Địa Đồ Di Cốt
-
Chương 3: Bí mật
Ngày 24 tháng, 10 giờ 25 phút
Washington, D.C.
Mình phải ra khỏi chỗ này thôi.
Trong phòng đựng tủ quần áo ở chỗ tập thể dục, Grayson Pierce lôi ra một quần sóc đi xe đạp màu đen, rồi mặc vào cùng với một cái áo thu chẽn. Anh ngồi xuống ghế đi đôi giày thể thao.
Phía sau,cánh cửa phòng bật mở. Ngoái lại, Gray nhìn thấy Monk Kokkalis bước vào tay cầm một quả bóng rổ, tay kia cầm chiếc mũ. Chỉ cao hơn năm feet đôi chút, Monk trông giống như một con bò mộng mặc áo chẽn. Dù sao gã cũng là một đấu thủ cừ khôi. Nhiều người đánh giá thấp gã, nhưng gã có biệt tài đoán được ý đồ của đối thủ khiến kẻ đó bị bất ngờ, chính vì vậy ít khi các thủ thuật của gã không đem lại hiệu quả.
Monk ném quả bóng rổ vào thùng đựng đồ, lại là một cú ném tuyệt vời rồi tiến đến ngăn tủ của mình. Gã lột chiếc áo thun cuộn tròn lại rồi nhét vào bên trong.
Gã nhìn Gray. “Này anh ăn mặc như thế để đến gặp ngài chỉ huy Crowe à?”
Gray đứng dậy. “Tôi đến chỗ mấy người nhà.”
“Tôi nghĩ rằng chỉ huy hành quân yêu cầu chúng ta phải ở trong doanh trại?”
“Kệ mẹ chuyện đó.”
Monk tròn mắt nhìn. Đôi lông mày rậm là thứ duy nhất còn lại không được cạo trên chiếc sọ cạo nhẵn thín của gã. Gã rất mê hình ảnh đã được nhồi nhét vào đầu hắn bởi những lính mũ nồi xanh. Gã phải hứng chịu khá nhiều những vết tích sót lại từ cuộc đời binh nghiệp trước đây: những vết sẹo do đạn bắn, ba vết thương ở vai, ngực và đùi trên. Gã là người duy nhất sống sót sau một trận phục kích ở Afghanistan. Trong lượt về Mỹ nghỉ dưỡng sức, Sigma đã tuyển mộ gã với chỉ số IQ trên tuyệt vời và đào tạo gã trong một chương trình rất bài bản về y học tội phạm.
“Anh đã điều trị xong các vết thương chưa?” Monk hỏi.
“Vẫn còn những vết bầm dập và vài cái xương sườn ê ẩm.” Cùng với sự thương tổn, Gray khẽ bổ sung thêm, tay nhè nhẹ xoa chỗ xương sườn thứ bảy bị đau.
Gray đã qua phiên giải trình được thu video. Anh đã cứu được quả bom nhưng không bắt được người đàn bà có biệt hiệu Lady Dragon. Dấu vết duy nhất dẫn đến chỗ rò rỉ lớn về buôn bán vũ khí sinh học đã tẩu thoát. Anh đã gửi cái dây chuyền có mặt gắn hình con rồng đến chỗ lấy vân tay xem có thể lấy được chút dấu vết gì không. Tuy nhiên, cũng chả hy vọng có thể lấy được gì.
Anh giật lấy chiếc balô trên ghế: “Mình sẽ cầm theo máy nhắn tin. Chắc là chỉ đi khoảng 15 phút bằng xe điện ngầm thôi”.
“Thế anh để cho giám đốc phải đợi à?”
Gray nhún vai. Anh cảm thấy đã quá đủ: phiên giải trình sau phi vụ, kiểm tra toàn diện y tế, và bây giờ là bị giám đốc Crowe triệu tập một cách bí hiểm. Anh chắc là sẽ phải đối mặt với một trận khiển trách. Lẽ ra anh không nên đi một mình vào Fort Derick. Thật là một việc tồi tệ. Anh biết điều đó.
Nhưng dư âm của việc suýt gặp tai họa buổi sớm nay vẫn còn đang âm ỉ trong người anh, anh không thể chỉ thụ động ngồi chờ. Giám đốc Crowe đã đi họp ở trụ sở DARPA tại Arlington. Gray thấy mình cần phải vận động để xả hơi.
Anh cầm lấy chiếc balô nhỏ.
“Anh có biết có người nào nữa được giám đốc triệu tập tới họp không?” Monk hỏi.
“Ai cơ?”
“Kat Bryant”
“Thật à?”
Một cái gật đầu.
Đại úy Kathryn Bryant chỉ mới gia nhập Sigma mười tháng trước đây, nhưng cô đã hoàn thành một chương trình cấp tốc về địa chất học. Có tin đồn rằng cô cũng đang hoàn thành một khóa về cơ khí. Cô sẽ trở thành nhân viên thứ hai có hai bằng cùng một lúc. Grayson là người đầu tiên.
“Chắc đó không phải là chuyện giao nhiệm vụ” Gray nói. “Họ không cử những người mới tinh ra địa bàn”.
“Không ai trong số chúng ta là mới toanh cả” Monk vớ lấy cái khăn tắm đi về phía vòi sen. “Cô ấy đã từng hoạt động trong tình báo Hải quân. Những cuộc hành quân đen, họ nói vậy”.
“Họ nói nhiều thứ” Gray làu bàu đi ra cửa.
Mặc dù yêu cầu chỉ số thông minh IQ rất cao, nhưng Sigma vẫn nổi tiếng là một cỗ máy buôn chuyện hơn là một công ty. Ngay buổi giao ban sáng nay đã chứng kiến một loạt các văn bản và những lời nhắc nhở các điệp viên. Tất nhiên, vài trong số đó là kết quả trực tiếp từ phi vụ của Gray. Hiệp hội đã tấn công một trong số các thành viên của họ. Lại rộ lên tin đồn đoán. Liệu có sự rò rỉ hoặc là vụ phục kích đã được lên kế hoạch căn cứ vào tin tức tình báo cũ, trước khi Sigma rời từ trụ sở của DARPA ở Arlington đến Washington cùng với việc ngưng các hoạt động ở đó.
Mặt khác, lại có tin đồn nữa dai dẳng trong các phòng của Sigma: một phi vụ mới đang được hoạch định, vụ này được chỉ đạo từ tận cấp cao có tầm quan trọng quốc gia. Nhưng chả có gì được biết thêm cả.
Gray từ chối không tham gia trò chơi đồn đoán. Anh chỉ nghe từ chính miệng chỉ huy. Hơn nữa, nếu như anh không phải ra ngoài một lúc chắc anh sẽ ngồi thêm một lát nữa.
Vậy anh cũng có thể hoàn thành nghĩa vụ khác của mình.
Bước ra khỏi phòng tập, Gray sải dài ngang qua ma trận của các phòng tới chỗ cầu thang. Nơi này sặc sụa mùi sơn mới và ximăng cũ. Căn cứ dưới mặt đất, đại bản doanh của Sigma, đã từng là một cứ điểm ngầm và một nơi trú ẩn. Đây đã là nơi để các chiến lược gia quan trọng trú ẩn trong Thế chiến thứ hai. Nó đã bị bỏ hoang và đóng cửa khá lâu. Ít ai biết được sự tồn tại của nó, bị chôn vùi dưới thánh địa của cộng đồng khoa học ở Washington: nơi tập trung các viện bảo tàng và phòng thí nghiệm, tạp thành viên Smithsonian.
Giờ thì cái hầm ngầm này đã có người ở mới. Đối với bên ngoài, đó chỉ là một bộ phận nghiên cứu chiến lược nữa. Nhiều thành viên của nó làm việc ở các phòng thí nghiệm trong khắp viện Smithsonian (SI), tiến hành các nghiên cứu và sử dụng các tài nguyên sẵn có. Địa điểm mới của Sigma được chọn vì sự gần gũi của nó với các phòng thí nghiệm nghiên cứu, bao gồm một dãy rộng lớn về mọi lĩnh vực. Vì vậy sẽ không quá tốn kém phải tăng gấp đôi số thiết bị đa dạng. Chính vì vậy nên Sigma được chôn ngay dưới trung tâm của cộng đồng khoa học ở Washington. Viện Smithsonian đã trở thành vừa là nguồn cung cấp vừa là vỏ bọc.
Gray đặt bàn tay vào bảng mã khóa ở cửa cầu thang. Một vệt màu xanh chạy qua bàn tay của anh. Cửa cầu thang mở. Anh bước vào trong rồi ấn nút lên tiền sảnh. Cầu thang im lặng đưa anh lên tầng thứ tư.
Anh vẫn có cảm giác là mình không chỉ bị kiểm tra khắp người mà còn để cho người ta xem có giấu theo các dữ liệu điện tử không. Việc này giúp ngăn không cho các thông tin bị đánh trộm ra khỏi sở chỉ huy, tuy nhiên nó cũng có hạn chế nhất định. Tuần đầu tiên đến đây, Monk đã gây ra báo động toàn bộ khi anh ta đãng trí cầm theo chiếc máy nghe MP3 chưa đăng ký vào cơ quan sau khi chạy bộ giữa trưa.
Cánh cửa mở dẫn đến một tiền sảnh trông rất bình thường, có hai lính vũ trang đứng gác cùng một nữ nhân viên lễ tân. Người ta nghĩ nơi đây giống như tiền sảnh của một ngân hàng. Nhưng số thiết bị trinh sát và chống trinh sát tại đây có thể ngang ngửa với những gì được lắp đặt ở Fort Knox.
Lối thứ hai vào hầm ngầm, một khu dịch vụ rộng cũng được bảo vệ nghiêm ngặt tương tự, nằm kín đáo ở một tổ hợp gara tư nhân cách đây nửa dặm. Anh đang để chiếc mô tô ở đó để sửa chữa. Vì vậy đành phải đi bộ tới ga xe điện ngầm. Tại đây anh dựng một cái xe đạp để sử dụng khi cần thiết.
“Chào buổi sáng, tiến sĩ Pierce” Nhân viên lễ tân chào.
“Chào Melody”.
Người phụ nữ trẻ này cũng không biết khu vực phía dưới kia là cái gì, hoàn toàn tin vào câu chuyện đã được bịa ra về một cơ sở nghiên cứu có tên là Sigma. Chỉ có những người bảo vệ mới biết được sự thật. Họ gật đầu chào Gray.
“Anh đi cả ngày à?” Melody hỏi.
“Chắc là khoảng một giờ”. Anh nhét chiếc thẻ căn cước vào máy đặt trên bàn rồi áp ngón trỏ lên màn hình, báo với trung tâm mình ra ngoài. Anh vẫn luôn nghĩ rằng những biện pháp bảo vệ an ninh ở đây là hơi quá mức cần thiết. Không còn cần nữa.
Cánh cửa ngoài bật chốt.
Một trong những người bảo vệ đẩy cửa, bước ra ngoài giữ cánh cửa cho Gray. “Chúc ngài một ngày tốt lành!” Anh ta chào khi Gray bước đi.
Đối với Gray hôm nay khó có thể coi là một ngày tốt lành.
Một hành lang ốp lát trải dài trước mặt, tiếp đó là cầu thang, một lối dẫn đến khu vực công cộng của tòa nhà. Bước vào một gian sảnh rộng, anh đi ngang qua một nhóm du khách người Nhật được một phiên dịch và người dẫn đường hướng dẫn. Chả ai buồn để mắt đến anh cả.
Khi đi ngang qua, anh nghe hướng dẫn viên đang thuyết trình nội dung chắc cũng phải được phát đến hàng nghìn lượt: “Lâu đài Smithsonian được hoàn thành vào năm 1855, do tổng thống James Polk là người đặt viên đá đầu tiên. Đây là lâu đài rộng nhất và cũng là cổ nhất trong các kiến trúc của viện, đã có thời kỳ sử dụng làm bảo tàng khoa học thời kỳ đầu tiên và các phòng thí nghiệm nghiên cứu, hiện nay được sử dụng như văn phòng hành chính và Trung tâm thông tin của mười lăm bảo tàng của Viện, vườn thú quốc gia và rất nhiều cơ sở nghiên cứu, các gallery. Xin mời các vị theo tôi…”
Gray đã tới cánh cửa bên ngoài, một lối ra ngách của lâu đài Smithsonian. Anh đẩy mạnh cửa bước ra, anh nheo mắt trước ánh sáng mặt trời rồi quay nhìn lại lâu đài. Được biết qua những tay vịn, lối đi và các tòa tháp bằng gạch màu đỏ, đây có thể coi như một trong những kiến trúc tuyệt vời nhất của nền phục hưng Gothich ở nước Mỹ. Là trái tim của viện Smithsonian. Hầm ngầm đã được xây cất phía dưới khi tòa tháp đông nam bị cháy rụi vào năm 1866, buộc người ta phải xây lại từ dưới lòng đất trở lên. Đường địa đạo nhằng nhịt như mạng nhện này đã được cách tân lại rồi dần trở thành một nơi trú ẩn ngầm dưới lòng đất nhằm bảo vệ những bộ óc tinh túy nhất của thế hệ này… hay ít nhất là những người ở Washington DC.
Giờ thì nó là chỉ huy sở của tổ chức Sigma.
Liếc nhìn lần cuối lá cờ Mỹ treo trên cột cờ cao nhất, Gray đi ngang qua một tòa nhà lớn để tới ga xe điện ngầm.
Anh còn trách nhiệm khác bên cạnh việc giữ nước Mỹ an toàn.
Một thứ mà anh đã lãng quên từ lâu rồi.
4 giờ 25 phút (giờ địa phương)
Rome, Italy
Hai chiếc BMW tiếp tục ép chiếc Mini Cooper. Dù cho Rachel cố gắng thế nào đi nữa cô cũng không thể vượt ra được.
Những khẩu súng ở các hàng ghế dưới đã giương nòng lên phía trước.
Trước khi những kẻ tấn công kịp nổ súng, Rachel lao chiếc xe vào công viên rồi phanh gấp. Chiếc xe khựng lại, có tiếng kim loại vỡ, gương chiếu hậu xe cô vỡ nát. Động tác này đã làm chệch hướng những tay súng nhưng không giúp cô thoát khỏi chiếc xe bị ép chặt được.
Hai chiếc BMW vẫn cố thúc chiếc xe của cô lên phía trước.
Giờ thì khi chiếc Mini Cooper đã không di chuyển được nữa. Rachel nằm bẹp dưới sàn xe, tựa bên trái vào cần gạt. Một loạt đạn nã vào cửa sổ trước của xe, đi ngang qua chỗ lúc nãy cô vừa ngồi.
Cô không còn may mắn lần thứ hai!
Chờ cho tốc độ của chúng chậm lại, cô ấn nút điều khiển mui xếp của xe. Cánh cửa vừa hạ xuống, tấm vải che mui cuộn lại, gió rít từ bên trong.
Cô cầu mong chuyện này sẽ cho cô thời gian cần thiết. Cô gập chân lên, cô nhảy vọt rồi bám lấy cửa xe đu người vọt lên qua mui chiếc xe lúc này đã hé ra một nửa. Chiếc xe màu trắng vẫn tiếp tục áp vào bên hông trái xe cô. Rachel vọt lên nóc chiếc xe đó rồi lăn một nửa vòng.
Lúc này tốc độ của hai chiếc xe đã chậm lại, chỉ dưới ba mươi km một giờ.
Đạn nổ ở phía dưới.
Cô tung người ra khỏi chiếc xe rồi lao như bay vào hàng xe đang đỗ ở bên lề đường. Cô chạm vào nóc của một chiếc Jaguar sau xoài bụng xuống, đầu tiên là vượt qua thành xe rồi nhảy một cú rợn người xuống phía xa.
Choáng váng, cô nằm bất động. Những chiếc xe đang đậu đã che chở cô khỏi đoạn đường trống trải. Chỉ cách đó một quãng ngắn, hai chiếc BMW không kịp phanh gấp, đành rồ máy lao đi.
Từ phía xa, Rachel đã nghe tiếng còi rú của xe cảnh sát.
Nằm lật trở lại, cô cố tìm kiếm máy di động cài ở thắt lưng. Vỏ bao rỗng không. Khi những tên lạ mặt tấn công Rachel vẫn đang gọi điện thoại.
Ôi lạy Chúa…
Cô cố đứng dậy. Cô không còn lo sợ bọn chúng quay lại nữa. Nhiều chiếc xe, đủ loại bị chiếc Mini Cooper chắn ngang đã làm tắc nghẽn đoạn đường.
Rachel còn một điều lớn hơn phải quan tâm. Không giống như lúc đầu, cô đã thoáng nhìn được biển số xe của chiếc BMW màu đen.
SCV 03681.
Chả cần phải cất công điều tra để biết xem chiếc xe xuất phát ở đâu, những loại biển số đặc biệt này chỉ do một nơi cung cấp.
SCV có nghĩa là Sato Citia Vaticano.
Thành phố Vatican.
Rachel loạng choạng đứng dậy, đầu đau như búa bổ. Cô thấy có vệt máu trên đôi môi bầm dập. Chả sao cả, nhưng nếu như cô bị kẻ nào đó có liên hệ với Vatican tấn công…
Cô gập chân lại, tim đập thình thịch. Một nỗi sợ hãi bỗng nhiên ùa tới làm cô thêm sức mạnh. Một mục tiêu khác rõ ràng đang bị nguy hiểm.
“Bác Vigor…”
***
11 giờ 3 phút
Công viên Takoma, Maryland.
“Gray, con đấy phải không?”
Grayson Pierce vác chiếc xe lên một vai rồi leo lên bậc dẫn tới lối vào nhà cha mẹ, một biệt thự vườn có cánh cổng gỗ và mái nhọn.
Anh đứng đó gọi mẹ qua chiếc cửa đẩy: “Vâng, con đây thưa mẹ”.
Gray dựa chiếc xe đạp vào lối dẫn lên cửa, xương sườn đau nhói. Anh đã gọi điện cho mẹ từ ga xe điện, báo trước sẽ ghé qua nhà. Anh đã giữ chiếc xe đạp hiệu Trek chuyên dùng leo núi khóa lại ở ga xe điện ngầm để thỉnh thoảng về nhà.
“Mẹ sắp bữa trưa gần xong rồi con ạ”.
“Gì vậy? Mẹ đang nấu nướng à?”. Anh xô chiếc cửa đẩy làm bản lề kêu cọt kẹt. Nó đóng sập lại sau lưng anh: “Liệu những phép màu có bao giờ hết không ạ?”.
“Thôi đừng tán nữa, con trai. Mẹ hoàn toàn có thể làm được món bánh xăng úych, giăm bông và pho mát”.
Gray bước ngang qua phòng sinh hoạt với những thứ đồ đạc làm bằng gỗ sồi, chọn lọc rất tinh tế, kết hợp giữa kiểu cũ và mới. Anh cũng kịp nhìn thấy lớp bụi dày trên mặt. Mẹ anh chưa bao giờ là một người nội trợ đảm đang, luôn dành phần lớn thời gian để giảng dạy. Đầu tiên là một trường trung học Thiên chúa giáo ở Texas, còn bây giờ là trợ lý trưởng khoa bộ môn sinh vật ở trường Đại học George Washington. Từ ba năm trước, bố mẹ anh đã chuyển tới khu phố cổ xưa và cũng rất yên tĩnh này của công viên Takoma với những ngôi nhà kiểu Victoria cổ lỗ và những căn nhà tranh già cỗi. Gray có một căn hộ cách đây vài dặm trên đường Piney Branch Road. Anh luôn muốn ở gần bố mẹ để xem có thể giúp đỡ được gì chăng.
Đặc biệt bây giờ.
“Bố đâu hả mẹ?” Anh hỏi khi bước vào bếp, tay cầm hộp sữa.
“Đang ở ngoài gara, đang làm một cái nhà cho chim nữa”.
“Thế không phải là một cái khác nữa à?”
Mẹ anh chau mày: “Bố thích thế. Công việc làm cho ông bớt buồn phiền. Bác sĩ chữa bệnh cho bố nói nếu như ông có được một thú chơi gì đó thì rất tốt”. Mẹ anh quay lại cầm hai đĩa xăng uých trên tay.
Mẹ anh đi thẳng từ văn phòng trường về nhà. Bà vẫn mặc chiếc áo khoác màu xanh bên ngoài bộ váy trắng, mái tóc vàng đốm bạc buộc gọn gàng ở phía sau. Ngăn nắp, chuyên nghiệp. Nhưng Gray để ý cặp mắt quầng thâm của mẹ. Bà trông ngày càng gầy, hốc hác.
Gray đỡ những chiếc đĩa: “Làm nghề mộc có thể tốt cho bố nhưng không biết cứ nhất thiết phải làm ra những tổ chim không ạ? Ở Maryland này đã có biết bao nhiêu chim rồi”.
Bà mỉm cười: “Ăn bánh đi con. Con có muốn ăn món dưa góp không?”
“Không ạ”.
Vẫn là cách như vậy. Nói chuyện lặt vặt để tránh những vấn đề lớn hơn. Nhưng có những chuyện không thể né tránh mãi được: “Thế họ tìm thấy bố con ở đâu ạ?”
“Ở một tiệm 7/11 giờ trên phố Cedar. Ông ấy bị lẫn, đi lạc đường. Bố chả còn đủ minh mẫn để phân biệt giữa John và Suz nữa”.
Chắc là hàng xóm đã gọi điện cho bà, rồi bà lại điện cho Gray, lo lắng và hoảng sợ. Năm phút sau bà gọi lại. Bố anh đã trở về nhà và khỏe. Tuy nhiên Gray biết rằng tốt nhất anh vẫn phải ghé qua nhà một chút.
“Thế bố vẫn uống thuốc Aricept chứ ạ?” Anh hỏi
“Tất nhiên, mẹ vẫn bắt bố uống thuốc vào mỗi buổi sáng”.
Bố anh được chuẩn đoán mắc bệnh suy giảm trí nhớ ở giai đoạn đầu, ngay sau khi gia đình anh chuyển đến đây. Căn bệnh bắt đầu với những lãng quên nho nhỏ: cất chìa khóa ở đâu, số điện thoại, tên của những người hàng xóm. Bác sĩ nói việc di chuyển từ Texas tới đây có thể thúc đẩy các triệu chứng vốn đã có từ lâu. Đầu óc của bố anh thật khó có thể tiêu hóa được những thông tin mới sau khi chuyển nhà qua suốt nước Mỹ. Nhưng với tính ương bướng và lòng quyết tâm, ông quyết không quay trở lại. Đối với bố anh, không có ranh giới gì mà ông không vượt qua được.
“Thế sao con không mang đĩa bánh này cho bố?” Mẹ anh nói “Mẹ phải đi gọi điện cho cơ quan”.
Gray cầm lấy đĩa bánh, đặt bàn tay lên tay mẹ: “Mẹ, có khi chúng ta phải nói chuyện về việc thuê người chăm sóc”.
Bà lắc đầu, từ chối “Tốt nhất là không bàn chuyện đó nữa”.
Mẹ rút tay khỏi tay anh. Gray đã chạm phải bức tường như vậy lần trước. Bố anh không đồng ý chuyện đó và mẹ anh thấy mình có trách nhiệm phải lo cho ông. Nhưng như vậy là tất cả công việc nội trợ của cả nhà dồn lên vai mẹ.
“Lần cuối cùng Kenny đến là khi nào?” Anh hỏi.
Cậu em trai anh mở một cửa hàng máy tính tận phía biên giới bang Virginia, nối gót theo bố anh là một kỹ sư điện, mặc dù không phải ngành dầu mỏ.
“Con biết Kenny rồi đấy…” Mẹ anh nói “Để mẹ lấy cho bố con một ít dưa góp”.
Gray lắc đầu. Gần đây Kenny đã nói đến chuyện di chuyển đến Cupertino, California. Cậu ta biện minh chuyện đó là cần thiết, nhưng đằng sau tất cả, Gray hiểu hết sự thật. Em trai anh chỉ muốn bỏ đi, lẩn tránh. Cuối cùng thì Gray cũng hiểu được suy nghĩ đó. Chính anh cũng đã làm như vậy với việc gia nhập quân đội. Có lẽ đây cũng là truyền thống của gia đình Pierece.
Mẹ anh đưa cho anh lọ dưa góp để mở: “Thế công việc ở phòng thí nghiệm ra sao?”
“Tốt đẹp ạ” Gray nói. Anh bật nắp hộp, lấy ra một ít rồi cho vào cái đĩa.
“Mẹ đã đọc báo nói về việc cắt giảm ngân sách ở DARPA”.
“Công việc của con không sao đâu ạ” Anh trấn an mẹ.
Chả ai trong nhà biết vai trò của anh trong Sigma. Họ nghĩ anh tiến hành một nghiên cứu nào đó cho quân đội. Họ không được phép biết sự thật.
Cầm chiếc đĩa trong tay, anh đi về phía cửa sau.
Mẹ anh nhìn anh “Chắc là ông ấy phải mừng lắm khi thấy con”.
Nếu như con cũng có thể nói được điều đó….
Gray đi đến gara ở vườn sau. Anh nghe vẳng tiếng nhạc đồng quê vọng ra từ cánh cửa mở. Nó gợi nhớ lại những kỷ niệm của các điệu vũ xếp hàng ở Mulleshoes, và những kỷ niệm ít vui hơn.
Anh đứng trước lối vào của gara. Bố anh ngồi xổm trên một mảnh gỗ, tay đang vạch vạch một đường kẻ.
“Bố” Anh nói.
Bố anh quay lại. Cao lớn như Grayson nhưng người ông đậm hơn, vai và lưng cũng to hơn. Ông đã từng làm việc trên các giếng dầu rồi tự học qua đại học, đạt được tấm bằng loại ưu kỹ sư thực hành về cơ khí dầu.
Vì di chuyển nơi ở và không phù hợp nên ông phải về hưu ở độ tuổi bốn mươi bảy.
Chuyện đó xảy ra cách đây mười lăm năm rồi.
Bố anh quay lại “Gray đấy à?”. Ông lấy tay gạt mồ hôi trên đôi lông mày làm dính bẩn mùn cưa. Một cái chau mày “Không cần thiết phải mang đến tận đây đâu”.
“Thế làm sao những cái bánh xăng uých này đến chỗ bố được?” Anh giơ chiếc đĩa lên.
“Anh biết mẹ anh đấy. Mẹ luôn cố hết sức mình”.
“Thế thì tốt nhất bố nên ăn chúng đi. Không nên làm mất đi thói quen đó”.
Ông gạt đống đồ mộc sang một bên rồi khom khom người quay ra chiếc tủ lạnh nhỏ ở phía sau “Uống bia không?”
“Chút nữa con phải trở về làm việc rồi”.
“Một chai bia chẳng chết gì đâu. Bố có loại bia Sam Adam mà anh vẫn thích”.
Bố anh lại thích loại bia Budweiser. Nhưng một sự thật, bố anh đã nhét trong tủ lạnh loại bia anh vẫn thích giống như cái vỗ tay vào lưng. Thậm chí còn giống như một cái ôm hôn nữa.
Anh không thể từ chối được.
Gray cầm lấy chai bia rồi với tay lấy cái mở bia. Bố anh bước đến gần, tựa một bên hông vào chiếc ghế. Ông giơ chai bia Budweiser như thể chào.
“Thật chán khi về già… may mà vẫn còn bia”.
“Vâng, đúng như vậy ạ” Gray uống một hơi. Anh không biết chắc có cần trộn Codein với cồn không, nhưng anh nhận ra rằng buổi sáng nay đã dài quá rồi.
Bố anh vẫn nhìn vào anh. Im lặng rất dễ trở thành thô thiển.
“Vậy mà bố lại không tìm được đường về nhà” Gray nói.
“Bố anh chứ” Ông vờ cáu, cười toác miệng và lắc lắc đầu.
Bố anh luôn thích nói chuyện thẳng thắn. “Bắn thẳng” như cách ông vẫn nói. “Ít nhất thì ta cũng không phải là một thằng tồi”.
“Bố nhớ đừng quên dạo con ở Leavenworth nhé. Chuyện đó sẽ làm bố nhớ đấy”.
Bố anh cụng chai bia vào người Gray: “Bố sẽ nhớ đến chừng nào còn có thể”.
Đôi mắt của họ gặp nhau. Anh thấy có gì ánh lên phía sau vẻ giễu cợt của ông, một điều anh rất hiếm khi nhìn thấy ở ông trước đây: Sự sợ hãi.
Hai bố con chưa bao giờ có được mối quan hệ tốt đẹp. Bố anh đã nghiện rượu sau vụ tai nạn kèm với một loạt chuyện tồi tệ. Thật khó khăn cho một người làm nghề dầu mỏ Texas như ông lại trở thành người nội trợ trông nom hai đứa con trai khi vợ đi làm. Đổi lại, ông đã điều hành nhà mình như một trại tân binh. Và Gray luôn phản ứng, một kẻ nổi loạn từ trong trứng.
Chờ cho đến mười tám tuổi, Gray thu xếp hành lý vào quân đội, bỏ nhà ra đi vào lúc nửa đêm.
Sau đó hai năm liền, hai bố con không bao giờ nói chuyện với nhau.
Rồi mẹ anh tìm cách hàn gắn hai người lại với nhau. Tuy vậy đó vẫn là một sự hoà hoãn chẳng thoải mái gì. Có lần mẹ nói. “Hai bố con ông giống nhau hơn là hai người tưởng”. Grayson chưa bao giờ nghe thấy lời nào đáng nể sợ hơn.
“Thằng chết tiệt đó bú …” Bố anh nói khẽ khàng, phá vỡ sự im lặng.
“Budweiser chắc chắn làm điều đó.” Gray nâng chai bia lên. “Vì vậy con chỉ uống loại bia Sam Adams”.
Bố anh toét miệng cười. “Anh đúng là thằng chết tiệt.”
“Thì bố đã nuôi con mà lại.”
“Vậy thì bố cũng thích một thứ để hiểu một thứ.”
“Con có bao giờ nói điều đó đâu.”
Bố anh chớp chớp mắt. “Tại sao anh lại mất công về đây?’”
Vì con không biết khi nào bố còn nhớ đến con, anh nghĩ nhưng không dám nói ra điều đó. Vẫn còn điều gì đấy giấu kỹ trong lòng, nỗi ấm ức cũ trước đây chưa giải toả được. Có những lần ông đã rất muốn nói, muốn nghe… và một phần trong ông hiểu rằng mình đang mất dần thời gian.
“Anh kiếm chỗ bánh xăng- uých này ở đâu ra vậy?” Bố anh miệng nhồm nhoàm vì đã ăn một miếng bánh lớn. “Bánh ngon đấy”.
Gray nói cố giữ vẻ mặt vô cảm. “Mẹ làm đấy”.
Một thoáng bối rối rồi tiếp đó. “Ồ thế à…”
Cặp mắt họ lại nhìn nhau, Sự sợ hãi bùng lên trong cái nhìn của bố anh kèm theo nỗi xót xa. Ông đã mất đi một phần cuộc sống của người đàn ông mười lăm năm trước đây, giờ ông đối mặt với chuyện mất đi trí nhớ của mình.
“Pop…tao…”
“Bố hãy uống bia đi đã.” Anh thấy mình như đang đến bờ của sự tức giận như mọi khi nên tìm cách đánh trống lảng.
Anh uống nốt chỗ bia, ngồi im lặng, hai bố con chẳng nói gì. Có thể mẹ nói đúng. Họ quá giống nhau.
Máy nhắn tin của anh phát tín hiệu. Gray vội nhìn vào thấy tín hiệu từ Sigma.
“Văn phòng gọi.” Anh càu nhàu. “Chiều nay con có cuộc họp…”
Bố anh gật đầu. “Bố cũng phải quay trở lại với cái nhà chim chết tiệt này.”
Họ bắt tay nhau, hai đối thủ đều mệt mỏi nhưng đều cố không để xảy ra tranh chấp.
Gray quay vào nhà, tạm biệt mẹ rồi dắt xe đạp đi. Anh leo lên xe, nhanh chóng đạp về phía ga xe điện ngầm. Số phôn trên máy nghe của anh hiện lên tiếp sau một ký tự: Sigma911.
Khẩn cấp
Lạy Chúa.
5 giờ 3 phút (giờ địa phương)
Thành phố Vatican
Công cuộc tìm kiếm sự thật chung quanh Ba nhà Thông thái đã trở thành một cuộc đào bới khảo cổ mệt mỏi nhưng thay vì chân tay lấm lem bùn đất, ngài Vigor Verona và nhóm của mình gồm toàn những tay thủ thư lục lọi trong hàng đống sách và tài liệu. Nhóm thủ thư đã tiến hành công việc đào bới cơ bản ở thư viện Vatican; giờ đây Vigor ngồi phân loại lọc ra xem có vết tích gì liên quan đến Ba nhà Thông thái ở một trong những nơi được canh gác cẩn mật nhất ở địa phận Giáo hoàng: Viện Cơ mật nổi tiếng của Vatican.
Vigor sải những bước dài trong một gian phòng dài nằm ngầm dưới đất. Những ngọn đèn được bật lên khi ông bước tới và tự tắt khi đi qua, tạo ra một khoảng sáng chung quanh ông và cậu sinh viên Jacob. Họ đi ngang qua chiều dài của nơi lưu trữ các văn bản chính được gọi tắt là hầm ngầm. Xây từ năm 1980, gian phòng này có hai tầng, mỗi tầng được phân cách bởi sàn kim loại nối với nhau bằng các bậc thang uốn lượn. Ở mỗi bên biết bao nhiêu là giá thép chứa đựng tài liệu gồm đủ các loại giấy tờ. Ở tường đối diện cũng là những giá đựng bằng thép, có điều là chúng được niêm phong khoá lại cẩn thận sau những cánh cửa lưới, bảo vệ những tài liệu nhạy cảm hơn.
Có câu nói về Vatican. Vatican có rất nhiều bí mật nhưng không bao giờ đủ. Vigor cân nhắc đến vế thứ hai khi ông bước qua gian phòng lưu trữ rộng lớn. Vatican giữ quá nhiều bí mật ngay cả đối với nó.
Jacob cầm theo chiếc laptop trong đó có cơ sở dữ liệu về đề tài của họ. “Vậy là không phải chỉ có ba nhà Tiên tri?” ông nói khi bước ra khỏi hầm ngầm.
Họ ngồi xuống đây để số hoá một tấm ảnh chụp một lọ hoa được giữ ở bảo tàng Kircher. Trên lọ hoa có mô tả không chỉ ba nhà Tiên tri mà là tám. Nhưng ngay cả con số đó cũng khác nhau. Một bức tranh ở nghĩa địa lâu đài Thánh Peter lại chỉ có hai, còn một cái ở Domiotilla lại vẽ những bốn.
“Kinh thánh không nói cụ thể về số nhà thông thái,” Vigor nói, cảm thấy mệt bã người sau một ngày cật lực. Ông cảm thấy nếu nói ra những điều mình suy nghĩ sẽ có lợi hơn vì ông vốn là đệ tử theo đuổi các phương pháp của Socrat. “Chỉ có tập Kinh thánh về Mathew trực tiếp đề cập đến họ mà cũng chỉ nói loáng thoáng. Giả thuyết thông thường về con số ba xuất phát từ chuyện số quà tặng được các nhà Tiên tri cầm đó là vàng, trầm và xạ hương. Thực ra, họ cũng có thể không phải là vua. Từ Magi xuất phát từ tiếng Hy Lạp magoi hay phù thuỷ.”
“Vậy họ là những phù thuỷ.”
“Không phải như chúng ta nghĩ. Từ magoi không ám chỉ phù thuỷ, mà chỉ là những người thực hành các phép mầu bí ẩn. Cũng vì vậy có từ nhà thông thái. Hầu hết các nhà khoa học thuật Kinh thánh bây giờ tin rằng họ là những nhà chiêm tinh học từ Persia hoặc Babylon. Họ diễn đạt về những ngôi nhà và tiên đoán sự ra đời của một ông vua từ phía Tây, được báo hiệu bởi một ngôi sao đơn độc xuất hiện.”
“Ngôi sao Bethlehem”
Ông gật đầu. “Bất chấp tất cả các bức hoạ, ngôi sao không phải là một sự kiện đặc biệt. Theo Kinh thánh, thậm chí ngay cả ở Jerusalem cũng không ai để ý đến điều đó. Mãi cho tới khi các nhà Tiên tri đến với vua Herod và lưu ý Ngài chú ý điều này. Các nhà Tiên tri hình dung một vị vua mới được sinh ra đã được các ngôi sao báo trước và đứa bé phải được sinh trong hoàng tộc. Nhưng vua Herod thấy sốc khi nghe tin đó và hỏi họ khi nào thấy ngôi sao xuất hiện. Rồi họ sử dụng các cuốn sách Tiên tri bằng tiếng Hebrew để xem vị vua mới có thể được sinh ra ở nơi nào. Nhà vua đã chỉ thị cho họ đi Bethlehem.”
“Vậy là Herod bảo họ nơi phải tới.”
“Ông ta làm như vậy, cử họ đi như những gián điệp. Chỉ có điều trên đường tới Bethlehem theo như cuốn Kinh thánh Mathew, ngôi sao lại xuất hiện và hướng dẫn các nhà tiên tri tới chỗ đứa trẻ. Sau đó do được một thiên thần cảnh báo họ đã rời mà không nói cho Herod biết đứa trẻ là ai và ở đâu. Vì vậy đã bắt đầu những vụ tàn sát những người vô tội”.
Jacob bước vội vã theo. “Thực ra Mary, Josep và đứa trẻ mới sinh đã rời đi Ai Cập ngay sau khi được thiên thần cảnh báo. Vậy điều gì đã xảy ra với các nhà thông thái?”.
“Điều gì thực sự…” Vigor đã dành hầu hết thời gian một tiếng để rồi theo đuổi các văn bản về những gì liên quan đến ba nhà thông thái… Nếu di cốt của họ bị ăn trộm vậy thì động cơ của bọn chúng là gì ngoài việc kiếm lợi thông thường. Chỉ có kiến thức mới có thể trở thành vũ khí tốt nhất trong trường hợp này.
Vigor nhìn đồng hồ. Ông không còn thời gian nữa nhưng người đứng đầu Viện Cơ mật sẽ tiếp tục tìm kiếm, xây dựng cơ sở dữ liệu cùng với Jacob rồi gửi email cho ông những phát hiện của họ.
“Thế còn những cái tên lịch sử của ba vị Tiên tri?” Jacob hỏi “Gaspa, Melchior và Balthazar”.
“Đó chỉ là giả thuyết. Những cái tên đó đầu tiên xuất hiện trong thế kỷ thứ VI. Sau đó các sách tham khảo đều đi theo hướng đó, nhưng tôi nghĩ điều này giống như những câu chuyện cổ tích nhiều hơn là những tường trình thực sự, tất nhiên nó cũng đang được quan tâm. Tôi để lại cái đó cho cậu và ngài đứng đầu Viện Cơ mật nghiên cứu.”
“Cháu sẽ làm hết sức mình.”
Vigor khẽ nhíu mày. Đây là một công việc nặng nhọc. Rồi nữa, những chuyện này có ý nghĩa gì đây? Tại sao chúng lại lấy cắp di cốt của các nhà Tiên tri?
Vẫn chưa có câu trả lời đối với ông. Và Vigor cũng không hiểu liệu sự thật có được tìm thấy trong ba mươi dặm chiều dài giá sách trong Viện Cơ mật. Nhưng đã có sự thoả thuận là bắt đầu truy từ các dấu vết. Thật hay không thật, những câu chuyện về các nhà Tiên tri đã gợi ý một kho tàng rộng lớn kiến thức cất giấu mà có lẽ chỉ có một bộ phận nào đó của magi biết được.
Nhưng vậy họ là ai?
Các vị phù thuỷ, nhà chiêm tinh hay linh mục?
Vigor đi qua phòng văn thư, bỗng ngửi thấy mùi thuốc trừ sâu và thuốc chống mối mọt. Chắc là nhân viên ở đây mới phun. Ông biết rằng một số tài liệu trong phòng văn thư do bị mối mọt đục khoét, có khả năng bị phá huỷ vĩnh viễn.
Cũng như vậy có biết bao nhiêu cái khác nữa ở đây cũng bị đe doạ…Không chỉ vì lửa, mối mọt hay sự lãng quên mà còn vì chính tầm cỡ lớn lao của nó. Chỉ có một nửa trong số tài liệu ở đây được thống kê. Và mỗi năm lại được bổ sung thêm, ngập tràn từ các đại sứ Vatican, các giáo xứ và xứ đạo đơn lẻ.
Không thể theo kịp.
Chính bản thân Viện Cơ mật cũng phát triển phình ra như một khối u ác tính. Từ những căn phòng lúc ban đầu đến những phòng trên gác, hầm ngầm rồi những toà tháp rỗng. Vigor đã dành hơn nửa năm để tìm kiếm hồ sơ của những gián điệp của Vatican trong quá khứ, những người đi trước ông, những nhân viên được đưa vào các vị trí chính phủ trên khắp thế giới, nhiều tên được viết theo lối mật mã nói lên sự tranh chấp về chính trị đã kéo dài hàng nghìn năm nay.
Vigor biết rằng Vatican là một thức thể chính trị cũng như tinh thần. Và những kẻ thù của cả hai loại đó đều tìm cách phá hoại giáo hội. Ngay cả hôm nay, những linh mục như Vigor. Những chiến binh thầm lặng giữ phòng tuyến. Và trong khi Vigor có thể không đồng ý với tất cả những gì đã làm trong quá khứ hoặc thậm chí cả hiện nay, niềm tin của ông vẫn chắc chắn…giống như chính Vatican.
Ông tự hào về sự tận tuỵ của ông với Giáo hoàng.
Các đế chế có thể xuất hiện và lụi tàn. Các triết lý có thể đến rồi đi. Nhưng cuối cùng, Vatican vẫn tồn tại, vững vàng và kiên định. Đó là lịch sử, thời gian và đức tin - tất cả đuợc giữ gìn trong đá.
Ngay cả ở đây, nhiều trong số những báu vật lớn nhất của nhân loại được lưu trữ trong những chiếc tủ, két, hòm và ngăn kéo có lá thư của Mary Tudor một ngày trước khi bị chặt đầu, còn trong một ngăn khác là bức thư tình của vua Henry III gửi Ann Boleyn. Có những tài liệu thuộc về Toà án dị giáo, các vụ xét xử, Thập tự chinh, những lá thư của một vị Khan của Persia đến nữ hoàng thời nhà Minh. Và có lẽ bí hiểm nhất trong số đó được cất giữ trong một chiếc hộp bằng kim loại khoá kín là Điều bí mật thứ ba của Fatima. Chỉ có chính đức Giáo hoàng mới được đọc nội dung lời Tiên tri thứ ba của Lucia dos Santos từ Fantima. Nó đã tiên đoán Đại chiến Thế giới lần thứ 2 và đưa ra ngày tận thế của thế giới này.
Những cái mà Vigor tìm kiếm giờ đây lại không được canh gác như vậy.
Nó chỉ đòi hỏi việc phải trèo lên cao.
Ông đã có thêm một bằng chứng nữa mà ông muốn điều tra trước khi đi Đức cùng Rachel.
Vigor tiến đến cầu thang nhỏ dẫn lên những căn phòng phía trên của Viện Cơ mật gọi là sàn quý tộc. Ông mở cánh cửa cho Jacob, khép lại rồi ấn chốt. Khẽ rung một chút, cái lồng nhỏ vụt lên cao.
“Chúng ta đi đâu thế này?” Jacob hỏi.
“Đến Torri dei Venti.”
“Đến tháp Gió ngàn? Tại sao vậy?”
“Có một tài liệu cổ được giữ tít ở trên đó. Một bản copy của cuốn Mô tả thế giới từ thế kỷ thứ 18.”
“Cuốn sách của Marco Polo?”
Ông gật đầu khi thang máy dừng lại. Họ đi ra một hành lang dài.
Jacob bước vội theo kịp ông. “Thế chuyến mạo hiểm của Marco Polo có liên quan gì đến ba nhà Tiên tri?”
“Trong cuốn sách này, ông ta đã liên hệ những chuyện thần thoại liên quan đến các vị Tiên tri và điều gì xảy ra với họ. Tất cả chung quanh một món quà được đức chúa Jesu hài đồng ban cho họ. Một hòn đá có phép mầu. Trên hòn đá đó, các nhà Tiên tri đã tìm thấy một loạt những trí tuệ bí ẩn. Ta thích theo đuổi huyền thoại đó.”
Hành lang dẫn đến Tháp Gió ngàn. Những căn buồng rỗng của cái tháp này được nối với Viện Cơ mật. Thật không may, căn phòng Vigor muốn tìm lại ở trên đỉnh cao nhất. Ông chửi bới chuyện không có thang máy rồi đi vào chiếc cầu thang tối om.
Ông thôi không giảng giải thêm nữa để lấy sức trèo lên bậc thang dài. Chiếc thang xoáy cứ lượn tròn lượn tròn mãi. Họ tiếp tục trèo trong im lặng cho đến khi cầu thang dẫn tới một trong những căn phòng độc đáo và lâu đời nhất của Vatican.
Phòng Kinh tuyến.
Jacob ngó nghiêng nhìn những bức hoạ trên tường vẽ trên mái và trần, mô tả các cảnh trong cuốn Kinh thánh với các đám mây bay lượn phía trên. Một chiếc giáo đơn độc xuyên qua một lỗ nhỏ, đâm qua nền đá cẩm thạch khắc với những dấu của mười hai ngôi sao. Một đường đánh dấu kinh tuyến cắt ngang qua đó. Đó là đài quan sát mặt trời từ thế kỷ thứ XVI được sử dụng để định ra Dương lịch và là nơi Galileo đã sử dụng để chứng minh nhận định của ông rằng trái đất quay chung quanh mặt trời.
Thật không may ông đã thất bại - chắn chắn đó là điểm thua giữa Nhà thờ Thiên chúa giáo và cộng đồng khoa học. Kể từ đó, Nhà thờ đã cố gắng để bù đắp cho sự thiển cận của mình.
Vigor dừng lại lấy hơi sau một chuyến leo dài. Ông lấy tay lau mồ hôi rồi chỉ cho Jacob gian phòng bên của Phòng Kinh tuyến. Một cái giá sách khổng lồ phủ kín phía tường sau của căn phòng chật cứng những sách và tài liệu.
“Theo tổng danh mục, cuốn sách chúng ta tìm phải ở trên ngăn thứ ba.”
Jacob bước qua, giật mạnh sợi dây cuốn quanh cửa. Vigor nghe thấy một tiếng bục, không còn thời gian để cảnh báo nữa,
Một thiết bị gây cháy nổ, hất mạnh Jacob ra phía ngoài cửa xô vào Vigor.
Họ ngã rụi ra sau khi một tường lửa bùng lên qua người họ giống như một con rồng lửa đang hà hơi.
Washington, D.C.
Mình phải ra khỏi chỗ này thôi.
Trong phòng đựng tủ quần áo ở chỗ tập thể dục, Grayson Pierce lôi ra một quần sóc đi xe đạp màu đen, rồi mặc vào cùng với một cái áo thu chẽn. Anh ngồi xuống ghế đi đôi giày thể thao.
Phía sau,cánh cửa phòng bật mở. Ngoái lại, Gray nhìn thấy Monk Kokkalis bước vào tay cầm một quả bóng rổ, tay kia cầm chiếc mũ. Chỉ cao hơn năm feet đôi chút, Monk trông giống như một con bò mộng mặc áo chẽn. Dù sao gã cũng là một đấu thủ cừ khôi. Nhiều người đánh giá thấp gã, nhưng gã có biệt tài đoán được ý đồ của đối thủ khiến kẻ đó bị bất ngờ, chính vì vậy ít khi các thủ thuật của gã không đem lại hiệu quả.
Monk ném quả bóng rổ vào thùng đựng đồ, lại là một cú ném tuyệt vời rồi tiến đến ngăn tủ của mình. Gã lột chiếc áo thun cuộn tròn lại rồi nhét vào bên trong.
Gã nhìn Gray. “Này anh ăn mặc như thế để đến gặp ngài chỉ huy Crowe à?”
Gray đứng dậy. “Tôi đến chỗ mấy người nhà.”
“Tôi nghĩ rằng chỉ huy hành quân yêu cầu chúng ta phải ở trong doanh trại?”
“Kệ mẹ chuyện đó.”
Monk tròn mắt nhìn. Đôi lông mày rậm là thứ duy nhất còn lại không được cạo trên chiếc sọ cạo nhẵn thín của gã. Gã rất mê hình ảnh đã được nhồi nhét vào đầu hắn bởi những lính mũ nồi xanh. Gã phải hứng chịu khá nhiều những vết tích sót lại từ cuộc đời binh nghiệp trước đây: những vết sẹo do đạn bắn, ba vết thương ở vai, ngực và đùi trên. Gã là người duy nhất sống sót sau một trận phục kích ở Afghanistan. Trong lượt về Mỹ nghỉ dưỡng sức, Sigma đã tuyển mộ gã với chỉ số IQ trên tuyệt vời và đào tạo gã trong một chương trình rất bài bản về y học tội phạm.
“Anh đã điều trị xong các vết thương chưa?” Monk hỏi.
“Vẫn còn những vết bầm dập và vài cái xương sườn ê ẩm.” Cùng với sự thương tổn, Gray khẽ bổ sung thêm, tay nhè nhẹ xoa chỗ xương sườn thứ bảy bị đau.
Gray đã qua phiên giải trình được thu video. Anh đã cứu được quả bom nhưng không bắt được người đàn bà có biệt hiệu Lady Dragon. Dấu vết duy nhất dẫn đến chỗ rò rỉ lớn về buôn bán vũ khí sinh học đã tẩu thoát. Anh đã gửi cái dây chuyền có mặt gắn hình con rồng đến chỗ lấy vân tay xem có thể lấy được chút dấu vết gì không. Tuy nhiên, cũng chả hy vọng có thể lấy được gì.
Anh giật lấy chiếc balô trên ghế: “Mình sẽ cầm theo máy nhắn tin. Chắc là chỉ đi khoảng 15 phút bằng xe điện ngầm thôi”.
“Thế anh để cho giám đốc phải đợi à?”
Gray nhún vai. Anh cảm thấy đã quá đủ: phiên giải trình sau phi vụ, kiểm tra toàn diện y tế, và bây giờ là bị giám đốc Crowe triệu tập một cách bí hiểm. Anh chắc là sẽ phải đối mặt với một trận khiển trách. Lẽ ra anh không nên đi một mình vào Fort Derick. Thật là một việc tồi tệ. Anh biết điều đó.
Nhưng dư âm của việc suýt gặp tai họa buổi sớm nay vẫn còn đang âm ỉ trong người anh, anh không thể chỉ thụ động ngồi chờ. Giám đốc Crowe đã đi họp ở trụ sở DARPA tại Arlington. Gray thấy mình cần phải vận động để xả hơi.
Anh cầm lấy chiếc balô nhỏ.
“Anh có biết có người nào nữa được giám đốc triệu tập tới họp không?” Monk hỏi.
“Ai cơ?”
“Kat Bryant”
“Thật à?”
Một cái gật đầu.
Đại úy Kathryn Bryant chỉ mới gia nhập Sigma mười tháng trước đây, nhưng cô đã hoàn thành một chương trình cấp tốc về địa chất học. Có tin đồn rằng cô cũng đang hoàn thành một khóa về cơ khí. Cô sẽ trở thành nhân viên thứ hai có hai bằng cùng một lúc. Grayson là người đầu tiên.
“Chắc đó không phải là chuyện giao nhiệm vụ” Gray nói. “Họ không cử những người mới tinh ra địa bàn”.
“Không ai trong số chúng ta là mới toanh cả” Monk vớ lấy cái khăn tắm đi về phía vòi sen. “Cô ấy đã từng hoạt động trong tình báo Hải quân. Những cuộc hành quân đen, họ nói vậy”.
“Họ nói nhiều thứ” Gray làu bàu đi ra cửa.
Mặc dù yêu cầu chỉ số thông minh IQ rất cao, nhưng Sigma vẫn nổi tiếng là một cỗ máy buôn chuyện hơn là một công ty. Ngay buổi giao ban sáng nay đã chứng kiến một loạt các văn bản và những lời nhắc nhở các điệp viên. Tất nhiên, vài trong số đó là kết quả trực tiếp từ phi vụ của Gray. Hiệp hội đã tấn công một trong số các thành viên của họ. Lại rộ lên tin đồn đoán. Liệu có sự rò rỉ hoặc là vụ phục kích đã được lên kế hoạch căn cứ vào tin tức tình báo cũ, trước khi Sigma rời từ trụ sở của DARPA ở Arlington đến Washington cùng với việc ngưng các hoạt động ở đó.
Mặt khác, lại có tin đồn nữa dai dẳng trong các phòng của Sigma: một phi vụ mới đang được hoạch định, vụ này được chỉ đạo từ tận cấp cao có tầm quan trọng quốc gia. Nhưng chả có gì được biết thêm cả.
Gray từ chối không tham gia trò chơi đồn đoán. Anh chỉ nghe từ chính miệng chỉ huy. Hơn nữa, nếu như anh không phải ra ngoài một lúc chắc anh sẽ ngồi thêm một lát nữa.
Vậy anh cũng có thể hoàn thành nghĩa vụ khác của mình.
Bước ra khỏi phòng tập, Gray sải dài ngang qua ma trận của các phòng tới chỗ cầu thang. Nơi này sặc sụa mùi sơn mới và ximăng cũ. Căn cứ dưới mặt đất, đại bản doanh của Sigma, đã từng là một cứ điểm ngầm và một nơi trú ẩn. Đây đã là nơi để các chiến lược gia quan trọng trú ẩn trong Thế chiến thứ hai. Nó đã bị bỏ hoang và đóng cửa khá lâu. Ít ai biết được sự tồn tại của nó, bị chôn vùi dưới thánh địa của cộng đồng khoa học ở Washington: nơi tập trung các viện bảo tàng và phòng thí nghiệm, tạp thành viên Smithsonian.
Giờ thì cái hầm ngầm này đã có người ở mới. Đối với bên ngoài, đó chỉ là một bộ phận nghiên cứu chiến lược nữa. Nhiều thành viên của nó làm việc ở các phòng thí nghiệm trong khắp viện Smithsonian (SI), tiến hành các nghiên cứu và sử dụng các tài nguyên sẵn có. Địa điểm mới của Sigma được chọn vì sự gần gũi của nó với các phòng thí nghiệm nghiên cứu, bao gồm một dãy rộng lớn về mọi lĩnh vực. Vì vậy sẽ không quá tốn kém phải tăng gấp đôi số thiết bị đa dạng. Chính vì vậy nên Sigma được chôn ngay dưới trung tâm của cộng đồng khoa học ở Washington. Viện Smithsonian đã trở thành vừa là nguồn cung cấp vừa là vỏ bọc.
Gray đặt bàn tay vào bảng mã khóa ở cửa cầu thang. Một vệt màu xanh chạy qua bàn tay của anh. Cửa cầu thang mở. Anh bước vào trong rồi ấn nút lên tiền sảnh. Cầu thang im lặng đưa anh lên tầng thứ tư.
Anh vẫn có cảm giác là mình không chỉ bị kiểm tra khắp người mà còn để cho người ta xem có giấu theo các dữ liệu điện tử không. Việc này giúp ngăn không cho các thông tin bị đánh trộm ra khỏi sở chỉ huy, tuy nhiên nó cũng có hạn chế nhất định. Tuần đầu tiên đến đây, Monk đã gây ra báo động toàn bộ khi anh ta đãng trí cầm theo chiếc máy nghe MP3 chưa đăng ký vào cơ quan sau khi chạy bộ giữa trưa.
Cánh cửa mở dẫn đến một tiền sảnh trông rất bình thường, có hai lính vũ trang đứng gác cùng một nữ nhân viên lễ tân. Người ta nghĩ nơi đây giống như tiền sảnh của một ngân hàng. Nhưng số thiết bị trinh sát và chống trinh sát tại đây có thể ngang ngửa với những gì được lắp đặt ở Fort Knox.
Lối thứ hai vào hầm ngầm, một khu dịch vụ rộng cũng được bảo vệ nghiêm ngặt tương tự, nằm kín đáo ở một tổ hợp gara tư nhân cách đây nửa dặm. Anh đang để chiếc mô tô ở đó để sửa chữa. Vì vậy đành phải đi bộ tới ga xe điện ngầm. Tại đây anh dựng một cái xe đạp để sử dụng khi cần thiết.
“Chào buổi sáng, tiến sĩ Pierce” Nhân viên lễ tân chào.
“Chào Melody”.
Người phụ nữ trẻ này cũng không biết khu vực phía dưới kia là cái gì, hoàn toàn tin vào câu chuyện đã được bịa ra về một cơ sở nghiên cứu có tên là Sigma. Chỉ có những người bảo vệ mới biết được sự thật. Họ gật đầu chào Gray.
“Anh đi cả ngày à?” Melody hỏi.
“Chắc là khoảng một giờ”. Anh nhét chiếc thẻ căn cước vào máy đặt trên bàn rồi áp ngón trỏ lên màn hình, báo với trung tâm mình ra ngoài. Anh vẫn luôn nghĩ rằng những biện pháp bảo vệ an ninh ở đây là hơi quá mức cần thiết. Không còn cần nữa.
Cánh cửa ngoài bật chốt.
Một trong những người bảo vệ đẩy cửa, bước ra ngoài giữ cánh cửa cho Gray. “Chúc ngài một ngày tốt lành!” Anh ta chào khi Gray bước đi.
Đối với Gray hôm nay khó có thể coi là một ngày tốt lành.
Một hành lang ốp lát trải dài trước mặt, tiếp đó là cầu thang, một lối dẫn đến khu vực công cộng của tòa nhà. Bước vào một gian sảnh rộng, anh đi ngang qua một nhóm du khách người Nhật được một phiên dịch và người dẫn đường hướng dẫn. Chả ai buồn để mắt đến anh cả.
Khi đi ngang qua, anh nghe hướng dẫn viên đang thuyết trình nội dung chắc cũng phải được phát đến hàng nghìn lượt: “Lâu đài Smithsonian được hoàn thành vào năm 1855, do tổng thống James Polk là người đặt viên đá đầu tiên. Đây là lâu đài rộng nhất và cũng là cổ nhất trong các kiến trúc của viện, đã có thời kỳ sử dụng làm bảo tàng khoa học thời kỳ đầu tiên và các phòng thí nghiệm nghiên cứu, hiện nay được sử dụng như văn phòng hành chính và Trung tâm thông tin của mười lăm bảo tàng của Viện, vườn thú quốc gia và rất nhiều cơ sở nghiên cứu, các gallery. Xin mời các vị theo tôi…”
Gray đã tới cánh cửa bên ngoài, một lối ra ngách của lâu đài Smithsonian. Anh đẩy mạnh cửa bước ra, anh nheo mắt trước ánh sáng mặt trời rồi quay nhìn lại lâu đài. Được biết qua những tay vịn, lối đi và các tòa tháp bằng gạch màu đỏ, đây có thể coi như một trong những kiến trúc tuyệt vời nhất của nền phục hưng Gothich ở nước Mỹ. Là trái tim của viện Smithsonian. Hầm ngầm đã được xây cất phía dưới khi tòa tháp đông nam bị cháy rụi vào năm 1866, buộc người ta phải xây lại từ dưới lòng đất trở lên. Đường địa đạo nhằng nhịt như mạng nhện này đã được cách tân lại rồi dần trở thành một nơi trú ẩn ngầm dưới lòng đất nhằm bảo vệ những bộ óc tinh túy nhất của thế hệ này… hay ít nhất là những người ở Washington DC.
Giờ thì nó là chỉ huy sở của tổ chức Sigma.
Liếc nhìn lần cuối lá cờ Mỹ treo trên cột cờ cao nhất, Gray đi ngang qua một tòa nhà lớn để tới ga xe điện ngầm.
Anh còn trách nhiệm khác bên cạnh việc giữ nước Mỹ an toàn.
Một thứ mà anh đã lãng quên từ lâu rồi.
4 giờ 25 phút (giờ địa phương)
Rome, Italy
Hai chiếc BMW tiếp tục ép chiếc Mini Cooper. Dù cho Rachel cố gắng thế nào đi nữa cô cũng không thể vượt ra được.
Những khẩu súng ở các hàng ghế dưới đã giương nòng lên phía trước.
Trước khi những kẻ tấn công kịp nổ súng, Rachel lao chiếc xe vào công viên rồi phanh gấp. Chiếc xe khựng lại, có tiếng kim loại vỡ, gương chiếu hậu xe cô vỡ nát. Động tác này đã làm chệch hướng những tay súng nhưng không giúp cô thoát khỏi chiếc xe bị ép chặt được.
Hai chiếc BMW vẫn cố thúc chiếc xe của cô lên phía trước.
Giờ thì khi chiếc Mini Cooper đã không di chuyển được nữa. Rachel nằm bẹp dưới sàn xe, tựa bên trái vào cần gạt. Một loạt đạn nã vào cửa sổ trước của xe, đi ngang qua chỗ lúc nãy cô vừa ngồi.
Cô không còn may mắn lần thứ hai!
Chờ cho tốc độ của chúng chậm lại, cô ấn nút điều khiển mui xếp của xe. Cánh cửa vừa hạ xuống, tấm vải che mui cuộn lại, gió rít từ bên trong.
Cô cầu mong chuyện này sẽ cho cô thời gian cần thiết. Cô gập chân lên, cô nhảy vọt rồi bám lấy cửa xe đu người vọt lên qua mui chiếc xe lúc này đã hé ra một nửa. Chiếc xe màu trắng vẫn tiếp tục áp vào bên hông trái xe cô. Rachel vọt lên nóc chiếc xe đó rồi lăn một nửa vòng.
Lúc này tốc độ của hai chiếc xe đã chậm lại, chỉ dưới ba mươi km một giờ.
Đạn nổ ở phía dưới.
Cô tung người ra khỏi chiếc xe rồi lao như bay vào hàng xe đang đỗ ở bên lề đường. Cô chạm vào nóc của một chiếc Jaguar sau xoài bụng xuống, đầu tiên là vượt qua thành xe rồi nhảy một cú rợn người xuống phía xa.
Choáng váng, cô nằm bất động. Những chiếc xe đang đậu đã che chở cô khỏi đoạn đường trống trải. Chỉ cách đó một quãng ngắn, hai chiếc BMW không kịp phanh gấp, đành rồ máy lao đi.
Từ phía xa, Rachel đã nghe tiếng còi rú của xe cảnh sát.
Nằm lật trở lại, cô cố tìm kiếm máy di động cài ở thắt lưng. Vỏ bao rỗng không. Khi những tên lạ mặt tấn công Rachel vẫn đang gọi điện thoại.
Ôi lạy Chúa…
Cô cố đứng dậy. Cô không còn lo sợ bọn chúng quay lại nữa. Nhiều chiếc xe, đủ loại bị chiếc Mini Cooper chắn ngang đã làm tắc nghẽn đoạn đường.
Rachel còn một điều lớn hơn phải quan tâm. Không giống như lúc đầu, cô đã thoáng nhìn được biển số xe của chiếc BMW màu đen.
SCV 03681.
Chả cần phải cất công điều tra để biết xem chiếc xe xuất phát ở đâu, những loại biển số đặc biệt này chỉ do một nơi cung cấp.
SCV có nghĩa là Sato Citia Vaticano.
Thành phố Vatican.
Rachel loạng choạng đứng dậy, đầu đau như búa bổ. Cô thấy có vệt máu trên đôi môi bầm dập. Chả sao cả, nhưng nếu như cô bị kẻ nào đó có liên hệ với Vatican tấn công…
Cô gập chân lại, tim đập thình thịch. Một nỗi sợ hãi bỗng nhiên ùa tới làm cô thêm sức mạnh. Một mục tiêu khác rõ ràng đang bị nguy hiểm.
“Bác Vigor…”
***
11 giờ 3 phút
Công viên Takoma, Maryland.
“Gray, con đấy phải không?”
Grayson Pierce vác chiếc xe lên một vai rồi leo lên bậc dẫn tới lối vào nhà cha mẹ, một biệt thự vườn có cánh cổng gỗ và mái nhọn.
Anh đứng đó gọi mẹ qua chiếc cửa đẩy: “Vâng, con đây thưa mẹ”.
Gray dựa chiếc xe đạp vào lối dẫn lên cửa, xương sườn đau nhói. Anh đã gọi điện cho mẹ từ ga xe điện, báo trước sẽ ghé qua nhà. Anh đã giữ chiếc xe đạp hiệu Trek chuyên dùng leo núi khóa lại ở ga xe điện ngầm để thỉnh thoảng về nhà.
“Mẹ sắp bữa trưa gần xong rồi con ạ”.
“Gì vậy? Mẹ đang nấu nướng à?”. Anh xô chiếc cửa đẩy làm bản lề kêu cọt kẹt. Nó đóng sập lại sau lưng anh: “Liệu những phép màu có bao giờ hết không ạ?”.
“Thôi đừng tán nữa, con trai. Mẹ hoàn toàn có thể làm được món bánh xăng úych, giăm bông và pho mát”.
Gray bước ngang qua phòng sinh hoạt với những thứ đồ đạc làm bằng gỗ sồi, chọn lọc rất tinh tế, kết hợp giữa kiểu cũ và mới. Anh cũng kịp nhìn thấy lớp bụi dày trên mặt. Mẹ anh chưa bao giờ là một người nội trợ đảm đang, luôn dành phần lớn thời gian để giảng dạy. Đầu tiên là một trường trung học Thiên chúa giáo ở Texas, còn bây giờ là trợ lý trưởng khoa bộ môn sinh vật ở trường Đại học George Washington. Từ ba năm trước, bố mẹ anh đã chuyển tới khu phố cổ xưa và cũng rất yên tĩnh này của công viên Takoma với những ngôi nhà kiểu Victoria cổ lỗ và những căn nhà tranh già cỗi. Gray có một căn hộ cách đây vài dặm trên đường Piney Branch Road. Anh luôn muốn ở gần bố mẹ để xem có thể giúp đỡ được gì chăng.
Đặc biệt bây giờ.
“Bố đâu hả mẹ?” Anh hỏi khi bước vào bếp, tay cầm hộp sữa.
“Đang ở ngoài gara, đang làm một cái nhà cho chim nữa”.
“Thế không phải là một cái khác nữa à?”
Mẹ anh chau mày: “Bố thích thế. Công việc làm cho ông bớt buồn phiền. Bác sĩ chữa bệnh cho bố nói nếu như ông có được một thú chơi gì đó thì rất tốt”. Mẹ anh quay lại cầm hai đĩa xăng uých trên tay.
Mẹ anh đi thẳng từ văn phòng trường về nhà. Bà vẫn mặc chiếc áo khoác màu xanh bên ngoài bộ váy trắng, mái tóc vàng đốm bạc buộc gọn gàng ở phía sau. Ngăn nắp, chuyên nghiệp. Nhưng Gray để ý cặp mắt quầng thâm của mẹ. Bà trông ngày càng gầy, hốc hác.
Gray đỡ những chiếc đĩa: “Làm nghề mộc có thể tốt cho bố nhưng không biết cứ nhất thiết phải làm ra những tổ chim không ạ? Ở Maryland này đã có biết bao nhiêu chim rồi”.
Bà mỉm cười: “Ăn bánh đi con. Con có muốn ăn món dưa góp không?”
“Không ạ”.
Vẫn là cách như vậy. Nói chuyện lặt vặt để tránh những vấn đề lớn hơn. Nhưng có những chuyện không thể né tránh mãi được: “Thế họ tìm thấy bố con ở đâu ạ?”
“Ở một tiệm 7/11 giờ trên phố Cedar. Ông ấy bị lẫn, đi lạc đường. Bố chả còn đủ minh mẫn để phân biệt giữa John và Suz nữa”.
Chắc là hàng xóm đã gọi điện cho bà, rồi bà lại điện cho Gray, lo lắng và hoảng sợ. Năm phút sau bà gọi lại. Bố anh đã trở về nhà và khỏe. Tuy nhiên Gray biết rằng tốt nhất anh vẫn phải ghé qua nhà một chút.
“Thế bố vẫn uống thuốc Aricept chứ ạ?” Anh hỏi
“Tất nhiên, mẹ vẫn bắt bố uống thuốc vào mỗi buổi sáng”.
Bố anh được chuẩn đoán mắc bệnh suy giảm trí nhớ ở giai đoạn đầu, ngay sau khi gia đình anh chuyển đến đây. Căn bệnh bắt đầu với những lãng quên nho nhỏ: cất chìa khóa ở đâu, số điện thoại, tên của những người hàng xóm. Bác sĩ nói việc di chuyển từ Texas tới đây có thể thúc đẩy các triệu chứng vốn đã có từ lâu. Đầu óc của bố anh thật khó có thể tiêu hóa được những thông tin mới sau khi chuyển nhà qua suốt nước Mỹ. Nhưng với tính ương bướng và lòng quyết tâm, ông quyết không quay trở lại. Đối với bố anh, không có ranh giới gì mà ông không vượt qua được.
“Thế sao con không mang đĩa bánh này cho bố?” Mẹ anh nói “Mẹ phải đi gọi điện cho cơ quan”.
Gray cầm lấy đĩa bánh, đặt bàn tay lên tay mẹ: “Mẹ, có khi chúng ta phải nói chuyện về việc thuê người chăm sóc”.
Bà lắc đầu, từ chối “Tốt nhất là không bàn chuyện đó nữa”.
Mẹ rút tay khỏi tay anh. Gray đã chạm phải bức tường như vậy lần trước. Bố anh không đồng ý chuyện đó và mẹ anh thấy mình có trách nhiệm phải lo cho ông. Nhưng như vậy là tất cả công việc nội trợ của cả nhà dồn lên vai mẹ.
“Lần cuối cùng Kenny đến là khi nào?” Anh hỏi.
Cậu em trai anh mở một cửa hàng máy tính tận phía biên giới bang Virginia, nối gót theo bố anh là một kỹ sư điện, mặc dù không phải ngành dầu mỏ.
“Con biết Kenny rồi đấy…” Mẹ anh nói “Để mẹ lấy cho bố con một ít dưa góp”.
Gray lắc đầu. Gần đây Kenny đã nói đến chuyện di chuyển đến Cupertino, California. Cậu ta biện minh chuyện đó là cần thiết, nhưng đằng sau tất cả, Gray hiểu hết sự thật. Em trai anh chỉ muốn bỏ đi, lẩn tránh. Cuối cùng thì Gray cũng hiểu được suy nghĩ đó. Chính anh cũng đã làm như vậy với việc gia nhập quân đội. Có lẽ đây cũng là truyền thống của gia đình Pierece.
Mẹ anh đưa cho anh lọ dưa góp để mở: “Thế công việc ở phòng thí nghiệm ra sao?”
“Tốt đẹp ạ” Gray nói. Anh bật nắp hộp, lấy ra một ít rồi cho vào cái đĩa.
“Mẹ đã đọc báo nói về việc cắt giảm ngân sách ở DARPA”.
“Công việc của con không sao đâu ạ” Anh trấn an mẹ.
Chả ai trong nhà biết vai trò của anh trong Sigma. Họ nghĩ anh tiến hành một nghiên cứu nào đó cho quân đội. Họ không được phép biết sự thật.
Cầm chiếc đĩa trong tay, anh đi về phía cửa sau.
Mẹ anh nhìn anh “Chắc là ông ấy phải mừng lắm khi thấy con”.
Nếu như con cũng có thể nói được điều đó….
Gray đi đến gara ở vườn sau. Anh nghe vẳng tiếng nhạc đồng quê vọng ra từ cánh cửa mở. Nó gợi nhớ lại những kỷ niệm của các điệu vũ xếp hàng ở Mulleshoes, và những kỷ niệm ít vui hơn.
Anh đứng trước lối vào của gara. Bố anh ngồi xổm trên một mảnh gỗ, tay đang vạch vạch một đường kẻ.
“Bố” Anh nói.
Bố anh quay lại. Cao lớn như Grayson nhưng người ông đậm hơn, vai và lưng cũng to hơn. Ông đã từng làm việc trên các giếng dầu rồi tự học qua đại học, đạt được tấm bằng loại ưu kỹ sư thực hành về cơ khí dầu.
Vì di chuyển nơi ở và không phù hợp nên ông phải về hưu ở độ tuổi bốn mươi bảy.
Chuyện đó xảy ra cách đây mười lăm năm rồi.
Bố anh quay lại “Gray đấy à?”. Ông lấy tay gạt mồ hôi trên đôi lông mày làm dính bẩn mùn cưa. Một cái chau mày “Không cần thiết phải mang đến tận đây đâu”.
“Thế làm sao những cái bánh xăng uých này đến chỗ bố được?” Anh giơ chiếc đĩa lên.
“Anh biết mẹ anh đấy. Mẹ luôn cố hết sức mình”.
“Thế thì tốt nhất bố nên ăn chúng đi. Không nên làm mất đi thói quen đó”.
Ông gạt đống đồ mộc sang một bên rồi khom khom người quay ra chiếc tủ lạnh nhỏ ở phía sau “Uống bia không?”
“Chút nữa con phải trở về làm việc rồi”.
“Một chai bia chẳng chết gì đâu. Bố có loại bia Sam Adam mà anh vẫn thích”.
Bố anh lại thích loại bia Budweiser. Nhưng một sự thật, bố anh đã nhét trong tủ lạnh loại bia anh vẫn thích giống như cái vỗ tay vào lưng. Thậm chí còn giống như một cái ôm hôn nữa.
Anh không thể từ chối được.
Gray cầm lấy chai bia rồi với tay lấy cái mở bia. Bố anh bước đến gần, tựa một bên hông vào chiếc ghế. Ông giơ chai bia Budweiser như thể chào.
“Thật chán khi về già… may mà vẫn còn bia”.
“Vâng, đúng như vậy ạ” Gray uống một hơi. Anh không biết chắc có cần trộn Codein với cồn không, nhưng anh nhận ra rằng buổi sáng nay đã dài quá rồi.
Bố anh vẫn nhìn vào anh. Im lặng rất dễ trở thành thô thiển.
“Vậy mà bố lại không tìm được đường về nhà” Gray nói.
“Bố anh chứ” Ông vờ cáu, cười toác miệng và lắc lắc đầu.
Bố anh luôn thích nói chuyện thẳng thắn. “Bắn thẳng” như cách ông vẫn nói. “Ít nhất thì ta cũng không phải là một thằng tồi”.
“Bố nhớ đừng quên dạo con ở Leavenworth nhé. Chuyện đó sẽ làm bố nhớ đấy”.
Bố anh cụng chai bia vào người Gray: “Bố sẽ nhớ đến chừng nào còn có thể”.
Đôi mắt của họ gặp nhau. Anh thấy có gì ánh lên phía sau vẻ giễu cợt của ông, một điều anh rất hiếm khi nhìn thấy ở ông trước đây: Sự sợ hãi.
Hai bố con chưa bao giờ có được mối quan hệ tốt đẹp. Bố anh đã nghiện rượu sau vụ tai nạn kèm với một loạt chuyện tồi tệ. Thật khó khăn cho một người làm nghề dầu mỏ Texas như ông lại trở thành người nội trợ trông nom hai đứa con trai khi vợ đi làm. Đổi lại, ông đã điều hành nhà mình như một trại tân binh. Và Gray luôn phản ứng, một kẻ nổi loạn từ trong trứng.
Chờ cho đến mười tám tuổi, Gray thu xếp hành lý vào quân đội, bỏ nhà ra đi vào lúc nửa đêm.
Sau đó hai năm liền, hai bố con không bao giờ nói chuyện với nhau.
Rồi mẹ anh tìm cách hàn gắn hai người lại với nhau. Tuy vậy đó vẫn là một sự hoà hoãn chẳng thoải mái gì. Có lần mẹ nói. “Hai bố con ông giống nhau hơn là hai người tưởng”. Grayson chưa bao giờ nghe thấy lời nào đáng nể sợ hơn.
“Thằng chết tiệt đó bú …” Bố anh nói khẽ khàng, phá vỡ sự im lặng.
“Budweiser chắc chắn làm điều đó.” Gray nâng chai bia lên. “Vì vậy con chỉ uống loại bia Sam Adams”.
Bố anh toét miệng cười. “Anh đúng là thằng chết tiệt.”
“Thì bố đã nuôi con mà lại.”
“Vậy thì bố cũng thích một thứ để hiểu một thứ.”
“Con có bao giờ nói điều đó đâu.”
Bố anh chớp chớp mắt. “Tại sao anh lại mất công về đây?’”
Vì con không biết khi nào bố còn nhớ đến con, anh nghĩ nhưng không dám nói ra điều đó. Vẫn còn điều gì đấy giấu kỹ trong lòng, nỗi ấm ức cũ trước đây chưa giải toả được. Có những lần ông đã rất muốn nói, muốn nghe… và một phần trong ông hiểu rằng mình đang mất dần thời gian.
“Anh kiếm chỗ bánh xăng- uých này ở đâu ra vậy?” Bố anh miệng nhồm nhoàm vì đã ăn một miếng bánh lớn. “Bánh ngon đấy”.
Gray nói cố giữ vẻ mặt vô cảm. “Mẹ làm đấy”.
Một thoáng bối rối rồi tiếp đó. “Ồ thế à…”
Cặp mắt họ lại nhìn nhau, Sự sợ hãi bùng lên trong cái nhìn của bố anh kèm theo nỗi xót xa. Ông đã mất đi một phần cuộc sống của người đàn ông mười lăm năm trước đây, giờ ông đối mặt với chuyện mất đi trí nhớ của mình.
“Pop…tao…”
“Bố hãy uống bia đi đã.” Anh thấy mình như đang đến bờ của sự tức giận như mọi khi nên tìm cách đánh trống lảng.
Anh uống nốt chỗ bia, ngồi im lặng, hai bố con chẳng nói gì. Có thể mẹ nói đúng. Họ quá giống nhau.
Máy nhắn tin của anh phát tín hiệu. Gray vội nhìn vào thấy tín hiệu từ Sigma.
“Văn phòng gọi.” Anh càu nhàu. “Chiều nay con có cuộc họp…”
Bố anh gật đầu. “Bố cũng phải quay trở lại với cái nhà chim chết tiệt này.”
Họ bắt tay nhau, hai đối thủ đều mệt mỏi nhưng đều cố không để xảy ra tranh chấp.
Gray quay vào nhà, tạm biệt mẹ rồi dắt xe đạp đi. Anh leo lên xe, nhanh chóng đạp về phía ga xe điện ngầm. Số phôn trên máy nghe của anh hiện lên tiếp sau một ký tự: Sigma911.
Khẩn cấp
Lạy Chúa.
5 giờ 3 phút (giờ địa phương)
Thành phố Vatican
Công cuộc tìm kiếm sự thật chung quanh Ba nhà Thông thái đã trở thành một cuộc đào bới khảo cổ mệt mỏi nhưng thay vì chân tay lấm lem bùn đất, ngài Vigor Verona và nhóm của mình gồm toàn những tay thủ thư lục lọi trong hàng đống sách và tài liệu. Nhóm thủ thư đã tiến hành công việc đào bới cơ bản ở thư viện Vatican; giờ đây Vigor ngồi phân loại lọc ra xem có vết tích gì liên quan đến Ba nhà Thông thái ở một trong những nơi được canh gác cẩn mật nhất ở địa phận Giáo hoàng: Viện Cơ mật nổi tiếng của Vatican.
Vigor sải những bước dài trong một gian phòng dài nằm ngầm dưới đất. Những ngọn đèn được bật lên khi ông bước tới và tự tắt khi đi qua, tạo ra một khoảng sáng chung quanh ông và cậu sinh viên Jacob. Họ đi ngang qua chiều dài của nơi lưu trữ các văn bản chính được gọi tắt là hầm ngầm. Xây từ năm 1980, gian phòng này có hai tầng, mỗi tầng được phân cách bởi sàn kim loại nối với nhau bằng các bậc thang uốn lượn. Ở mỗi bên biết bao nhiêu là giá thép chứa đựng tài liệu gồm đủ các loại giấy tờ. Ở tường đối diện cũng là những giá đựng bằng thép, có điều là chúng được niêm phong khoá lại cẩn thận sau những cánh cửa lưới, bảo vệ những tài liệu nhạy cảm hơn.
Có câu nói về Vatican. Vatican có rất nhiều bí mật nhưng không bao giờ đủ. Vigor cân nhắc đến vế thứ hai khi ông bước qua gian phòng lưu trữ rộng lớn. Vatican giữ quá nhiều bí mật ngay cả đối với nó.
Jacob cầm theo chiếc laptop trong đó có cơ sở dữ liệu về đề tài của họ. “Vậy là không phải chỉ có ba nhà Tiên tri?” ông nói khi bước ra khỏi hầm ngầm.
Họ ngồi xuống đây để số hoá một tấm ảnh chụp một lọ hoa được giữ ở bảo tàng Kircher. Trên lọ hoa có mô tả không chỉ ba nhà Tiên tri mà là tám. Nhưng ngay cả con số đó cũng khác nhau. Một bức tranh ở nghĩa địa lâu đài Thánh Peter lại chỉ có hai, còn một cái ở Domiotilla lại vẽ những bốn.
“Kinh thánh không nói cụ thể về số nhà thông thái,” Vigor nói, cảm thấy mệt bã người sau một ngày cật lực. Ông cảm thấy nếu nói ra những điều mình suy nghĩ sẽ có lợi hơn vì ông vốn là đệ tử theo đuổi các phương pháp của Socrat. “Chỉ có tập Kinh thánh về Mathew trực tiếp đề cập đến họ mà cũng chỉ nói loáng thoáng. Giả thuyết thông thường về con số ba xuất phát từ chuyện số quà tặng được các nhà Tiên tri cầm đó là vàng, trầm và xạ hương. Thực ra, họ cũng có thể không phải là vua. Từ Magi xuất phát từ tiếng Hy Lạp magoi hay phù thuỷ.”
“Vậy họ là những phù thuỷ.”
“Không phải như chúng ta nghĩ. Từ magoi không ám chỉ phù thuỷ, mà chỉ là những người thực hành các phép mầu bí ẩn. Cũng vì vậy có từ nhà thông thái. Hầu hết các nhà khoa học thuật Kinh thánh bây giờ tin rằng họ là những nhà chiêm tinh học từ Persia hoặc Babylon. Họ diễn đạt về những ngôi nhà và tiên đoán sự ra đời của một ông vua từ phía Tây, được báo hiệu bởi một ngôi sao đơn độc xuất hiện.”
“Ngôi sao Bethlehem”
Ông gật đầu. “Bất chấp tất cả các bức hoạ, ngôi sao không phải là một sự kiện đặc biệt. Theo Kinh thánh, thậm chí ngay cả ở Jerusalem cũng không ai để ý đến điều đó. Mãi cho tới khi các nhà Tiên tri đến với vua Herod và lưu ý Ngài chú ý điều này. Các nhà Tiên tri hình dung một vị vua mới được sinh ra đã được các ngôi sao báo trước và đứa bé phải được sinh trong hoàng tộc. Nhưng vua Herod thấy sốc khi nghe tin đó và hỏi họ khi nào thấy ngôi sao xuất hiện. Rồi họ sử dụng các cuốn sách Tiên tri bằng tiếng Hebrew để xem vị vua mới có thể được sinh ra ở nơi nào. Nhà vua đã chỉ thị cho họ đi Bethlehem.”
“Vậy là Herod bảo họ nơi phải tới.”
“Ông ta làm như vậy, cử họ đi như những gián điệp. Chỉ có điều trên đường tới Bethlehem theo như cuốn Kinh thánh Mathew, ngôi sao lại xuất hiện và hướng dẫn các nhà tiên tri tới chỗ đứa trẻ. Sau đó do được một thiên thần cảnh báo họ đã rời mà không nói cho Herod biết đứa trẻ là ai và ở đâu. Vì vậy đã bắt đầu những vụ tàn sát những người vô tội”.
Jacob bước vội vã theo. “Thực ra Mary, Josep và đứa trẻ mới sinh đã rời đi Ai Cập ngay sau khi được thiên thần cảnh báo. Vậy điều gì đã xảy ra với các nhà thông thái?”.
“Điều gì thực sự…” Vigor đã dành hầu hết thời gian một tiếng để rồi theo đuổi các văn bản về những gì liên quan đến ba nhà thông thái… Nếu di cốt của họ bị ăn trộm vậy thì động cơ của bọn chúng là gì ngoài việc kiếm lợi thông thường. Chỉ có kiến thức mới có thể trở thành vũ khí tốt nhất trong trường hợp này.
Vigor nhìn đồng hồ. Ông không còn thời gian nữa nhưng người đứng đầu Viện Cơ mật sẽ tiếp tục tìm kiếm, xây dựng cơ sở dữ liệu cùng với Jacob rồi gửi email cho ông những phát hiện của họ.
“Thế còn những cái tên lịch sử của ba vị Tiên tri?” Jacob hỏi “Gaspa, Melchior và Balthazar”.
“Đó chỉ là giả thuyết. Những cái tên đó đầu tiên xuất hiện trong thế kỷ thứ VI. Sau đó các sách tham khảo đều đi theo hướng đó, nhưng tôi nghĩ điều này giống như những câu chuyện cổ tích nhiều hơn là những tường trình thực sự, tất nhiên nó cũng đang được quan tâm. Tôi để lại cái đó cho cậu và ngài đứng đầu Viện Cơ mật nghiên cứu.”
“Cháu sẽ làm hết sức mình.”
Vigor khẽ nhíu mày. Đây là một công việc nặng nhọc. Rồi nữa, những chuyện này có ý nghĩa gì đây? Tại sao chúng lại lấy cắp di cốt của các nhà Tiên tri?
Vẫn chưa có câu trả lời đối với ông. Và Vigor cũng không hiểu liệu sự thật có được tìm thấy trong ba mươi dặm chiều dài giá sách trong Viện Cơ mật. Nhưng đã có sự thoả thuận là bắt đầu truy từ các dấu vết. Thật hay không thật, những câu chuyện về các nhà Tiên tri đã gợi ý một kho tàng rộng lớn kiến thức cất giấu mà có lẽ chỉ có một bộ phận nào đó của magi biết được.
Nhưng vậy họ là ai?
Các vị phù thuỷ, nhà chiêm tinh hay linh mục?
Vigor đi qua phòng văn thư, bỗng ngửi thấy mùi thuốc trừ sâu và thuốc chống mối mọt. Chắc là nhân viên ở đây mới phun. Ông biết rằng một số tài liệu trong phòng văn thư do bị mối mọt đục khoét, có khả năng bị phá huỷ vĩnh viễn.
Cũng như vậy có biết bao nhiêu cái khác nữa ở đây cũng bị đe doạ…Không chỉ vì lửa, mối mọt hay sự lãng quên mà còn vì chính tầm cỡ lớn lao của nó. Chỉ có một nửa trong số tài liệu ở đây được thống kê. Và mỗi năm lại được bổ sung thêm, ngập tràn từ các đại sứ Vatican, các giáo xứ và xứ đạo đơn lẻ.
Không thể theo kịp.
Chính bản thân Viện Cơ mật cũng phát triển phình ra như một khối u ác tính. Từ những căn phòng lúc ban đầu đến những phòng trên gác, hầm ngầm rồi những toà tháp rỗng. Vigor đã dành hơn nửa năm để tìm kiếm hồ sơ của những gián điệp của Vatican trong quá khứ, những người đi trước ông, những nhân viên được đưa vào các vị trí chính phủ trên khắp thế giới, nhiều tên được viết theo lối mật mã nói lên sự tranh chấp về chính trị đã kéo dài hàng nghìn năm nay.
Vigor biết rằng Vatican là một thức thể chính trị cũng như tinh thần. Và những kẻ thù của cả hai loại đó đều tìm cách phá hoại giáo hội. Ngay cả hôm nay, những linh mục như Vigor. Những chiến binh thầm lặng giữ phòng tuyến. Và trong khi Vigor có thể không đồng ý với tất cả những gì đã làm trong quá khứ hoặc thậm chí cả hiện nay, niềm tin của ông vẫn chắc chắn…giống như chính Vatican.
Ông tự hào về sự tận tuỵ của ông với Giáo hoàng.
Các đế chế có thể xuất hiện và lụi tàn. Các triết lý có thể đến rồi đi. Nhưng cuối cùng, Vatican vẫn tồn tại, vững vàng và kiên định. Đó là lịch sử, thời gian và đức tin - tất cả đuợc giữ gìn trong đá.
Ngay cả ở đây, nhiều trong số những báu vật lớn nhất của nhân loại được lưu trữ trong những chiếc tủ, két, hòm và ngăn kéo có lá thư của Mary Tudor một ngày trước khi bị chặt đầu, còn trong một ngăn khác là bức thư tình của vua Henry III gửi Ann Boleyn. Có những tài liệu thuộc về Toà án dị giáo, các vụ xét xử, Thập tự chinh, những lá thư của một vị Khan của Persia đến nữ hoàng thời nhà Minh. Và có lẽ bí hiểm nhất trong số đó được cất giữ trong một chiếc hộp bằng kim loại khoá kín là Điều bí mật thứ ba của Fatima. Chỉ có chính đức Giáo hoàng mới được đọc nội dung lời Tiên tri thứ ba của Lucia dos Santos từ Fantima. Nó đã tiên đoán Đại chiến Thế giới lần thứ 2 và đưa ra ngày tận thế của thế giới này.
Những cái mà Vigor tìm kiếm giờ đây lại không được canh gác như vậy.
Nó chỉ đòi hỏi việc phải trèo lên cao.
Ông đã có thêm một bằng chứng nữa mà ông muốn điều tra trước khi đi Đức cùng Rachel.
Vigor tiến đến cầu thang nhỏ dẫn lên những căn phòng phía trên của Viện Cơ mật gọi là sàn quý tộc. Ông mở cánh cửa cho Jacob, khép lại rồi ấn chốt. Khẽ rung một chút, cái lồng nhỏ vụt lên cao.
“Chúng ta đi đâu thế này?” Jacob hỏi.
“Đến Torri dei Venti.”
“Đến tháp Gió ngàn? Tại sao vậy?”
“Có một tài liệu cổ được giữ tít ở trên đó. Một bản copy của cuốn Mô tả thế giới từ thế kỷ thứ 18.”
“Cuốn sách của Marco Polo?”
Ông gật đầu khi thang máy dừng lại. Họ đi ra một hành lang dài.
Jacob bước vội theo kịp ông. “Thế chuyến mạo hiểm của Marco Polo có liên quan gì đến ba nhà Tiên tri?”
“Trong cuốn sách này, ông ta đã liên hệ những chuyện thần thoại liên quan đến các vị Tiên tri và điều gì xảy ra với họ. Tất cả chung quanh một món quà được đức chúa Jesu hài đồng ban cho họ. Một hòn đá có phép mầu. Trên hòn đá đó, các nhà Tiên tri đã tìm thấy một loạt những trí tuệ bí ẩn. Ta thích theo đuổi huyền thoại đó.”
Hành lang dẫn đến Tháp Gió ngàn. Những căn buồng rỗng của cái tháp này được nối với Viện Cơ mật. Thật không may, căn phòng Vigor muốn tìm lại ở trên đỉnh cao nhất. Ông chửi bới chuyện không có thang máy rồi đi vào chiếc cầu thang tối om.
Ông thôi không giảng giải thêm nữa để lấy sức trèo lên bậc thang dài. Chiếc thang xoáy cứ lượn tròn lượn tròn mãi. Họ tiếp tục trèo trong im lặng cho đến khi cầu thang dẫn tới một trong những căn phòng độc đáo và lâu đời nhất của Vatican.
Phòng Kinh tuyến.
Jacob ngó nghiêng nhìn những bức hoạ trên tường vẽ trên mái và trần, mô tả các cảnh trong cuốn Kinh thánh với các đám mây bay lượn phía trên. Một chiếc giáo đơn độc xuyên qua một lỗ nhỏ, đâm qua nền đá cẩm thạch khắc với những dấu của mười hai ngôi sao. Một đường đánh dấu kinh tuyến cắt ngang qua đó. Đó là đài quan sát mặt trời từ thế kỷ thứ XVI được sử dụng để định ra Dương lịch và là nơi Galileo đã sử dụng để chứng minh nhận định của ông rằng trái đất quay chung quanh mặt trời.
Thật không may ông đã thất bại - chắn chắn đó là điểm thua giữa Nhà thờ Thiên chúa giáo và cộng đồng khoa học. Kể từ đó, Nhà thờ đã cố gắng để bù đắp cho sự thiển cận của mình.
Vigor dừng lại lấy hơi sau một chuyến leo dài. Ông lấy tay lau mồ hôi rồi chỉ cho Jacob gian phòng bên của Phòng Kinh tuyến. Một cái giá sách khổng lồ phủ kín phía tường sau của căn phòng chật cứng những sách và tài liệu.
“Theo tổng danh mục, cuốn sách chúng ta tìm phải ở trên ngăn thứ ba.”
Jacob bước qua, giật mạnh sợi dây cuốn quanh cửa. Vigor nghe thấy một tiếng bục, không còn thời gian để cảnh báo nữa,
Một thiết bị gây cháy nổ, hất mạnh Jacob ra phía ngoài cửa xô vào Vigor.
Họ ngã rụi ra sau khi một tường lửa bùng lên qua người họ giống như một con rồng lửa đang hà hơi.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook