng con cá đại diện cho Thiên chúa giáo.”
“Đây là hình tượng đầu tiên.” Vigor nói. “Khi mặt trăng tròn giao hòa với mặt trời, nó được sinh ra.” Ông gõ vào con cá. “Một vài nhà học giả tin rằng hình tượng con cá được sử dụng, vì từ Hy Lạp cá chính là từ viết tắt Iesous Christos Theou Yios Soter, hoặc Jesus Christ, Con trai của Chúa, Người Cứu rỗi. Nhưng sự thật nằm ở đây, giữa các vòng tròn khóa trong một hình học thiêng liêng. Các bạn có thể tìm thấy những vòng tròn bị khóa với nhau, trong các tác phẩm hội họa cổ xưa theo đó chúa Hài đồng nằm ở khoảng giữa. Nếu bạn lật sang một góc khác, con cá trở thành đại diện cho bộ phận sinh dục nữ và tử cung của đàn bà nơi Chúa hài đồng hình thành.”
“Cũng vì lý do này, con cá tượng trựng cho sự sinh sôi. Để có thể đơm hoa kết trái rồi sinh sôi.” Vigor nhìn quanh nhóm. “Như tôi đã nói, có tầng tầng lớp lớp ý nghĩa ở đây.”
Gray ngồi lui lại. “Vậy điều này dẫn chúng ta đến cái gì?”
Rachel cũng tò mò. “Khắp thành Rome chỗ nào chả có hình tượng cá.”
Vigor gật đầu. “Chính ở dòng thứ hai: “Được sinh ra già nhất.” Điều đó dẫn chúng ta tới đại diện cổ xưa nhất của hình tượng con cá. Cái đó có thể tìm thấy ở ngôi mộ Lucina trong khu hầm mộ của Thánh Callistus.”
“Đấy chính là nơi chúng ta đang tới?” Monk hỏi.
Vigor gật đầu.
Rachel nhận thấy Gray có vẻ chưa yên tâm. “Nếu như ngài sai?” Anh hỏi.
“Chắc là không. Khổ thơ khác trong văn bản cũng gợi ý như vậy... một khi anh giải thích được câu đố về vòng tròn giao nhau này. Hãy nhìn vào dòng tiếp theo. “Nơi nó chết đuối; Trôi trong bóng tối.” Một con cá không thể chết đuối, không phải trong nước mà ở trên mặt đất. Và đề cập đến bóng tối. Tất cả cái đó chỉ đến một ngôi mộ.”
“Nhưng ở khắp thành Rome này có biết bao nhiêu ngôi mộ và khu hầm mộ.”
“Nhưng không có nhiều với hai con cá, và lại sinh đôi nữa.” Vigor nói.
Gray hiểu ra. “Lại một gợi ý nữa, từ khổ thơ cuối cùng. Cặp song sinh chờ nước.”
Vigor gật đầu. “Cả ba khổ thơ đều chỉ đến một địa điểm. Khu hầm mộ của Thánh Callistus.”
Monk ngồi tựa trở lại ghế. “Ít nhất bây giờ không phải là giờ đi lễ. Tôi quá mệt mỏi khi bị người ta bắn vào.”
***
7 giờ 32 phút.
Vigor cảm thấy họ đang đi đúng hướng.
Cuối cùng.
Ông hướng dẫn những người khác đi qua cổng Porta San Sebastiano, một trong những cửa đặc biệt của thành đô. Nó cũng được sử dụng như một cửa dẫn vào công viên bao quanh Appian Way, vốn là con đường nổi tiếng nhất của La Mã cổ đại. Ngay khi qua cửa là một dãy nhà xưởng đổ nát.
Vigor không muốn mọi người chán nản khi nhìn vào các bãi chứa đồ tạp nham đó, giục họ tiếp tục đi. Ở một ngã ba xuất hiện nhà thờ nhỏ có tên nhà thờ Domino Quo Vadis.
Thực ra chỉ mình Kat Bryant chăm chú nghe ông nói. Cô sải bước đi theo ông. Kat và Gray xem ra hơi tách nhau ra. Ba người đi sau anh ta. Vigor cảm thấy vui khi có Kat bên cạnh. Đã được ba năm từ khi họ hợp tác với nhau trong phi vụ chống lại tên tội phạm Đức quốc xã sống ở vùng nông thôn New York. Mục tiêu là phá chuyên án buôn bán các tác phẩm nghệ thuật ăn cắp ở Brussels. Đó là một vụ điều tra dài, phức tạp, đòi hỏi phải có sự ngụy trang ở cả hai bên. Vigor rất có ấn tượng với khả năng của Kat khi cô gái trẻ tuổi này có thể nhập các vai dễ dàng như thay giày.
Ông cũng biết về mất mát cô trải qua mới đây mặc dù cô là một diễn viên có tài, luôn che giấu được tình cảm của mình. Nhưng Vigor là người đã hành nghề linh mục, chuyên rửa tội rồi tư vấn nên rất hiểu tâm trạng ai đó khi đau khổ. Kat đã mất đi một người rất gần với con tim cô và vết thương vẫn còn rớm máu.
Ông chỉ cho cô cái nhà thờ bằng đá, biết sẽ có một thông điệp cho cô bên trong các bức tường. “Nhà thờ này được xây dựng ở nơi mà Thánh Peter chạy trốn sự đàn áp của Nero. Lúc đó chúa Jesu đang tới Rome trong khi Peter đang chạy ra ngoài. Thánh Peter đã hỏi một câu nổi tiếng, Domine Quo Vadis. “Thưa Chúa, ngài đi đâu?”. Đức Chúa Jesu trả lời Ngài quay trở lại Rome để bị câu rút nữa. Peter nghe vậy liền quay lại để đối mặt với việc xử tử mình.”
“Câu chuyện hoang tưởng.” Kat nói chẳng hề bận tâm. “Ông ta lẽ ra phải chạy.”
“Kat, cô luôn là người thực dụng. Nhưng những người như cô cần hiểu rằng cuộc sống của chính một người nào đó không quan trọng bằng sự nghiệp. Tất cả chúng ta đều có một căn bệnh cuối cùng. Chúng ta không cưỡng nổi cái chết. Nhưng giống như những việc làm tốt đẹp được ngợi ca trong thời đại chúng ta thì cái chết cũng như vậy. Hy sinh cuộc sống của mình cũng cần phải được tôn vinh và ghi nhớ.”
Kat liếc nhìn ông. Cô ta thật sắc sảo khi hiểu được ý của ông qua câu chuyện.
“Đức hy sinh là món quà cuối cùng mà chúng ta - những người đang sống, có thể đem lại cho cuộc đời. Chúng ta không nên phí phạm món quà quý báu đó mà phải trân trọng, thậm chí còn vui vẻ nữa vì đã có cuộc sống đầy đủ cho đến lúc chết.”
Kat thở dài. Họ đi qua nhà thờ. Cặp mắt của cô vẫn nhìn vào đó như thể có thể xuyên tận bên trong.
“Có những bài học ngay cả trong những câu chuyện hoang tưởng.” Vigor chấm dứt rồi hướng dẫn cả nhóm đi qua ngã ba để rẽ sang trái.
Nơi đây, con đường dẫn đến những tảng đá lớn. Mặc dù những tảng đá không bắt nguồn từ những con đường của Rome nhưng đã có thời đã dẫn ra không những ra ngoài Rome mà còn đi xa hơn đến tận Hy Lạp, dù đó là một dự đoán lãng mạn. Một cách chậm rãi, con đường mở ra trước mắt họ. Những thảm cỏ xanh trên sườn đồi, lác đác vài con cừu đang gặm cỏ dưới bóng cây thông. Các bức tường đổ nát chạy ngang chạy dọc, cùng với những ngôi mộ trơ trọi.
Vào thời điểm này, khi mọi sự vui chơi công cộng đều đã chấm dứt và mặt trời gần xuống bóng, trên đường Appian chỉ còn mình họ. Một vài người đạp xe ngang đường gật đầu chào Vigor khi nhìn thấy cổ áo của linh mục. Rồi họ lại lầm lũi đạp xe qua, không quên ngoái nhìn tốp người mang ba-lô mệt mỏi đi sau.
Vigor cũng thấy một vài cô gái ăn mặc hở hang đứng rải rác dọc đường vẻ như đang tìm kiếm ai đó. Khi màn đêm buông xuống, con đường này trở thành một cái ổ chứa cho gái làm tiền và tụi bảo kê, ẩn chứa biết bao mối hiểm nguy cho du khách. Giống như con đường Appian xưa kia, những kẻ du đãng và trộm cướp vẫn thường lảng vảng quanh đây.
“Không còn xa nữa đâu,” Vigor hứa hẹn.
Ông hướng về một khu vực trồng nho, những cây nho màu xanh được cột vào cọc gỗ nằm dọc trên sườn đồi thoai thoải. Phía trước mặt là một khu vực rộng có lối đi vào - đó chính là điểm đến của họ. Khu mộ của Thánh Callistus.
“Chỉ huy,” Kat hỏi, bỏ ba-lô xuống. “Liệu có nên trinh sát khu vực này một lần không?”
“Hãy căng mắt ra nhìn,” anh trả lời. “Không chậm trễ gì nữa.”
Vigor để ý sự quyết đoán trong giọng nói của Gray. Là chỉ huy, anh lắng nghe nhưng hình như anh không chịu nghe theo. Vigor cũng chưa biết đó là tốt hay xấu. Gray vẫy họ tiếp tục.
Cái nghĩa địa nằm dưới lòng đất này đóng cửa lúc năm giờ chiều, nhưng Vigor đã gọi điện cho người quản trang để thu xếp chuyến “tham quan” đặc biệt này. Một người đàn ông nhỏ nhắn mặc bộ quần áo xanh lá cây bước ra cửa gặp họ. Ông đi tập tễnh, phải dùng một cái gậy gỗ làm nạng chống, miệng ngậm tẩu thuốc. Vigor rất biết ông ta. Gia đình ông ta đã là những người chăn cừu ở khu vực này từ đời này qua đời khác.
“Chào ngài Verona.” Ông ta nói.
“Khỏe không?”
“Tôi khỏe, cảm ơn.” Ông ta chỉ một căn nhà gỗ nhỏ cũng là nơi ông ta nghỉ để trông nom khu mộ. “Tôi có một chai vang nho, đặc sản của vùng này. Tôi biết ông thích loại này mà.”
“Thôi để lúc khác, Giuseppe. Bây giờ đã muộn, e rằng bọn tôi phải sớm kết thúc công việc.”
Người đàn ông nhìn những người kia như thể họ phải chịu trách nhiệm về chuyện vội vàng đó nhưng lại phát hiện ra Rachel. “Trời, có thể nào đây là cô Rachel... Cô không còn bé tí nữa rồi.”
Rachel mỉm cười, rõ ràng cô rất thích thú khi vẫn được nhớ đến. Cô không đến đây cùng với ông bác từ khi chín tuổi. Rachel ôm hôn ông già vào mỗi bên má. “Chào, Giuseppe.”
“Chúng ta phải nâng cốc chúc cô Rachel chứ?”
“Có lẽ chúng tôi phải kết thúc công việc ở dưới kia đã,” Vigor nói tiếp, rất hiểu tâm trạng của người đàn ông này, sống cô độc trong một cái chòi nhỏ luôn mong có bạn bè.
“Được... không sao.” Ông vung gậy chỉ về phía cửa. “Bây giờ đang mở. Tôi sẽ đóng lại sau khi mọi người vào. Khi nào ra gõ cửa tôi sẽ nghe thấy.”
Vigor dẫn họ đi thẳng vào khu mộ. Ông đẩy cửa rồi vẫy mọi người vào trong, để ý thấy Giuseppe đã bật dãy đèn sáng choang. Cầu thang đi xuống phía trước mặt.
Khi Monk bước xuống cùng Rachel, anh ta nhìn lại người quản trang.
“Cô nên giới thiệu ông ấy với bà ngoại cô. Tôi đoán, họ có khi hợp nhau đấy.”
Rachel cười toét miệng rồi bước theo anh chàng mập vào trong.
Vigor đóng cửa lại rồi dẫn đoàn xuống cầu thang. “Khu mộ này là một trong những khu mộ cổ nhất ở Rome. Có thời nó đã là một nghĩa trang Thiên chúa giáo tư nhân, nhưng cũng mở rộng để chôn cất một vài vị Giáo hoàng muốn được an nghỉ tại đây. Khu mộ rộng chín mươi mẫu Anh, sâu xuống bốn tầng.”
Phía sau, Vigor đã nghe tiếng cửa khóa. Càng xuống dưới càng tối, không gian sặc sụa mùi đất và nước mưa rỏ tí tách. Dưới chân cầu thang, họ tới một gian sảnh có những ngôi mộ đào vào tường để chôn giữ những linh hồn an nghỉ. Có nhiều hình vẽ nguệch ngoạc trên tường, chắc chắn không phải là tác phẩm của những kẻ chuyên vẽ bậy thời nay. Có những câu viết từ thời xa xưa tận thế kỷ XV: Những lời cầu nguyện, than thở...
“Chúng ta sẽ phải đi tới đâu?” Gray bước bên cạnh Vigor. Đường đi ngày càng hẹp dần, chỉ có thể cho hai người đi cùng. Anh nhìn những vòm trần thấp.
Tại đây, ngay cả những người bạo gan nhất cũng thấy ghê rợn khi đặt chân vào cái nghĩa địa ngầm dưới đất này. Đặc biệt vào lúc này. Vắng tanh và trống rỗng.
“Mộ của Lucina nằm ở sâu hơn. Nó ở vị trí khu vực cổ xưa nhất của khu mộ.”
Tại đây có rất nhiều đường nhánh nhưng Vigor đã biết đường nên ông rẽ về bên phải.
“Hãy đi sát nhau.” Ông nhắc nhở. “Ở đây dễ bị lạc đấy.”
Lối vào càng ngày càng hẹp lại.
Gray quay lại. “Monk, hãy cảnh giới phía sau. Mười bước. Cố quan sát.”
“Nghe rõ.” Monk rút súng ra.
Phía trước, một căn hầm mở ra. Các bức tường của nó đầy rẫy những vòm mộ, những nét chạm khắc chi tiết.
“Đây là khu mộ của các vị Giáo hoàng, có tới mười sáu vị đã an nghỉ ở đây, đánh dấu theo thứ tự từ Eutychiannus đến Zephyrinus.”
“Từ E đến Z.” Gray nhắc lại.
“Nhưng xác của họ đã bị di chuyển.” Vigor nói, đi ngang qua ngôi mộ của Cecelia. “Từ thế kỷ thứ V, vùng ngoại ô của thành Rome đã bị rất nhiều thế lực tấn công. Nhiều trong số những nhân vật quan trọng nhất chôn ở đây đã được di chuyển tới các nhà thờ bên trong thành phố. Thực tế, khu mộ này đã trở thành rỗng tuếch và bỏ hoang, vào thế kỷ XII chúng hoàn toàn bị lãng quên và không hề được phát hiện trở lại cho đến thế kỷ XVI.”
Gray húng hắng ho. “Hình như là thời gian cứ giao thoa với nhau.”
Vigor nhìn trở lại.
“Thế kỷ thứ XII,” Gray nói, “cũng là giai đoạn mà xương cốt của các vị Tiên tri được di chuyển từ Italy sang Đức. Đó cũng là thời gian mà ngài đã đề cập là có sự trỗi dậy của đức tin Ngộ giáo, tạo ra sự tranh giành gay gắt giữa các nhà vua và giáo hoàng.
Vigor chậm rãi gật đầu, ngẫm nghĩ về khía cạnh này. “Đó là một thời kỳ hỗn loạn, lúc đó giáo hoàng đã chạy khỏi thành Rome vào cuối thế kỷ XII. Các nhà giả kim có thể đã tìm cách bảo vệ những gì họ đã có được, giấu mình sâu hơn rồi để lại một vài dấu vết nếu như họ mất đi, những mẩu bánh vụn cho các tín đồ khác của phái Ngộ đạo lần theo.”
“Giống như nhóm Long Đình này.”
“Tôi không nghĩ chúng hình dung một nhóm như vậy có thể được cứu rỗi để tìm kiếm một sự thật cao hơn. Một tính toán bất hạnh. Cách này hay cách khác, tôi nghĩ anh đúng. Anh có thể chốt lại năm tháng khi những dấu vết được sắp đặt. Tôi cho rằng đó là thế kỷ XIII, đỉnh cao của trận chiến. Rất ít người vào lúc ấy biết về khu mộ. Vậy có chỗ nào tốt hơn để giữ lại những dấu tích cho một hội bí mật.”
Ngẫm nghĩ điều này, Vigor dẫn họ đi qua một loạt các gallery, ngôi mộ... “Không còn xa đâu, chỉ cần đi qua khu đền Sarcamental.” Rồi ông chỉ tay đến một khu có sáu phòng nhỏ. Trên tường đầy những bích họa mô tả các cảnh trong Kinh thánh đan xen với cảnh làm lễ xưng tội và lễ ban thánh thể. Đó là những kho báu của nghệ thuật Thiên chúa giáo cổ xưa.
Đi tiếp qua những gallery nữa, mục tiêu của họ đã hiện ra trước mắt. Một ngôi mộ khiêm tốn. Trần được sơn với mô-típ rất điển hình thời sơ khai của đạo Thiên chúa: Chúa Jesu với con cừu ở trên vai.
Ông chỉ vào hai bức tường bên cạnh. “Đây là nơi chúng ta đến để tìm kiếm.”
8 giờ 10 phút
Gray bước tới bức tường gần nhất. Một bức họa con cá được vẽ trên nền xanh lá cây.
Sau lưng con cá là một cái làn đựng bánh mỳ. Anh quay sang bức tường thứ hai. Bích họa này hình như là tấm gương của bức kia, chỉ có điều là trong cái làn còn có thêm một chai vang nữa.
“Đó chính là hình tượng của bữa ăn cuối cùng của Chúa.” Vigor nói. “Cá, bánh mỳ và rượu vang. Nó cũng đại diện cho phép màu của loài cá khi Chúa Jesu đã nhân ra từ một rổ cá và bánh mỳ để nuôi biết bao nhiêu tín đồ, những người đã đến nghe Ngài thuyết giảng.”
“Lại hình tượng nhân bản,” Kat nói, “giống như hình học của các vòng tròn đan xen.”
“Nhưng chúng ta sẽ đi từ đây đến đâu?” Monk hỏi. Anh ta đứng với khẩu súng ngắn trên vai nhìn đối diện vào ngôi mộ.
“Hãy theo câu đố,” Gray trả lời. “Khổ thứ hai: “Nơi nó chết đuối, Trôi trong bóng tối và chăm chú hướng về vị vua đã mất.” Chúng ta tìm nơi nào nó trôi trong bóng tối, là chúng ta sẽ cố tìm ra nơi nào nó nhìn vào.” Anh chỉ theo nơi con cá đầu tiên hướng tới.
Nó dẫn sâu hơn vào các gallery.
Gray đi theo hướng đó, tìm kiếm chung quanh. Cũng không lâu la gì khi tìm ra sự mô tả rõ nét các nhà vua. Gray dừng trước một bức bích họa tôn vinh của các nhà Tiên tri. Bức tranh tuy mờ nhưng các chi tiết vẫn còn rõ. Đức bà Maria đồng trinh ngồi trên ngai vàng cùng với chúa Hài đồng trên lòng. Quỳ trước đó là ba hình người mặc áo choàng, dâng quà.
“Ba nhà vua,” Kat nói. “Lại là các vị Tiên tri.”
“Chúng ta luôn gặp phải các vị này.” Monk trả lời đi tới vài bước.
Rachel nheo mắt nhìn bức tường. “Cái này có nghĩa gì? Tại sao lại dẫn chúng ta đến đây? Bọn Long Đình đã biết được gì?”
Gray cố khớp lại các sự kiện trong ngày. Anh thôi không sắp xếp nữa mà cứ để cho đầu óc mình tự vận động. Mối liên hệ đã được lập, rồi bác bỏ rồi lại tái hiện. Chậm chạp anh bắt đầu hiểu.
“Câu hỏi thực ra là tại sao các nhà kim giả cổ đại dẫn chúng ta tới đây?” Gray nói. “Đến chỗ mô tả đặc biệt này của các vị Tiên tri. Như Monk đã đề cập, chúng ta không thể quay một góc nào ở Italy mà không bắt gặp ba nhà vua đó. Vậy thì tại sao bức họa này lại là đặc biệt?”
Không ai có câu trả lời.
Rachel đưa ra một hướng có thể đi tiếp. “Long Đình đi tìm xương cốt của các vị Tiên tri. Có thể chúng ta cần nhìn vào từ góc cạnh đó.”
Gray gật đầu. Lẽ ra anh phải nghĩ đến điều này. Họ không cần thiết phải quay ngược lại bánh xe. Long Đình đã giải câu đố ấy rồi. Tất cả những gì họ cần làm là quay về theo lối cũ. Gray cân nhắc điều đó và tìm ra một câu có thể trả lời.
“Có thể con cá đang nhìn vào các vị vua đặc biệt này vì họ đã được chôn. Trong một nghĩa địa. Dưới đất, nơi một con cá sẽ chết đuối. Câu trả lời cho câu đó không phải là các vị Tiên tri đang sống, mà là chết và đã được chôn, trong ngôi mộ đã từng lấp đầy xương.”
Vigor thốt lên ngạc nhiên.
“Như vậy Long Đình tìm kiếm chỗ xương cốt.” Rachel nói.
“Tôi cho rằng Long Đình đã biết chỗ xương không phải là thực.” Gray nói. “Chúng đã dính mũi vào chuyện ấy hàng thế kỷ. Chúng có thể đã biết. Hãy nhìn vào những gì xảy ra ở nhà thờ. Chúng dùng chất bột của vàng trắng qua cách nào đó để giết người. Chúng đi trước trong trò chơi này.”
“Và chúng muốn có nhiều quyền lực hơn.” Rachel nói. “Giải pháp cuối cùng của các vị Tiên tri.”
Mắt Vigor nheo lại vì tập trung suy nghĩ. “Và nếu như anh đúng, Chỉ huy, về ý nghĩa của chuyện xương cốt các vị Tiên tri bị lấy đi khỏi Italy để đưa sang Đức, có thể sự vận chuyển không phải là việc cướp các di vật lịch sử mà chính là sự sắp xếp. Để bảo toàn các hỗn hợp.”
Gray gật đầu. “Và Long Đình để chúng tại Cologne... an toàn và quan sát được. Biết rằng chúng rất có ý nghĩa nhưng không biết làm gì với chúng.”
“Cho đến tận bây giờ.” Monk nói từ nơi cách đó vài bước.
“Nhưng cuối cùng,” Gray tiếp tục, “những dấu vết này dẫn đến cái gì? Không phải chỉ là di vật trong một nhà thờ, nó không nói cho biết nên làm gì với chúng và chúng được dùng làm gì?”
“Chúng ta đã quên.” Kat nói. Từ lúc nãy cô vẫn hoàn toàn im lặng, chăm chú nhìn vào bức họa. “Khổ thơ trong đoạn đó đã nói con cá nhìn chăm chú vào nhà vua đã mất, chứ không phải các nhà vua, ở số nhiều. Ở đây có ba nhà vua. Tôi nghĩ chúng ta bỏ qua một tầng của chủ nghĩa tượng trưng.” Cô quay lại. “Vậy vị vua đã mất gợi ý cái gì?”
Gray cố gắng trả lời. Hết câu này sang câu khác.
Vigor lấy tay xoa cằm, đắm mình trong suy nghĩ. “Có một bức họa nữa ở ngôi mộ bên cạnh. Mộ của Momatilla. Bích họa này được vẽ không phải ba mà là bốn vị Tiên tri. Bởi vì Kinh thánh không bao giờ cụ thể về số vị Tiên tri, các họa sĩ thời đầu Thiên chúa giáo cũng khác nhau về con số. Vị vua đã mất này có nghĩa là một vị Tiên tri nữa, một vị thiếu ở đây.”
“Vị Tiên tri số bốn” Gray hỏi.
“Một nhân vật tượng trưng cho những kiến thức đã mất của các nhà giả kim.” Vigor gật đầu, “Khổ thơ thứ hai gợi ý xương cốt của các vị Tiên tri có thể được dùng để tìm vị Tiên tri thứ tư. Vị đó có thể là ai.”
Rachel lắc đầu, làm cả Vigor và Gray chú ý. “Đừng quên là dấu vết này được chôn trong một ngôi mộ. Tôi đoán là chúng ta phải tìm vị Tiên tri thứ tư chứ không phải là ngôi mộ của ông ta. Một ít xương để đi tìm một bộ xương khác... Có thể là một thứ hỗn hợp khác.”
“Hoặc cái gì đó lớn hơn nữa. Cái đó chắc sẽ kích động Long Đình.”
“Nhưng sao xương cốt của các vị Tiên tri có thể giúp tìm ngôi mộ bị mất được?” Monk hỏi.
Gray quay lại ngôi mộ của Lucina. “Câu trả lời phải tìm ở khổ thứ ba.”
***
2 giờ 22 phút.
Washington D.COLOGNE.
Painter Crowe thức dậy khi nghe tiếng gõ cửa phòng. Ông đã ngủ ngay trên ghế ngồi.
Ông đằng hắng: “Mời vào...”
Logan Gregory bước vào. Tóc anh ta ướt đẫm, mặc một chiếc áo sơ-mi và áo khoác mới.
Trông giống như mới vừa tới chứ không phải đã ở đây từ hôm kia rồi.
Logan chắc cũng biết sự chú ý của ông, lấy bàn tay xoa xoa lên chiếc áo. “Tôi xuống phòng tập, chạy một vòng. Tôi cũng để một bộ quần áo dự phòng trong tủ.”
Painter không trả lời, hơi ngạc nhiên. Tuổi trẻ. Ông không nghĩ mình có thể rời khỏi chiếc ghế, chứ chưa nói là có thể chạy được vài dặm. Nhưng lại nữa, Logan chỉ trẻ hơn ông năm tuổi. Painter biết chính xác do stress chứ không phải tuổi tác đã làm anh quỵ.
“Thưa ngài,” Logan tiếp tục. “Tôi nhận được tin từ tướng Rende, người liên lạc của chúng ta với lực lượng cảnh sát ở Rome. Chỉ huy Pierce và những người khác đã biến mất.”
Painter nhổm người dậy. “Sao, lại một cuộc tấn công nữa à? Lẽ ra giờ này họ phải tới Vatican rồi chứ.”
“Không thưa ngài. Sau khi ngài gọi họ, họ đã loại bỏ nhóm cảnh sát hộ tống rồi tự đi bằng phương tiện của họ. Tướng Rende muốn biết cần chuyển cho họ điều gì. Nhân viên của ông ta, trung úy Verona báo cho ông ta biết là ngài đã chuyển một thông tin tình báo gì đó. Ông ta có vẻ không vui khi bị gạt ra rìa.”
“Thế anh nói với ông ta thế nào?”
Logan nhíu lông mày. “Không có gì ạ, thưa ngài. Đó là quy định chính thức của Sigma, có phải thế không ạ? Chúng ta không biết gì cả.”
Painter cười. Thỉnh thoảng cũng phải như vậy.
“Thế còn chỉ huy Pierce thế nào ạ? Ngài tính sẽ làm gì tiếp, liệu chúng ta có cần báo động không?”
Painter nhớ lại lời khuyên của McKnight trước đó. Hãy tin người của anh. “Chúng ta sẽ đợi cú điện thoại tiếp của họ. Tôi không thấy có dấu hiệu gì đáng băn khoăn cả. Chúng ta cần cho anh ta quyền điều khiển trò chơi của mình.”
Logan vẻ như không hài lòng với câu trả lời: “Ngài muốn tôi làm gì bây giờ ạ?”
“Theo tôi, Logan, anh nên nghỉ ngơi một chút. Tôi hình dung khi chỉ huy Pierce hành động, chúng ta có thể ngủ đôi chút tại đây.”
“Vâng, thưa ngài.” Anh ta bước ra cửa.
Painter ngồi tựa lưng vào ghế lấy tay che mắt. Mẹ kiếp, nhưng chiếc ghế này thật êm. Ông chợp mắt một chút song có điều gì đó làm ông bừng tỉnh, không thể ngủ tiếp được. Có cái gì đấy gờn gợn. Một cái gì đấy Gray đã nói. Không tin Sigma. Có lỗ rò rỉ.
Liệu có như vậy không?
Chỉ có một người bên cạnh ông nắm đầy đủ thông tin về cuộc hành quân này cho đến nay. Thậm chí không phải Sean McKnight biết tất cả mọi chuyện. Ông chậm rãi đứng dậy, mắt mở to.
Không thể nào.
***
8 giờ 22 phút.
Rome Italy
Trở lại với ngôi mộ Lucina, Gray đứng cạnh bức bích họa với con cá. Họ cần phải giải đáp câu đố thứ ba này.
Monk hỏi một câu hỏi thật hay. “Tại sao Long Đình không đánh bom cháy vào những khu mộ này? Tại sao chúng lại để cho những người khác tìm thấy?”
Rachel đứng cạnh anh ta. “Thực ra trong tay Long Đình đã có bản copy tự tạo của cuốn Sách cho Người chết rồi, chúng còn gì phải sợ nữa? Nếu như Seichan không lấy trộm được bài thơ câu đố đó, sẽ không ai biết mà tìm đến đây.”
Kat bổ sung thêm. “Có thể Long Đình không chắc lắm về cách diễn giải. Cũng có thể chúng muốn câu chuyện trong đá này được giữ yên lặng cho đến khi chắc chắn có được bản dịch chính xác.”
Gray cân nhắc điều này, cảm thấy thời gian thật cấp bách. Anh quay lại bức bích họa.
“Chúng ta hãy xem thử xem tìm được gì. Khổ thơ thứ ba có con cá đang chờ nước. Giống như con cá đầu tiên, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải theo xem nó hướng đến chỗ nào.”
Gray chỉ một gallery khác hơi xa chỗ khu mộ. Con cá chỉ theo hướng đó.
Nhưng Vigor vẫn tiếp tục nghiên cứu hai con cá, nhìn hết con nọ sang con kia. “Sinh đôi” ông lẩm bẩm.
“Cái gì vậy?”
Vigor vẫy tay chỉ vào hai con cá. “Ai đó đưa ra trò chơi câu đố này thích đùa với hình tượng. Chọn hai con cá này. Gần giống hệt nhau về hình dạng. Đề cập đến con cá thứ hai như là sinh đôi, nhưng không phải là không có nghĩa.”
“Tôi chả thấy chúng liên quan gì với nhau cả.” Gray nói.
“Anh chả biết chữ Hy Lạp nào cả, Chỉ huy ạ.”
Gray chau mày.
Monk, thật ngạc nhiên lại chen vào, chứng tỏ tính di truyền Hy Lạp của mình không chỉ nhảy múa rất tồi. “Sinh đôi dịch ra có nghĩa là didymus.”
“Được đấy,” Vigor nói. “Còn trong tiếng Hebrew, sinh đôi dịch ra là Thomas. Như vậy là Didymus Thomas. Một trong mười hai vị thánh tông đồ.”
Gray nhớ lại buổi tranh luận tại hồ Como với ngài linh mục. “Thomas là một trong các vị thánh tông đồ mâu thuẫn với John.”
“Và cũng chính là người đã làm lễ xưng tội cho các vị Tiên tri.” Vigor gợi ý. “Thomas đại diện cho đức tin Ngộ đạo. Tôi nghĩ rằng sử dụng chữ sinh đôi ở đây là muốn ám chỉ Phúc âm của Thomas. Bằng cách công nhận Thomas, tôi phân vân liệu chính các nhà giả kim có phải là những người theo đạo Thiên chúa kiểu Thomas... những người đi theo Rome nhưng vẫn bí mật tiếp tục hành lễ kiểu Ngộ đạo. Một nhà thờ Thomas giấu bên trong và cùng một Nhà thờ hợp luật lệ giáo hội. Có thể đó là bằng chứng.”
Gray cảm thấy phấn khởi trước câu nói ấy.
“Có thể cái hiệp hội của những nhà giả kim có nguồn gốc từ Moses và Ai Cập đã hòa nhập với Nhà thờ Công giáo. Tiếp tục phía trước trong lịch sử mang theo cây thánh giá và quỳ một gối trước Nhà thờ, tìm kiếm nguồn gốc chung với những người giữ Phúc âm Thomas một cách bí mật.”
“Giấu giếm giữa ban ngày.” Monk nói.
Vigor gật đầu.
Gray suy nghĩ theo logic này. Có thể đáng theo đuổi, nhưng lúc này họ còn có một câu đố khác phải giải. Anh chỉ xuống gallery. “Ai đó để lại các dấu vết, cũng để lại cho chúng ta thách thức thứ ba.”
Cặp song sinh chờ nước...
Gray dẫn đường đi tới một gallery mới, cố tìm kiếm một vài bức họa có nước trong đó.
Anh đi qua nhiều cảnh họa trong Kinh thánh, nhưng chả thấy bức nào đề cập đến nước cả. Có một bức tranh mô tả cảnh gia đình quây quần quanh một cái bàn với bốn người đàn ông giơ tay lên trời. Không ai trong số họ cầm bình nước.
Vigor gọi phía sau. Anh quay lại.
Những người khác tụ tập ở chỗ hõm trong bức tường. Anh đến với họ.
Anh đã tìm kiếm chỗ này rồi. Nó vẽ một người đàn ông mặc áo choàng dùng cái gậy đập một tảng đá. Không có lấy một giọt nước.
“Đây là minh họa về Moses ở sa mạc.” Vigor nói.
Gray chờ lời giải thích.
“Theo Kinh thánh, ông ta đập mạnh vào hòn đá ở sa mạc rồi một nguồn nước mát vọt ra, giúp những người Israel đang trốn chạy thoát khỏi cơn khát.”
“Giống như con cá của chúng ta đằng kia.” Monk nói.
“Đây chắc là bức họa ám chỉ trong khổ thơ.” Vigor nói.
“Hãy nhớ Moses biết về manna và những chất bột trắng nhiệm màu. Thật thích hợp để ghi nhận ông.”
“Vậy thì bức tranh đã bị hư hại này nói lên điều gì?” Gray hỏi.
“Cặp song sinh chờ nước; Nhưng sẽ bị thiêu cháy từng đốt xương trên bàn thờ.” Vigor trích dẫn. “Bị thiêu lần lượt. Hãy nghĩ trở lại. Giống như Rachel đã gợi ý trước đó. Long Đình làm gì ở Cologne. Những người đi lễ bị thiêu, một triệu chứng co thắt bằng điện ở não. Và nó cũng liên quan đến vàng trắng. Rất có thể là hợp chất trong xương cốt của các vị Tiên tri.”
“Đó có phải là thông điệp không?” Rachel hỏi. “Giết. Chửi bới tại bàn thờ, giống như ở Cologne với máu và thảm sát?”
“Không.” Gray trả lời. “Long Đình châm lửa chỗ di cốt và hình như chả học được gì do chúng tiếp tục đi theo con đường mòn trước đó. Có thể ở Cologne chỉ là một lần thử hay thể nghiệm. Có thể Long Đình chưa chắc chắn sự diễn giải của chúng về câu đố, giống như ông bác Vigor của cô gợi ý. Cách này hay cách khác, chúng rõ ràng biết về một số khả năng của chất bột trắng. Với phương tiện của mình, chúng có thể kích hoạt và lợi dụng một cách man rợ năng lượng trong những chất siêu bán dẫn có tốc độ cao. Chúng sử dụng cái đó để giết người. Nhưng tôi không nghĩ đấy chính là những gì những nhà kim giả trước kia tiên liệu.”
Rachel trông vẫn mệt mỏi.
“Câu trả lời thực sự ở đây.” Gray kết thúc. “Nếu như Long Đình đã giải được thì chúng ta cũng có thể.”
“Nhưng chúng đã có hàng tháng trời sau khi lấy trộm văn bản này tại Cairo.” Monk nói.
“Hơn nữa, chúng biết nhiều hơn chúng ta về thứ đó.”
Mọi người im lặng gật gù. Mất ngủ quá nhiều, họ trông thật vật vờ. Những câu đố đã lấy đi số năng lượng ít ỏi còn lại của họ, làm mối lo lại bị thất bại nữa đang treo lơ lửng ngay trên đầu.
Không chịu ở vào thế yếu, Gray nhắm mắt suy nghĩ. Anh cân nhắc những gì mình đã biết. Chất hỗn hợp bao gồm rất nhiều kim loại khác nhau trong nhóm platinum. Thực đơn chính xác của chúng thật khó có thể xác định được, ngay cả với những thí nghiệm căn bản vừa rồi. Chất hỗn hợp hình thành xương cốt và lưu giữ trong nhà thờ.
Tại sao? Có phải thực sự những nhà giả kim thuộc về một nhà thờ bí mật bên trong nhà thờ? Có phải đó là cách họ giấu chỗ xương cốt trong thời kỳ hỗn loạn, một kỷ nguyên của các vụ đụng độ và bạo loạn.
Dù lịch sử là gì đi nữa, Gray vẫn đoan chắc thiết bị của Long Đình bằng một cách nào đấy đã biết cách khai thác năng lượng trong chất hỗn hợp ở trạng thái -milan. Có thể việc nếm bánh thánh chỉ là cách thử chiều ngang và kích cỡ của năng lượng đó. Vậy thì cái gì là công dụng đầu tiên của năng lượng đó? Một công cụ, một thứ vũ khí?
Gray đánh vật với các mật mã không thể giải được của các chất, điều đã được giấu giếm hàng thế kỷ, để lại sau một loạt các dấu vết đến một nơi lưu trữ của năng lực cổ xưa.
Một thứ mật mã không thể giải được.
Rồi đến khi tưởng như bế tắc thì một câu trả lời đến với anh, bỗng nhiên và sắc sảo, như một vết thương ở trong mắt.
Không phải là mật mã.
“Đó là chìa khóa,” anh lẩm bẩm, biết rằng đấy là thực sự. Gray nhìn mọi người. “Hợp chất là một chìa khóa hóa học không thể giải mã được, không thể nhân bản được. Với tính chất hóa học độc đáo là khả năng mở khóa vị trí của ngôi mộ của vị Tiên tri thứ tư.”
Vigor định nói nhưng Gray lấy tay ngăn ông lại.
“Long Đình biết cách phát hỏa năng lượng đó để mở chìa khóa. Nhưng cái khóa đó ở đâu? Không phải ở Cologne. Long Đình đã thất bại ở đó. Nhưng có thể chúng ta đã có một dự đoán nào đấy tốt nhất. Câu trả lời là ở đây. Trên bức họa này.”
Anh nhìn cả nhóm.
“Chúng ta phải giải cái này.” Anh nói, quay lại rồi chỉ vào bức họa.
“Moses đang đập vào tảng đá. Các bàn thờ thường được làm bằng đá. Điều đó có nghĩa gì? Liệu chúng ta có phải đi tới sa mạc Sinai để tìm kiếm hòn đá của Moses không?”
“Không.” Vigor đáp, vẻ tự tin. Ông giơ tay chạm vào tảng đá có vẽ tranh. “Hãy nhớ những tầng lớp của tượng hình trong câu đố. Đây không phải là tảng đá của Moses. Ít nhất không phải chỉ riêng của ông ta. Bức họa này thực ra có nghĩa là: Moses-Peter đập tảng đá.”
Gray chau mày. “Tại sao lại có hai cái tên? Moses và Peter?”
“Trong suốt khu mộ, hình ảnh của Thánh Peter thường được áp vào những hành động của Moses. Đó là cách để tôn vinh vị thánh tông đồ này.”
Rachel nhìn gần hơn khuôn mặt được vẽ. “Nếu như đây là hòn đá của Thánh Peter...?”
“Hòn đá trong tiếng Hy Lạp là Petros,” Vigor nói. “Vì vậy tại sao vị thánh tông đồ Simon Bar-Jona lấy tên Peter, sau này là Thánh Peter. Từ những lời của Chúa Jesu: Ngươi là Peter, và từ hòn đá này ta sẽ xây dựng Nhà thờ của ta...”.
Gray cố gắng sắp xếp chúng lại với nhau. “Liệu có phải ngài gợi ý rằng bàn thờ trong câu đố là ở Nhà thờ St. Peter không?”
Bỗng Rachel quay ngoắt lại. “Không, chúng ta hãy đi đến hình tượng sau đã. Trong khổ thơ này, chữ bàn thờ được dùng, nhưng bức họa đã thay thế cái đó với chữ hòn đá. Vậy không phải đi tìm một cái bàn thờ mà chính là hòn đá.”
“Tuyệt vời.” Monk nói. “Vậy sẽ giới hạn bớt việc tìm kiếm của chúng ta.”
“Đúng vậy,” Rachel nói. “Bác tôi đã trích dẫn một đoạn có ý nghĩa nhất trong Kinh thánh có liên hệ giữa Thánh Peter và tảng đá. Peter là hòn đá trên đó nhà thờ được xây dựng. Hãy nhớ chúng ta đang ở đâu. Trong một ngôi mộ.” Cô gõ vào một tảng đá trên bức họa. “Một tảng đá dưới lòng đất.”
Rachel đối mặt với họ. Đôi mắt của cô như sáng bừng trong bóng tối. “Nhà thờ St. Peter được xây dựng ở khu vực nào? Tảng đá nào được chôn dưới nền của nhà thờ?”
Gray trả lời, đôi mắt mở to. “Ngôi mộ của Thánh Peter.”
“Hòn đá của Nhà thờ.” Vigor trả lời.
Gray đã hình dung ra sự thật. Xương cốt là chìa khóa. Cái mộ là chiếc khóa.
Rachel gật đầu. “Đó chính là nơi tụi Long Đình sẽ hướng tới lần sau. Chúng ta phải liên lạc ngay với Hồng y Spera.”
“Ồ... không.” Vigor cứng người lại.
“Sao, cái gì vậy?” Gray hỏi.
“Đêm nay... vào lúc hoàng hôn...” Vigor nhìn đồng hồ, mặt ông trắng bợt. Ông quay lại.
“Chúng ta phải khẩn trương lên.”
Gray theo sau những người khác. “Tại sao?”
“Một buổi lễ tưởng niệm cho những nạn nhân ở Cologne. Buổi lễ dự định diễn ra vào lúc hoàng hôn. Hàng ngàn người sẽ tham dự trong đó có Giáo hoàng.”
Gray bỗng nhiên hiểu ra điều Vigor sợ. Anh hình dung vụ thảm sát ở Nhà thờ Cologne.
Tất cả các con mắt sẽ tránh khỏi Scavi, tầng hầm dưới Nhà thờ St Peter, nơi ngôi mộ của các vị Tiên tri đã bị khai quật.
Hòn đá của Nhà thờ.
Nếu như tụi Long Đình sẽ khai hóa chỗ xương cốt của các vị Tiên tri ở đó...
Anh tưởng tượng những đám đông tề tựu bên trong nhà thờ, đứng tập trung ở quảng trường.
Ôi, lạy Chúa.
Rome, Italy
“Tôi cần bút và giấy”, Gray nói tay vẫn cầm chiếc máy điện thoại dò định vị vệ tinh.
Cả nhóm đang đứng chờ tại một quán nhỏ bên hè, đối diện ga xe lửa trung tâm Rome. Ngay khi tới Rome, Rachel đã điều hai xe cảnh sát tới để hộ tống cả nhóm tới Vatican. Trong khi chờ đợi, Gray quyết định đã đến lúc phải phá vỡ sự im lặng với chỉ huy trung tâm. Lập tức, anh được nối máy với Giám đốc Crowe.
Sau khi trình bày vắn tắt diễn biến sự việc ở Cologne và Milan, Giám đốc Crowe đã cung cấp cho anh một tin rất đáng ngạc nhiên.
“Tại sao cô ta lại gọi ngài?” Gray hỏi ngài giám đốc khi Monk đưa cho anh giấy bút.
Painter trả lời, “Seichan đang chơi trò dùng cả hai nhóm đánh lẫn nhau để thực hiện ý đồ riêng của mình. Thậm chí, cô ta thậm chí không buồn che giấu điều đó. Tin tình báo cô ta cung cấp cho chúng ta được lấy cắp từ một nhân viên thực địa của Long Đình, tên gã là Raoul.”
Gray nhớ ra gã này và việc gã làm tại Milan.
“Tôi không tin cô ta có thể tự mình giải mã tin tình báo đó,” Painter tiếp tục. “Vì vậy cô ta chuyển lại cho chúng ta - nhằm giải quyết cả hai mục đích vừa là giải mã cái đó cho cô ta vừa là giữ anh theo đuôi Long Đình. Cô ta không phải là con ngốc. Tài giật dây của cô ta chắc phải vào loại siêu đẳng khi đã được Hiệp hội lựa chọn để giám sát phi vụ này… cùng với việc hai người đã biết nhau rồi. Mặc dù cô ta có giúp vài việc tại Cologne và Milan, nhưng không thể tin được. Chắc chắn cô ta sẽ quay ngoắt lại chống anh để đạt điểm hòa.”
Gray thấy đồng xu kim loại trong túi mình bỗng nặng hơn. Thực ra anh cũng đâu cần sếp phải cảnh báo. Người đàn bà này quả là băng đá và sắt thép.
“Ok.” Gray nói khi anh đã có giấy bút trong tay, tay kia vẫn cầm điện thoại. “Tôi đã sẵn sàng”.
Gray ghi lại từng lời Painter chuyển lại tin nhắn.
“Nó được sắp xếp kiểu văn vần, giống một bài thơ à?” Gray hỏi.
“Chính xác là như vậy.” Ông giám đốc tiếp tục đọc trong lúc Gray cẩn thận ghi lại theo từng hàng.
Sau khi đọc xong, Painter nói. “Tôi đã giao cho bộ phận giải mã bài thơ này tại đây và N.S.A.”
Gray chau mày trước những gì được ghi trên giấy. “Tôi sẽ xem có thể làm được gì. Biết đâu có thể sử dụng vài nguồn ở Vatican, chúng tôi sẽ bắt đầu hành động từ đây.”
“Lúc này cứ tiếp tục hành động” Painter ra lệnh. “Nhân vật Seichan có thể còn nguy hiểm hơn toàn thể Long Đình gộp lại”.
Gray không muốn tranh luận về câu nói cuối cùng này. Hỏi thêm vài chi tiết nữa anh tắt máy rồi đút vào túi. Những người khác nhìn anh vẻ chờ đợi.
“Cái gì thế này?” Monk hỏi.
“Long nương gọi Sigma. Cô ả chuyển giao một bí mật nhờ chúng ta giải đáp. Hình như cô ả chưa biết Long Đình sẽ làm gì tiếp, và trong khi họ chuẩn bị cô ả muốn chúng ta theo gót chân chúng. Vì vậy, ả đã tiết lộ một bài văn cổ, nó được bọn Long Đình phát hiện hai tháng trước đây ở Ai Cập. Không biết nội dung nói gì nhưng cô ả nói chính cái đó khởi động phi vụ hiện hành”.
Vigor đi vào từ một chiếc bàn kê ngoài vỉa hè. Với tách cà phê nhỏ trên tay, ông cúi đầu vào trang giấy đọc cho những người khác nghe.
Khi trăng tròn giao hòa với mặt trời
Được sinh ra già nhất
Cái gì vậy?
Nơi nó chết đuối
Trôi trong bóng tối và chăm chú hướng về vị vua đã mất.
Cái gì vậy?
Cặp song sinh chờ nước,
Nhưng sẽ bị thiêu cháy từng đốt xương trên bàn thờ.
Cái gì vậy?
“Ồ, được đấy.” Monk làu bàu.
Kat lắc đầu: “Cái này có liên quan gì đến Long Đình, các kim loại có độ quay tròn cao và một hội hè nào đó đã mất của các nhà giả kim?”
Rachel liếc nhìn đường phố. “Các nhà học giả ở Vatican có thể giúp được. Hồng y Spera đã hứa sẽ tận tâm giúp đỡ.”
Gray để ý Vigor chỉ thoáng nhìn mẩu giấy rồi quay đi. Ông nhâm nhi tách cà phê.
Gray cảm thấy đã quá đủ với sự im lặng của ông ta. Anh thực sự ngán kiểu tôn trọng ranh giới của nhau một cách lịch sự. Nếu Vigor muốn tiếp tục ở lại nhóm, giờ đã đến lúc ông ta phải hành động.
“Ông biết gì chăng?” Gray mở màn.
“Anh cũng vậy.” Vigor trả lời.
“Ông nói vậy là có ý gì?”
“Tôi đã mô tả điều này khi ở trên tàu.” Vigor quay lại lấy ngón tay gõ vào mảnh giấy.
“Ngữ điệu của đoạn văn này cũng quen thuộc. Tôi đã mô tả một cuốn sách với một mẫu văn bản tương tự. Sự lặp lại của đoạn Cái gì vậy?”
Kat là người đầu tiên nhớ ra. “Từ cuốn Sách của Người chết của Ai Cập phải không?”
“Papyrus of Ani - nếu nói cho chính xác.” Vigor tiếp tục. “Nó được tách ra thành từng dòng theo lối văn mô tả, cứ từng dòng một rồi nhắc lại câu Cái gì vậy?”
“Hoặc nếu nói theo tiếng Hebrew là manna.” Gray sực nhớ ra.
Monk lấy tay xoa xoa lên cái đầu cạo nhẵn thín của mình. “Nếu như đoạn văn này được trích từ một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, tại sao nó lại bốc cháy dưới Long Đình hiện nay?”
“Đoạn văn trên không phải trích trong cuốn Sách của Người chết.” Vigor trả lời. “Tôi cũng quá quen với cuốn Papyrus of Ani để thấy rằng đoạn văn không tìm thấy ở các cuốn khác.”
“Thế vậy nó từ đâu tới?” Rachel hỏi.
Vigor quay lại Gray. “Anh nói Long Đình đã tìm thấy cái này ở Ai Cập mới tháng trước.”
“Chính xác.”
Vigor quay sang Rachel. “Bác tin rằng là nhân viên cảnh sát chống ăn trộm di sản văn hóa, cháu đã được thông báo về vụ lộn xộn mới đây ở Bảo tàng Ai Cập ở thủ đô Cairo. Bảo tàng đã gửi thông báo khẩn cấp tới Interpol.”
Rachel gật đầu rồi giải thích cho những người khác: “Hội đồng tối cao Di vật cổ đại của Ai Cập đã tiến hành sửa sang căn hầm của Bảo tàng vào năm 2004. Nhưng khi mở căn hầm ra, họ đã phát hiện hàng ngàn cổ vật từ thời các vua Pharaoh và các thời kỳ khác đặt trong mê cung này, mà thực chất đã trở thành một kho hổ lốn những loại cổ vật mà người ta đã lãng quên.”
“Họ ước tính phải mất năm năm mới có thể thống kê đủ tất cả.” Vigor nói. “Là giáo sư khảo cổ, tôi đã nghe nhiều chuyện giật gân chung quanh mấy vụ này. Có một căn phòng chứa những cuộn giấy toàn là văn bản cổ mà các nhà học giả nghi được đưa về từ thư viện thất lạc của Alexandre, một nơi chuyên nghiên cứu về Ngộ đạo.”
Gray bỗng nhớ lại cuộc tranh luận với Vigor về Chủ nghĩa ngộ đạo cũng như việc theo đuổi các kiến thức bí hiểm. “Những phát hiện như vậy chắc chắn hấp dẫn Long Đình.”
“Giống như loài mối đối với ngọn lửa.”
Vigor tiếp tục: “Một trong những thứ được nhắc đến là tuyển tập của Abd el-Latif, một nhà vật lý và nhà thám hiểm có tên tuổi của Ai Cập sống ở Cairo vào thế kỷ XV. Tuyển tập của ông được lưu giữ trong một cái rương bằng đồng, có một bản sao minh họa từ thế kỷ thứ XIV của cuốn sách “Sách của người chết”, một diễn giải toàn bộ của cuốn Papyrus of Ani.” Vigor lại nhìn Gray. “Nó đã bị mất bốn tháng trước đây.”
Gray thấy như tim mình đập mạnh hơn. “Do Long Đình làm.”
“Hoặc ai đó được chúng thuê. Bàn tay của chúng ở khắp nơi.”
”Nhưng nếu như cuốn đó chỉ là mô phỏng của quyển sách thật, thì điều đó có ý nghĩa gì?” Monk hỏi.
“Cuốn Papyrus of Ani có hàng trăm khổ thơ. Tôi đánh cá là có ai đó đã làm giả mạo bản copy rồi giấu hàng trăm vần thơ cụ thể trong số những vần thơ cổ hơn.” Ông gõ vào cuốn sổ tay của Monk.
“Những nhà giả kim học mất tích của chúng ta.” Kat chen vào.
“Giấu chiếc kim trong đống rơm.” Monk nói tiếp.
Gray gật đầu. “Cho đến khi vài nhà học giả trong Long Đình đã khôn ngoan nhặt chúng ra, giải mã những gợi ý rồi hành động theo đó. Nhưng điều ấy dẫn chúng ta đến đâu?”
Vigor quay ra phía đường phố: “Khi ở trên tàu hỏa, anh đã đề cập đến ý đồ theo kịp rồi vượt Long Đình. Giờ đó là cơ hội của chúng ta.”
“Vậy ư?”
“Chúng ta phải giải mã câu đố này.”
“Nhưng phải mất nhiều ngày.”
Vigor nhìn qua vai anh. “Thực ra tôi đã bắt đầu giải nó.”
Ông ra hiệu đem cuốn sổ lại rồi vạch vào trang giấy trắng: “Để tôi chỉ cho.”
Sau ông làm một chuyện thật kỳ quặc. Ông nhúng ngón tay mình vào cốc cà phê, xoa vào đáy chiếu cốc nhỏ. Sau đấy ấn chiếc cốc vào tờ giấy trắng để lại một vòng tròn cà phê hoàn hảo trên đó. Ông lặp lại in tiếp một vòng tròn thứ hai, vòng nọ tiếp vòng kia, tạo ra hình dạng giống như người tuyết.
“Mặt trăng tròn giao hòa với mặt trời.”
“Điều đó chỉ ra cái gì?” Gray hỏi.
“Vesica Pisces.” Rachel nói, khuôn mặt bừng sáng.
Vigor cười lớn. “Đã bao giờ tôi nói với các bạn rằng tôi rất tự hào về cô cháu gái chưa?”
***
7 giờ 2 phút
Rachel không muốn bỏ tốp cảnh sát hộ tống, nhưng cô hiểu sự phấn chấn của bác Vigor. Bác cô đã khăng khăng đòi họ sử dụng phương tiện khác để điều tra theo hướng mới.
Vì vậy cô đã liên lạc với đồn, thôi không điều động xe tuần tra nữa. Cô cũng gửi một bức điện có tính chất ẩn dụ cho tướng Rende nói họ có việc cần phải làm. Điều này thực hiện theo gợi ý của Gray. Anh nghĩ tốt nhất không nên công bố điểm đến của họ. Chừng nào chưa điều tra gì thêm.
Càng ít người biết về những phát hiện của họ càng tốt.
Vì vậy, họ kiếm phương tiện giao thông khác.
Rachel đi theo đôi vai vuông vức của Gray xuống cuối chiếc xe buýt công cộng, còn Kat và Monk ngồi luôn vào hàng ghế trống. Hệ thống điều hòa được bật lên trong khi động cơ rồ lên đẩy chiếc xe buýt lao vào dòng xe bất tận. Rachel ngồi cùng ghế với Gray. Hàng ghế của họ đối mặt với Monk, Kat và bác Vigor. Kat nhìn rất nghiêm nghị. Cô đã đề nghị nên đi thẳng tới Vatican rồi tìm đội hộ tống trước. Nhưng Gray đã bác ý kiến của cô. Cô cảm thấy không thoải mái trước quyết định này.
Rachel liếc nhìn Gray. Trông anh lúc này có vẻ khắt khe hơn thì phải. Cô lại nhớ tới thái độ của anh khi họ ở trên ngọn tháp bốc lửa ở Cologne, sự chắc chắn trong cách hành xử. Đôi mắt anh bừng lên với quyết tâm đã mất sau vụ tấn công đầu tiên. Giờ đây nó đã trở lại... dù làm cô hơi sợ nhưng cũng làm trái tim cô đập nhanh hơn.
Xe buýt tiếp tục chạy.
“Ok,” Gray nói. “Tôi đã theo lời của ngài là chuyến đi này rất cần thiết. Liệu có thể làm rõ hơn được không?”
Bác Vigor nói. “Nếu tôi đi sâu vào chi tiết, sợ rằng chúng ta sẽ nhỡ xe buýt.”
Ông lại mở quyển sổ ra. “Cái hình các vòng tròn đan xen nhau này có thể được thấy trong suốt kỷ nguyên Thiên chúa giáo. Tất cả các nhà thờ, đền đài, miếu mạo trên thế giới. Từ cái hình này, tất cả các loại hình học đã phát triển. Ví dụ như.” Ông chỉ vào chỗ giao nhau của hai hình tròn. “Ở đây, các bạn có thể nhìn thấy sự đan xen của hai vòng tròn. Hình mái vòm cong. Tất cả các cửa sổ và kiến trúc đều mang hình dáng này.”
Rachel cũng đã nghe bài thuyết giảng ấy khi cô còn là một đứa bé. Đối với ai có quan hệ thân thích với một nhà khảo cổ Vatican thì không thể nào không biết về tầm quan trọng của hai vòng tròn giao nhau.
“Đối với tôi, trông chúng giống như hai trái hạnh đào đập vào nhau.” Monk nói.
Vigor chỉnh lại bức vẽ.
“Hoặc trông giống như mặt trăng tròn giao hòa với mặt trời.” Ông bác nói, trích dẫn câu thơ trong khổ thơ bí hiểm đó. “Càng nghiền ngẫm về những dòng này, tôi lại gặp nhiều tầng nhiều lớp như bóc vỏ một củ hành.”
“Ngài định nói gì?” Gray hỏi.
“Người ta đã chôn vùi điều này trong cuốn sách Ai Cập Sách của Người chết. Cuốn sách đầu tiên có đề cập đến manna. Sau đó các văn bản Ai Cập đã đề cập đến cái đấy như bánh mỳ trắng. Như thể là các nhà kim giả đã giấu chúng ta điều gì đó từ đầu. Nhưng câu trả lời cho dấu vết đầu tiên này đưa trở lại từ kỷ nguyên đầu tiên của Thiên chúa giáo. Nhiều sự khởi đầu. Ngay cả câu trả lời cũng ám chỉ sự nhân gấp. Từ một trở thành nhiều.”
Rachel hiểu bác mình muốn nói điều gì. “Sự tăng gấp bội của loài cá.”
Vigor gật đầu.
“Liệu có ai đó giải thích cho chúng tôi - những kẻ mới toanh?” Monk hỏi.
“Hai cái vòng tròn giao nhau ấy gọi là Vesica Pisces, hoặc Binh Cá.” Vigor cúi xuống rồi bôi đen chỗ giao nhau để lộ ra như hình một con cá nằm lọt giữa hai vòng tròn.
Gray nhìn gần hơn. “Chính là hình tượng con cá đại diện cho Thiên chúa giáo.”
“Đây là hình tượng đầu tiên.” Vigor nói. “Khi mặt trăng tròn giao hòa với mặt trời, nó được sinh ra.” Ông gõ vào con cá. “Một vài nhà học giả tin rằng hình tượng con cá được sử dụng, vì từ Hy Lạp cá chính là từ viết tắt Iesous Christos Theou Yios Soter, hoặc Jesus Christ, Con trai của Chúa, Người Cứu rỗi. Nhưng sự thật nằm ở đây, giữa các vòng tròn khóa trong một hình học thiêng liêng. Các bạn có thể tìm thấy những vòng tròn bị khóa với nhau, trong các tác phẩm hội họa cổ xưa theo đó chúa Hài đồng nằm ở khoảng giữa. Nếu bạn lật sang một góc khác, con cá trở thành đại diện cho bộ phận sinh dục nữ và tử cung của đàn bà nơi Chúa hài đồng hình thành.”
“Cũng vì lý do này, con cá tượng trựng cho sự sinh sôi. Để có thể đơm hoa kết trái rồi sinh sôi.” Vigor nhìn quanh nhóm. “Như tôi đã nói, có tầng tầng lớp lớp ý nghĩa ở đây.”
Gray ngồi lui lại. “Vậy điều này dẫn chúng ta đến cái gì?”
Rachel cũng tò mò. “Khắp thành Rome chỗ nào chả có hình tượng cá.”
Vigor gật đầu. “Chính ở dòng thứ hai: “Được sinh ra già nhất.” Điều đó dẫn chúng ta tới đại diện cổ xưa nhất của hình tượng con cá. Cái đó có thể tìm thấy ở ngôi mộ Lucina trong khu hầm mộ của Thánh Callistus.”
“Đấy chính là nơi chúng ta đang tới?” Monk hỏi.
Vigor gật đầu.
Rachel nhận thấy Gray có vẻ chưa yên tâm. “Nếu như ngài sai?” Anh hỏi.
“Chắc là không. Khổ thơ khác trong văn bản cũng gợi ý như vậy... một khi anh giải thích được câu đố về vòng tròn giao nhau này. Hãy nhìn vào dòng tiếp theo. “Nơi nó chết đuối; Trôi trong bóng tối.” Một con cá không thể chết đuối, không phải trong nước mà ở trên mặt đất. Và đề cập đến bóng tối. Tất cả cái đó chỉ đến một ngôi mộ.”
“Nhưng ở khắp thành Rome này có biết bao nhiêu ngôi mộ và khu hầm mộ.”
“Nhưng không có nhiều với hai con cá, và lại sinh đôi nữa.” Vigor nói.
Gray hiểu ra. “Lại một gợi ý nữa, từ khổ thơ cuối cùng. Cặp song sinh chờ nước.”
Vigor gật đầu. “Cả ba khổ thơ đều chỉ đến một địa điểm. Khu hầm mộ của Thánh Callistus.”
Monk ngồi tựa trở lại ghế. “Ít nhất bây giờ không phải là giờ đi lễ. Tôi quá mệt mỏi khi bị người ta bắn vào.”
***
7 giờ 32 phút.
Vigor cảm thấy họ đang đi đúng hướng.
Cuối cùng.
Ông hướng dẫn những người khác đi qua cổng Porta San Sebastiano, một trong những cửa đặc biệt của thành đô. Nó cũng được sử dụng như một cửa dẫn vào công viên bao quanh Appian Way, vốn là con đường nổi tiếng nhất của La Mã cổ đại. Ngay khi qua cửa là một dãy nhà xưởng đổ nát.
Vigor không muốn mọi người chán nản khi nhìn vào các bãi chứa đồ tạp nham đó, giục họ tiếp tục đi. Ở một ngã ba xuất hiện nhà thờ nhỏ có tên nhà thờ Domino Quo Vadis.
Thực ra chỉ mình Kat Bryant chăm chú nghe ông nói. Cô sải bước đi theo ông. Kat và Gray xem ra hơi tách nhau ra. Ba người đi sau anh ta. Vigor cảm thấy vui khi có Kat bên cạnh. Đã được ba năm từ khi họ hợp tác với nhau trong phi vụ chống lại tên tội phạm Đức quốc xã sống ở vùng nông thôn New York. Mục tiêu là phá chuyên án buôn bán các tác phẩm nghệ thuật ăn cắp ở Brussels. Đó là một vụ điều tra dài, phức tạp, đòi hỏi phải có sự ngụy trang ở cả hai bên. Vigor rất có ấn tượng với khả năng của Kat khi cô gái trẻ tuổi này có thể nhập các vai dễ dàng như thay giày.
Ông cũng biết về mất mát cô trải qua mới đây mặc dù cô là một diễn viên có tài, luôn che giấu được tình cảm của mình. Nhưng Vigor là người đã hành nghề linh mục, chuyên rửa tội rồi tư vấn nên rất hiểu tâm trạng ai đó khi đau khổ. Kat đã mất đi một người rất gần với con tim cô và vết thương vẫn còn rớm máu.
Ông chỉ cho cô cái nhà thờ bằng đá, biết sẽ có một thông điệp cho cô bên trong các bức tường. “Nhà thờ này được xây dựng ở nơi mà Thánh Peter chạy trốn sự đàn áp của Nero. Lúc đó chúa Jesu đang tới Rome trong khi Peter đang chạy ra ngoài. Thánh Peter đã hỏi một câu nổi tiếng, Domine Quo Vadis. “Thưa Chúa, ngài đi đâu?”. Đức Chúa Jesu trả lời Ngài quay trở lại Rome để bị câu rút nữa. Peter nghe vậy liền quay lại để đối mặt với việc xử tử mình.”
“Câu chuyện hoang tưởng.” Kat nói chẳng hề bận tâm. “Ông ta lẽ ra phải chạy.”
“Kat, cô luôn là người thực dụng. Nhưng những người như cô cần hiểu rằng cuộc sống của chính một người nào đó không quan trọng bằng sự nghiệp. Tất cả chúng ta đều có một căn bệnh cuối cùng. Chúng ta không cưỡng nổi cái chết. Nhưng giống như những việc làm tốt đẹp được ngợi ca trong thời đại chúng ta thì cái chết cũng như vậy. Hy sinh cuộc sống của mình cũng cần phải được tôn vinh và ghi nhớ.”
Kat liếc nhìn ông. Cô ta thật sắc sảo khi hiểu được ý của ông qua câu chuyện.
“Đức hy sinh là món quà cuối cùng mà chúng ta - những người đang sống, có thể đem lại cho cuộc đời. Chúng ta không nên phí phạm món quà quý báu đó mà phải trân trọng, thậm chí còn vui vẻ nữa vì đã có cuộc sống đầy đủ cho đến lúc chết.”
Kat thở dài. Họ đi qua nhà thờ. Cặp mắt của cô vẫn nhìn vào đó như thể có thể xuyên tận bên trong.
“Có những bài học ngay cả trong những câu chuyện hoang tưởng.” Vigor chấm dứt rồi hướng dẫn cả nhóm đi qua ngã ba để rẽ sang trái.
Nơi đây, con đường dẫn đến những tảng đá lớn. Mặc dù những tảng đá không bắt nguồn từ những con đường của Rome nhưng đã có thời đã dẫn ra không những ra ngoài Rome mà còn đi xa hơn đến tận Hy Lạp, dù đó là một dự đoán lãng mạn. Một cách chậm rãi, con đường mở ra trước mắt họ. Những thảm cỏ xanh trên sườn đồi, lác đác vài con cừu đang gặm cỏ dưới bóng cây thông. Các bức tường đổ nát chạy ngang chạy dọc, cùng với những ngôi mộ trơ trọi.
Vào thời điểm này, khi mọi sự vui chơi công cộng đều đã chấm dứt và mặt trời gần xuống bóng, trên đường Appian chỉ còn mình họ. Một vài người đạp xe ngang đường gật đầu chào Vigor khi nhìn thấy cổ áo của linh mục. Rồi họ lại lầm lũi đạp xe qua, không quên ngoái nhìn tốp người mang ba-lô mệt mỏi đi sau.
Vigor cũng thấy một vài cô gái ăn mặc hở hang đứng rải rác dọc đường vẻ như đang tìm kiếm ai đó. Khi màn đêm buông xuống, con đường này trở thành một cái ổ chứa cho gái làm tiền và tụi bảo kê, ẩn chứa biết bao mối hiểm nguy cho du khách. Giống như con đường Appian xưa kia, những kẻ du đãng và trộm cướp vẫn thường lảng vảng quanh đây.
“Không còn xa nữa đâu,” Vigor hứa hẹn.
Ông hướng về một khu vực trồng nho, những cây nho màu xanh được cột vào cọc gỗ nằm dọc trên sườn đồi thoai thoải. Phía trước mặt là một khu vực rộng có lối đi vào - đó chính là điểm đến của họ. Khu mộ của Thánh Callistus.
“Chỉ huy,” Kat hỏi, bỏ ba-lô xuống. “Liệu có nên trinh sát khu vực này một lần không?”
“Hãy căng mắt ra nhìn,” anh trả lời. “Không chậm trễ gì nữa.”
Vigor để ý sự quyết đoán trong giọng nói của Gray. Là chỉ huy, anh lắng nghe nhưng hình như anh không chịu nghe theo. Vigor cũng chưa biết đó là tốt hay xấu. Gray vẫy họ tiếp tục.
Cái nghĩa địa nằm dưới lòng đất này đóng cửa lúc năm giờ chiều, nhưng Vigor đã gọi điện cho người quản trang để thu xếp chuyến “tham quan” đặc biệt này. Một người đàn ông nhỏ nhắn mặc bộ quần áo xanh lá cây bước ra cửa gặp họ. Ông đi tập tễnh, phải dùng một cái gậy gỗ làm nạng chống, miệng ngậm tẩu thuốc. Vigor rất biết ông ta. Gia đình ông ta đã là những người chăn cừu ở khu vực này từ đời này qua đời khác.
“Chào ngài Verona.” Ông ta nói.
“Khỏe không?”
“Tôi khỏe, cảm ơn.” Ông ta chỉ một căn nhà gỗ nhỏ cũng là nơi ông ta nghỉ để trông nom khu mộ. “Tôi có một chai vang nho, đặc sản của vùng này. Tôi biết ông thích loại này mà.”
“Thôi để lúc khác, Giuseppe. Bây giờ đã muộn, e rằng bọn tôi phải sớm kết thúc công việc.”
Người đàn ông nhìn những người kia như thể họ phải chịu trách nhiệm về chuyện vội vàng đó nhưng lại phát hiện ra Rachel. “Trời, có thể nào đây là cô Rachel... Cô không còn bé tí nữa rồi.”
Rachel mỉm cười, rõ ràng cô rất thích thú khi vẫn được nhớ đến. Cô không đến đây cùng với ông bác từ khi chín tuổi. Rachel ôm hôn ông già vào mỗi bên má. “Chào, Giuseppe.”
“Chúng ta phải nâng cốc chúc cô Rachel chứ?”
“Có lẽ chúng tôi phải kết thúc công việc ở dưới kia đã,” Vigor nói tiếp, rất hiểu tâm trạng của người đàn ông này, sống cô độc trong một cái chòi nhỏ luôn mong có bạn bè.
“Được... không sao.” Ông vung gậy chỉ về phía cửa. “Bây giờ đang mở. Tôi sẽ đóng lại sau khi mọi người vào. Khi nào ra gõ cửa tôi sẽ nghe thấy.”
Vigor dẫn họ đi thẳng vào khu mộ. Ông đẩy cửa rồi vẫy mọi người vào trong, để ý thấy Giuseppe đã bật dãy đèn sáng choang. Cầu thang đi xuống phía trước mặt.
Khi Monk bước xuống cùng Rachel, anh ta nhìn lại người quản trang.
“Cô nên giới thiệu ông ấy với bà ngoại cô. Tôi đoán, họ có khi hợp nhau đấy.”
Rachel cười toét miệng rồi bước theo anh chàng mập vào trong.
Vigor đóng cửa lại rồi dẫn đoàn xuống cầu thang. “Khu mộ này là một trong những khu mộ cổ nhất ở Rome. Có thời nó đã là một nghĩa trang Thiên chúa giáo tư nhân, nhưng cũng mở rộng để chôn cất một vài vị Giáo hoàng muốn được an nghỉ tại đây. Khu mộ rộng chín mươi mẫu Anh, sâu xuống bốn tầng.”
Phía sau, Vigor đã nghe tiếng cửa khóa. Càng xuống dưới càng tối, không gian sặc sụa mùi đất và nước mưa rỏ tí tách. Dưới chân cầu thang, họ tới một gian sảnh có những ngôi mộ đào vào tường để chôn giữ những linh hồn an nghỉ. Có nhiều hình vẽ nguệch ngoạc trên tường, chắc chắn không phải là tác phẩm của những kẻ chuyên vẽ bậy thời nay. Có những câu viết từ thời xa xưa tận thế kỷ XV: Những lời cầu nguyện, than thở...
“Chúng ta sẽ phải đi tới đâu?” Gray bước bên cạnh Vigor. Đường đi ngày càng hẹp dần, chỉ có thể cho hai người đi cùng. Anh nhìn những vòm trần thấp.
Tại đây, ngay cả những người bạo gan nhất cũng thấy ghê rợn khi đặt chân vào cái nghĩa địa ngầm dưới đất này. Đặc biệt vào lúc này. Vắng tanh và trống rỗng.
“Mộ của Lucina nằm ở sâu hơn. Nó ở vị trí khu vực cổ xưa nhất của khu mộ.”
Tại đây có rất nhiều đường nhánh nhưng Vigor đã biết đường nên ông rẽ về bên phải.
“Hãy đi sát nhau.” Ông nhắc nhở. “Ở đây dễ bị lạc đấy.”
Lối vào càng ngày càng hẹp lại.
Gray quay lại. “Monk, hãy cảnh giới phía sau. Mười bước. Cố quan sát.”
“Nghe rõ.” Monk rút súng ra.
Phía trước, một căn hầm mở ra. Các bức tường của nó đầy rẫy những vòm mộ, những nét chạm khắc chi tiết.
“Đây là khu mộ của các vị Giáo hoàng, có tới mười sáu vị đã an nghỉ ở đây, đánh dấu theo thứ tự từ Eutychiannus đến Zephyrinus.”
“Từ E đến Z.” Gray nhắc lại.
“Nhưng xác của họ đã bị di chuyển.” Vigor nói, đi ngang qua ngôi mộ của Cecelia. “Từ thế kỷ thứ V, vùng ngoại ô của thành Rome đã bị rất nhiều thế lực tấn công. Nhiều trong số những nhân vật quan trọng nhất chôn ở đây đã được di chuyển tới các nhà thờ bên trong thành phố. Thực tế, khu mộ này đã trở thành rỗng tuếch và bỏ hoang, vào thế kỷ XII chúng hoàn toàn bị lãng quên và không hề được phát hiện trở lại cho đến thế kỷ XVI.”
Gray húng hắng ho. “Hình như là thời gian cứ giao thoa với nhau.”
Vigor nhìn trở lại.
“Thế kỷ thứ XII,” Gray nói, “cũng là giai đoạn mà xương cốt của các vị Tiên tri được di chuyển từ Italy sang Đức. Đó cũng là thời gian mà ngài đã đề cập là có sự trỗi dậy của đức tin Ngộ giáo, tạo ra sự tranh giành gay gắt giữa các nhà vua và giáo hoàng.
Vigor chậm rãi gật đầu, ngẫm nghĩ về khía cạnh này. “Đó là một thời kỳ hỗn loạn, lúc đó giáo hoàng đã chạy khỏi thành Rome vào cuối thế kỷ XII. Các nhà giả kim có thể đã tìm cách bảo vệ những gì họ đã có được, giấu mình sâu hơn rồi để lại một vài dấu vết nếu như họ mất đi, những mẩu bánh vụn cho các tín đồ khác của phái Ngộ đạo lần theo.”
“Giống như nhóm Long Đình này.”
“Tôi không nghĩ chúng hình dung một nhóm như vậy có thể được cứu rỗi để tìm kiếm một sự thật cao hơn. Một tính toán bất hạnh. Cách này hay cách khác, tôi nghĩ anh đúng. Anh có thể chốt lại năm tháng khi những dấu vết được sắp đặt. Tôi cho rằng đó là thế kỷ XIII, đỉnh cao của trận chiến. Rất ít người vào lúc ấy biết về khu mộ. Vậy có chỗ nào tốt hơn để giữ lại những dấu tích cho một hội bí mật.”
Ngẫm nghĩ điều này, Vigor dẫn họ đi qua một loạt các gallery, ngôi mộ... “Không còn xa đâu, chỉ cần đi qua khu đền Sarcamental.” Rồi ông chỉ tay đến một khu có sáu phòng nhỏ. Trên tường đầy những bích họa mô tả các cảnh trong Kinh thánh đan xen với cảnh làm lễ xưng tội và lễ ban thánh thể. Đó là những kho báu của nghệ thuật Thiên chúa giáo cổ xưa.
Đi tiếp qua những gallery nữa, mục tiêu của họ đã hiện ra trước mắt. Một ngôi mộ khiêm tốn. Trần được sơn với mô-típ rất điển hình thời sơ khai của đạo Thiên chúa: Chúa Jesu với con cừu ở trên vai.
Ông chỉ vào hai bức tường bên cạnh. “Đây là nơi chúng ta đến để tìm kiếm.”
8 giờ 10 phút
Gray bước tới bức tường gần nhất. Một bức họa con cá được vẽ trên nền xanh lá cây.
Sau lưng con cá là một cái làn đựng bánh mỳ. Anh quay sang bức tường thứ hai. Bích họa này hình như là tấm gương của bức kia, chỉ có điều là trong cái làn còn có thêm một chai vang nữa.
“Đó chính là hình tượng của bữa ăn cuối cùng của Chúa.” Vigor nói. “Cá, bánh mỳ và rượu vang. Nó cũng đại diện cho phép màu của loài cá khi Chúa Jesu đã nhân ra từ một rổ cá và bánh mỳ để nuôi biết bao nhiêu tín đồ, những người đã đến nghe Ngài thuyết giảng.”
“Lại hình tượng nhân bản,” Kat nói, “giống như hình học của các vòng tròn đan xen.”
“Nhưng chúng ta sẽ đi từ đây đến đâu?” Monk hỏi. Anh ta đứng với khẩu súng ngắn trên vai nhìn đối diện vào ngôi mộ.
“Hãy theo câu đố,” Gray trả lời. “Khổ thứ hai: “Nơi nó chết đuối, Trôi trong bóng tối và chăm chú hướng về vị vua đã mất.” Chúng ta tìm nơi nào nó trôi trong bóng tối, là chúng ta sẽ cố tìm ra nơi nào nó nhìn vào.” Anh chỉ theo nơi con cá đầu tiên hướng tới.
Nó dẫn sâu hơn vào các gallery.
Gray đi theo hướng đó, tìm kiếm chung quanh. Cũng không lâu la gì khi tìm ra sự mô tả rõ nét các nhà vua. Gray dừng trước một bức bích họa tôn vinh của các nhà Tiên tri. Bức tranh tuy mờ nhưng các chi tiết vẫn còn rõ. Đức bà Maria đồng trinh ngồi trên ngai vàng cùng với chúa Hài đồng trên lòng. Quỳ trước đó là ba hình người mặc áo choàng, dâng quà.
“Ba nhà vua,” Kat nói. “Lại là các vị Tiên tri.”
“Chúng ta luôn gặp phải các vị này.” Monk trả lời đi tới vài bước.
Rachel nheo mắt nhìn bức tường. “Cái này có nghĩa gì? Tại sao lại dẫn chúng ta đến đây? Bọn Long Đình đã biết được gì?”
Gray cố khớp lại các sự kiện trong ngày. Anh thôi không sắp xếp nữa mà cứ để cho đầu óc mình tự vận động. Mối liên hệ đã được lập, rồi bác bỏ rồi lại tái hiện. Chậm chạp anh bắt đầu hiểu.
“Câu hỏi thực ra là tại sao các nhà kim giả cổ đại dẫn chúng ta tới đây?” Gray nói. “Đến chỗ mô tả đặc biệt này của các vị Tiên tri. Như Monk đã đề cập, chúng ta không thể quay một góc nào ở Italy mà không bắt gặp ba nhà vua đó. Vậy thì tại sao bức họa này lại là đặc biệt?”
Không ai có câu trả lời.
Rachel đưa ra một hướng có thể đi tiếp. “Long Đình đi tìm xương cốt của các vị Tiên tri. Có thể chúng ta cần nhìn vào từ góc cạnh đó.”
Gray gật đầu. Lẽ ra anh phải nghĩ đến điều này. Họ không cần thiết phải quay ngược lại bánh xe. Long Đình đã giải câu đố ấy rồi. Tất cả những gì họ cần làm là quay về theo lối cũ. Gray cân nhắc điều đó và tìm ra một câu có thể trả lời.
“Có thể con cá đang nhìn vào các vị vua đặc biệt này vì họ đã được chôn. Trong một nghĩa địa. Dưới đất, nơi một con cá sẽ chết đuối. Câu trả lời cho câu đó không phải là các vị Tiên tri đang sống, mà là chết và đã được chôn, trong ngôi mộ đã từng lấp đầy xương.”
Vigor thốt lên ngạc nhiên.
“Như vậy Long Đình tìm kiếm chỗ xương cốt.” Rachel nói.
“Tôi cho rằng Long Đình đã biết chỗ xương không phải là thực.” Gray nói. “Chúng đã dính mũi vào chuyện ấy hàng thế kỷ. Chúng có thể đã biết. Hãy nhìn vào những gì xảy ra ở nhà thờ. Chúng dùng chất bột của vàng trắng qua cách nào đó để giết người. Chúng đi trước trong trò chơi này.”
“Và chúng muốn có nhiều quyền lực hơn.” Rachel nói. “Giải pháp cuối cùng của các vị Tiên tri.”
Mắt Vigor nheo lại vì tập trung suy nghĩ. “Và nếu như anh đúng, Chỉ huy, về ý nghĩa của chuyện xương cốt các vị Tiên tri bị lấy đi khỏi Italy để đưa sang Đức, có thể sự vận chuyển không phải là việc cướp các di vật lịch sử mà chính là sự sắp xếp. Để bảo toàn các hỗn hợp.”
Gray gật đầu. “Và Long Đình để chúng tại Cologne... an toàn và quan sát được. Biết rằng chúng rất có ý nghĩa nhưng không biết làm gì với chúng.”
“Cho đến tận bây giờ.” Monk nói từ nơi cách đó vài bước.
“Nhưng cuối cùng,” Gray tiếp tục, “những dấu vết này dẫn đến cái gì? Không phải chỉ là di vật trong một nhà thờ, nó không nói cho biết nên làm gì với chúng và chúng được dùng làm gì?”
“Chúng ta đã quên.” Kat nói. Từ lúc nãy cô vẫn hoàn toàn im lặng, chăm chú nhìn vào bức họa. “Khổ thơ trong đoạn đó đã nói con cá nhìn chăm chú vào nhà vua đã mất, chứ không phải các nhà vua, ở số nhiều. Ở đây có ba nhà vua. Tôi nghĩ chúng ta bỏ qua một tầng của chủ nghĩa tượng trưng.” Cô quay lại. “Vậy vị vua đã mất gợi ý cái gì?”
Gray cố gắng trả lời. Hết câu này sang câu khác.
Vigor lấy tay xoa cằm, đắm mình trong suy nghĩ. “Có một bức họa nữa ở ngôi mộ bên cạnh. Mộ của Momatilla. Bích họa này được vẽ không phải ba mà là bốn vị Tiên tri. Bởi vì Kinh thánh không bao giờ cụ thể về số vị Tiên tri, các họa sĩ thời đầu Thiên chúa giáo cũng khác nhau về con số. Vị vua đã mất này có nghĩa là một vị Tiên tri nữa, một vị thiếu ở đây.”
“Vị Tiên tri số bốn” Gray hỏi.
“Một nhân vật tượng trưng cho những kiến thức đã mất của các nhà giả kim.” Vigor gật đầu, “Khổ thơ thứ hai gợi ý xương cốt của các vị Tiên tri có thể được dùng để tìm vị Tiên tri thứ tư. Vị đó có thể là ai.”
Rachel lắc đầu, làm cả Vigor và Gray chú ý. “Đừng quên là dấu vết này được chôn trong một ngôi mộ. Tôi đoán là chúng ta phải tìm vị Tiên tri thứ tư chứ không phải là ngôi mộ của ông ta. Một ít xương để đi tìm một bộ xương khác... Có thể là một thứ hỗn hợp khác.”
“Hoặc cái gì đó lớn hơn nữa. Cái đó chắc sẽ kích động Long Đình.”
“Nhưng sao xương cốt của các vị Tiên tri có thể giúp tìm ngôi mộ bị mất được?” Monk hỏi.
Gray quay lại ngôi mộ của Lucina. “Câu trả lời phải tìm ở khổ thứ ba.”
***
2 giờ 22 phút.
Washington D.COLOGNE.
Painter Crowe thức dậy khi nghe tiếng gõ cửa phòng. Ông đã ngủ ngay trên ghế ngồi.
Ông đằng hắng: “Mời vào...”
Logan Gregory bước vào. Tóc anh ta ướt đẫm, mặc một chiếc áo sơ-mi và áo khoác mới.
Trông giống như mới vừa tới chứ không phải đã ở đây từ hôm kia rồi.
Logan chắc cũng biết sự chú ý của ông, lấy bàn tay xoa xoa lên chiếc áo. “Tôi xuống phòng tập, chạy một vòng. Tôi cũng để một bộ quần áo dự phòng trong tủ.”
Painter không trả lời, hơi ngạc nhiên. Tuổi trẻ. Ông không nghĩ mình có thể rời khỏi chiếc ghế, chứ chưa nói là có thể chạy được vài dặm. Nhưng lại nữa, Logan chỉ trẻ hơn ông năm tuổi. Painter biết chính xác do stress chứ không phải tuổi tác đã làm anh quỵ.
“Thưa ngài,” Logan tiếp tục. “Tôi nhận được tin từ tướng Rende, người liên lạc của chúng ta với lực lượng cảnh sát ở Rome. Chỉ huy Pierce và những người khác đã biến mất.”
Painter nhổm người dậy. “Sao, lại một cuộc tấn công nữa à? Lẽ ra giờ này họ phải tới Vatican rồi chứ.”
“Không thưa ngài. Sau khi ngài gọi họ, họ đã loại bỏ nhóm cảnh sát hộ tống rồi tự đi bằng phương tiện của họ. Tướng Rende muốn biết cần chuyển cho họ điều gì. Nhân viên của ông ta, trung úy Verona báo cho ông ta biết là ngài đã chuyển một thông tin tình báo gì đó. Ông ta có vẻ không vui khi bị gạt ra rìa.”
“Thế anh nói với ông ta thế nào?”
Logan nhíu lông mày. “Không có gì ạ, thưa ngài. Đó là quy định chính thức của Sigma, có phải thế không ạ? Chúng ta không biết gì cả.”
Painter cười. Thỉnh thoảng cũng phải như vậy.
“Thế còn chỉ huy Pierce thế nào ạ? Ngài tính sẽ làm gì tiếp, liệu chúng ta có cần báo động không?”
Painter nhớ lại lời khuyên của McKnight trước đó. Hãy tin người của anh. “Chúng ta sẽ đợi cú điện thoại tiếp của họ. Tôi không thấy có dấu hiệu gì đáng băn khoăn cả. Chúng ta cần cho anh ta quyền điều khiển trò chơi của mình.”
Logan vẻ như không hài lòng với câu trả lời: “Ngài muốn tôi làm gì bây giờ ạ?”
“Theo tôi, Logan, anh nên nghỉ ngơi một chút. Tôi hình dung khi chỉ huy Pierce hành động, chúng ta có thể ngủ đôi chút tại đây.”
“Vâng, thưa ngài.” Anh ta bước ra cửa.
Painter ngồi tựa lưng vào ghế lấy tay che mắt. Mẹ kiếp, nhưng chiếc ghế này thật êm. Ông chợp mắt một chút song có điều gì đó làm ông bừng tỉnh, không thể ngủ tiếp được. Có cái gì đấy gờn gợn. Một cái gì đấy Gray đã nói. Không tin Sigma. Có lỗ rò rỉ.
Liệu có như vậy không?
Chỉ có một người bên cạnh ông nắm đầy đủ thông tin về cuộc hành quân này cho đến nay. Thậm chí không phải Sean McKnight biết tất cả mọi chuyện. Ông chậm rãi đứng dậy, mắt mở to.
Không thể nào.
***
8 giờ 22 phút.
Rome Italy
Trở lại với ngôi mộ Lucina, Gray đứng cạnh bức bích họa với con cá. Họ cần phải giải đáp câu đố thứ ba này.
Monk hỏi một câu hỏi thật hay. “Tại sao Long Đình không đánh bom cháy vào những khu mộ này? Tại sao chúng lại để cho những người khác tìm thấy?”
Rachel đứng cạnh anh ta. “Thực ra trong tay Long Đình đã có bản copy tự tạo của cuốn Sách cho Người chết rồi, chúng còn gì phải sợ nữa? Nếu như Seichan không lấy trộm được bài thơ câu đố đó, sẽ không ai biết mà tìm đến đây.”
Kat bổ sung thêm. “Có thể Long Đình không chắc lắm về cách diễn giải. Cũng có thể chúng muốn câu chuyện trong đá này được giữ yên lặng cho đến khi chắc chắn có được bản dịch chính xác.”
Gray cân nhắc điều này, cảm thấy thời gian thật cấp bách. Anh quay lại bức bích họa.
“Chúng ta hãy xem thử xem tìm được gì. Khổ thơ thứ ba có con cá đang chờ nước. Giống như con cá đầu tiên, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải theo xem nó hướng đến chỗ nào.”
Gray chỉ một gallery khác hơi xa chỗ khu mộ. Con cá chỉ theo hướng đó.
Nhưng Vigor vẫn tiếp tục nghiên cứu hai con cá, nhìn hết con nọ sang con kia. “Sinh đôi” ông lẩm bẩm.
“Cái gì vậy?”
Vigor vẫy tay chỉ vào hai con cá. “Ai đó đưa ra trò chơi câu đố này thích đùa với hình tượng. Chọn hai con cá này. Gần giống hệt nhau về hình dạng. Đề cập đến con cá thứ hai như là sinh đôi, nhưng không phải là không có nghĩa.”
“Tôi chả thấy chúng liên quan gì với nhau cả.” Gray nói.
“Anh chả biết chữ Hy Lạp nào cả, Chỉ huy ạ.”
Gray chau mày.
Monk, thật ngạc nhiên lại chen vào, chứng tỏ tính di truyền Hy Lạp của mình không chỉ nhảy múa rất tồi. “Sinh đôi dịch ra có nghĩa là didymus.”
“Được đấy,” Vigor nói. “Còn trong tiếng Hebrew, sinh đôi dịch ra là Thomas. Như vậy là Didymus Thomas. Một trong mười hai vị thánh tông đồ.”
Gray nhớ lại buổi tranh luận tại hồ Como với ngài linh mục. “Thomas là một trong các vị thánh tông đồ mâu thuẫn với John.”
“Và cũng chính là người đã làm lễ xưng tội cho các vị Tiên tri.” Vigor gợi ý. “Thomas đại diện cho đức tin Ngộ đạo. Tôi nghĩ rằng sử dụng chữ sinh đôi ở đây là muốn ám chỉ Phúc âm của Thomas. Bằng cách công nhận Thomas, tôi phân vân liệu chính các nhà giả kim có phải là những người theo đạo Thiên chúa kiểu Thomas... những người đi theo Rome nhưng vẫn bí mật tiếp tục hành lễ kiểu Ngộ đạo. Một nhà thờ Thomas giấu bên trong và cùng một Nhà thờ hợp luật lệ giáo hội. Có thể đó là bằng chứng.”
Gray cảm thấy phấn khởi trước câu nói ấy.
“Có thể cái hiệp hội của những nhà giả kim có nguồn gốc từ Moses và Ai Cập đã hòa nhập với Nhà thờ Công giáo. Tiếp tục phía trước trong lịch sử mang theo cây thánh giá và quỳ một gối trước Nhà thờ, tìm kiếm nguồn gốc chung với những người giữ Phúc âm Thomas một cách bí mật.”
“Giấu giếm giữa ban ngày.” Monk nói.
Vigor gật đầu.
Gray suy nghĩ theo logic này. Có thể đáng theo đuổi, nhưng lúc này họ còn có một câu đố khác phải giải. Anh chỉ xuống gallery. “Ai đó để lại các dấu vết, cũng để lại cho chúng ta thách thức thứ ba.”
Cặp song sinh chờ nước...
Gray dẫn đường đi tới một gallery mới, cố tìm kiếm một vài bức họa có nước trong đó.
Anh đi qua nhiều cảnh họa trong Kinh thánh, nhưng chả thấy bức nào đề cập đến nước cả. Có một bức tranh mô tả cảnh gia đình quây quần quanh một cái bàn với bốn người đàn ông giơ tay lên trời. Không ai trong số họ cầm bình nước.
Vigor gọi phía sau. Anh quay lại.
Những người khác tụ tập ở chỗ hõm trong bức tường. Anh đến với họ.
Anh đã tìm kiếm chỗ này rồi. Nó vẽ một người đàn ông mặc áo choàng dùng cái gậy đập một tảng đá. Không có lấy một giọt nước.
“Đây là minh họa về Moses ở sa mạc.” Vigor nói.
Gray chờ lời giải thích.
“Theo Kinh thánh, ông ta đập mạnh vào hòn đá ở sa mạc rồi một nguồn nước mát vọt ra, giúp những người Israel đang trốn chạy thoát khỏi cơn khát.”
“Giống như con cá của chúng ta đằng kia.” Monk nói.
“Đây chắc là bức họa ám chỉ trong khổ thơ.” Vigor nói.
“Hãy nhớ Moses biết về manna và những chất bột trắng nhiệm màu. Thật thích hợp để ghi nhận ông.”
“Vậy thì bức tranh đã bị hư hại này nói lên điều gì?” Gray hỏi.
“Cặp song sinh chờ nước; Nhưng sẽ bị thiêu cháy từng đốt xương trên bàn thờ.” Vigor trích dẫn. “Bị thiêu lần lượt. Hãy nghĩ trở lại. Giống như Rachel đã gợi ý trước đó. Long Đình làm gì ở Cologne. Những người đi lễ bị thiêu, một triệu chứng co thắt bằng điện ở não. Và nó cũng liên quan đến vàng trắng. Rất có thể là hợp chất trong xương cốt của các vị Tiên tri.”
“Đó có phải là thông điệp không?” Rachel hỏi. “Giết. Chửi bới tại bàn thờ, giống như ở Cologne với máu và thảm sát?”
“Không.” Gray trả lời. “Long Đình châm lửa chỗ di cốt và hình như chả học được gì do chúng tiếp tục đi theo con đường mòn trước đó. Có thể ở Cologne chỉ là một lần thử hay thể nghiệm. Có thể Long Đình chưa chắc chắn sự diễn giải của chúng về câu đố, giống như ông bác Vigor của cô gợi ý. Cách này hay cách khác, chúng rõ ràng biết về một số khả năng của chất bột trắng. Với phương tiện của mình, chúng có thể kích hoạt và lợi dụng một cách man rợ năng lượng trong những chất siêu bán dẫn có tốc độ cao. Chúng sử dụng cái đó để giết người. Nhưng tôi không nghĩ đấy chính là những gì những nhà kim giả trước kia tiên liệu.”
Rachel trông vẫn mệt mỏi.
“Câu trả lời thực sự ở đây.” Gray kết thúc. “Nếu như Long Đình đã giải được thì chúng ta cũng có thể.”
“Nhưng chúng đã có hàng tháng trời sau khi lấy trộm văn bản này tại Cairo.” Monk nói.
“Hơn nữa, chúng biết nhiều hơn chúng ta về thứ đó.”
Mọi người im lặng gật gù. Mất ngủ quá nhiều, họ trông thật vật vờ. Những câu đố đã lấy đi số năng lượng ít ỏi còn lại của họ, làm mối lo lại bị thất bại nữa đang treo lơ lửng ngay trên đầu.
Không chịu ở vào thế yếu, Gray nhắm mắt suy nghĩ. Anh cân nhắc những gì mình đã biết. Chất hỗn hợp bao gồm rất nhiều kim loại khác nhau trong nhóm platinum. Thực đơn chính xác của chúng thật khó có thể xác định được, ngay cả với những thí nghiệm căn bản vừa rồi. Chất hỗn hợp hình thành xương cốt và lưu giữ trong nhà thờ.
Tại sao? Có phải thực sự những nhà giả kim thuộc về một nhà thờ bí mật bên trong nhà thờ? Có phải đó là cách họ giấu chỗ xương cốt trong thời kỳ hỗn loạn, một kỷ nguyên của các vụ đụng độ và bạo loạn.
Dù lịch sử là gì đi nữa, Gray vẫn đoan chắc thiết bị của Long Đình bằng một cách nào đấy đã biết cách khai thác năng lượng trong chất hỗn hợp ở trạng thái -milan. Có thể việc nếm bánh thánh chỉ là cách thử chiều ngang và kích cỡ của năng lượng đó. Vậy thì cái gì là công dụng đầu tiên của năng lượng đó? Một công cụ, một thứ vũ khí?
Gray đánh vật với các mật mã không thể giải được của các chất, điều đã được giấu giếm hàng thế kỷ, để lại sau một loạt các dấu vết đến một nơi lưu trữ của năng lực cổ xưa.
Một thứ mật mã không thể giải được.
Rồi đến khi tưởng như bế tắc thì một câu trả lời đến với anh, bỗng nhiên và sắc sảo, như một vết thương ở trong mắt.
Không phải là mật mã.
“Đó là chìa khóa,” anh lẩm bẩm, biết rằng đấy là thực sự. Gray nhìn mọi người. “Hợp chất là một chìa khóa hóa học không thể giải mã được, không thể nhân bản được. Với tính chất hóa học độc đáo là khả năng mở khóa vị trí của ngôi mộ của vị Tiên tri thứ tư.”
Vigor định nói nhưng Gray lấy tay ngăn ông lại.
“Long Đình biết cách phát hỏa năng lượng đó để mở chìa khóa. Nhưng cái khóa đó ở đâu? Không phải ở Cologne. Long Đình đã thất bại ở đó. Nhưng có thể chúng ta đã có một dự đoán nào đấy tốt nhất. Câu trả lời là ở đây. Trên bức họa này.”
Anh nhìn cả nhóm.
“Chúng ta phải giải cái này.” Anh nói, quay lại rồi chỉ vào bức họa.
“Moses đang đập vào tảng đá. Các bàn thờ thường được làm bằng đá. Điều đó có nghĩa gì? Liệu chúng ta có phải đi tới sa mạc Sinai để tìm kiếm hòn đá của Moses không?”
“Không.” Vigor đáp, vẻ tự tin. Ông giơ tay chạm vào tảng đá có vẽ tranh. “Hãy nhớ những tầng lớp của tượng hình trong câu đố. Đây không phải là tảng đá của Moses. Ít nhất không phải chỉ riêng của ông ta. Bức họa này thực ra có nghĩa là: Moses-Peter đập tảng đá.”
Gray chau mày. “Tại sao lại có hai cái tên? Moses và Peter?”
“Trong suốt khu mộ, hình ảnh của Thánh Peter thường được áp vào những hành động của Moses. Đó là cách để tôn vinh vị thánh tông đồ này.”
Rachel nhìn gần hơn khuôn mặt được vẽ. “Nếu như đây là hòn đá của Thánh Peter...?”
“Hòn đá trong tiếng Hy Lạp là Petros,” Vigor nói. “Vì vậy tại sao vị thánh tông đồ Simon Bar-Jona lấy tên Peter, sau này là Thánh Peter. Từ những lời của Chúa Jesu: Ngươi là Peter, và từ hòn đá này ta sẽ xây dựng Nhà thờ của ta...”.
Gray cố gắng sắp xếp chúng lại với nhau. “Liệu có phải ngài gợi ý rằng bàn thờ trong câu đố là ở Nhà thờ St. Peter không?”
Bỗng Rachel quay ngoắt lại. “Không, chúng ta hãy đi đến hình tượng sau đã. Trong khổ thơ này, chữ bàn thờ được dùng, nhưng bức họa đã thay thế cái đó với chữ hòn đá. Vậy không phải đi tìm một cái bàn thờ mà chính là hòn đá.”
“Tuyệt vời.” Monk nói. “Vậy sẽ giới hạn bớt việc tìm kiếm của chúng ta.”
“Đúng vậy,” Rachel nói. “Bác tôi đã trích dẫn một đoạn có ý nghĩa nhất trong Kinh thánh có liên hệ giữa Thánh Peter và tảng đá. Peter là hòn đá trên đó nhà thờ được xây dựng. Hãy nhớ chúng ta đang ở đâu. Trong một ngôi mộ.” Cô gõ vào một tảng đá trên bức họa. “Một tảng đá dưới lòng đất.”
Rachel đối mặt với họ. Đôi mắt của cô như sáng bừng trong bóng tối. “Nhà thờ St. Peter được xây dựng ở khu vực nào? Tảng đá nào được chôn dưới nền của nhà thờ?”
Gray trả lời, đôi mắt mở to. “Ngôi mộ của Thánh Peter.”
“Hòn đá của Nhà thờ.” Vigor trả lời.
Gray đã hình dung ra sự thật. Xương cốt là chìa khóa. Cái mộ là chiếc khóa.
Rachel gật đầu. “Đó chính là nơi tụi Long Đình sẽ hướng tới lần sau. Chúng ta phải liên lạc ngay với Hồng y Spera.”
“Ồ... không.” Vigor cứng người lại.
“Sao, cái gì vậy?” Gray hỏi.
“Đêm nay... vào lúc hoàng hôn...” Vigor nhìn đồng hồ, mặt ông trắng bợt. Ông quay lại.
“Chúng ta phải khẩn trương lên.”
Gray theo sau những người khác. “Tại sao?”
“Một buổi lễ tưởng niệm cho những nạn nhân ở Cologne. Buổi lễ dự định diễn ra vào lúc hoàng hôn. Hàng ngàn người sẽ tham dự trong đó có Giáo hoàng.”
Gray bỗng nhiên hiểu ra điều Vigor sợ. Anh hình dung vụ thảm sát ở Nhà thờ Cologne.
Tất cả các con mắt sẽ tránh khỏi Scavi, tầng hầm dưới Nhà thờ St Peter, nơi ngôi mộ của các vị Tiên tri đã bị khai quật.
Hòn đá của Nhà thờ.
Nếu như tụi Long Đình sẽ khai hóa chỗ xương cốt của các vị Tiên tri ở đó...
Anh tưởng tượng những đám đông tề tựu bên trong nhà thờ, đứng tập trung ở quảng trường.
Ôi, lạy Chúa.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook