Địa Đồ Di Cốt
-
Chương 11: Ngày thứ ba
Alexandria
Ngày 26 tháng 7; 7 giờ 5 phút
Trên biển Địa Trung Hải
Họ sẽ tới Ai Cập trong hai giờ nữa.
Trên chiếc máy bay tư nhân. Gray kiểm tra lại túi đồ nghề của mình. Giám đốc Crowe đã cố gắng cung cấp thêm cho họ trang bị và vũ khí mới. Ngay cả những chiếc máy tính xách tay. Ông giám đốc còn có cái nhìn xa hơn nên đã điều cho họ một chiếc máy bay cho thuê loại Citation X từ Đức xuống sân bay quốc tế Leonardo Da Vinci.
Gray nhìn đồng hồ. Họ đã cất cánh cách đây được nửa tiếng. Họ còn lại hai tiếng trước khi hạ cánh xuống Alexandria để bàn bạc công chuyện. Vài giờ đồng hồ ở Rome cũng giúp cho họ lấy lại sức khoẻ và tinh thần. Họ xuất phát trước lúc rạng đông, lẳng lặng rời khỏi Vatican không báo cho ai biết.
Giám đốc Crowe đã bố trí đi Morocco. Rồi ông dùng quan hệ cá nhân của mình với Văn Phòng Thám không Quốc gia đổi tín hiệu bay vào giữa chặng khi họ quay sang Ai Cập. Đó là những gì tốt nhất họ có thể làm để che dấu lộ trình.
Giờ thì họ chỉ còn một chi tiết để quyết định.
Bắt đầu tìm kiếm ở Alexandria như thế nào?
Để trả lời câu này, khoang ca-bin của chiếc máy bay đã trở thành nơi nghiên cứu, hoạch định chiến lược. Kat, Rachel và Vigor tất cả ngồi chồm chỗm trên bàn làm việc. Monk đang ở khoang lái, phối hợp các khâu vận tải và hậu cần một khi hạ cánh. Anh chàng cũng đã lôi khẩu Scattergun mới ra kiểm tra. Giờ thì anh mang theo nó luôn. Đã có lúc, Monk tuyên bố: “Tôi cảm thấy trần như nhộng nếu không có nó. Và hãy tin tôi đi, bạn chẳng muốn điều đó đâu.”
Lúc này, Gray có việc điều tra riêng phải tiến hành. Mặc dù nó không trực tiếp liên quan đến chuyện trước mắt. Anh dự định nghiên cứu sâu hơn về sự bí hiểm của những chất siêu dẫn ở trạng thái -m.
Nhưng đầu tiên….
Gray đứng dậy bước tới nhóm ba nhà nghiên cứu. “Thế nào đã có tiến triển gì chưa?” Anh hỏi.
Kat trả lời: “Chúng tôi phải chia nhau ra. Đào bới mọi tài liệu tham khảo và văn kiện liên quan bắt đầu từ khi Alexander sinh ra cho đến khi chết và rồi đến chuyện mất tích ngôi mộ của ông ta.”
Vigor dụi mắt. Ông là người ít ngủ nhất trong nhóm. Chưa đầy một tiếng. Vị linh mục đã dành thời gian để nghiên cứu sâu hơn từ những đống tài liệu ở Thư viện Vatican. Ông đoán chắc rằng gã viện trưởng của Viện Cơ mật, tên tiến sĩ phản bội Alberto Menardi, là bộ óc bậc thầy đứng đằng sau, giải đáp mọi điều rắc rối cho bọn Long Đình. Ông hy vọng dò dẫm theo vết chân của y may ra có thể lấy được thêm chút thông tin gì chăng. Nhưng kết quả chưa được là bao.
Kat tiếp tục: “Bí hiểm vẫn bao quanh Alexander. Ngay cả cha mẹ ông ta. Mẹ của ông là một phụ nữ có tên Olumpias. Cha là vua Phillip II của Macedonia. Nhưng ở đây có vài điều chưa nhất quán. Alexander đã từng tin rằng cho ông là một vị thánh có tên Zeus Ammon và bản thân ông cũng một nửa là thánh.”
“Thật chả mấy khiêm tốn” Gray nhận xét.
“Ông ta là một con người có rất nhiều mâu thuẫn.” Vigor nói: “Luôn bị sa vào các cơn giận dữ vì say rượu nhưng lại rất thận trọng trong tính toán chiến lược. Dữ dội trong tình bạn nhưng có thể giết người khi nổi cáu. Ông ta đùa cợt với đồng tính luyến ái nhưng lại lấy hai vợ; một người là vũ nữ Ba Tư, còn người kia là con gái một vị vua Ba Tư, việc lấy người vợ thứ hai là một cố gắng nhằm hợp nhất giữa Ba Tư và Hy Lạp. Nhưng quay trở lại cha mẹ ông ta. Nhiều người biết rằng mẹ và bố ông ta ghét nhau. Một vài nhà lịch sử còn cho rằng Olympias có nhúng tay vào vụ ám sát vua Phillip mà chính lại là con trai của một nhà phù thủy Ai Cập trong triều, có tên là Nectanebo…”
“Một thầy phù thủy… giống như nhà thông thái?” Gray hiểu được điều ám chỉ.
“Dù cha mẹ ông ta là ai đi nữa, Alexanderr sinh vào ngày 20 tháng 7, năm 356 trước Công nguyên…” Kat tiếp tục.
Vigor nhún vai “Nhưng ngay cả điều ấy cũng chưa chắc đã là thực. Cũng chính ngày đó, ngôi đền Artemis ở Ephesus bị đốt cháy rụi. Một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại. Nhà sử học Plutarch đã viết rằng do chính bản thân Artemis vì quá bận rộn chăm lo việc sinh Alexander nên lãng quên giúp ngôi đền khỏi sự đe dọa. Một vài nhà học giả lại cho rằng sự lựa chọn ngày tháng chỉ để nhằm tuyên truyền, ngày sinh thực sự của ông ta đã được dịch chuyển để xứng với sự kiện này, mô tả nhà vua như một con phượng hoàng cất cánh từ đống tro tàn.”
“Và đúng là một sự vươn lên,” Kat nói “Alexander chỉ sống đến năm ba mươi ba tuổi nhưng trong cuộc đời ngắn ngủi của ông đã chinh phục hầu hết thế giới được biết đến lúc đó. Ông đã đánh bại vua Darius của Ba Tư rồi đi đến Ai Cập, nơi ông sáng lập Alexandria, sau đó rời sang Babylon.”
Vigor kết thúc: “Thế rồi ông ta di chuyển theo phía đông tới Ấn Độ để chinh phục vùng Punjab. Cũng chính vùng đất này Thánh Thomas đã làm lễ rửa tội cho ba vị Tiên tri.”
“Thống nhất Ai Cập và Ấn Độ” Gray nhận xét.
“Liên thông dòng kiến thức cổ đại.” Rachel nói từ chiếc máy tính xách tay. Cô không ngẩng mặt lên, vẫn tập trung nghiên cứu, lưng hơi gập xuống.
Gray thích kiểu ngồi như vậy, từ tốn chẳng vội vã chút nào.
Có lẽ cô cũng biết anh đang nhìn mình. Không ngoái đầu lại, chỉ thoáng liếc nhìn rồi lại quay đi.
“Ông ta… Alexander thậm chí còn tìm kiếm các nhà học giả Ấn Độ, dành rất nhiều thời gian cho các buổi luận đàm triết học. Ông rất quan tâm đến các bộ môn khoa học mới, chính ông cũng đã được Aristotle dạy dỗ.”
“Nhưng cuộc đời của ông rất ngắn ngủi” Kat tiếp tục, thu hút sự chú ý của Gray. “Ông chết vào năm 323 trước Công nguyên ở Babylon, trong những hoàn cảnh rất bí hiểm. Có người nói ông chết vì lý do tự nhiên, nhưng lại có người cho rằng ông bị đầu độc hoặc thậm chí chết vì dịch bệnh.”
“Người ta cũng nói rằng,” Vigor bổ sung: “Nằm trên giường bệnh trong hoàng cung ở Babylon, ông nhìn ra khu vườn treo nổi tiếng của thành phố, một cái tháp với những vườn cảnh kỳ thú trên mái nhà và thác nước. Một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.”
“Vậy là cuộc đời của ông ta bắt đầu từ việc khởi thủy của cái này và kết thúc với sự hủy diệt của cái khác.”
“Điều đó cũng có thể là ngụ ngôn” Vigor nói, ông gãi gãi bộ râu dưới cằm “Nhưng lịch sử của Alexander có vẻ gắn bó một cách kỳ lạ với bảy kỳ quan thế giới. Ngay cả việc lập ra bảy kỳ quan thế giới lần đầu tiên cũng do một học giả ở Alexander tên là Cllimachus của Cyrene làm vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Bức tượng đồng cao ngất ở Rhodes, một kỳ quan thế giới nữa, một pho tượng khổng lồ vắt ngang hải cảng, tay giơ cao ngọn đuốc cháy sáng được thiết kế theo nguyên mẫu Alexander Đại đế, giống như bức tượng thần Tự do của các ngài. Rồi bức tượng thần Zớt ở Olympia cũng cao đến bốn tầng làm bằng vàng và cẩm thạch. Theo như chính lời của Alexander có thể đó là cha đẻ của ông ta. Không còn nghi ngờ gì nữa Alexander đã đến thăm những Kim tự tháp ở Giza. Ông ta đã dành trọn mười năm ở Ai Cập. Như vậy dấu tay của Alexander có thể nhìn thấy trên khắp các tác phẩm bậc thầy của thế giới cổ đại.”
“Liệu điều đó có ý nghĩa gì không?” Gray hỏi.
Vigor nhún vai “Tôi không thể nói được. Nhưng Alexander đã có thời là quê hương của một trong bảy kỳ quan thế giới, cái cuối cùng được xây dựng cho dù nó không còn tồn tại nữa. Ngọn hải đăng Pharo của Alexandria. Nó nhô lên từ một triền đất trải dài trên cảng Alexandria, chia cái vịnh thành hai nửa. Đó là một cái tháp cao ba tầng được xây bằng những tảng đá vôi. Trên cùng có một ngọn lửa cháy trên một cái lò than được khuếch đại bằng một tấm gương bằng vàng. Nó có thể hướng dẫn thuyền bè từ khoảng cách xa tới năm mươi kilômét. Cho đến tận ngày nay, cái tên hải đăng cũng gắn với kỳ quan này. Trong tiếng Pháp nó được gọi là phare, còn tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý gọi là pharo.”
“Thế cái đó liên quan đến công cuộc tìm kiếm ngôi mộ của Alexander của chúng ta như thế nào?” Gray hỏi.
“Chúng ta hướng tới Alexandia,” Vigor đáp: “Truy đuổi theo dấu vết do một hội cổ xưa của các nhà Tiên tri để lại. Tôi không thể không nghĩ rằng ngọn hải đăng này, biểu hiện ngời sáng của ánh sáng dẫn đường, rất có ý nghĩa đối với nhóm này. Cũng có một truyện chung quanh ngọn hải đăng rằng thứ ánh sáng vàng của nó có sức mạnh đến nỗi có thể thiêu cháy cả những chiếc thuyền dù ở một khoảng cách xa. Có thể chuyện này ám chỉ cái gì đó về một nguồn năng lượng chưa được biết đến.”
Cuối cùng Vigor thở dài rồi lắc đầu: “Nhưng vì sao tất cả những thứ này đều treo với nhau cả, tôi không thể biết.”
Gray đánh giá cao kiến thức của vị linh mục, nhưng anh cần có những thông tin cụ thể, một điều gì đấy để theo đuổi một khi họ tới Alexandria. “Vậy thì chúng ta hãy đi thẳng vào trung tâm của sự bí hiểm. Alexander chết ở Babylon. Nhưng điều gì xảy ra sau đó?”
Kat ngước mắt khỏi màn hình máy laptop. Cô chỉ tay vào một danh sách vừa lập ra.
“Có nhiều tham khảo lịch sử liên quan đến việc rước xác của ông ta từ Babylon về Alexandria. Sau khi được an táng tại Alexandria, ngôi mộ đã trở thành đền thờ để nhiều danh nhân đến thăm viếng, trong đó có cả Julius Caesar và hoàng đế Caliguta.”
“Thời gian đó,” Vigor nói tiếp “thành phố này do một trong những tướng lĩnh trước kia của Alexander, tên là Ptolemy, cai trị và những người kế tục ông ta. Họ dự kiến xây dựng một thư viện của Alexandria, biến thành phố thành nơi tập trung của nghiên cứu trí tuệ và triết học, thu hút các học giả từ khắp nơi trên thế giới.”
“Điều gì đã xảy ra với ngôi mộ?”
“Đó là một chuyện phức tạp,” Kat nói. “Ngôi mộ được cho là có một cái quan tài khổng lồ bằng vàng.”
“Có thể là vàng thủy tinh,” Gray nói “một trong trạng thái của chất bột ở trạng thái –m.”
Kat gật đầu: “Vào đầu thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, Septimus Severus đã đóng cửa ngôi mộ không cho tham quan nữa, xuất phát từ lý do bảo đảm an toàn của ngôi mộ. Thật thú vị khi nói rằng ông ta đã xếp nhiều pho sách quý và bí mật vào trong rương – đó là một câu trích dẫn”. Cô ngả người về chiếc laptop. “Vậy là không ai có thể đọc những cuốn sách cũng như nhìn thấy xác của ông ta.” Cô liếc nhìn Gray. “Điều này đã chứng minh là có cái gì đó quan trọng được giấu trong địa điểm của ngôi mộ. Một nơi tập trung những bí mật mà Septimus lo ngại có thể bị thất lạc hoặc đánh cắp.”
Vigor đi sâu vào chi tiết: “Đã có rất nhiều trận tấn công vào Alexandria từ thế kỷ thứ nhất đến thứ ba trước Công nguyên. Các trận tấn công ngày càng ác liệt. Ngay bản thân Julius Caesar cũng đốt cháy một phần thư viện Alexandria để đẩy lui các cuộc tấn công vào hải cảng. Những cuộc tấn công vẫn tiếp tục, dẫn đến việc phá hủy rồi tháo dỡ thư viện vào thế kỷ thứ bảy. Tôi có thể hiểu tại sao Septimus lại muốn bảo vệ một phần thư viện bằng cách giấu đi. Có thể ông ta đã giấu đi những cuốn sách quan trọng nhất ở đó.”
“Không phải chỉ có những cuộc tấn công bằng quân sự vào thành phố” Kat bổ sung thêm: “Một loạt dịch bệnh xảy ra. Những trận động đất đã phá hủy một phần đáng kể Alexandria. Một bộ phận của thành phố đã rơi xuống vịnh vào thế kỷ thứ tư, phá hủy khu vực hoàng gia Ptolemaic, trong đó có cả lâu đài Cleopatra và phần lớn khu nghĩa địa hoàng gia. Năm 1996, một nhà thám hiểm người Pháp, Franck Goddio đã phát hiện một phần của thành phố đã mất này ở hải cảng phía đông Alexandria. Một nhà khảo cổ khác, Honor Frost, tin rằng đây có thể là số phận của ngôi mộ Alexandria, rơi xuống một ngôi mộ trước.”
“Tôi không tin điều ấy,” Vigor nói: “Có nhiều tin đồn về vị trí của ngôi mộ, nhưng hầu hết những tư liệu lịch sử đã xác định ngôi mộ ở trung tâm của thành phố, cách xa bờ biển.”
“Cho đến khi, như tôi nói, Septimus Severus đóng nó lại” Kat tranh luận “Có thể ông ta đã di rời nó đi.”
Vigor chau mày “Cũng có thể, qua những thế kỷ sau, những kẻ chuyên săn lùng kho báu và các nhà khảo cổ đã cày xới khu vực Alexandria và vùng ngoại vi. Ngay cả ngày nay, cũng vẫn còn những cơn sốt giống như thời kỳ đi tìm vàng để tìm kiếm ngôi mộ đã mất này. Một vài năm trước đây, một tốp các nhà địa vật lý người Đức đã sử dụng thiết bị ra-đa thăm dò dưới lòng đất để chứng minh rằng tầng đất dưới Alexandria đầy rẫy những hang động và hầm ngầm. Có rất nhiều nơi có thể giấu được cả ngôi mộ. Phải mất hàng chục năm mới có thể tìm kiếm được tất cả.”
“Chúng ta không có được một thập kỷ,” Gray nói “Tôi không biết liệu chúng ta có được hai mươi tư giờ không.”
Mệt mỏi, Gray đi lại trong khoang ca-bin chật hẹp. Anh biết bọn Long Đình cũng có những thông tin tình báo y hệt như họ. Có lẽ chúng cũng không mất nhiều thời gian để nhận ra tảng đá ô-xýt sắt dưới ngôi mộ Thánh Peter có bản đồ với tên Alexandria được đánh dấu trên đó.
Anh nhìn vào ba người “Vậy chúng ta sẽ tìm đâu trước?”
“Tôi có thể có một gợi ý,” Rachel nói, sau một hồi im lặng. Cô đã liên tục gõ máy rồi lại tra cứu trên màn hình “Hoặc hai.”
Mọi người quay lại nhìn cô.
“Có một tài liệu tham khảo từ thế kỷ thứ IX, lời nói của Hoàng đế Constantinople, rằng và tôi xin trích dẫn, “Kho tàng quý báu, được cất giấu dưới ngọn hải đăng Pharo.” Thực tế, người trị vì Alexandria lúc đó đã tháo dỡ một nửa ngọn hải đăng để tìm kiếm.”
Gray nhận thấy Vigor rất ấn tượng với những lời của cô cháu gái. Anh nhớ lại vị linh mục đã quan tâm thế nào tới ngọn hải đăng. Rachel có thể đã từ ảnh hưởng của ông bác đi vào tìm kiếm dấu vết ở đó.
“Những kẻ khác cũng tiến hành tìm kiếm nhưng ngọn hải đăng đóng một vai trò chiến lược cho hải cảng.”
Vigor gật đầu, cặp mắt của ông sáng lên với sự thích thú “Có nơi nào để giấu một thứ mà bạn không muốn người ta đào bới lên hơn là một kiến trúc quá quan trọng không thể dỡ bỏ được.”
“Vậy là tất cả kết thúc vào ngày 8 tháng 8 năm 1303, một trận động đất lớn đã rung chuyển cả phía đông Địa Trung Hải. Ngọn hải đăng bị phá hủy, lật nhào ngay trên hải cảng mà những di tích Ptolemaic đổ xuống.”
“Điều gì xảy ra đối với vị trí ban đầu của nó?” Gray hỏi.
“Nó thay đổi theo các thế kỷ. Nhưng vào thế kỷ XV, một ông vua Mamluk đã xây dựng một pháo đài trên bán đảo. Nó vẫn còn đến ngày nay, Pháo đài Qait Bey. Một vài công trình của nó bao gồm những khối đá nguyên bản dùng để xây ngọn hải đăng.”
“Và nếu như kho tàng không bao giờ được tìm thấy,” Vigor tiếp tục “Thì nó phải vẫn còn ở đó… dưới pháo đài.”
“Nếu như nó tồn tại…” Gray thận trọng nói.
“Vậy chúng ta sẽ làm gì? Gõ cửa và hỏi họ xem liệu có được phép đào dưới pháo đài của họ chăng?”
Kat đưa ra một giải pháp thực tiễn hơn “Chúng ta liên lạc với vệ tinh viễn thám. Họ có thể liên lạc với các vệ tinh có hệ thống ra-đa xuyên lòng đất. Để cho chúng bay qua khu vực này. Chúng ta có thể tìm kiếm những hang động hoặc hầm ngầm giống như nhà địa vật lý Đức đã tiến hành. Điều đó có thể giúp cho công việc tìm kiếm của chúng ta.”
Gray gật đầu. Đó không phải là một ý kiến tồi. Nhưng sẽ mất thời gian. Anh đã tự mình kiểm tra rồi. Phải mất tám tiếng nữa mới tới lượt tiếp của vệ tinh trinh sát.
Rachel đưa ra một giải pháp thay thế “Hãy nhớ cái cửa sau vào căn hầm dưới mộ Thánh Peter. Có thể chúng ta không đi vào phía trước của pháo đài Qait Bey, biết đâu lại có lối vào phía sau. Một lối đi ngầm giống như ở Rome.”
Gray thích ý kiến của cô.
Rachel hình như tự tin hơn khi thấy sự tán đồng trên nét mặt của anh “Có những nhóm du lịch lặn sâu xuống gần Qait Bet và khu đổ nát Ptolimaic. Chúng ta có thể dễ dàng trà trộn vào và tìm kiếm dưới nước ở khu vực hải cảng.”
“Có thể điều ấy chẳng dẫn đến cái gì” Kat nói, “nhưng nó cũng có thể cho phép chúng ta làm cái gì đó đến khi vệ tinh bay qua khu vực.”
Gray gật đầu chậm rãi. Đấy là sự khởi đầu.
Monk bước vào từ khoang lái “Tôi đã thuê được ô tô và một khách sạn mang tên giả và làm việc xong với hải quan thông qua sự can thiệp từ Washington. Tôi nghĩ có thể mọi việc sẽ ổn.”
“Không” Gray quay lại “Tôi nghĩ chúng ta sẽ cần một chiếc thuyền, có thể càng nhanh càng tốt.”
Đôi mắt của Monk mở to “Ok,” anh lại quay ra. Anh dừng ở chỗ Rachel “Nhưng cô ta sẽ không điều khiển thứ của nợ đó chứ?”
***
8 giờ 55 phút
Rome, Italy
Cái nóng nực của buổi sáng không làm nguôi ngoai tâm trạng của Raoul. Giờ đã là giữa buổi, nhiệt độ đã lên cao. Ánh nắng mặt trời thiêu cháy quảng trường đá bên ngoài tỏa ánh sáng chói chang. Cơ thể trần truồng của hắn thấm đẫm mồ hôi khi hắn đứng ở cửa dẫn ra ban công. Cánh cửa mở nhưng chẳng có một ngọn gió nào.
Hắn ghét Rome.
Hắn căm thù những bầy du khách ngu xuẩn, những gã địa phương mặc áo quần màu đen hút thuốc liên tục, tiếng chuyện trò không dứt, tiếng la hét, còi xe inh ỏi. Không gian sặc sụa mùi xăng.
Ngay cả con điếm hắn kiếm được tại Travastere, mái tóc của ả sặc mùi thuốc lá và mồ hôi. Từ con người ả toát ra mùi ghê tởm của Rome. Hắn xoa xoa lên mu bàn tay. Ít nhất tình dục cũng làm hắn thỏa mãn. Không ai nghe thấy tiếng cô ả la hét qua cái túi trùm. Hắn thích thú với cách ả quằn quại dưới lưỡi dao của hắn khi hắn giật cái núm vú ra khỏi cặp vú bánh dày màu nâu sẫm của ả. Nhưng hắn lại thấy thích thú hơn khi đấm túi bụi vào mặt ả trong khi vừa ấn sâu vào cơ thể ả.
Trên thân hình ả, hắn xả hết cơn tức giận đối với thành Rome, đối với gã đốn mạt người Mỹ suýt làm hắn bị mù, mất cơ hội để hắn làm cho chúng phải chết từ từ. Bây giờ hắn đã biết những kẻ đó đã thoát khỏi cái chết tưởng như chắc chắn.
Hắn nhìn xuống cửa sổ.
Thân thể của con điếm đã được phủ dưới lớp ga giường. Người của hắn sẽ có trách nhiệm xử lý cái xác của ả. Đối với hắn, điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.
Tiếng chuông điện thoại reo trên mặt bàn đầu giường. Hắn đã chờ đợi cú điện thoại này. Chính điều ấy làm hắn tức giận.
Hắn đi ngang qua rồi cầm máy.
“Raoul…” Hắn nói.
“Ta đã nhận được báo cáo về phi vụ tối qua” Đúng như dự đoán, đó là Đấng tối cao. Giọng ông ta đầy vẻ giận dữ.
“Thưa ngài…”
Hắn bị cắt ngang “Ta không bao giờ chấp nhận một lời bao biện. Thất bại là một chuyện nhưng sự không tuân lệnh thì không thể tha thứ được.”
Raoul trợn mắt lên khi nghe câu đó “Tôi không bao giờ không tuân lệnh.”
“Thế về người đàn bà tên là Rachel Verona thì sao?”
“Thưa ngài,” hắn hình dung ả chó cái tóc đen. Hắn nhớ mùi hương ở gáy ả khi bị hắn túm lấy dùng dao đe dọa. Hắn đã cảm nhận nhịp đập của trái tim người đàn bà đó khi nắm cổ rồi nhấc lên.
“Anh đã được chỉ thị là bắt sống nó… nhưng không được giết nó. Còn những tên khác thì phải giết. Đó là mệnh lệnh đối với anh.”
“Vâng, thưa ngài. Tôi hiểu ạ. Tuy nhiên đã ba lần, tôi cố gắng không dùng sức mạnh tổng lực đối với tốp người Mỹ ấy là do thận trọng về chuyện đó. Chúng vẫn còn tồn tại đến giờ là do phải dè chừng điều ấy.” Hắn đã không tính đến chuyện phải thanh minh cho thất bại nhưng giờ đây điều này đã đến với hắn “Tôi muốn được giải thích rõ hơn. Cái gì là quan trọng: phi vụ hay người đàn bà đó?”
Một hồi im lặng kéo dài. Raoul cười mỉm. Hắn lấy ngón tay chọc chọc vào cái xác chết nằm trên giường.
“Anh được đấy” Giọng giận dữ đã bớt đi từ phía bên kia “Người đàn bà là quan trọng nhưng phi vụ này không thể bị ảnh hưởng. Của cải và quyền lực ở chỗ cuối của con đường mòn phải thuộc về chúng ta.”
Và Raoul hiểu tại sao. Tất cả đã được nhồi nhét vào đầu óc hắn từ khi hắn còn nhỏ. Mục tiêu tối thượng của giáo phái của họ. Mang lại một trật tự thế giới mới, do Long Đình cai trị, những người kế tục của các vị vua và hoàng đế, có dòng giống trong sạch và thượng đẳng. Đó là quyền của họ khi sinh ra. Hàng thế hệ rồi, ngược trở lại bao nhiêu thế kỷ, tổ chức Long Đình của chúng đã tìm kiếm kho báu và kiến thức của cái tổ chức huyền bí đã bị thất lạc này. Ai có cái đó sẽ nắm giữ chìa khóa đối với thế giới, điều này đã được viết trong văn bản cổ xưa của thư viện Long Đình.
Giờ thì chúng đã gần đến đích rồi.
Raoul nói “Vậy thì tôi sẽ tiếp tục không cần quan tâm đến sự an toàn của người đàn bà ấy.”
Một tiếng thở dài nghe rõ. Raoul phân vân không biết ông ta có hiểu được điều này không. “Sẽ có sự thất vọng nếu mất cô ta.” Giọng bên đầu dây trả lời “Nhưng phi vụ không được thất bại. Không thể sau khi đã quá lâu. Vậy nói rõ thêm, đối phương phải bị tiêu diệt bằng mọi cách và bất kỳ cách nào. Liệu thế đã rõ ràng chưa?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Tốt. Nhưng tôi cũng đề nghị nếu như cơ hội cho phép mà bắt sống được người phụ nữ đó thì vẫn tốt hơn. Tuy nhiên, không cần mạo hiểm không cần thiết.`”
Raoul nắm chặt bàn tay. Hắn hỏi một câu hỏi vẫn làm hắn thắc mắc. Chưa bao giờ hắn hỏi điều này. Hắn đã học cách biết giữ gìn sự tò mò về phía mình, tuân lệnh không được hỏi gì. Tuy nhiên, giờ đây hắn vẫn hỏi “Tại sao cô ta lại quan trọng như vậy?”
“Dòng máu của Long Đình chảy mạnh trong huyết quản của cô ta. Trở lại những ngày xa xưa nước Phổ của chúng ta. Thực ra, cô ta đã được lựa chọn cho anh, làm bạn tình của anh. Triều đình thấy được giá trị lớn lao trong việc tăng cường dòng giống của chúng ta qua sự ràng buộc về dòng máu như vậy.”
Raoul đứng thẳng dậy. Hắn đã bị tước bỏ quyền có con đến tận lúc này. Một vài người phụ nữ hắn đã làm có bầu đều bị buộc phải nạo thai hay bị giết. Điều cấm kỵ là làm nhơ bẩn dòng máu hoàng gia với việc sản sinh ra những đứa trẻ từ bùn đen.
“Ta hy vọng thông tin này sẽ khuyến khích ngươi tìm kiếm cơ hội để chiếm được cô ta. Nhưng như ta đã nói ngay cả máu của cô ta cũng phải loại bỏ nếu như phi vụ đe dọa. Hiểu chưa?”
“Vâng, thưa ngài” Raoul thấy như hơi thở của mình ngắn lại. Hắn lại hình dung cách cô ả túm chặt trong tay hắn dưới mũi dao. Mùi sợ hãi của cô ả. Cô ả sẽ là một nữ bá tước có hạng… nếu không như vậy thì cũng sẽ là một con ngựa giống tuyệt vời. Long Đình đã giấu không ít những phụ nữ như vậy ở khắp châu Âu, nhốt họ lại khiến họ sống chỉ để sản xuất trẻ em.
Raoul tự nhiên lại thấy cương cứng lên khi nghĩ đến cơ hội như vậy.
“Mọi việc đã được thu xếp ở Alexandria” Đấng tối cao kết thúc. “Cuộc chơi đã gần chấm dứt. Giành lấy những gì chúng ta cần. Giết hết những kẽ chắn ngang đường ngươi.”
Raoul chậm rãi gật đầu mặc dù Đấng tối cao không nhìn thấy.
Hắn hình dung ra người đàn bà tóc đen… và những gì hắn sẽ làm với cô ả.
***
9 giờ 34 phút sáng
Rachel đứng cạnh chân vịt của chiếc thuyền cao tốc, đầu gối gác lên ghế phía sau để giữ thăng bằng. Một khi đã vượt qua phao ranh giới, cô gạt cần khởi động lao vụt qua vịnh. Thuyền lướt trên mặt biển bằng phẳng, tạo ra những tiếng đập mạnh vào các con thuyền khác.
Gió làm tóc cô bay lên. Những giọt nước bắn vào mặt cô mát lạnh. Ánh nắng chiếu sáng lấp lánh trên mặt biển màu xanh ngọc của Địa Trung Hải.
Mọi cảm giác của cô đều như lâng lâng.
Cô đã tỉnh hẳn sau chuyến bay dài và hàng tiếng đồng hồ ngồi trước máy tính. Họ đã hạ cánh cách đây bốn mươi phút. Nhờ có những cú phôn của Monk, họ đã nhanh chóng làm xong các thủ tục hải quan và thấy một con thuyền cùng các thiết bị lặn sẵn sàng chờ họ tại cầu tàu cảng phía tây.
Rachel ngoái lại nhìn phía sau.
Thành phố Alexandria vươn lên qua cổng vòm của vịnh trên nền nước biển xanh, một khu vực hiện đại với các tòa nhà cao tầng, khách sạn và dinh thự. Những cây cọ chạy dọc theo bờ biển chia cắt thành phố và biển xanh. Chẳng thấy dấu vết gì về quá khứ cổ xưa của thành phố. Ngay cả trên nền thư viện Alexandria cổ kính bị mất đi cách đây bao nhiêu thế kỷ đã mọc lên một khối kiến trúc khổng lồ sắt thép, bê-tông và thủy tinh, điểm xuyết bằng các bể bơi trên mái nối liền với nhau bằng một đường xe điện nhỏ.
Giờ đây khi ở trên mặt biển, một vài hình ảnh của quá khứ lại được tái hiện. Những chiếc thuyền đánh cá bằng gỗ khắp nơi được sơn trang trí đủ màu sắc, vài cái giương buồm, có cái thì dùng hai mái chèo theo kiểu Ai Cập cổ đại.
Phía trước có thể nhìn thấy một thành phố cổ từ thời kỳ Phục hưng, Pháo đài Qait Bey. Nó tọa lạc trên một doi đất chia cái vịnh này thành hai. Một con đường bằng đá nối liền pháo đài với thành phố. Dọc theo con đường đá, những ngư dân với những cây sào dài đang nghỉ ngơi, nói chuyện với nhau ầm ĩ như thể họ có hàng thế kỷ phía sau.
Rachel nghiên cứu Pháo đài Qait Bey. Được xây dựng toàn bằng đá vôi và đá cẩm thạch, pháo đài lấp lánh sáng trên nền đá cao tới hai mươi feet. Ở đó, những bức tường cao ngất nghểu, phía trên là hành lang có tay vịn uốn lượn, được gác bởi bốn tháp canh có đường chạy quanh nhô cao hơn một chút. Một cột cờ cắm từ tháp trong, phấp phới lá cờ Ai Cập có sọc đỏ, trắng và đen cùng với con ó vàng của Saladin.
Đứng đó, Rachel hình dung ra cái kiến trúc một thời đã được xây dựng ở đây: Ngọn hải đăng Pharo cao bốn mươi tầng tựa trên những cây cột lớn giống như một cái bánh cưới, tô điểm với pho tượng khổng lồ Poseidon với ngọn đuốc vĩ đại cháy bùng bùng và tỏa khói liên tục.
Không còn gì sót lại của cái kỳ quan của thế giới cổ xưa nữa trừ một vài tảng đá vôi được giữ để xây dựng lại pháo đài. Các nhà khảo cổ Pháp cũng đã phát hiện những tảng đá lớn chìm ở hải cảng phía đông cùng với một pho tượng của Poseidon. Đó là tất cả những gì còn lại của kỳ quan thế giới này sau khi trận động đất lớn đã tàn phá toàn bộ khu vực.
Hoặc là vậy? Liệu có còn một kho báu nữa có niên kỷ còn xa xôi hơn được chôn giấu ở dưới những chỗ này?
Ngôi mộ đã mất của Alexander Đai đế.
Đó là cái mà họ đã đến đây để tìm ra.
Phía sau cô, những người khác đã tập hợp xung quanh các thiết bị lặn, tiến hành thử và kiểm tra thiết bị, van an toàn, chuông…
“Liệu chúng ta có cần tất cả những thiết bị này không?” Gray hỏi. Anh cầm lên một cái mặt nạ lặn. “Áo giáp dày và tất cả thiết bị đặc biệt?”
“Anh cần mọi thứ” Vigor nói. Ông là một thợ lặn có kinh nghiệm.
Là một nhà khảo cổ ở Địa Trung Hải, lặn là điều phải làm. Rất nhiều trong số những khám phá hấp dẫn ở khu vực này được tìm thấy dưới nước, kể cả ở đây Alexandria, nơi lâu đài thất lạc của Cleopatra bị chìm dưới nước ở chính cái vịnh này mới được tìm thấy.
Nhưng đó cũng là lý do những kho tàng dưới đáy biển vẫn giấu mặt bao lâu nay.
Vigor giải thích. “Ô nhiễm ở đây, tại hải cảng phía Đông, cùng với đường cống thoát đã làm cho nước trong khu vực rất nguy hiểm nếu không bảo vệ cẩn thận. Ngành du lịch Ai Cập đã đưa ra ý tưởng thiết lập một công viên khảo cổ dưới nước tại đây, có những thuyền đáy thủy tinh. Tuy nhiên nguy hiểm nhiễm độc từ kim loại và bệnh thương hàn là thực sự có đối với những người xuống nước ở đây.”
“Được lắm.” Monk nói. Mặt anh ta đã tái nhợt khi thấy đám thiết bị lủng củng này rồi. Trông thật chán nản. “Nếu như không chết đuối thì cũng chết vì những bệnh ngoài da nào đó. Các bạn cũng biết là tôi có lý do để gia nhập lực lượng đặc biệt trên bộ chứ không phải hải quân hay không quân. Mặt đất vững chãi.”
“Anh có thể ở trên thuyền.” Kat nói.
Monk lườm cô.
Nếu như tìm thấy một cái đường ngầm dưới nước dẫn đến một căn hầm chứa kho báu dưới phái đài, họ sẽ phải có mặt tất cả. Họ đều là những thợ lặn đã có bằng. Họ sẽ tìm kiếm theo ca, thay nhau nghỉ ngơi và canh gác con thuyền cùng đồ đạc.
Monk năn nỉ được thực hiện ca gác đầu tiên.
Rachel lái con thuyền dọc theo bờ phía đông của mỏm đất. Phía trước mặt, pháo đài Qait Bey trông lớn dần, che lấp chân trời trước mặt. Từ chân cảng cầu, trông nó không đồ sộ lắm. Thăm dò chiều sâu của cả cái pháo đài này quả là một công việc khó nhọc.
Một nổi băn khoăn cứ ám ảnh cô. Chính là ý kiến của cô thực hiện việc điều tra này. Nếu như cô sai thì sao? Có thể cô đã bỏ qua một dấu vết mất tích nào ở đâu đó.
Cô chạy chậm dần, mỗi lúc một lo lắng.
Họ đã chia lô ở khu vực để có thể thăm dò một cách có hệ thống quanh pháo đài. Cô gạt cần khởi động tiến tới khu vực thăm dò thứ nhất.
Gray bước tới gần cô. Anh để một tay lên ghế. Ngón tay anh chạm vào vai cô. “Đây là khu vực A”.
Cô gật đầu. “Tôi sẽ hạ neo ở đây rồi treo lá cờ màu da cam để cảnh báo có người lặn dưới nước.”
“Cô ổn chứ?” Anh hỏi, cúi xuống.
“Hy vọng đây sẽ không phải là một cú đuổi ngỗng trời như người Mỹ các anh thường nói.”
Anh cười trấn an. “Cô đã cho chúng tôi điểm xuất phát. Lao xuống nước cũng chưa khó bằng. Vậy thì tôi thà theo đuổi ngỗng trời còn hơn không làm gì.”
Không nhận ra điều đó, cô xoay vai lại làm ngón tay của anh chạm mạnh vào cô hơn. Anh không rụt tay lại.
“Đó là một kế hoạch tốt.” Anh nói, giọng khẽ khàng.
Rachel gật đầu, tránh nhìn cặp mắt ướt át của anh. Cô tắt máy rồi bấm nút hạ neo. Cô cảm thấy có tiếng rung khẽ khi chiếc xích thả neo rơi xuống nước.
Gray quay lại những người khác. “Hãy mặc quần áo lặn vào. Chúng ta sẽ xuống đây, kiểm tra đồng hồ lặn rồi bắt đầu tìm kiếm.”
Rachel để ý tay anh vẫn đặt trên vai cô.
Cảm giác đó thật dễ chịu.
10 giờ 14 phút.
Gray ngửa người để lao xuống biển.
Nước ôm trọn lấy anh. Không còn một kẻ hở nào để đá phải tiếp xúc với ô nhiễm và nước bẩn. Bộ quần áo lặn đã được cài chặt cẩn thận. Cổ và cổ tay đã được phủ bằng lớp cao su đặc biệt. Mặt nạ AGA hoàn toàn che kín khuôn mặt anh, chụp chiếc mũ kiểu Viking lên vai. Nút thở được gắn phía trên giúp anh dễ dàng nói chuyện.
Gray thấy những tia sáng qua màn kính mũ lặn, tuy nhiên độ nhìn ở đây rất kém vì bùn và những tạp chất che khuất tầm nhìn chỉ khoảng từ mười đến mười lăm feet.
Không đến nỗi tồi. Có thể còn tệ hơn nữa.
Cái áo lặn có phao giúp anh nổi trở lại trên mặt biển. Anh nhìn Rachel và Vigor nhảy xuống biển từ mạn thuyền bên kia. Kat đã ở dưới nước bên cạnh anh.
Anh thử máy bộ đàm, loại Buddy Phone siêu âm truyền dẫn trên một tần số. “Mọi người có nghe tôi rõ không? Kiểm tra đi?” Anh nói.
Mọi tín hiệu đều trả lời tốt, kể cả Monk đang làm nhiệm vụ gác ca đầu tiên trên thuyền. Monk cũng có cả một hệ thống video hải quân để kiểm tra hoạt động của cả nhóm phía dưới biển.
“Chúng ta sẽ lặn sâu xuống đáy rồi đi dọc về phía bờ trong một cách rộng. Mọi người đều biết vị trí của mình rồi chứ?”
Trả lời khẳng định là tốt.
“Hãy lặn xuống.” Anh ra lệnh.
Anh nhả khí ra để hạ thấp dần xuống dưới. Đây là thời điểm mà những người thợ lặn mới toanh cảm thấy cơn ù tai dễ sợ. Gray chưa từng có cảm giác đó. Trái lại anh lại thấy được hoàn toàn tự do. Anh thấy như mình không có trọng lượng, đang bay đi, có thể làm mọi động tác nhào lộn.
Anh phát hiện Rachel lao xuống nước bên kia mạn thuyền. Có thể dễ dàng nhận ra cô bằng đường vạch sọc màu đỏ ngang ngực bộ quần áo lặn màu đen của cô. Họ phải dùng màu sắc khác biệt để dễ dàng nhận ra nhau. Bộ của anh màu xanh lơ. Kat màu hồng, Vigor màu xanh lá cây. Monk cũng đã mặc quần áo lặn sẵn sàng vào ca trực. Anh ta mặc màu vàng, về mặt nào đó phù hợp với thái độ của anh đối với môn lặn.
Gray ngắm nhìn Rachel. Giống như anh, cô có vẻ như hoàn toàn thích không gian tự do dưới những lớp sóng biển. Cô vặn người rồi lao xuống phía dưới. Anh dành mấy giây để quan sát cô rồi tập trung lặn xuống dưới.
Đáy biển toàn cát, lởm chởm những mảnh vụn.
Gray điều chỉnh phao để có thể di chuyển dễ dàng dưới đáy biển, anh quay bên phải rồi bên trái. Mọi người đã vào vị trí tương tự.
“Liệu mọi người có thể nhìn thấy nhau không?” Anh hỏi.
Mọi người gật đầu và khẳng định.
“Monk, video nhìn dưới nước có hoạt động không?”
“Trông các bạn như những bóng ma. Tầm nhìn kém. Tôi sợ không nhìn thấy khi đi xa. ”
“Tiếp tục giữ liên lạc bằng radio. Nếu có vấn đề gì, hãy phát lệnh báo động rồi di chuyển về phía chúng tôi.”
Gray hoàn toàn tin rằng họ đang nhảy vào sân của Long Đình và anh không muốn đối mặt với Raoul chút nào. Anh cũng không biết chúng đã vượt hơn mình là bao nhiêu.
Nhưng ở đây có rất nhiều thuyền. Đang là ban ngày mà.
Tuy nhiên, họ cần phải nhanh chóng hành động.
Gray chỉ về phía trước “Ok, chúng ta tiến về phía bờ, giữ khoảng cách không quá mười lăm feet. Luôn quan sát lẫn nhau mọi lúc.”
Bốn người bọn họ có thể kiểm tra một khoảng cách hai mươi lăm thước Anh. Khi lên bờ nếu không phát hiện được gì, họ sẽ lại xuống tiếp dọc bờ biển làm thêm hai mươi lăm thước Anh rồi bơi trở lại con thuyền đang neo. Cứ thế từng khu vực một họ có thể kiểm tra toàn bộ khu pháo đài.
Gray bắt đầu. Anh có con dao thợ lặn gắn vào cổ tay lặn có đèn flash. Khi mặt trời đang chiếu trực tiếp trên đầu và nước không quá sâu cũng không cần thiết phải có thêm ánh sáng bổ trợ, nhưng khi thăm dò vào những hang hốc thì lại rất cần. Không nghi ngờ gì điểm họ tìm kiếm không bằng phẳng hoặc đã bị người ta phát hiện trước rồi.
Đó lại là một câu đố nữa phải trả lời.
Khi đang bơi, anh vẫn cố suy nghĩ xem họ đã thiếu thứ gì. Có thể còn có nhiều dấu tích nữa ở trên bản đồ vẽ trên tảng đá hơn là chỉ có Alexandria. Có thể còn có những dấu tích nữa chôn vùi ở vị trí nơi đây. Liệu họ có thiếu cái gì không? Liệu gã Raoul có lấy đi một dấu tích nào trong cái hang dưới ngôi mộ của Thánh Peter không? Liệu tụi Long Đình đã có câu trả lời chưa?
Không trả lời được, anh bơi nhanh hơn. Anh không nhìn thấy Kat bơi phía bên phải với anh. Bơi hơi chậm, anh thấy Kat xuất hiện.
Một hình khối ở trước, nhô ra từ đáy biển toàn cát. Một hòn đá? Hay khối nhũ thạch?
Anh vung chân lên,
Qua màng che phủ bùn, nó xuất hiện.
Quái quỷ gì vậy?
Khuôn mặt bằng đá chằm chằm nhìn anh, một khuôn mặt người, bị nước biển và thời gian bào mòn nhưng đường nét vẫn sắc sảo, rõ nét. Phía thân trên ngồi chồm hỗm trên một con sư tử.
Kat để ý sự chú ý của anh tiến gần lại. “Một con nhân sư?”
“Một con nữa ở đây,” Vigor thông báo. “Bị vỡ một bên. Những thợ lặn cho biết có hàng chục con nằm rải rác ở đáy biển gần pháo đài. Một số từ ngọn hải đăng.”
Mặc dù rất vội nhưng anh cũng không thể không nhìn kỹ bức tượng và kinh ngạc. Anh nhìn cái mặt, được đẽo bằng tay hai nghìn năm trước đây. Anh thò tay chạm vào nó, như cảm nhận khoảng cách về thời gian giữa anh và người đẽo pho tượng.
Vigor nói từ một nơi nào đó. “Ráp vào những diễn giải các câu đố chắc là canh gác bí mật này.”
Gray rút tay lại. “Ông nói vậy là thế nào?”
Một cái chặt lưỡi. “Anh có biết lịch sử câu chuyện về những nhân sư không? Con quái vật này làm mọi người ở Thebe hoảng sợ, ăn thịt họ nếu họ không giải đáp được câu đố của nó. Con gì có một giọng nói rồi có bốn chân, hai chân và ba chân?”
“Thế còn câu trả lời?” Gray hỏi.
“Con người,” Kat nói tiếp theo anh, “đó là con người, lúc còn nhỏ bò bằng bốn chân, khi lớn đi bằng hai chân, lúc già phải dùng gậy để đi”.
Vigor tiếp tục. “Oedipus đã giải được câu đố nên con nhân sư lao vào tảng đá chết.”
“Rơi xuống từ một đỉnh núi” Gray nói. “Giống như những con nhân sư này.”
Anh lùi ra khỏi pho tượng đá rồi bơi tiếp. Họ còn có câu đố của chính mình cần phải giải đáp. Sau mười phút im lặng tìm kiếm họ tới bờ biển lởm chởm đá. Gray tới một chỗ toàn những tảng đá lớn nhưng không có lối vào, không thấy gì cả.
“Quay lại,” anh nói.
Họ quay ra, bơi ra xa bờ biển hướng về chiếc thuyền.
“Ở đó tình hình ổn chứ, Monk?” Gray hỏi.
“Tắm nắng dễ chịu lắm.”
“Tiếp tục gác, chúng tôi lại tiếp tục.”
“Vâng, thưa chỉ huy.”
Gray tiếp tục trong vòng bốn mươi phút nữa, leo lên thuyền rồi lại xuống. Anh bắt gặp một vỏ tàu bị đắm, những tảng đá, cột bị gãy… những con cá bơi lững lờ qua lại.
Anh kiểm tra lượng khí, thở mạnh, vẫn còn đầy một bình nữa. “Liệu có ai thấy thiếu khí không?”
Sau khi trao đổi, mọi người quyết định tiếp tục thêm hai mươi phút nữa, lên thuyền nghỉ nửa tiếng rồi lại tiếp tục xuống nước.
Trong khi bơi, anh lại trở về ý nghĩ ban đầu. Anh vẫn cảm thấy như họ đã thiếu cái gì đó quan trọng. Nếu như Long Đình đã lấy đi một vật gì đấy từ ngôi mộ dấu tích thứ hai. Anh đạp mạnh. Mình phải để nỗi sợ hãi đó mất đi. Anh vẫn phải tiếp tục như thể ngang với Long Đình có cùng những thông tin.
Sự im lặng của độ sâu tiếp tục đè nặng lên anh. “Hình như có điều gì đấy không ổn?” Anh lẩm bẩm.
Radio truyền dẫn câu nói của anh.
“Anh tìm thấy gì à?” Kat hỏi. Bóng cô đang bơi lại gần anh.
“Không có gì. Chỉ là càng ở lâu dưới này, tôi càng có cảm giác chúng ta đang làm một việc sai lầm.”
“Tôi xin lỗi.” Rachel nói từ khoảng không nào đó, giọng có vẻ tuyệt vọng. “Có thể tôi đã đặt quá nhiều hy vọng.”
“Không.” Gray nhớ lại vẻ mặt của cô lúc nãy. Anh thầm rủa mình đã khơi lại chuyện ấy.
“Rachel, tôi nghĩ là cô đã định ra nơi chính xác để tìm kiếm. Vấn đề là kế hoạch của tôi. Việc tìm kiếm từng khu vực một xem ra không ổn.”
“Anh nói vậy nghĩa là thế nào, chỉ huy?” Kat nói. “Có thể mất thời gian nhưng chúng ta sẽ kiểm tra được cả khu vực.”
Chính là vậy. Kat đã làm sáng tỏ điều đó cho anh. Anh không phải là người luôn theo những cái gì có trật tự, phương pháp luận bướng bỉnh. Trong khi một vài vấn đề được giải quyết tốt nhất theo cách đó thì bí mật này lại không phải nằm trong số ấy.
“Chúng ta thiếu một dấu vết.” Anh nói. “Tôi biết rồi. Chúng ta nhận ra bản đồ trên mộ, phát hiện ra ngôi mộ của Alexander rồi bay đến đây. Chúng ta tìm kiếm qua sách vở, thống kê, tài liệu, cố gắng giải đáp một câu đố mà đã làm đau đầu các nhà sử học hàng nghìn năm nay. Chúng ta là ai mà có thể giải đáp nó trong vòng một ngày?”
“Vậy anh muốn chúng ta làm gì?” Kat hỏi.
Gray dừng lại. “Chúng ta cần trở lại. Chúng ta đã dựa trên nghiên cứu của mình từ các tài liệu lịch sử phổ biến đối với tất cả. Chúng ta chỉ có một lợi thế đối với những kẻ săn lùng kho báu khác hàng thế kỷ qua là những gì phát hiện ra ở dưới ngôi mộ của Thánh Peter. Chúng ta đã mất một dấu vết ở dưới đó.”
Hoặc là nó đã bị lấy mất. Gray nghĩ. Nhưng anh không nói ra sự băn khoăn ấy.
“Có thể chúng ta không để lọt bằng chứng ở ngôi mộ.” Vigor nói.
“Rất có khả năng chúng ta không nhìn kỹ. Hãy nhớ khu hầm mộ. Những cái ấy cũng có tầng tầng lớp lớp. Liệu có thể có một tầng nữa trong câu đố này không?”
Im lặng trả lời ông ta… cho đến khi một giọng vang lên giải quyết tất cả.
“Cái ngôi sao cháy bùng chết tiệt đó,” Monk nói. “Nó không chỉ có chỉ xuống thành phố Alexandria… nó chỉ xuống tảng đá.”
Gray cảm thấy sự thật trong câu nói của Monk. Họ đã quá tập trung vào cái bản đồ được khắc, ngôi sao đang cháy, sự ám chỉ của tất cả nhưng họ lại quên đi phương thức bất thường của người họa sĩ.
“Ô-xýt-sắt. “ Kat nói.
“Cô biết gì về cái đó?” Gray hỏi rất tin về hiểu biết của cô đối với lĩnh vực địa chất.
“Đấy là ô-xýt-sắt. Người ta tìm thấy trữ lượng lớn của nó ở khắp châu Âu. Hầu hết là sắt nhưng thỉnh thoảng nó cũng chứa một khối lượng iridium và titanium.”
“Iridium?” Rachel hỏi. “Liệu có phải đấy là một trong những chất hỗn hợp không? Trong hài cốt của các vị Tiên tri?”
“Đúng vậy.” Kat trả lời, giọng cô nghe căng thẳng qua radio. “Nhưng tôi không tin điều đó là phần có ý nghĩa.”
“Cái gì?” Gray hỏi.
“Tôi xin lỗi, chỉ huy. Lẽ ra tôi phải nghĩ tới điều này. Sắt trong ô-xýt-sắt thường có từ trường yếu, không khỏe như ô-xýt-sắt song thỉnh thoảng nó cũng được dùng như cực nam châm.”
Gray nhận ra sự ám chỉ. Nam châm cũng đã được dùng để mở ngôi mộ thứ nhất. “Vậy ngôi sao không chỉ vào Alexandria, nó lại chỉ vào hòn đá có từ trường, đó là cái chúng ta cần tìm.”
“Thế thì thế giới cổ đại làm gì với cực nam châm?” Vigor hỏi, giọng có vẻ kích động.
Gray hiểu câu trả lời. “Họ làm la bàn.” Anh mở không khí lọt vào áo lặn rồi nhô lên mặt biển. “Tất cả mọi người lên thuyền.”
***
11 giờ 10 phút
Thời gian tính từng phút một, họ tháo bỏ các thứ trang bị. Rachel lại trèo vào khoang lái, vui ra mặt khi lại cầm lái. Cô ấn nút để nhổ neo. Con thuyền lao lên phía trước.
“Chạy chậm thôi.” Gray nói. Anh đang ngồi sát cô.
“Tôi ủng hộ điều đó.” Monk nói.
“Tôi sẽ theo dõi la bàn.” Gray tiếp tục. “Cô hãy chạy với tốc độ thật chậm vòng quanh khu pháo đài. Nếu thấy kim la bàn dịch chuyển, chúng ta sẽ lập tức nhổ neo rồi tìm kiếm phía dưới.”
Rachel gật đầu. Cô cầu nguyện cho bất cứ tảng đá có nam châm nào nằm dưới đó sẽ đủ mạnh để con thuyền của họ có thể phát hiện ra qua la bàn.
Khi neo đã được kéo lên, cô nhẹ nhàng gạt cần khởi động. Dịch chuyển về phía trước khó có thể phát hiện thấy.
“Tuyệt vời.” Gray thì thào.
Họ trượt lên phía trước. Mặt trời chậm chạp nhô lên trên cao. Họ kéo nắp boong lên che ánh nắng chói chang vào chiếc thuyền. Monk nằm soài trên chiếc ghế lớn, ngáy nhè nhẹ. Không ai nói câu nào.
Mỗi khi con tàu chạy chậm lại Rachel lại cảm thấy không yên tâm chút nào.
“Nếu như tảng đá không nằm dưới đó thì sao?” Cô thì thào với Gray, khi anh đang chăm chú nhìn vào la bàn. “Nếu như nó nằm trong pháo đài thì sao?”
“Vậy chúng ta sẽ lục soát chỗ tiếp theo.” Gray nói, mắt hướng về phía pháo đài đá.
“Nhưng tôi nghĩ cô nói đúng khi đề cập đến một lối vào bí mật. Tảng đá ô-xýt hóa nằm trên hang bí mật dẫn đến cái hang dẫn xuống kênh con sông Nước. Có lẽ đấy là một tầng nữa của câu đố.”
Kat nghe họ nói chuyện, một cuốn sách ở trên đùi. “Có thể chúng ta đã đọc quá nhiều về vấn đề ấy rồi.” Cô nói. “Hãy cố nặn ra điều chúng ta muốn để đối phó với câu đố.”
Ở phía dưới, Vigor đang lấy tay xoa xoa bụng chân sưng phồng lên sau khi bơi. “Tôi nghĩ rằng câu hỏi cuối cùng là hòn đá có thể nằm ở đâu - ở trên bộ hay dưới nước, phụ thuộc vào các nhà giả kim học giấu vết tích ở đâu. Chúng ta đã phán đoán những dấu vết được giấu vào thời gian nào trong thế kỷ VIII, có thể trước sau một chút, vào lúc cao điểm của một cuộc chiến giữa Chủ nghĩa Ngộ đạo và chính thống. Như vậy các nhà giả kim có thể giấu vết tích của họ trước hoặc sau khi tháp hải đăng Pharo sụp đổ vào năm 1303.”
Chẳng ai có câu trả lời cả.
Nhưng vài phút sau, trên mặt la bàn thấy có sự chuyển dịch mạnh.
“Dừng lại.” Gray hét lên.
Cái kim lại ổn định. Kat và Vigor nhìn họ.
Gray đặt tay lên vai Rachel. “Quay lại.”
Rachel gạt cần lái, cô để cho sóng đập vào mạng thuyền phía sau. Cái kim lại thấy chuyển động, quay đi ít nhất một phần tư.
“Hạ neo.” Gray ra lệnh.
Cô ấn nút hạ neo, thở hổn hển.
“Có cái gì ở dưới.” Gray nói.
Mọi người bắt đầu khởi động ngay lập tức, vớ lấy bình khí mới.
Monk thức giấc rồi ngồi dậy. “Cái gì vậy?” Anh nói giọng mỏi mệt.
“Trông như anh lại tiếp tục nhiệm vụ canh gác nữa rồi.” Gray nói. “Trừ phi anh muốn xuống nhúng người.”
Monk càu nhàu không nói gì.
Khi chiếc thuyền đã ổn định và lá cờ màu da cam được giơ lên, bốn thợ lặn lúc nãy nhảy xuống nước.
Rachel xả phao và bắt đầu lặn. Giọng của Gray đến với cô qua máy bộ đàm. “Hãy để ý la bàn đeo ở cổ tay. Zero là bất thường.”
Rachel theo dõi la bàn khi cô lặn xuống. Nước ở đây khá nóng. Chưa đầy mười mét. Cô xuống đến nền cát rất nhanh. Những người khác cũng xuống nhanh chỗ cô đứng, trông như những chú chim.
“Không có gì ở đây.” Kat nói.
Đáy biển là một chỗ bằng phẳng toàn cát.
Rachel nhìn chăm chú vào la bàn. Cô nhao người ra rồi lại quay lại. “Điều bất thường ở ngay đây.”
Gray cúi xuống đáy biển rồi đưa tay rà một lượt. “Cô ta nói đúng.”
Anh vòng tay lấy con dao đeo bên tay kia rồi bắt đầu đào vào nền cát mềm mại. Mũi dao đâm sâu xuống, bùn cát bắn tung lên làm hạn chế tầm nhìn.
Đến nhát thứ bảy, mũi dao như khựng lại không thể đi sâu quá hơn vài centimét.
“Có cái gì đó.” Gray nói.
Anh rút lưỡi dao rồi bắt đầu đào vào cát. Cảnh bỗng tối hẳn. Rachel không nhìn thấy gì nữa.
Cô nghe thấy tiếng thở gấp từ Gray.
Rachel tiến đến gần hơn, Gray lùi lại. Chỗ cát bị tản ra rồi lại đọng lại.
Nhô lên trên cát là một pho tượng bán thân của một người đàn ông.
“Tôi nghĩ rằng đấy là cực nam châm.” Kat nói, nghiên cứu chất đá của pho tượng. Cô cũng chà xát la bàn của mình bên tay cô lên pho tượng. Cái kim lập tức nhảy. “Ô-xýt sắt có từ tính.”
Rachel tiến đến gần hơn, nhìn vào khuôn mặt. Không có sự nhầm lẫn nào về sự giống nhau của các đường nét. Cô đã nhìn những khuôn mặt như vậy vài ba lần hôm nay rồi.
Gray cũng nhận ra điều đó.
“Lại một con nhân sư khác.”
***
12 giờ 14 phút
Gray dành mười phút để cạo sạch vai và phía trên của pho tượng, thò tay vào hình hài sư tử ở dưới. Không còn nghi ngờ gì nữa đây là một trong các con nhân sư giống như những con khác nằm la liệt trên biển.
“Giấu trong số những con khác.” Vigor nói. “Tôi đoán điều ấy khi trả lời câu hỏi khi nào các nhà giả kim giấu vật báu của họ ở đây.”
“Sau khi ngọn hải đăng bị sụp đổ.” Gray nói.
“Chính xác là vậy.”
Họ bu quanh con nhân sư có nhiễm từ, chờ cho đám bụi và cát ổn định.
Vigor tiếp tục. “Hội các vị Tiên tri cổ xưa chắc phải biết vị trí của ngôi mộ Alexander sau khi Septimus Severus giấu nó vào thế kỷ thứ ba. Họ giữ cho nó không bị đụng chạm đến, giữ được những bản thảo quý báu nhất của cái thư viện đã mất. Có lẽ vào trận động đất năm 1303 không chỉ làm đổ ngọn hải đăng mà còn làm ngôi mộ phát lộ. Họ nắm lấy cơ hội này để lại giấu tiếp, tận dụng thời gian hỗn loạn sau vụ động đất để chôn vùi dấu vết tiếp theo để những thế kỷ sau lại chôn vùi tiếp nữa.”
“Nếu như ông đúng,” Gray nói, “sẽ chỉ ra ngày tháng khi những dấu vết này được chôn. Hãy nhớ là chúng ta đã từng dự đoán rằng những dấu vết được đặt xung quanh thế kỷ XIII. Chúng ta chỉ cách vài năm. 1303. Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIV.”
“Hừm…” Vigor trôi đến gần hơn pho tượng.
“Cái gì?”
“Nó làm tôi phân vân. Cũng trong thập kỷ đó, giáo hoàng thực sự đã bị đánh đuổi ra khỏi thành Rome và di tản sang nước Pháp. Phái chống giáo hoàng đã cai trị Rome cho tới thế kỷ sau.”
“Vậy ư?”
“Cũng tương tự như vậy, hài cốt của các vị Tiên tri bị di rời từ Italy sang nước Đức vào năm 1162, một thời gian khác nữa khi vị giáo hoàng thực sự bị đánh chạy khỏi Rome và kẻ chống lại giáo hoàng ngồi trên ngai vàng.” Gray theo sau luồng suy nghĩ này. “Như vậy là những nhà giả kim đã cất giấu kho báu mỗi khi giáo hoàng bị đe dọa hiểm nguy.”
“Có vẻ là như vậy. Điều đó cắt nghĩa là hiệp hội những nhà thông thái đã có sự ràng buộc với giáo hội. Có thể, các nhà giả kim đã gia nhập Thiên chúa giáo lại mở cuộc tìm kiếm những kiến thức bí hiểm, những người Thiên chúa giáo Thomas.”
“Và hội bí mật này sát nhập với nhà thờ cơ đốc giáo?”
Vigor gật đầu. “Khi nhà thờ chính thống bị đặt trước sự đe dọa, thì nhà thờ bí mật cũng vậy. Vì vậy họ tìm cách bảo vệ. Đầu tiên là di chuyển chỗ di cốt đến nơi an toàn ở Đức vào thế kỷ thứ XII. Rồi sau những năm vật lộn ở hải ngoại, họ đã giấu phần tinh túy nhất trong số kiến thức của họ.”
“Ngay cả nếu đó là thực sự, cái đấy sẽ giúp gì cho việc chúng ta tìm mộ Alexander?” Kat hỏi.
“Giống như những dấu tích dẫn đến mộ Thánh Peter đã bị chôn vùi trong những câu chuyện của đạo Cơ đốc giáo. Những dấu vết ở đây có thể liên quan đến những truyền thuyết về Alexander, chuyện thần thoại Hy Lạp.” Vigor lấy tay xoa lên mặt tượng.
“Tại sao khác lại đánh dấu lối vào bằng con nhân sư?”
“Những bậc thầy về câu đố của người Hy Lạp.” Gray lẩm bẩm.
“Và con quỷ này sẽ giết anh ngay lập tức nếu không trả lời đúng các câu đố đó.” Vigor nhắc lại. “Có lẽ việc lựa chọn hình tượng này cũng là một lời cảnh báo.”
Gray nghiên cứu con nhân sư khi cát đã trôi đi, cũng như vẻ bí hiểm của nó. “Vậy thì chúng ta hãy giải câu đố này.”
***
12 giờ 32 phút
Xuống Alexandria lần cuối cùng.
Chiếc máy bay tư nhân Gulfstrem IV được phép mặt đất cho hạ cánh. Seichan lắng nghe câu chuyện của phi hành đoàn qua cửa khoang lái mở toang. Cô ngồi ghế ngay sát cửa. Ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ chỗ cô ngồi.
Một thân hình to lớn bước đến cô từ phía bên trái.
Raoul.
Cô tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ khi chiếc máy bay lượn một vòng trên vùng nước biển màu xanh sẫm của Địa Trung Hải chuẩn bị hạ cánh xuống đường băng.
“Thế cơ sở của cô dưới mặt đất nói điều gì?” Raoul hỏi, nhấn từng chữ một.
Có thể hắn để ý thấy cô đã sử dụng máy điện thoại của máy bay. Cô mân mê hình con rồng bằng bạc trên sợi dây chuyền. “Những người kia vẫn ở dưới nước. Nếu như ông may mắn, có thể họ sẽ giải được điều bí mật đó cho ông.”
“Ta không cần họ làm điều ấy.” Raoul quay lại trở về chỗ đồng bọn, một tốp chừng mười sáu tên, trong đó có cả những kẻ bậc thầy của Long Đình.
Seichan đã từng gặp nhà học giả đầy tài năng của Vatican, tiến sĩ Alberto Menardi, một người đàn ông cao ráo, tóc bạch kim với nước da sần sùi, đôi môi dày, cặp mắt ti hí. Gã ngồi phía sau máy bay, mũi bị sưng vù. Cô đã có toàn bộ hồ sơ về gã. Quan hệ của gã với một tổ chức tội phạm nào đó của Sisin có vẻ rất sâu. Hình như ngay cả Vatican cũng không thể ngăn không cho những hạt cỏ dại mọc trên đất của mình. Nhưng cô cũng không thể bỏ qua bộ óc sắc sảo của người đàn ông này. Gã có chỉ số IQ cao hơn Einstein đến ba điểm.
Chính tiến sĩ Alberto Menardi là kẻ từ mười lăm năm trước đây đã phát hiện trong thư viện của Long Đình những văn bản của phái Ngộ đạo về những hiệu ứng của từ trường khi giải thoát năng lượng của những kim loại siêu dẫn đó. Gã đã quan sát công trình thí nghiệm tại Lausanne Thụy Sĩ và thử phản ứng trên súc vật, rau cỏ và khoáng vật. Và ai có thể nhớ những du khách người Thụy Sĩ đơn độc đeo ba lô trên núi? Những thí nghiệm cuối cùng cũng có thể làm cho các nhà khoa học Quốc xã Đức sởn gai ốc.
Nhưng người đàn ông này lại có một thú vui rất bẩn thỉu với các cô gái trẻ.
Không phải vì tình dục.
Vì thể thao.
Cô đã nhìn thấy một vài tấm ảnh mà cô không hề muốn nhìn. Nếu cô không nhận được lệnh của Hiệp hội phải thủ tiêu người đàn ông này thì tự cô cũng sẽ làm việc đó.
Chiếc máy bay bắt đầu hạ cánh.
Ở một nơi nào đó phía dưới, toán Sigma đang miệt mài làm việc.
Họ không phải là mối đe dọa.
Quá dễ dàng như bắt cá trong thùng.
Ngày 26 tháng 7; 7 giờ 5 phút
Trên biển Địa Trung Hải
Họ sẽ tới Ai Cập trong hai giờ nữa.
Trên chiếc máy bay tư nhân. Gray kiểm tra lại túi đồ nghề của mình. Giám đốc Crowe đã cố gắng cung cấp thêm cho họ trang bị và vũ khí mới. Ngay cả những chiếc máy tính xách tay. Ông giám đốc còn có cái nhìn xa hơn nên đã điều cho họ một chiếc máy bay cho thuê loại Citation X từ Đức xuống sân bay quốc tế Leonardo Da Vinci.
Gray nhìn đồng hồ. Họ đã cất cánh cách đây được nửa tiếng. Họ còn lại hai tiếng trước khi hạ cánh xuống Alexandria để bàn bạc công chuyện. Vài giờ đồng hồ ở Rome cũng giúp cho họ lấy lại sức khoẻ và tinh thần. Họ xuất phát trước lúc rạng đông, lẳng lặng rời khỏi Vatican không báo cho ai biết.
Giám đốc Crowe đã bố trí đi Morocco. Rồi ông dùng quan hệ cá nhân của mình với Văn Phòng Thám không Quốc gia đổi tín hiệu bay vào giữa chặng khi họ quay sang Ai Cập. Đó là những gì tốt nhất họ có thể làm để che dấu lộ trình.
Giờ thì họ chỉ còn một chi tiết để quyết định.
Bắt đầu tìm kiếm ở Alexandria như thế nào?
Để trả lời câu này, khoang ca-bin của chiếc máy bay đã trở thành nơi nghiên cứu, hoạch định chiến lược. Kat, Rachel và Vigor tất cả ngồi chồm chỗm trên bàn làm việc. Monk đang ở khoang lái, phối hợp các khâu vận tải và hậu cần một khi hạ cánh. Anh chàng cũng đã lôi khẩu Scattergun mới ra kiểm tra. Giờ thì anh mang theo nó luôn. Đã có lúc, Monk tuyên bố: “Tôi cảm thấy trần như nhộng nếu không có nó. Và hãy tin tôi đi, bạn chẳng muốn điều đó đâu.”
Lúc này, Gray có việc điều tra riêng phải tiến hành. Mặc dù nó không trực tiếp liên quan đến chuyện trước mắt. Anh dự định nghiên cứu sâu hơn về sự bí hiểm của những chất siêu dẫn ở trạng thái -m.
Nhưng đầu tiên….
Gray đứng dậy bước tới nhóm ba nhà nghiên cứu. “Thế nào đã có tiến triển gì chưa?” Anh hỏi.
Kat trả lời: “Chúng tôi phải chia nhau ra. Đào bới mọi tài liệu tham khảo và văn kiện liên quan bắt đầu từ khi Alexander sinh ra cho đến khi chết và rồi đến chuyện mất tích ngôi mộ của ông ta.”
Vigor dụi mắt. Ông là người ít ngủ nhất trong nhóm. Chưa đầy một tiếng. Vị linh mục đã dành thời gian để nghiên cứu sâu hơn từ những đống tài liệu ở Thư viện Vatican. Ông đoán chắc rằng gã viện trưởng của Viện Cơ mật, tên tiến sĩ phản bội Alberto Menardi, là bộ óc bậc thầy đứng đằng sau, giải đáp mọi điều rắc rối cho bọn Long Đình. Ông hy vọng dò dẫm theo vết chân của y may ra có thể lấy được thêm chút thông tin gì chăng. Nhưng kết quả chưa được là bao.
Kat tiếp tục: “Bí hiểm vẫn bao quanh Alexander. Ngay cả cha mẹ ông ta. Mẹ của ông là một phụ nữ có tên Olumpias. Cha là vua Phillip II của Macedonia. Nhưng ở đây có vài điều chưa nhất quán. Alexander đã từng tin rằng cho ông là một vị thánh có tên Zeus Ammon và bản thân ông cũng một nửa là thánh.”
“Thật chả mấy khiêm tốn” Gray nhận xét.
“Ông ta là một con người có rất nhiều mâu thuẫn.” Vigor nói: “Luôn bị sa vào các cơn giận dữ vì say rượu nhưng lại rất thận trọng trong tính toán chiến lược. Dữ dội trong tình bạn nhưng có thể giết người khi nổi cáu. Ông ta đùa cợt với đồng tính luyến ái nhưng lại lấy hai vợ; một người là vũ nữ Ba Tư, còn người kia là con gái một vị vua Ba Tư, việc lấy người vợ thứ hai là một cố gắng nhằm hợp nhất giữa Ba Tư và Hy Lạp. Nhưng quay trở lại cha mẹ ông ta. Nhiều người biết rằng mẹ và bố ông ta ghét nhau. Một vài nhà lịch sử còn cho rằng Olympias có nhúng tay vào vụ ám sát vua Phillip mà chính lại là con trai của một nhà phù thủy Ai Cập trong triều, có tên là Nectanebo…”
“Một thầy phù thủy… giống như nhà thông thái?” Gray hiểu được điều ám chỉ.
“Dù cha mẹ ông ta là ai đi nữa, Alexanderr sinh vào ngày 20 tháng 7, năm 356 trước Công nguyên…” Kat tiếp tục.
Vigor nhún vai “Nhưng ngay cả điều ấy cũng chưa chắc đã là thực. Cũng chính ngày đó, ngôi đền Artemis ở Ephesus bị đốt cháy rụi. Một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại. Nhà sử học Plutarch đã viết rằng do chính bản thân Artemis vì quá bận rộn chăm lo việc sinh Alexander nên lãng quên giúp ngôi đền khỏi sự đe dọa. Một vài nhà học giả lại cho rằng sự lựa chọn ngày tháng chỉ để nhằm tuyên truyền, ngày sinh thực sự của ông ta đã được dịch chuyển để xứng với sự kiện này, mô tả nhà vua như một con phượng hoàng cất cánh từ đống tro tàn.”
“Và đúng là một sự vươn lên,” Kat nói “Alexander chỉ sống đến năm ba mươi ba tuổi nhưng trong cuộc đời ngắn ngủi của ông đã chinh phục hầu hết thế giới được biết đến lúc đó. Ông đã đánh bại vua Darius của Ba Tư rồi đi đến Ai Cập, nơi ông sáng lập Alexandria, sau đó rời sang Babylon.”
Vigor kết thúc: “Thế rồi ông ta di chuyển theo phía đông tới Ấn Độ để chinh phục vùng Punjab. Cũng chính vùng đất này Thánh Thomas đã làm lễ rửa tội cho ba vị Tiên tri.”
“Thống nhất Ai Cập và Ấn Độ” Gray nhận xét.
“Liên thông dòng kiến thức cổ đại.” Rachel nói từ chiếc máy tính xách tay. Cô không ngẩng mặt lên, vẫn tập trung nghiên cứu, lưng hơi gập xuống.
Gray thích kiểu ngồi như vậy, từ tốn chẳng vội vã chút nào.
Có lẽ cô cũng biết anh đang nhìn mình. Không ngoái đầu lại, chỉ thoáng liếc nhìn rồi lại quay đi.
“Ông ta… Alexander thậm chí còn tìm kiếm các nhà học giả Ấn Độ, dành rất nhiều thời gian cho các buổi luận đàm triết học. Ông rất quan tâm đến các bộ môn khoa học mới, chính ông cũng đã được Aristotle dạy dỗ.”
“Nhưng cuộc đời của ông rất ngắn ngủi” Kat tiếp tục, thu hút sự chú ý của Gray. “Ông chết vào năm 323 trước Công nguyên ở Babylon, trong những hoàn cảnh rất bí hiểm. Có người nói ông chết vì lý do tự nhiên, nhưng lại có người cho rằng ông bị đầu độc hoặc thậm chí chết vì dịch bệnh.”
“Người ta cũng nói rằng,” Vigor bổ sung: “Nằm trên giường bệnh trong hoàng cung ở Babylon, ông nhìn ra khu vườn treo nổi tiếng của thành phố, một cái tháp với những vườn cảnh kỳ thú trên mái nhà và thác nước. Một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.”
“Vậy là cuộc đời của ông ta bắt đầu từ việc khởi thủy của cái này và kết thúc với sự hủy diệt của cái khác.”
“Điều đó cũng có thể là ngụ ngôn” Vigor nói, ông gãi gãi bộ râu dưới cằm “Nhưng lịch sử của Alexander có vẻ gắn bó một cách kỳ lạ với bảy kỳ quan thế giới. Ngay cả việc lập ra bảy kỳ quan thế giới lần đầu tiên cũng do một học giả ở Alexander tên là Cllimachus của Cyrene làm vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Bức tượng đồng cao ngất ở Rhodes, một kỳ quan thế giới nữa, một pho tượng khổng lồ vắt ngang hải cảng, tay giơ cao ngọn đuốc cháy sáng được thiết kế theo nguyên mẫu Alexander Đại đế, giống như bức tượng thần Tự do của các ngài. Rồi bức tượng thần Zớt ở Olympia cũng cao đến bốn tầng làm bằng vàng và cẩm thạch. Theo như chính lời của Alexander có thể đó là cha đẻ của ông ta. Không còn nghi ngờ gì nữa Alexander đã đến thăm những Kim tự tháp ở Giza. Ông ta đã dành trọn mười năm ở Ai Cập. Như vậy dấu tay của Alexander có thể nhìn thấy trên khắp các tác phẩm bậc thầy của thế giới cổ đại.”
“Liệu điều đó có ý nghĩa gì không?” Gray hỏi.
Vigor nhún vai “Tôi không thể nói được. Nhưng Alexander đã có thời là quê hương của một trong bảy kỳ quan thế giới, cái cuối cùng được xây dựng cho dù nó không còn tồn tại nữa. Ngọn hải đăng Pharo của Alexandria. Nó nhô lên từ một triền đất trải dài trên cảng Alexandria, chia cái vịnh thành hai nửa. Đó là một cái tháp cao ba tầng được xây bằng những tảng đá vôi. Trên cùng có một ngọn lửa cháy trên một cái lò than được khuếch đại bằng một tấm gương bằng vàng. Nó có thể hướng dẫn thuyền bè từ khoảng cách xa tới năm mươi kilômét. Cho đến tận ngày nay, cái tên hải đăng cũng gắn với kỳ quan này. Trong tiếng Pháp nó được gọi là phare, còn tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý gọi là pharo.”
“Thế cái đó liên quan đến công cuộc tìm kiếm ngôi mộ của Alexander của chúng ta như thế nào?” Gray hỏi.
“Chúng ta hướng tới Alexandia,” Vigor đáp: “Truy đuổi theo dấu vết do một hội cổ xưa của các nhà Tiên tri để lại. Tôi không thể không nghĩ rằng ngọn hải đăng này, biểu hiện ngời sáng của ánh sáng dẫn đường, rất có ý nghĩa đối với nhóm này. Cũng có một truyện chung quanh ngọn hải đăng rằng thứ ánh sáng vàng của nó có sức mạnh đến nỗi có thể thiêu cháy cả những chiếc thuyền dù ở một khoảng cách xa. Có thể chuyện này ám chỉ cái gì đó về một nguồn năng lượng chưa được biết đến.”
Cuối cùng Vigor thở dài rồi lắc đầu: “Nhưng vì sao tất cả những thứ này đều treo với nhau cả, tôi không thể biết.”
Gray đánh giá cao kiến thức của vị linh mục, nhưng anh cần có những thông tin cụ thể, một điều gì đấy để theo đuổi một khi họ tới Alexandria. “Vậy thì chúng ta hãy đi thẳng vào trung tâm của sự bí hiểm. Alexander chết ở Babylon. Nhưng điều gì xảy ra sau đó?”
Kat ngước mắt khỏi màn hình máy laptop. Cô chỉ tay vào một danh sách vừa lập ra.
“Có nhiều tham khảo lịch sử liên quan đến việc rước xác của ông ta từ Babylon về Alexandria. Sau khi được an táng tại Alexandria, ngôi mộ đã trở thành đền thờ để nhiều danh nhân đến thăm viếng, trong đó có cả Julius Caesar và hoàng đế Caliguta.”
“Thời gian đó,” Vigor nói tiếp “thành phố này do một trong những tướng lĩnh trước kia của Alexander, tên là Ptolemy, cai trị và những người kế tục ông ta. Họ dự kiến xây dựng một thư viện của Alexandria, biến thành phố thành nơi tập trung của nghiên cứu trí tuệ và triết học, thu hút các học giả từ khắp nơi trên thế giới.”
“Điều gì đã xảy ra với ngôi mộ?”
“Đó là một chuyện phức tạp,” Kat nói. “Ngôi mộ được cho là có một cái quan tài khổng lồ bằng vàng.”
“Có thể là vàng thủy tinh,” Gray nói “một trong trạng thái của chất bột ở trạng thái –m.”
Kat gật đầu: “Vào đầu thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, Septimus Severus đã đóng cửa ngôi mộ không cho tham quan nữa, xuất phát từ lý do bảo đảm an toàn của ngôi mộ. Thật thú vị khi nói rằng ông ta đã xếp nhiều pho sách quý và bí mật vào trong rương – đó là một câu trích dẫn”. Cô ngả người về chiếc laptop. “Vậy là không ai có thể đọc những cuốn sách cũng như nhìn thấy xác của ông ta.” Cô liếc nhìn Gray. “Điều này đã chứng minh là có cái gì đó quan trọng được giấu trong địa điểm của ngôi mộ. Một nơi tập trung những bí mật mà Septimus lo ngại có thể bị thất lạc hoặc đánh cắp.”
Vigor đi sâu vào chi tiết: “Đã có rất nhiều trận tấn công vào Alexandria từ thế kỷ thứ nhất đến thứ ba trước Công nguyên. Các trận tấn công ngày càng ác liệt. Ngay bản thân Julius Caesar cũng đốt cháy một phần thư viện Alexandria để đẩy lui các cuộc tấn công vào hải cảng. Những cuộc tấn công vẫn tiếp tục, dẫn đến việc phá hủy rồi tháo dỡ thư viện vào thế kỷ thứ bảy. Tôi có thể hiểu tại sao Septimus lại muốn bảo vệ một phần thư viện bằng cách giấu đi. Có thể ông ta đã giấu đi những cuốn sách quan trọng nhất ở đó.”
“Không phải chỉ có những cuộc tấn công bằng quân sự vào thành phố” Kat bổ sung thêm: “Một loạt dịch bệnh xảy ra. Những trận động đất đã phá hủy một phần đáng kể Alexandria. Một bộ phận của thành phố đã rơi xuống vịnh vào thế kỷ thứ tư, phá hủy khu vực hoàng gia Ptolemaic, trong đó có cả lâu đài Cleopatra và phần lớn khu nghĩa địa hoàng gia. Năm 1996, một nhà thám hiểm người Pháp, Franck Goddio đã phát hiện một phần của thành phố đã mất này ở hải cảng phía đông Alexandria. Một nhà khảo cổ khác, Honor Frost, tin rằng đây có thể là số phận của ngôi mộ Alexandria, rơi xuống một ngôi mộ trước.”
“Tôi không tin điều ấy,” Vigor nói: “Có nhiều tin đồn về vị trí của ngôi mộ, nhưng hầu hết những tư liệu lịch sử đã xác định ngôi mộ ở trung tâm của thành phố, cách xa bờ biển.”
“Cho đến khi, như tôi nói, Septimus Severus đóng nó lại” Kat tranh luận “Có thể ông ta đã di rời nó đi.”
Vigor chau mày “Cũng có thể, qua những thế kỷ sau, những kẻ chuyên săn lùng kho báu và các nhà khảo cổ đã cày xới khu vực Alexandria và vùng ngoại vi. Ngay cả ngày nay, cũng vẫn còn những cơn sốt giống như thời kỳ đi tìm vàng để tìm kiếm ngôi mộ đã mất này. Một vài năm trước đây, một tốp các nhà địa vật lý người Đức đã sử dụng thiết bị ra-đa thăm dò dưới lòng đất để chứng minh rằng tầng đất dưới Alexandria đầy rẫy những hang động và hầm ngầm. Có rất nhiều nơi có thể giấu được cả ngôi mộ. Phải mất hàng chục năm mới có thể tìm kiếm được tất cả.”
“Chúng ta không có được một thập kỷ,” Gray nói “Tôi không biết liệu chúng ta có được hai mươi tư giờ không.”
Mệt mỏi, Gray đi lại trong khoang ca-bin chật hẹp. Anh biết bọn Long Đình cũng có những thông tin tình báo y hệt như họ. Có lẽ chúng cũng không mất nhiều thời gian để nhận ra tảng đá ô-xýt sắt dưới ngôi mộ Thánh Peter có bản đồ với tên Alexandria được đánh dấu trên đó.
Anh nhìn vào ba người “Vậy chúng ta sẽ tìm đâu trước?”
“Tôi có thể có một gợi ý,” Rachel nói, sau một hồi im lặng. Cô đã liên tục gõ máy rồi lại tra cứu trên màn hình “Hoặc hai.”
Mọi người quay lại nhìn cô.
“Có một tài liệu tham khảo từ thế kỷ thứ IX, lời nói của Hoàng đế Constantinople, rằng và tôi xin trích dẫn, “Kho tàng quý báu, được cất giấu dưới ngọn hải đăng Pharo.” Thực tế, người trị vì Alexandria lúc đó đã tháo dỡ một nửa ngọn hải đăng để tìm kiếm.”
Gray nhận thấy Vigor rất ấn tượng với những lời của cô cháu gái. Anh nhớ lại vị linh mục đã quan tâm thế nào tới ngọn hải đăng. Rachel có thể đã từ ảnh hưởng của ông bác đi vào tìm kiếm dấu vết ở đó.
“Những kẻ khác cũng tiến hành tìm kiếm nhưng ngọn hải đăng đóng một vai trò chiến lược cho hải cảng.”
Vigor gật đầu, cặp mắt của ông sáng lên với sự thích thú “Có nơi nào để giấu một thứ mà bạn không muốn người ta đào bới lên hơn là một kiến trúc quá quan trọng không thể dỡ bỏ được.”
“Vậy là tất cả kết thúc vào ngày 8 tháng 8 năm 1303, một trận động đất lớn đã rung chuyển cả phía đông Địa Trung Hải. Ngọn hải đăng bị phá hủy, lật nhào ngay trên hải cảng mà những di tích Ptolemaic đổ xuống.”
“Điều gì xảy ra đối với vị trí ban đầu của nó?” Gray hỏi.
“Nó thay đổi theo các thế kỷ. Nhưng vào thế kỷ XV, một ông vua Mamluk đã xây dựng một pháo đài trên bán đảo. Nó vẫn còn đến ngày nay, Pháo đài Qait Bey. Một vài công trình của nó bao gồm những khối đá nguyên bản dùng để xây ngọn hải đăng.”
“Và nếu như kho tàng không bao giờ được tìm thấy,” Vigor tiếp tục “Thì nó phải vẫn còn ở đó… dưới pháo đài.”
“Nếu như nó tồn tại…” Gray thận trọng nói.
“Vậy chúng ta sẽ làm gì? Gõ cửa và hỏi họ xem liệu có được phép đào dưới pháo đài của họ chăng?”
Kat đưa ra một giải pháp thực tiễn hơn “Chúng ta liên lạc với vệ tinh viễn thám. Họ có thể liên lạc với các vệ tinh có hệ thống ra-đa xuyên lòng đất. Để cho chúng bay qua khu vực này. Chúng ta có thể tìm kiếm những hang động hoặc hầm ngầm giống như nhà địa vật lý Đức đã tiến hành. Điều đó có thể giúp cho công việc tìm kiếm của chúng ta.”
Gray gật đầu. Đó không phải là một ý kiến tồi. Nhưng sẽ mất thời gian. Anh đã tự mình kiểm tra rồi. Phải mất tám tiếng nữa mới tới lượt tiếp của vệ tinh trinh sát.
Rachel đưa ra một giải pháp thay thế “Hãy nhớ cái cửa sau vào căn hầm dưới mộ Thánh Peter. Có thể chúng ta không đi vào phía trước của pháo đài Qait Bey, biết đâu lại có lối vào phía sau. Một lối đi ngầm giống như ở Rome.”
Gray thích ý kiến của cô.
Rachel hình như tự tin hơn khi thấy sự tán đồng trên nét mặt của anh “Có những nhóm du lịch lặn sâu xuống gần Qait Bet và khu đổ nát Ptolimaic. Chúng ta có thể dễ dàng trà trộn vào và tìm kiếm dưới nước ở khu vực hải cảng.”
“Có thể điều ấy chẳng dẫn đến cái gì” Kat nói, “nhưng nó cũng có thể cho phép chúng ta làm cái gì đó đến khi vệ tinh bay qua khu vực.”
Gray gật đầu chậm rãi. Đấy là sự khởi đầu.
Monk bước vào từ khoang lái “Tôi đã thuê được ô tô và một khách sạn mang tên giả và làm việc xong với hải quan thông qua sự can thiệp từ Washington. Tôi nghĩ có thể mọi việc sẽ ổn.”
“Không” Gray quay lại “Tôi nghĩ chúng ta sẽ cần một chiếc thuyền, có thể càng nhanh càng tốt.”
Đôi mắt của Monk mở to “Ok,” anh lại quay ra. Anh dừng ở chỗ Rachel “Nhưng cô ta sẽ không điều khiển thứ của nợ đó chứ?”
***
8 giờ 55 phút
Rome, Italy
Cái nóng nực của buổi sáng không làm nguôi ngoai tâm trạng của Raoul. Giờ đã là giữa buổi, nhiệt độ đã lên cao. Ánh nắng mặt trời thiêu cháy quảng trường đá bên ngoài tỏa ánh sáng chói chang. Cơ thể trần truồng của hắn thấm đẫm mồ hôi khi hắn đứng ở cửa dẫn ra ban công. Cánh cửa mở nhưng chẳng có một ngọn gió nào.
Hắn ghét Rome.
Hắn căm thù những bầy du khách ngu xuẩn, những gã địa phương mặc áo quần màu đen hút thuốc liên tục, tiếng chuyện trò không dứt, tiếng la hét, còi xe inh ỏi. Không gian sặc sụa mùi xăng.
Ngay cả con điếm hắn kiếm được tại Travastere, mái tóc của ả sặc mùi thuốc lá và mồ hôi. Từ con người ả toát ra mùi ghê tởm của Rome. Hắn xoa xoa lên mu bàn tay. Ít nhất tình dục cũng làm hắn thỏa mãn. Không ai nghe thấy tiếng cô ả la hét qua cái túi trùm. Hắn thích thú với cách ả quằn quại dưới lưỡi dao của hắn khi hắn giật cái núm vú ra khỏi cặp vú bánh dày màu nâu sẫm của ả. Nhưng hắn lại thấy thích thú hơn khi đấm túi bụi vào mặt ả trong khi vừa ấn sâu vào cơ thể ả.
Trên thân hình ả, hắn xả hết cơn tức giận đối với thành Rome, đối với gã đốn mạt người Mỹ suýt làm hắn bị mù, mất cơ hội để hắn làm cho chúng phải chết từ từ. Bây giờ hắn đã biết những kẻ đó đã thoát khỏi cái chết tưởng như chắc chắn.
Hắn nhìn xuống cửa sổ.
Thân thể của con điếm đã được phủ dưới lớp ga giường. Người của hắn sẽ có trách nhiệm xử lý cái xác của ả. Đối với hắn, điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.
Tiếng chuông điện thoại reo trên mặt bàn đầu giường. Hắn đã chờ đợi cú điện thoại này. Chính điều ấy làm hắn tức giận.
Hắn đi ngang qua rồi cầm máy.
“Raoul…” Hắn nói.
“Ta đã nhận được báo cáo về phi vụ tối qua” Đúng như dự đoán, đó là Đấng tối cao. Giọng ông ta đầy vẻ giận dữ.
“Thưa ngài…”
Hắn bị cắt ngang “Ta không bao giờ chấp nhận một lời bao biện. Thất bại là một chuyện nhưng sự không tuân lệnh thì không thể tha thứ được.”
Raoul trợn mắt lên khi nghe câu đó “Tôi không bao giờ không tuân lệnh.”
“Thế về người đàn bà tên là Rachel Verona thì sao?”
“Thưa ngài,” hắn hình dung ả chó cái tóc đen. Hắn nhớ mùi hương ở gáy ả khi bị hắn túm lấy dùng dao đe dọa. Hắn đã cảm nhận nhịp đập của trái tim người đàn bà đó khi nắm cổ rồi nhấc lên.
“Anh đã được chỉ thị là bắt sống nó… nhưng không được giết nó. Còn những tên khác thì phải giết. Đó là mệnh lệnh đối với anh.”
“Vâng, thưa ngài. Tôi hiểu ạ. Tuy nhiên đã ba lần, tôi cố gắng không dùng sức mạnh tổng lực đối với tốp người Mỹ ấy là do thận trọng về chuyện đó. Chúng vẫn còn tồn tại đến giờ là do phải dè chừng điều ấy.” Hắn đã không tính đến chuyện phải thanh minh cho thất bại nhưng giờ đây điều này đã đến với hắn “Tôi muốn được giải thích rõ hơn. Cái gì là quan trọng: phi vụ hay người đàn bà đó?”
Một hồi im lặng kéo dài. Raoul cười mỉm. Hắn lấy ngón tay chọc chọc vào cái xác chết nằm trên giường.
“Anh được đấy” Giọng giận dữ đã bớt đi từ phía bên kia “Người đàn bà là quan trọng nhưng phi vụ này không thể bị ảnh hưởng. Của cải và quyền lực ở chỗ cuối của con đường mòn phải thuộc về chúng ta.”
Và Raoul hiểu tại sao. Tất cả đã được nhồi nhét vào đầu óc hắn từ khi hắn còn nhỏ. Mục tiêu tối thượng của giáo phái của họ. Mang lại một trật tự thế giới mới, do Long Đình cai trị, những người kế tục của các vị vua và hoàng đế, có dòng giống trong sạch và thượng đẳng. Đó là quyền của họ khi sinh ra. Hàng thế hệ rồi, ngược trở lại bao nhiêu thế kỷ, tổ chức Long Đình của chúng đã tìm kiếm kho báu và kiến thức của cái tổ chức huyền bí đã bị thất lạc này. Ai có cái đó sẽ nắm giữ chìa khóa đối với thế giới, điều này đã được viết trong văn bản cổ xưa của thư viện Long Đình.
Giờ thì chúng đã gần đến đích rồi.
Raoul nói “Vậy thì tôi sẽ tiếp tục không cần quan tâm đến sự an toàn của người đàn bà ấy.”
Một tiếng thở dài nghe rõ. Raoul phân vân không biết ông ta có hiểu được điều này không. “Sẽ có sự thất vọng nếu mất cô ta.” Giọng bên đầu dây trả lời “Nhưng phi vụ không được thất bại. Không thể sau khi đã quá lâu. Vậy nói rõ thêm, đối phương phải bị tiêu diệt bằng mọi cách và bất kỳ cách nào. Liệu thế đã rõ ràng chưa?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Tốt. Nhưng tôi cũng đề nghị nếu như cơ hội cho phép mà bắt sống được người phụ nữ đó thì vẫn tốt hơn. Tuy nhiên, không cần mạo hiểm không cần thiết.`”
Raoul nắm chặt bàn tay. Hắn hỏi một câu hỏi vẫn làm hắn thắc mắc. Chưa bao giờ hắn hỏi điều này. Hắn đã học cách biết giữ gìn sự tò mò về phía mình, tuân lệnh không được hỏi gì. Tuy nhiên, giờ đây hắn vẫn hỏi “Tại sao cô ta lại quan trọng như vậy?”
“Dòng máu của Long Đình chảy mạnh trong huyết quản của cô ta. Trở lại những ngày xa xưa nước Phổ của chúng ta. Thực ra, cô ta đã được lựa chọn cho anh, làm bạn tình của anh. Triều đình thấy được giá trị lớn lao trong việc tăng cường dòng giống của chúng ta qua sự ràng buộc về dòng máu như vậy.”
Raoul đứng thẳng dậy. Hắn đã bị tước bỏ quyền có con đến tận lúc này. Một vài người phụ nữ hắn đã làm có bầu đều bị buộc phải nạo thai hay bị giết. Điều cấm kỵ là làm nhơ bẩn dòng máu hoàng gia với việc sản sinh ra những đứa trẻ từ bùn đen.
“Ta hy vọng thông tin này sẽ khuyến khích ngươi tìm kiếm cơ hội để chiếm được cô ta. Nhưng như ta đã nói ngay cả máu của cô ta cũng phải loại bỏ nếu như phi vụ đe dọa. Hiểu chưa?”
“Vâng, thưa ngài” Raoul thấy như hơi thở của mình ngắn lại. Hắn lại hình dung cách cô ả túm chặt trong tay hắn dưới mũi dao. Mùi sợ hãi của cô ả. Cô ả sẽ là một nữ bá tước có hạng… nếu không như vậy thì cũng sẽ là một con ngựa giống tuyệt vời. Long Đình đã giấu không ít những phụ nữ như vậy ở khắp châu Âu, nhốt họ lại khiến họ sống chỉ để sản xuất trẻ em.
Raoul tự nhiên lại thấy cương cứng lên khi nghĩ đến cơ hội như vậy.
“Mọi việc đã được thu xếp ở Alexandria” Đấng tối cao kết thúc. “Cuộc chơi đã gần chấm dứt. Giành lấy những gì chúng ta cần. Giết hết những kẽ chắn ngang đường ngươi.”
Raoul chậm rãi gật đầu mặc dù Đấng tối cao không nhìn thấy.
Hắn hình dung ra người đàn bà tóc đen… và những gì hắn sẽ làm với cô ả.
***
9 giờ 34 phút sáng
Rachel đứng cạnh chân vịt của chiếc thuyền cao tốc, đầu gối gác lên ghế phía sau để giữ thăng bằng. Một khi đã vượt qua phao ranh giới, cô gạt cần khởi động lao vụt qua vịnh. Thuyền lướt trên mặt biển bằng phẳng, tạo ra những tiếng đập mạnh vào các con thuyền khác.
Gió làm tóc cô bay lên. Những giọt nước bắn vào mặt cô mát lạnh. Ánh nắng chiếu sáng lấp lánh trên mặt biển màu xanh ngọc của Địa Trung Hải.
Mọi cảm giác của cô đều như lâng lâng.
Cô đã tỉnh hẳn sau chuyến bay dài và hàng tiếng đồng hồ ngồi trước máy tính. Họ đã hạ cánh cách đây bốn mươi phút. Nhờ có những cú phôn của Monk, họ đã nhanh chóng làm xong các thủ tục hải quan và thấy một con thuyền cùng các thiết bị lặn sẵn sàng chờ họ tại cầu tàu cảng phía tây.
Rachel ngoái lại nhìn phía sau.
Thành phố Alexandria vươn lên qua cổng vòm của vịnh trên nền nước biển xanh, một khu vực hiện đại với các tòa nhà cao tầng, khách sạn và dinh thự. Những cây cọ chạy dọc theo bờ biển chia cắt thành phố và biển xanh. Chẳng thấy dấu vết gì về quá khứ cổ xưa của thành phố. Ngay cả trên nền thư viện Alexandria cổ kính bị mất đi cách đây bao nhiêu thế kỷ đã mọc lên một khối kiến trúc khổng lồ sắt thép, bê-tông và thủy tinh, điểm xuyết bằng các bể bơi trên mái nối liền với nhau bằng một đường xe điện nhỏ.
Giờ đây khi ở trên mặt biển, một vài hình ảnh của quá khứ lại được tái hiện. Những chiếc thuyền đánh cá bằng gỗ khắp nơi được sơn trang trí đủ màu sắc, vài cái giương buồm, có cái thì dùng hai mái chèo theo kiểu Ai Cập cổ đại.
Phía trước có thể nhìn thấy một thành phố cổ từ thời kỳ Phục hưng, Pháo đài Qait Bey. Nó tọa lạc trên một doi đất chia cái vịnh này thành hai. Một con đường bằng đá nối liền pháo đài với thành phố. Dọc theo con đường đá, những ngư dân với những cây sào dài đang nghỉ ngơi, nói chuyện với nhau ầm ĩ như thể họ có hàng thế kỷ phía sau.
Rachel nghiên cứu Pháo đài Qait Bey. Được xây dựng toàn bằng đá vôi và đá cẩm thạch, pháo đài lấp lánh sáng trên nền đá cao tới hai mươi feet. Ở đó, những bức tường cao ngất nghểu, phía trên là hành lang có tay vịn uốn lượn, được gác bởi bốn tháp canh có đường chạy quanh nhô cao hơn một chút. Một cột cờ cắm từ tháp trong, phấp phới lá cờ Ai Cập có sọc đỏ, trắng và đen cùng với con ó vàng của Saladin.
Đứng đó, Rachel hình dung ra cái kiến trúc một thời đã được xây dựng ở đây: Ngọn hải đăng Pharo cao bốn mươi tầng tựa trên những cây cột lớn giống như một cái bánh cưới, tô điểm với pho tượng khổng lồ Poseidon với ngọn đuốc vĩ đại cháy bùng bùng và tỏa khói liên tục.
Không còn gì sót lại của cái kỳ quan của thế giới cổ xưa nữa trừ một vài tảng đá vôi được giữ để xây dựng lại pháo đài. Các nhà khảo cổ Pháp cũng đã phát hiện những tảng đá lớn chìm ở hải cảng phía đông cùng với một pho tượng của Poseidon. Đó là tất cả những gì còn lại của kỳ quan thế giới này sau khi trận động đất lớn đã tàn phá toàn bộ khu vực.
Hoặc là vậy? Liệu có còn một kho báu nữa có niên kỷ còn xa xôi hơn được chôn giấu ở dưới những chỗ này?
Ngôi mộ đã mất của Alexander Đai đế.
Đó là cái mà họ đã đến đây để tìm ra.
Phía sau cô, những người khác đã tập hợp xung quanh các thiết bị lặn, tiến hành thử và kiểm tra thiết bị, van an toàn, chuông…
“Liệu chúng ta có cần tất cả những thiết bị này không?” Gray hỏi. Anh cầm lên một cái mặt nạ lặn. “Áo giáp dày và tất cả thiết bị đặc biệt?”
“Anh cần mọi thứ” Vigor nói. Ông là một thợ lặn có kinh nghiệm.
Là một nhà khảo cổ ở Địa Trung Hải, lặn là điều phải làm. Rất nhiều trong số những khám phá hấp dẫn ở khu vực này được tìm thấy dưới nước, kể cả ở đây Alexandria, nơi lâu đài thất lạc của Cleopatra bị chìm dưới nước ở chính cái vịnh này mới được tìm thấy.
Nhưng đó cũng là lý do những kho tàng dưới đáy biển vẫn giấu mặt bao lâu nay.
Vigor giải thích. “Ô nhiễm ở đây, tại hải cảng phía Đông, cùng với đường cống thoát đã làm cho nước trong khu vực rất nguy hiểm nếu không bảo vệ cẩn thận. Ngành du lịch Ai Cập đã đưa ra ý tưởng thiết lập một công viên khảo cổ dưới nước tại đây, có những thuyền đáy thủy tinh. Tuy nhiên nguy hiểm nhiễm độc từ kim loại và bệnh thương hàn là thực sự có đối với những người xuống nước ở đây.”
“Được lắm.” Monk nói. Mặt anh ta đã tái nhợt khi thấy đám thiết bị lủng củng này rồi. Trông thật chán nản. “Nếu như không chết đuối thì cũng chết vì những bệnh ngoài da nào đó. Các bạn cũng biết là tôi có lý do để gia nhập lực lượng đặc biệt trên bộ chứ không phải hải quân hay không quân. Mặt đất vững chãi.”
“Anh có thể ở trên thuyền.” Kat nói.
Monk lườm cô.
Nếu như tìm thấy một cái đường ngầm dưới nước dẫn đến một căn hầm chứa kho báu dưới phái đài, họ sẽ phải có mặt tất cả. Họ đều là những thợ lặn đã có bằng. Họ sẽ tìm kiếm theo ca, thay nhau nghỉ ngơi và canh gác con thuyền cùng đồ đạc.
Monk năn nỉ được thực hiện ca gác đầu tiên.
Rachel lái con thuyền dọc theo bờ phía đông của mỏm đất. Phía trước mặt, pháo đài Qait Bey trông lớn dần, che lấp chân trời trước mặt. Từ chân cảng cầu, trông nó không đồ sộ lắm. Thăm dò chiều sâu của cả cái pháo đài này quả là một công việc khó nhọc.
Một nổi băn khoăn cứ ám ảnh cô. Chính là ý kiến của cô thực hiện việc điều tra này. Nếu như cô sai thì sao? Có thể cô đã bỏ qua một dấu vết mất tích nào ở đâu đó.
Cô chạy chậm dần, mỗi lúc một lo lắng.
Họ đã chia lô ở khu vực để có thể thăm dò một cách có hệ thống quanh pháo đài. Cô gạt cần khởi động tiến tới khu vực thăm dò thứ nhất.
Gray bước tới gần cô. Anh để một tay lên ghế. Ngón tay anh chạm vào vai cô. “Đây là khu vực A”.
Cô gật đầu. “Tôi sẽ hạ neo ở đây rồi treo lá cờ màu da cam để cảnh báo có người lặn dưới nước.”
“Cô ổn chứ?” Anh hỏi, cúi xuống.
“Hy vọng đây sẽ không phải là một cú đuổi ngỗng trời như người Mỹ các anh thường nói.”
Anh cười trấn an. “Cô đã cho chúng tôi điểm xuất phát. Lao xuống nước cũng chưa khó bằng. Vậy thì tôi thà theo đuổi ngỗng trời còn hơn không làm gì.”
Không nhận ra điều đó, cô xoay vai lại làm ngón tay của anh chạm mạnh vào cô hơn. Anh không rụt tay lại.
“Đó là một kế hoạch tốt.” Anh nói, giọng khẽ khàng.
Rachel gật đầu, tránh nhìn cặp mắt ướt át của anh. Cô tắt máy rồi bấm nút hạ neo. Cô cảm thấy có tiếng rung khẽ khi chiếc xích thả neo rơi xuống nước.
Gray quay lại những người khác. “Hãy mặc quần áo lặn vào. Chúng ta sẽ xuống đây, kiểm tra đồng hồ lặn rồi bắt đầu tìm kiếm.”
Rachel để ý tay anh vẫn đặt trên vai cô.
Cảm giác đó thật dễ chịu.
10 giờ 14 phút.
Gray ngửa người để lao xuống biển.
Nước ôm trọn lấy anh. Không còn một kẻ hở nào để đá phải tiếp xúc với ô nhiễm và nước bẩn. Bộ quần áo lặn đã được cài chặt cẩn thận. Cổ và cổ tay đã được phủ bằng lớp cao su đặc biệt. Mặt nạ AGA hoàn toàn che kín khuôn mặt anh, chụp chiếc mũ kiểu Viking lên vai. Nút thở được gắn phía trên giúp anh dễ dàng nói chuyện.
Gray thấy những tia sáng qua màn kính mũ lặn, tuy nhiên độ nhìn ở đây rất kém vì bùn và những tạp chất che khuất tầm nhìn chỉ khoảng từ mười đến mười lăm feet.
Không đến nỗi tồi. Có thể còn tệ hơn nữa.
Cái áo lặn có phao giúp anh nổi trở lại trên mặt biển. Anh nhìn Rachel và Vigor nhảy xuống biển từ mạn thuyền bên kia. Kat đã ở dưới nước bên cạnh anh.
Anh thử máy bộ đàm, loại Buddy Phone siêu âm truyền dẫn trên một tần số. “Mọi người có nghe tôi rõ không? Kiểm tra đi?” Anh nói.
Mọi tín hiệu đều trả lời tốt, kể cả Monk đang làm nhiệm vụ gác ca đầu tiên trên thuyền. Monk cũng có cả một hệ thống video hải quân để kiểm tra hoạt động của cả nhóm phía dưới biển.
“Chúng ta sẽ lặn sâu xuống đáy rồi đi dọc về phía bờ trong một cách rộng. Mọi người đều biết vị trí của mình rồi chứ?”
Trả lời khẳng định là tốt.
“Hãy lặn xuống.” Anh ra lệnh.
Anh nhả khí ra để hạ thấp dần xuống dưới. Đây là thời điểm mà những người thợ lặn mới toanh cảm thấy cơn ù tai dễ sợ. Gray chưa từng có cảm giác đó. Trái lại anh lại thấy được hoàn toàn tự do. Anh thấy như mình không có trọng lượng, đang bay đi, có thể làm mọi động tác nhào lộn.
Anh phát hiện Rachel lao xuống nước bên kia mạn thuyền. Có thể dễ dàng nhận ra cô bằng đường vạch sọc màu đỏ ngang ngực bộ quần áo lặn màu đen của cô. Họ phải dùng màu sắc khác biệt để dễ dàng nhận ra nhau. Bộ của anh màu xanh lơ. Kat màu hồng, Vigor màu xanh lá cây. Monk cũng đã mặc quần áo lặn sẵn sàng vào ca trực. Anh ta mặc màu vàng, về mặt nào đó phù hợp với thái độ của anh đối với môn lặn.
Gray ngắm nhìn Rachel. Giống như anh, cô có vẻ như hoàn toàn thích không gian tự do dưới những lớp sóng biển. Cô vặn người rồi lao xuống phía dưới. Anh dành mấy giây để quan sát cô rồi tập trung lặn xuống dưới.
Đáy biển toàn cát, lởm chởm những mảnh vụn.
Gray điều chỉnh phao để có thể di chuyển dễ dàng dưới đáy biển, anh quay bên phải rồi bên trái. Mọi người đã vào vị trí tương tự.
“Liệu mọi người có thể nhìn thấy nhau không?” Anh hỏi.
Mọi người gật đầu và khẳng định.
“Monk, video nhìn dưới nước có hoạt động không?”
“Trông các bạn như những bóng ma. Tầm nhìn kém. Tôi sợ không nhìn thấy khi đi xa. ”
“Tiếp tục giữ liên lạc bằng radio. Nếu có vấn đề gì, hãy phát lệnh báo động rồi di chuyển về phía chúng tôi.”
Gray hoàn toàn tin rằng họ đang nhảy vào sân của Long Đình và anh không muốn đối mặt với Raoul chút nào. Anh cũng không biết chúng đã vượt hơn mình là bao nhiêu.
Nhưng ở đây có rất nhiều thuyền. Đang là ban ngày mà.
Tuy nhiên, họ cần phải nhanh chóng hành động.
Gray chỉ về phía trước “Ok, chúng ta tiến về phía bờ, giữ khoảng cách không quá mười lăm feet. Luôn quan sát lẫn nhau mọi lúc.”
Bốn người bọn họ có thể kiểm tra một khoảng cách hai mươi lăm thước Anh. Khi lên bờ nếu không phát hiện được gì, họ sẽ lại xuống tiếp dọc bờ biển làm thêm hai mươi lăm thước Anh rồi bơi trở lại con thuyền đang neo. Cứ thế từng khu vực một họ có thể kiểm tra toàn bộ khu pháo đài.
Gray bắt đầu. Anh có con dao thợ lặn gắn vào cổ tay lặn có đèn flash. Khi mặt trời đang chiếu trực tiếp trên đầu và nước không quá sâu cũng không cần thiết phải có thêm ánh sáng bổ trợ, nhưng khi thăm dò vào những hang hốc thì lại rất cần. Không nghi ngờ gì điểm họ tìm kiếm không bằng phẳng hoặc đã bị người ta phát hiện trước rồi.
Đó lại là một câu đố nữa phải trả lời.
Khi đang bơi, anh vẫn cố suy nghĩ xem họ đã thiếu thứ gì. Có thể còn có nhiều dấu tích nữa ở trên bản đồ vẽ trên tảng đá hơn là chỉ có Alexandria. Có thể còn có những dấu tích nữa chôn vùi ở vị trí nơi đây. Liệu họ có thiếu cái gì không? Liệu gã Raoul có lấy đi một dấu tích nào trong cái hang dưới ngôi mộ của Thánh Peter không? Liệu tụi Long Đình đã có câu trả lời chưa?
Không trả lời được, anh bơi nhanh hơn. Anh không nhìn thấy Kat bơi phía bên phải với anh. Bơi hơi chậm, anh thấy Kat xuất hiện.
Một hình khối ở trước, nhô ra từ đáy biển toàn cát. Một hòn đá? Hay khối nhũ thạch?
Anh vung chân lên,
Qua màng che phủ bùn, nó xuất hiện.
Quái quỷ gì vậy?
Khuôn mặt bằng đá chằm chằm nhìn anh, một khuôn mặt người, bị nước biển và thời gian bào mòn nhưng đường nét vẫn sắc sảo, rõ nét. Phía thân trên ngồi chồm hỗm trên một con sư tử.
Kat để ý sự chú ý của anh tiến gần lại. “Một con nhân sư?”
“Một con nữa ở đây,” Vigor thông báo. “Bị vỡ một bên. Những thợ lặn cho biết có hàng chục con nằm rải rác ở đáy biển gần pháo đài. Một số từ ngọn hải đăng.”
Mặc dù rất vội nhưng anh cũng không thể không nhìn kỹ bức tượng và kinh ngạc. Anh nhìn cái mặt, được đẽo bằng tay hai nghìn năm trước đây. Anh thò tay chạm vào nó, như cảm nhận khoảng cách về thời gian giữa anh và người đẽo pho tượng.
Vigor nói từ một nơi nào đó. “Ráp vào những diễn giải các câu đố chắc là canh gác bí mật này.”
Gray rút tay lại. “Ông nói vậy là thế nào?”
Một cái chặt lưỡi. “Anh có biết lịch sử câu chuyện về những nhân sư không? Con quái vật này làm mọi người ở Thebe hoảng sợ, ăn thịt họ nếu họ không giải đáp được câu đố của nó. Con gì có một giọng nói rồi có bốn chân, hai chân và ba chân?”
“Thế còn câu trả lời?” Gray hỏi.
“Con người,” Kat nói tiếp theo anh, “đó là con người, lúc còn nhỏ bò bằng bốn chân, khi lớn đi bằng hai chân, lúc già phải dùng gậy để đi”.
Vigor tiếp tục. “Oedipus đã giải được câu đố nên con nhân sư lao vào tảng đá chết.”
“Rơi xuống từ một đỉnh núi” Gray nói. “Giống như những con nhân sư này.”
Anh lùi ra khỏi pho tượng đá rồi bơi tiếp. Họ còn có câu đố của chính mình cần phải giải đáp. Sau mười phút im lặng tìm kiếm họ tới bờ biển lởm chởm đá. Gray tới một chỗ toàn những tảng đá lớn nhưng không có lối vào, không thấy gì cả.
“Quay lại,” anh nói.
Họ quay ra, bơi ra xa bờ biển hướng về chiếc thuyền.
“Ở đó tình hình ổn chứ, Monk?” Gray hỏi.
“Tắm nắng dễ chịu lắm.”
“Tiếp tục gác, chúng tôi lại tiếp tục.”
“Vâng, thưa chỉ huy.”
Gray tiếp tục trong vòng bốn mươi phút nữa, leo lên thuyền rồi lại xuống. Anh bắt gặp một vỏ tàu bị đắm, những tảng đá, cột bị gãy… những con cá bơi lững lờ qua lại.
Anh kiểm tra lượng khí, thở mạnh, vẫn còn đầy một bình nữa. “Liệu có ai thấy thiếu khí không?”
Sau khi trao đổi, mọi người quyết định tiếp tục thêm hai mươi phút nữa, lên thuyền nghỉ nửa tiếng rồi lại tiếp tục xuống nước.
Trong khi bơi, anh lại trở về ý nghĩ ban đầu. Anh vẫn cảm thấy như họ đã thiếu cái gì đó quan trọng. Nếu như Long Đình đã lấy đi một vật gì đấy từ ngôi mộ dấu tích thứ hai. Anh đạp mạnh. Mình phải để nỗi sợ hãi đó mất đi. Anh vẫn phải tiếp tục như thể ngang với Long Đình có cùng những thông tin.
Sự im lặng của độ sâu tiếp tục đè nặng lên anh. “Hình như có điều gì đấy không ổn?” Anh lẩm bẩm.
Radio truyền dẫn câu nói của anh.
“Anh tìm thấy gì à?” Kat hỏi. Bóng cô đang bơi lại gần anh.
“Không có gì. Chỉ là càng ở lâu dưới này, tôi càng có cảm giác chúng ta đang làm một việc sai lầm.”
“Tôi xin lỗi.” Rachel nói từ khoảng không nào đó, giọng có vẻ tuyệt vọng. “Có thể tôi đã đặt quá nhiều hy vọng.”
“Không.” Gray nhớ lại vẻ mặt của cô lúc nãy. Anh thầm rủa mình đã khơi lại chuyện ấy.
“Rachel, tôi nghĩ là cô đã định ra nơi chính xác để tìm kiếm. Vấn đề là kế hoạch của tôi. Việc tìm kiếm từng khu vực một xem ra không ổn.”
“Anh nói vậy nghĩa là thế nào, chỉ huy?” Kat nói. “Có thể mất thời gian nhưng chúng ta sẽ kiểm tra được cả khu vực.”
Chính là vậy. Kat đã làm sáng tỏ điều đó cho anh. Anh không phải là người luôn theo những cái gì có trật tự, phương pháp luận bướng bỉnh. Trong khi một vài vấn đề được giải quyết tốt nhất theo cách đó thì bí mật này lại không phải nằm trong số ấy.
“Chúng ta thiếu một dấu vết.” Anh nói. “Tôi biết rồi. Chúng ta nhận ra bản đồ trên mộ, phát hiện ra ngôi mộ của Alexander rồi bay đến đây. Chúng ta tìm kiếm qua sách vở, thống kê, tài liệu, cố gắng giải đáp một câu đố mà đã làm đau đầu các nhà sử học hàng nghìn năm nay. Chúng ta là ai mà có thể giải đáp nó trong vòng một ngày?”
“Vậy anh muốn chúng ta làm gì?” Kat hỏi.
Gray dừng lại. “Chúng ta cần trở lại. Chúng ta đã dựa trên nghiên cứu của mình từ các tài liệu lịch sử phổ biến đối với tất cả. Chúng ta chỉ có một lợi thế đối với những kẻ săn lùng kho báu khác hàng thế kỷ qua là những gì phát hiện ra ở dưới ngôi mộ của Thánh Peter. Chúng ta đã mất một dấu vết ở dưới đó.”
Hoặc là nó đã bị lấy mất. Gray nghĩ. Nhưng anh không nói ra sự băn khoăn ấy.
“Có thể chúng ta không để lọt bằng chứng ở ngôi mộ.” Vigor nói.
“Rất có khả năng chúng ta không nhìn kỹ. Hãy nhớ khu hầm mộ. Những cái ấy cũng có tầng tầng lớp lớp. Liệu có thể có một tầng nữa trong câu đố này không?”
Im lặng trả lời ông ta… cho đến khi một giọng vang lên giải quyết tất cả.
“Cái ngôi sao cháy bùng chết tiệt đó,” Monk nói. “Nó không chỉ có chỉ xuống thành phố Alexandria… nó chỉ xuống tảng đá.”
Gray cảm thấy sự thật trong câu nói của Monk. Họ đã quá tập trung vào cái bản đồ được khắc, ngôi sao đang cháy, sự ám chỉ của tất cả nhưng họ lại quên đi phương thức bất thường của người họa sĩ.
“Ô-xýt-sắt. “ Kat nói.
“Cô biết gì về cái đó?” Gray hỏi rất tin về hiểu biết của cô đối với lĩnh vực địa chất.
“Đấy là ô-xýt-sắt. Người ta tìm thấy trữ lượng lớn của nó ở khắp châu Âu. Hầu hết là sắt nhưng thỉnh thoảng nó cũng chứa một khối lượng iridium và titanium.”
“Iridium?” Rachel hỏi. “Liệu có phải đấy là một trong những chất hỗn hợp không? Trong hài cốt của các vị Tiên tri?”
“Đúng vậy.” Kat trả lời, giọng cô nghe căng thẳng qua radio. “Nhưng tôi không tin điều đó là phần có ý nghĩa.”
“Cái gì?” Gray hỏi.
“Tôi xin lỗi, chỉ huy. Lẽ ra tôi phải nghĩ tới điều này. Sắt trong ô-xýt-sắt thường có từ trường yếu, không khỏe như ô-xýt-sắt song thỉnh thoảng nó cũng được dùng như cực nam châm.”
Gray nhận ra sự ám chỉ. Nam châm cũng đã được dùng để mở ngôi mộ thứ nhất. “Vậy ngôi sao không chỉ vào Alexandria, nó lại chỉ vào hòn đá có từ trường, đó là cái chúng ta cần tìm.”
“Thế thì thế giới cổ đại làm gì với cực nam châm?” Vigor hỏi, giọng có vẻ kích động.
Gray hiểu câu trả lời. “Họ làm la bàn.” Anh mở không khí lọt vào áo lặn rồi nhô lên mặt biển. “Tất cả mọi người lên thuyền.”
***
11 giờ 10 phút
Thời gian tính từng phút một, họ tháo bỏ các thứ trang bị. Rachel lại trèo vào khoang lái, vui ra mặt khi lại cầm lái. Cô ấn nút để nhổ neo. Con thuyền lao lên phía trước.
“Chạy chậm thôi.” Gray nói. Anh đang ngồi sát cô.
“Tôi ủng hộ điều đó.” Monk nói.
“Tôi sẽ theo dõi la bàn.” Gray tiếp tục. “Cô hãy chạy với tốc độ thật chậm vòng quanh khu pháo đài. Nếu thấy kim la bàn dịch chuyển, chúng ta sẽ lập tức nhổ neo rồi tìm kiếm phía dưới.”
Rachel gật đầu. Cô cầu nguyện cho bất cứ tảng đá có nam châm nào nằm dưới đó sẽ đủ mạnh để con thuyền của họ có thể phát hiện ra qua la bàn.
Khi neo đã được kéo lên, cô nhẹ nhàng gạt cần khởi động. Dịch chuyển về phía trước khó có thể phát hiện thấy.
“Tuyệt vời.” Gray thì thào.
Họ trượt lên phía trước. Mặt trời chậm chạp nhô lên trên cao. Họ kéo nắp boong lên che ánh nắng chói chang vào chiếc thuyền. Monk nằm soài trên chiếc ghế lớn, ngáy nhè nhẹ. Không ai nói câu nào.
Mỗi khi con tàu chạy chậm lại Rachel lại cảm thấy không yên tâm chút nào.
“Nếu như tảng đá không nằm dưới đó thì sao?” Cô thì thào với Gray, khi anh đang chăm chú nhìn vào la bàn. “Nếu như nó nằm trong pháo đài thì sao?”
“Vậy chúng ta sẽ lục soát chỗ tiếp theo.” Gray nói, mắt hướng về phía pháo đài đá.
“Nhưng tôi nghĩ cô nói đúng khi đề cập đến một lối vào bí mật. Tảng đá ô-xýt hóa nằm trên hang bí mật dẫn đến cái hang dẫn xuống kênh con sông Nước. Có lẽ đấy là một tầng nữa của câu đố.”
Kat nghe họ nói chuyện, một cuốn sách ở trên đùi. “Có thể chúng ta đã đọc quá nhiều về vấn đề ấy rồi.” Cô nói. “Hãy cố nặn ra điều chúng ta muốn để đối phó với câu đố.”
Ở phía dưới, Vigor đang lấy tay xoa xoa bụng chân sưng phồng lên sau khi bơi. “Tôi nghĩ rằng câu hỏi cuối cùng là hòn đá có thể nằm ở đâu - ở trên bộ hay dưới nước, phụ thuộc vào các nhà giả kim học giấu vết tích ở đâu. Chúng ta đã phán đoán những dấu vết được giấu vào thời gian nào trong thế kỷ VIII, có thể trước sau một chút, vào lúc cao điểm của một cuộc chiến giữa Chủ nghĩa Ngộ đạo và chính thống. Như vậy các nhà giả kim có thể giấu vết tích của họ trước hoặc sau khi tháp hải đăng Pharo sụp đổ vào năm 1303.”
Chẳng ai có câu trả lời cả.
Nhưng vài phút sau, trên mặt la bàn thấy có sự chuyển dịch mạnh.
“Dừng lại.” Gray hét lên.
Cái kim lại ổn định. Kat và Vigor nhìn họ.
Gray đặt tay lên vai Rachel. “Quay lại.”
Rachel gạt cần lái, cô để cho sóng đập vào mạng thuyền phía sau. Cái kim lại thấy chuyển động, quay đi ít nhất một phần tư.
“Hạ neo.” Gray ra lệnh.
Cô ấn nút hạ neo, thở hổn hển.
“Có cái gì ở dưới.” Gray nói.
Mọi người bắt đầu khởi động ngay lập tức, vớ lấy bình khí mới.
Monk thức giấc rồi ngồi dậy. “Cái gì vậy?” Anh nói giọng mỏi mệt.
“Trông như anh lại tiếp tục nhiệm vụ canh gác nữa rồi.” Gray nói. “Trừ phi anh muốn xuống nhúng người.”
Monk càu nhàu không nói gì.
Khi chiếc thuyền đã ổn định và lá cờ màu da cam được giơ lên, bốn thợ lặn lúc nãy nhảy xuống nước.
Rachel xả phao và bắt đầu lặn. Giọng của Gray đến với cô qua máy bộ đàm. “Hãy để ý la bàn đeo ở cổ tay. Zero là bất thường.”
Rachel theo dõi la bàn khi cô lặn xuống. Nước ở đây khá nóng. Chưa đầy mười mét. Cô xuống đến nền cát rất nhanh. Những người khác cũng xuống nhanh chỗ cô đứng, trông như những chú chim.
“Không có gì ở đây.” Kat nói.
Đáy biển là một chỗ bằng phẳng toàn cát.
Rachel nhìn chăm chú vào la bàn. Cô nhao người ra rồi lại quay lại. “Điều bất thường ở ngay đây.”
Gray cúi xuống đáy biển rồi đưa tay rà một lượt. “Cô ta nói đúng.”
Anh vòng tay lấy con dao đeo bên tay kia rồi bắt đầu đào vào nền cát mềm mại. Mũi dao đâm sâu xuống, bùn cát bắn tung lên làm hạn chế tầm nhìn.
Đến nhát thứ bảy, mũi dao như khựng lại không thể đi sâu quá hơn vài centimét.
“Có cái gì đó.” Gray nói.
Anh rút lưỡi dao rồi bắt đầu đào vào cát. Cảnh bỗng tối hẳn. Rachel không nhìn thấy gì nữa.
Cô nghe thấy tiếng thở gấp từ Gray.
Rachel tiến đến gần hơn, Gray lùi lại. Chỗ cát bị tản ra rồi lại đọng lại.
Nhô lên trên cát là một pho tượng bán thân của một người đàn ông.
“Tôi nghĩ rằng đấy là cực nam châm.” Kat nói, nghiên cứu chất đá của pho tượng. Cô cũng chà xát la bàn của mình bên tay cô lên pho tượng. Cái kim lập tức nhảy. “Ô-xýt sắt có từ tính.”
Rachel tiến đến gần hơn, nhìn vào khuôn mặt. Không có sự nhầm lẫn nào về sự giống nhau của các đường nét. Cô đã nhìn những khuôn mặt như vậy vài ba lần hôm nay rồi.
Gray cũng nhận ra điều đó.
“Lại một con nhân sư khác.”
***
12 giờ 14 phút
Gray dành mười phút để cạo sạch vai và phía trên của pho tượng, thò tay vào hình hài sư tử ở dưới. Không còn nghi ngờ gì nữa đây là một trong các con nhân sư giống như những con khác nằm la liệt trên biển.
“Giấu trong số những con khác.” Vigor nói. “Tôi đoán điều ấy khi trả lời câu hỏi khi nào các nhà giả kim giấu vật báu của họ ở đây.”
“Sau khi ngọn hải đăng bị sụp đổ.” Gray nói.
“Chính xác là vậy.”
Họ bu quanh con nhân sư có nhiễm từ, chờ cho đám bụi và cát ổn định.
Vigor tiếp tục. “Hội các vị Tiên tri cổ xưa chắc phải biết vị trí của ngôi mộ Alexander sau khi Septimus Severus giấu nó vào thế kỷ thứ ba. Họ giữ cho nó không bị đụng chạm đến, giữ được những bản thảo quý báu nhất của cái thư viện đã mất. Có lẽ vào trận động đất năm 1303 không chỉ làm đổ ngọn hải đăng mà còn làm ngôi mộ phát lộ. Họ nắm lấy cơ hội này để lại giấu tiếp, tận dụng thời gian hỗn loạn sau vụ động đất để chôn vùi dấu vết tiếp theo để những thế kỷ sau lại chôn vùi tiếp nữa.”
“Nếu như ông đúng,” Gray nói, “sẽ chỉ ra ngày tháng khi những dấu vết này được chôn. Hãy nhớ là chúng ta đã từng dự đoán rằng những dấu vết được đặt xung quanh thế kỷ XIII. Chúng ta chỉ cách vài năm. 1303. Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIV.”
“Hừm…” Vigor trôi đến gần hơn pho tượng.
“Cái gì?”
“Nó làm tôi phân vân. Cũng trong thập kỷ đó, giáo hoàng thực sự đã bị đánh đuổi ra khỏi thành Rome và di tản sang nước Pháp. Phái chống giáo hoàng đã cai trị Rome cho tới thế kỷ sau.”
“Vậy ư?”
“Cũng tương tự như vậy, hài cốt của các vị Tiên tri bị di rời từ Italy sang nước Đức vào năm 1162, một thời gian khác nữa khi vị giáo hoàng thực sự bị đánh chạy khỏi Rome và kẻ chống lại giáo hoàng ngồi trên ngai vàng.” Gray theo sau luồng suy nghĩ này. “Như vậy là những nhà giả kim đã cất giấu kho báu mỗi khi giáo hoàng bị đe dọa hiểm nguy.”
“Có vẻ là như vậy. Điều đó cắt nghĩa là hiệp hội những nhà thông thái đã có sự ràng buộc với giáo hội. Có thể, các nhà giả kim đã gia nhập Thiên chúa giáo lại mở cuộc tìm kiếm những kiến thức bí hiểm, những người Thiên chúa giáo Thomas.”
“Và hội bí mật này sát nhập với nhà thờ cơ đốc giáo?”
Vigor gật đầu. “Khi nhà thờ chính thống bị đặt trước sự đe dọa, thì nhà thờ bí mật cũng vậy. Vì vậy họ tìm cách bảo vệ. Đầu tiên là di chuyển chỗ di cốt đến nơi an toàn ở Đức vào thế kỷ thứ XII. Rồi sau những năm vật lộn ở hải ngoại, họ đã giấu phần tinh túy nhất trong số kiến thức của họ.”
“Ngay cả nếu đó là thực sự, cái đấy sẽ giúp gì cho việc chúng ta tìm mộ Alexander?” Kat hỏi.
“Giống như những dấu tích dẫn đến mộ Thánh Peter đã bị chôn vùi trong những câu chuyện của đạo Cơ đốc giáo. Những dấu vết ở đây có thể liên quan đến những truyền thuyết về Alexander, chuyện thần thoại Hy Lạp.” Vigor lấy tay xoa lên mặt tượng.
“Tại sao khác lại đánh dấu lối vào bằng con nhân sư?”
“Những bậc thầy về câu đố của người Hy Lạp.” Gray lẩm bẩm.
“Và con quỷ này sẽ giết anh ngay lập tức nếu không trả lời đúng các câu đố đó.” Vigor nhắc lại. “Có lẽ việc lựa chọn hình tượng này cũng là một lời cảnh báo.”
Gray nghiên cứu con nhân sư khi cát đã trôi đi, cũng như vẻ bí hiểm của nó. “Vậy thì chúng ta hãy giải câu đố này.”
***
12 giờ 32 phút
Xuống Alexandria lần cuối cùng.
Chiếc máy bay tư nhân Gulfstrem IV được phép mặt đất cho hạ cánh. Seichan lắng nghe câu chuyện của phi hành đoàn qua cửa khoang lái mở toang. Cô ngồi ghế ngay sát cửa. Ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ chỗ cô ngồi.
Một thân hình to lớn bước đến cô từ phía bên trái.
Raoul.
Cô tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ khi chiếc máy bay lượn một vòng trên vùng nước biển màu xanh sẫm của Địa Trung Hải chuẩn bị hạ cánh xuống đường băng.
“Thế cơ sở của cô dưới mặt đất nói điều gì?” Raoul hỏi, nhấn từng chữ một.
Có thể hắn để ý thấy cô đã sử dụng máy điện thoại của máy bay. Cô mân mê hình con rồng bằng bạc trên sợi dây chuyền. “Những người kia vẫn ở dưới nước. Nếu như ông may mắn, có thể họ sẽ giải được điều bí mật đó cho ông.”
“Ta không cần họ làm điều ấy.” Raoul quay lại trở về chỗ đồng bọn, một tốp chừng mười sáu tên, trong đó có cả những kẻ bậc thầy của Long Đình.
Seichan đã từng gặp nhà học giả đầy tài năng của Vatican, tiến sĩ Alberto Menardi, một người đàn ông cao ráo, tóc bạch kim với nước da sần sùi, đôi môi dày, cặp mắt ti hí. Gã ngồi phía sau máy bay, mũi bị sưng vù. Cô đã có toàn bộ hồ sơ về gã. Quan hệ của gã với một tổ chức tội phạm nào đó của Sisin có vẻ rất sâu. Hình như ngay cả Vatican cũng không thể ngăn không cho những hạt cỏ dại mọc trên đất của mình. Nhưng cô cũng không thể bỏ qua bộ óc sắc sảo của người đàn ông này. Gã có chỉ số IQ cao hơn Einstein đến ba điểm.
Chính tiến sĩ Alberto Menardi là kẻ từ mười lăm năm trước đây đã phát hiện trong thư viện của Long Đình những văn bản của phái Ngộ đạo về những hiệu ứng của từ trường khi giải thoát năng lượng của những kim loại siêu dẫn đó. Gã đã quan sát công trình thí nghiệm tại Lausanne Thụy Sĩ và thử phản ứng trên súc vật, rau cỏ và khoáng vật. Và ai có thể nhớ những du khách người Thụy Sĩ đơn độc đeo ba lô trên núi? Những thí nghiệm cuối cùng cũng có thể làm cho các nhà khoa học Quốc xã Đức sởn gai ốc.
Nhưng người đàn ông này lại có một thú vui rất bẩn thỉu với các cô gái trẻ.
Không phải vì tình dục.
Vì thể thao.
Cô đã nhìn thấy một vài tấm ảnh mà cô không hề muốn nhìn. Nếu cô không nhận được lệnh của Hiệp hội phải thủ tiêu người đàn ông này thì tự cô cũng sẽ làm việc đó.
Chiếc máy bay bắt đầu hạ cánh.
Ở một nơi nào đó phía dưới, toán Sigma đang miệt mài làm việc.
Họ không phải là mối đe dọa.
Quá dễ dàng như bắt cá trong thùng.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook