Tiểu sai dịch trên công đường lập công.

Đại phu được minh oan dâng đơn thuốc.

Lại nói về “Bàng bụng lu” bị áp giải lên công đường phủ nha, đầu cũng không dám ngẩng lên, quỳ mọp trên đất, chỉ biết dập đầu cật lực, dáng vẻ hống hách ngang ngược ở Dục Lạc lâu lúc trước, giờ đây nửa phần cũng không nhìn ra nổi.

“Quỳ dưới công đường là kẻ nào?”, Bao đại nhân trầm giọng hỏi.

“Bẩm… bẩm đại nhân, tiểu… tiểu nhân là Bàng Đại”, Bàng Đại run rẩy đáp.

“Bàng Đại…”

Bao đại nhân trầm giọng kéo dài tiếng, nhưng cũng chỉ gọi tên, hồi lâu sau vẫn không nói tiếp.

Nha dịch trên công đường thấy cấp trên không lên tiếng, tất cũng không dám hé răng; cha con Bàng gia không rõ trong hồ lô của Bao đại nhân bán thuốc gì, cũng im lặng nguyên tại chỗ; chúng bách tính ngoài cửa thấy bầu không khí công đường như vậy, đến thở mạnh cũng không dám.

Trong một lát, trên công đường im lặng như tờ, không khí nặng nề, đè nén khiến mọi người có chút thở không ra hơi.

Kim Kiền đứng ở cửa cũng cảm thấy hô hấp khó khăn, mạch đập yếu ớt, lén nhìn lên phía trên công đường, thì thấy Bao đại nhân đôi mày sa sầm xuống, ánh mắt sắc bén như có điện, bắn thẳng xuống đỉnh đầu của Bàng Đại dưới công đường, về phần Bàng Đại cũng là mồ hôi tuôn đẫm áo.

Chậc chậc, hay thật, “vô thanh thắng hữu thanh”.

Chát!!!

“Bàng Đại, ngươi biết tội chưa?!”

Tiếng kinh đường mộc mạnh mẽ vang lên như sấm nổ giữa trời, Bao đại nhân giận dữ quát lên một tiếng, chấn động cả ba hồn bảy vía khiến mọi người trên công đường đều thót tim, giật mình.

Bàng Đại lại càng quỳ rạp xuống, toàn thân trên dưới nung núc thịt đều run rẩy không ngừng:

“Thảo… thảo thảo thảo thảo dân không… không không biết mình phạm tội… tội gì…”

“Không biết phạm tội gì?!”, Bao đại nhân cao giọng quát, “Ngươi trước dùng thạch tín đầu độc giết chết Hoàng Đại Hổ, sau vu hãm Thu Nương cùng Trương Tụng Đức thông dâm, đem tội danh giết người đổ lên đầu Trương Tụng Đức, tội ác như vậy, còn dám nói không biết mình phạm tội gì?”.

Câu này nhất thời dọa cho Bàng Đại sợ mất vía, vội vàng khấu đầu phủ nhận: “Hoàng Hoàng Hoàng Đại Hổ là… là ai? Thảo dân ngay cả quen biết cũng không, thì sao có thể sát hại y được?”.

“Hừ, không quen biết?”, Bao đại nhân nghiêm nghị nheo mắt lại, cao giọng nói, “Truyền Lý thị”.

“Truyền Lý thị…”, tiếng hô truyền vang xa dần, không lâu sau, thì thấy một thiếu phụ bị áp giải lên công đường.

Kim Kiền định thần nhìn kỹ, nghĩ bụng: Hê, nhân chứng này càng lạ, mình căn bản không biết, chả biết hôm nay trong hồ lô của lão Bao bán thuốc gì nữa? Toàn xuất ra quái chiêu thôi.

Chỉ thấy thiếu phụ này tầm trên dưới ba mươi tuổi, thân vận áo lam vá víu, váy bằng vải bông, mắt híp miệng rộng, trên mặt tràn ngập vẻ hoảng sợ, bước chân lảo đảo đi đến trước công đường, lúc qua bục cửa còn suýt ngã nhào xuống đất.

“Dân… dân phụ Lý thị khấu kiến Thanh Thiên Bao đại nhân”.

“Lý thị”, Bao đại nhân hỏi, “Bản phủ hỏi ngươi, ngươi có biết Hoàng Đại Hổ không?”.

Lý thị đập mạnh trán xuống đất, run giọng đáp: “Bẩm Thanh Thiên Bao đại nhân, dân phụ có biết, Hoàng Đại Hổ chính là hàng xóm cách vách nhà dân phụ”.

Bao đại nhân gật đầu, lại nói: “Vậy ngươi có biết vì cớ gì mà Hoàng Đại Hổ chết không?”

“Bẩm Thanh Thiên Bao đại nhân, thê tử Thu Nương của y cùng Trương Tụng Đức thông dâm sau đó hại chết Hoàng Đại Hổ”.

“Ừm…”, Bao đại nhân ngưng một chút, lại nói, “Bản phủ có một phần cung trạng của ngươi từng nói trên công đường phủ nha Trần Châu rằng, đã nhiều lần trông thấy Trương Tụng Đức và Hoàng thị, Thu Nương liếc mắt đưa tình vô cùng mờ ám, có chuyện đó không?”.

“Đích thực là có chuyện đó, dân phụ từng rất nhiều lần nhìn thấy Trương Tụng Đức và Hoàng thị, Thu Nương ở trước cửa lôi lôi kéo kéo, làm tổn hại đến cương thường đạo lý”.

“Bản phủ hỏi ngươi, chuyện đó xảy ra khi nào?”

“Là… khoảng một tháng trước khi Hoàng Đại Hổ chết…”

“Là khoảng tháng Tư?”

“…Vâng”.

“Nói bậy!”, Bao đại nhân vỗ mạnh kinh đường mộc, giận dữ quát.

“Uy vũ…”, đường uy vang lên từng hồi, vấn vít quanh xà nhà.

Lý thị dưới công đường giật thót, toàn thân khắp trên dưới bắt đầu run rẩy không ngừng, miệng ú ớ nói: “Bẩm… bẩm Thanh Thiên Bao đại nhân, dân… dân phụ đích thực nhìn thấy hai người bọn họ…”.

Bao đại nhân nheo mắt lại, cao giọng nói: “Bản phủ đã phái người điều tra, tháng Tư năm nay, ngươi ra ngoài thăm viếng thân nhân, đến ngày mùng Ba tháng Năm mới về, lúc đó Hoàng Đại Hổ đã chết, Trương Tụng Đức thì bị bắt giam trong lao. Chưa đầy hai ngày sau đó, ngươi lên công đường làm chứng, nói rằng chính mình tận mắt nhìn thấy Hoàng thị, Thu Nương và Trương Tụng Đức thông dâm. Bản phủ thật muốn hỏi ngươi, ngươi đang ở ngoài thăm viếng thân nhân, làm sao có thể tận mắt nhìn thấy Trương Tụng Đức và Hoàng thị làm điều ám muội, lẽ nào ngươi có thiên lý nhãn, thuận phong nhĩ?”.

Lý thị nghe xong, người liền mềm nhũn ngã lăn ra đất, đến nửa câu cũng không thốt được.

Bao đại nhân nheo mắt đánh giá người đàn bà dưới công đường một lát, rồi vỗ mạnh kinh đường mộc quát:

“Lý thị, ngươi ở trên công đường nói bậy, thuận miệng vu hãm, coi rẻ công đường, xem thường quốc pháp, trọng tội như vậy, bản phủ nhất định sẽ phạt nặng ngươi!”.

Lý thị nghe xong những lời này liền như bị điện giật, cong người như cá chép vẫy đuôi, bật dậy hô lớn: “Đại nhân, Thanh Thiên Bao đại nhân, oan cho dân phụ quá, dân phụ không cố ý vu hãm Thu Nương và Trương đại phu, là do có người ép buộc dân phụ, bắt dân phụ phải nói như vậy”.

Bao đại nhân trừng mắt, quát: “Là kẻ nào ép buộc ngươi?”.

“… Là…”, Lý thị vừa thốt ra được một nửa lại có chút ngập ngừng, hai mắt hoảng loạn đảo quanh, tựa như có điều gì khó nói.

“Ngươi còn không nói thực?”, Bao đại nhân lại vỗ mạnh kinh đường mộc.

Thân hình Lý thị run lên, bà ta vội vàng khấu đầu nói: “Bẩm… bẩm đại nhân, là quản gia của phủ Hầu gia, Bàng… Bàng gia bắt tiểu nhân nói như thế…”.

Bàng Đại nghe xong, nhất thời sắc mặt xanh mét, hét lên: “Ngươi… ngươi đừng nói bậy, ta ép buộc ngươi lúc nào, ta vốn không quen biết ngươi!”.

Lý thị nghe mà hoảng, quay người kêu lên với Bàng Đại: “Bàng đại gia, ông đừng có trở mặt, hôm đó ông đưa cho tôi hai mươi lượng bạc, bảo tôi lên công đường phủ nha làm chứng, còn nói nếu tôi không nghe lời ông, ông sẽ giết cả nhà tôi, nên tôi mới…”.

“Ngươi… ngươi nói nhảm!”.

“Đủ rồi!”, Bao đại nhân quát lên một tiếng, “Trên công đường, không được phép tranh cãi!”.

Thoắt cái hai người liền im bặt, co rúm lại một chỗ, không dám nói tiếp.

Bao đại nhân ngưng một chút, đưa mắt sang Lý thị, trầm giọng hỏi: “Lý thị, ngươi nói mình chịu sự sai khiến của Bàng Đại nên mới vu cáo hãm hại Hoàng thị, Thu Nương và Trương Tụng Đức, những lời này có thực không?”.

Lý thị khấu đầu nói: “Những lời này của dân phụ câu nào cũng là sự thật, tuyệt không nói dối. Hai mươi lượng bạc trắng Bàng Đại đưa cho dân phụ, dân phụ chưa từng đụng vào, vẫn còn ở trong nhà dân phụ”.

Bao đại nhân gật gật đầu, lại đưa mắt sang Bàng Đại, đôi mày nhíu chặt, vỗ mạnh kinh đường mộc, nói: “Bàng Đại, ngươi nói ngươi không biết Hoàng Đại Hổ, vậy vì sao phải mua chuộc uy hiếm Lý thị đi vu cáo hãm hại Hoàng thị, Thu Nương và Trương Tụng Đức?”.

“Cái, cái đó, thảo… thảo dân…”, Bàng Đại mồ hôi to như hạt đậu, lăn từ trên gương mặt nung núc thịt rơi xuống đất, run rẩy hồi lâu mới nói: “Thảo… thảo dân chỉ mua chuộc người đi vu cáo hãm hại Hoàng thị và Trương Tụng Đức, nhưng thảo dân tuyệt đối không giết người, mong… mong đại nhân minh xét”.

Bao đại nhân nheo nheo mắt, chậm rãi cất tiếng: “Vậy Hoàng Đại Hổ không phải do ngươi giết?”.

“Thảo… thảo dân không… không giết người…”

Bao đại nhân hừ lạnh một tiếng, quay đầu sang ra lệnh cho Vương Triều bên cạnh: “Cho hắn xem vật chứng”.

Vương Triều y lời lấy ra một cái khay, bưng đến trước Bàng Đại, nhấc khăn trùm lên, đặt cái khay với những vật ở trên xuống trước mặt Bàng Đại.

Bàng Đại vừa nhìn thấy hai vật trên khay sắc mặt liền trắng xanh, hai mí mắt run run.

Vật đặt trên khay chính là tờ giấy có con dấu của hiệu thuốc tìm được trong hậu viện nhà Hoàng Đại Hổ.

“Bàng Đại, ngươi đã từng nhìn thấy vật này chưa?”, Bao đại nhân hỏi.

“Chưa… chưa chưa chưa chưa từng thấy!!!”, giọng Bàng Đại nhất thời cao vút lên hai quãng tám, mới nghe qua liền thấy giống hệt như giọng của thái giám trong cung.

Bao đại nhân khép hờ mắt, cao giọng: “Truyền tiểu nhị của ‘Nhân Huệ đường’”.

Một thanh niên ăn vận như tiểu nhị đi đến, quỳ xuống thi lễ: “Thảo dân Lưu A Hoàng, tiểu nhị của Nhân Huệ đường, khấu kiến Bao đại nhân”.

Bao đại nhân ra dấu, Vương Triều liền bước lên xem vật chứng đến đưa cho tiểu nhị.

“Lưu A Hoàng, ngươi nhìn kỹ tờ giấy này đi, ngươi có nhận ra không?”

Tiểu nhị Lưu A Hoàng cầm tờ giấy lên chăm chú xem xét trên dưới trái phải mấy lần rồi mới trịnh trọng đáp: “Bẩm Bao đại nhân, thảo dân có nhận ra, đây là tờ giấy gói thuốc của hiệu thuốc chúng thảo dân”.

Bao đại nhân gật gật đầu, lại hỏi: “Ngươi có thể nhận ra trên giấy gói này là loại dược phẩm nào không?”.

Lưu A Hoàng lại tỉ mỉ xem xét hồi lâu mới nói: “Bẩm đại nhân, dựa vào chút bột thuốc dính trên tờ giấy này mà suy đoán, tờ giấy này trước kia đã từng gói thạch tín”.

Chát! Bao đại nhân vỗ kinh đường mộc, quát: “To gan, thạch tín chính là thứ kịch độc, ngươi vì sao lại dám tùy ý mua bán?”.

Lưu A Hoàng bị dọa không nhẹ, vội vàng khấu đầu đáp: “Bẩm đại nhân, thạch tín chỉ bán cho người ta để giết côn trùng, chuột, hơn nữa chưởng quản còn căn dặn, nếu không biết rõ người mua, tuyệt đối không được tùy tiện bán”.

“Vậy phàm là người đến mua thạch tín, ngươi đều quen biết?”.

“Bẩm đại nhân, đúng vậy”.

Bao đại nhân nghe xong, khẽ gật đầu, tiếp tục hỏi: “Vậy trước tháng Năm năm nay, có kẻ nào đến ‘Nhân Huệ đường’ mua thạch tín không?”.

“Bẩm đại nhân, năm nay vừa mới vào đầu hạ, côn trùng chưa phá hoại nên chỗ thạch tín trong hiệu thuốc đã bán ra, thảo dân nhớ rất rõ”.

“Là kẻ nào đã mua?”

“Bẩm đại nhân, là… là…”, tiểu nhị Lưu A Hoàng nói đến đây lại có chút ấp úng.

Bao đại nhân thấy vậy, lòng liền hiểu rõ, chậm rãi lên tiếng: “Lưu A Hoàng, ngươi chớ có sợ hãi, hết thảy đều có bản phủ làm chủ cho ngươi”.

Tiểu nhị Lưu A Hoàng lúc này mới gật gật đầu, nuốt mạnh hai ngụm nước bọt nói: “Bẩm đại nhân, là quản gia của phủ Hầu gia, Bàng Đại mua”.

“Bàng Đại, ngươi còn gì để nói?!”, Bao đại nhân vỗ kinh đường mộc, quát.

Về phần Bàng Đại, lúc này sắc mặt trắng bệch, hai mắt dại đi, hệt như một đống thịt lợn bèo nhèo nằm trên đất đợi bán.

Ra dấu để nha dịch đưa tiểu nhị Lưu A Hoàng lui xuống, Bao đại nhân đôi mắt sắc bén xuống công đường, gằn từng chữ: “Bàng Đại, ngươi trước đầu độc Hoàng Đại Hổ, sau vu hãm Trương Tụng Đức, hai tội danh này không tội nào có thể tha thứ, bản phủ phán ngươi chịu trảm hình, ngươi phục hay không phục?”.

Bàng Đại nghe xong, cả thân người núc ních thịt rung lên, run rẩy không ngừng.

Bao đại nhân thấy hắn không nói được lời nào, lại vỗ kinh đường mộc, tiếp tục hỏi: “Bàng Đại, bản phủ phán ngươi chịu trảm hình, ngươi có phục hay không?!”.

Bàng Đại từ từ ngẩng đầu lên, một đôi mắt nhỏ như hạt đậu xanh nhìn thẳng vào Bao đại nhân, muốn nói nhưng lại ngừng.

Về phần chúng nhân trên công đường, sắc mặt rất phong phú, vô cùng náo nhiệt.

Cha con Bàng thị sắc mặt đen sì, hệt như da mặt Bao đại nhân; chúng nha dịch dưới công đường, những bách tính nghe thẩm vấn đều là vẻ mặt ngơ ngác, không hiểu vì sao; tứ đại Hiệu úy, Triển Chiêu, Công Tôn Sách sắc mặt không đổi, thản nhiên như không; Kim Kiền đứng ở cửa, đôi con ngươi đảo mấy vòng, chợt bừng tỉnh ngộ, thầm nghĩ:

Chậc chậc, trách nào hôm nay thăng đường không thẩm vấn Trương Tụng Đức lẫn An Lạc hầu, mà cố tình thẩm vấn Bàng Đại. An Lạc hầu nham hiểm xảo trá, lại có thân phận đặc biệt, nếu không có bằng chứng thép vững như núi, e là khó có thể trị tội hắn; còn Trương Tụng Đức lại đang mang tội giết người, cho dù có được truyền lên làm chứng, e là cũng khó khiến người khác tin phục. Thế nên mới thẩm vấn Bàng Đại đầu tiên, trước cởi bỏ tội danh giết người cho Trương Tụng Đức, như thế sẽ có thêm một nhân chứng trong sạch; sau lại bức Bàng Đại vào đường cùng, bắt hắn khai ra kẻ đứng sau sai khiến tất cả, tất sẽ có thêm một kẻ xấu xa làm chứng… Chiêu rút củi đáy nồi này của lão Bao thực quá lợi hại.

Chỉ là, ngay đến mình, vốn đầu óc không nhanh nhạy lắm, còn nhận ra được những lý do này, thì chẳng nhẽ con cua con thành tinh xảo quyệt kia lại không nhận ra?

Nghĩ đến đây, Kim Kiền vội đưa mắt lên quan sát.

Chỉ thấy An Lạc hầu Bàng Dục tuy sắc mặt sa sầm đen sì, nhưng đôi mắt phượng lại chưa từng mất đi ánh sáng, lạnh lẽo thâm trầm, hàn ý tỏa ra nhè nhẹ làm cho người ta rùng mình.

“Bàng Đại tội không thể tha, Bao đại nhân, không cần phải nể mặt bản hầu, cứ y theo luật mà xử hắn đi”, Bàng Dục lạnh lùng liếc Bàng Đại đang quỳ trên đất một cái, ngưng một chút, lại chầm chậm thốt ra mấy tiếng, “Bàng Đại, niệm tình ngươi đi theo bản hầu bấy lâu, người nhà của ngươi bản hầu sẽ lo liệu chu đáo”.

“Bàng Dục, bản phủ chưa hỏi, không được nhiều lời!”, Bao đại nhân giận dữ quát.

Bàng Dục nhướng mày nhìn Bao đại nhân một cái, cười nhạt một tiếng không nói nữa.

Kim Kiền vừa nghe những lời này của Bàng Dục, lòng hô không hay rồi:

Câu này dịch ra, chính là: Bàng Đại, già trẻ lớn bé trong nhà ngươi đều nằm trong tay bản hầu, nếu không muốn liên lụy người nhà, ngươi cứ thống khoái mà nhận tội đi, đừng có nghĩ đến chuyện kéo bản hầu chết theo.

Kim Kiền không khỏi thầm lắc lắc đầu, nghĩ bụng: Vẫn là chiêu đối phó với tri phủ Trần Châu, Lý Thanh Bình, chẳng những không sáng tạo lại còn chả có tiết tháo… Chậc, đáng tiếc chiêu này lại ứng với câu nói: Chiêu không cần độc, có hiệu quả là được.

Quả nhiên Bàng Đại nghe được những lời này của Bàng Dục, thân hình run rẩy không ngừng của y dần thôi run, cứng người lại mà quỳ, một chữ cũng không phát ra, tựa như trong trạng thái chờ chết.

Về phần chúng nhân trên công đường, sắc mặt thoắt cái đã thay đổi một trăm tám mươi độ.

Cha con Bàng thị sắc mặt hòa hoãn hẳn lên, còn các nhân vật tinh anh của Khai Phong phủ sắc mặt dần sa sầm xuống.

Bao đại nhân sắc mặt chuyển sang màu tím đen, từ từ đứng dậy, quát: “Người đâu, đưa cẩu đầu trảm đến chờ lệnh!”.

Bốn nha dịch bước ra khỏi hàng, đến bên cạnh nâng cẩu đầu trảm lên, đặt ra chính giữa công đường, rồi đẩy Bàng Đại lên trên trảm đao.

Bao đại nhân từ từ rút ra trát lệnh, trầm giọng hô: “Khai đao…”.

Soạt!

Hàn quang lạnh lẽo rọi sáng công đường, Kim Kiền chỉ cảm thấy đao quang léo lên, nhất thời một luồng khí lạnh xộc vào lòng.

Hừ hừ, không xong rồi, tại sao tim mình lại đập loạn lên thế này, tựa như có điểm chẳng lành.

Ngước mắt lên nhìn, xuyên qua các nha dịch trên công đường, ánh mắt Kim Kiền không sai lệch vừa vặn bắn thẳng lên người vị Tứ phẩm hộ vệ áo đỏ đang đứng bên bàn xử án của Bao đại nhân.

Chỉ thấy Triển Chiêu sắc mặt bình tĩnh, không chút biểu cảm, tựa như sớm đã không còn quan tâm đến kết quả này, có điều đôi mắt như sao, thâm sâu khó dò, trầm ngâm tĩnh lặng, không hề có chút ánh sáng nào.

Kim Kiền liền thót tim, nhất thời ngộ ra một câu răn kinh điển: Nếu không diệt vong trong im lặng, thì sẽ bộc phát trong im lặng… Chậc, nom dáng vẻ Tiểu Miêu, nhất định thuộc vào loại “bộc phát” rồi.

Lần này nếu để cho An Lạc hầu thoát tội, Tiểu Miêu không đi liều chín cái mạng mèo mới là lạ!

Nghĩ đến đây, Kim Kiền liền hoảng hốt, đôi mắt nhỏ dài nhìn dáo dác bốn phía, cuối cùng dừng lại trên mặt Công Tôn Sách.

Chỉ thấy gương mặt nho nhã của Công Tôn tiên sinh trắng đến kinh dị, mới nhìn qua trông hệt như Bạch Vô Thường, khiến người ta sợ hãi. Mà cái câu ma âm xuyên tai kia lại vang lên đúng lúc:

“Triển hộ vệ sau này xin phiền Kim bổ khoái”.

Toàn thân Kim Kiền liền run lên một cái.

Hừ hừ, ngụ ý trong lời nói của Công Tôn Trúc Tử tám phần là… nếu Triển hộ vệ có xảy ra sơ suất gì, Kim bổ khoái ngươi nhất định cũng không được yên đâu!

Oh my God!

Nếu Tiểu Miêu đi liều mạng thì cái mạng nhỏ của mình tám phần cũng phải liều theo sau rồi!

Bình tĩnh, bình tĩnh, mình, đường đường một người hiện đại, đọc bao nhiêu sách vở, học thông cổ kim, xem mấy trăm bộ phim truyền hình lúc tám giờ, vượt thời gian hơn một nghìn năm về cổ đại cơ mà, hừ hừ hừ hừ, tục ngữ nói: Người sống sờ sờ ra đấy, sao có thể chết vì bí tiểu tiện được?! Có điều, làm cho một gã đàn ông bất lương thích chọc ghẹo nam nhân quay ra cắn lại chủ mình một miếng, độ khó chỉ thuộc hàng trung bình khá…

Í, khoan đã, chọc ghẹo nam nhân… hê!

Kim Kiền lòng đột nhiên bừng sáng, thầm nghĩ: Con cua con, đừng tưởng chỉ mình ngươi biết sử dụng ám chiêu, các tinh anh của Khai Phong phủ không thèm dùng, nhưng ta đây, người hiểu sâu biết rộng lại tân tiến, biết được tầm quan trọng sống còn của việc giải phóng tư tưởng, bằng bất cứ giá nào, ta nhất định phải cùng ngươi phân tài cao thấp mới được.

Nghĩ đến đây, Kim Kiền nghiêm sắc mặt lại, cất bước đi lên công đường ôm quyền cao giọng nói: “Khởi bẩm đại nhân, thuộc hạ có chuyện bẩm báo!”.

Hành động này của Kim Kiền khiến mọi người chấn động.

Nha dịch trên công đường, chúng bách tính ngoài cửa không cần miêu tả tỉ mỉ cũng biết họ đều trong dáng vẻ hai mắt mở to thô lố;

Cha con Bàng thị sắc mặt xấu đi, ẩn hiện sát khí;

Tứ đại Hiệu úy đã không biết nên thể hiện loại biểu cảm nào, ngũ quan đều lệch khỏi vị trí.

Triển Chiêu vẫn như cũ không biểu lộ gì, rất bình tĩnh, chỉ là trong đôi mắt sáng ẩn hiện ánh lửa.

Bao đại nhân tay cầm trát lệnh, đang định ném xuống, lại bị Kim Kiền hô lên, thân hình nhất thời cứng lại, sắc mặt càng u ám, ngưng một chút, đưa mắt sang Công Tôn tiên sinh;

Công Tôn tiên sinh mắt thoáng hiện vẻ ngạc nhiên, nhưng cũng chỉ trong giây lát mà thôi, ngay lập tức lại đưa mắt sang Bao đại nhân, khe khẽ gật đầu.

Bao đại nhân hiểu ý, liền thu lại trát lệnh, trầm giọng nói: “Có chuyện gì cần bẩm báo?”.

Kim Kiền da mặt cứng đờ, trên đầu toàn là mồ hôi lạnh, chậm rãi nói: “Bẩm đại nhân, thuộc hạ và Bàng Đại từng có duyên gặp gỡ một lần, giờ đây thấy cố nhân cùng thuộc hạ sắp âm dương đôi ngả, thực không đành lòng, nghĩ muốn cùng cố nhân nói đôi câu tiễn biệt, mong đại nhân ân chuẩn”.

Những lời này vừa thốt ra, trên công đường một mảnh tĩnh lặng, ngẫu nhiên có vài tiếng hít khí lạnh phát ra.

Hồi lâu sau, Bao đại nhân mới chầm chậm thốt ra: “Được”.

“Tạ đại nhân”, Kim Kiền ôm quyền thi lễ, đi nhanh như chạy đến bên người Bàng Đại, ngồi xổm xuống nói: “Bàng huynh, huynh còn nhớ tiểu đệ không?”.

Bàng Đại nhìn chằm chằm vào Kim Kiền, ánh mắt ngây dại dần trở lại bình thường, rồi đổi thành vẻ kinh ngạc, nhìn một lúc lâu ngập ngừng nói: “Vị tiểu ca này, thực có chút quen quen…”.

Kim Kiền hơi bĩu môi, thuận tay chỉ chỉ lên phía trên, thì thầm bằng giọng cơ hồ như không ai có thể nghe thấy mà nói với Bàng Đại: “Huynh có còn nhớ vị đại nhân kia không?”.

Bàng Đại nhìn theo ngón tay Kim Kiền, vừa vặn trông thấy vị Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ thân hình thẳng như cán bút kia.

“Tại Dục Lạc lâu, huynh từng mời vị đại nhân kia đến phủ Hầu gia chơi một chuyến, Bàng huynh có còn nhớ không?”, Kim Kiền bên cạnh nhắc nhở.

Lúc này Bàng Đại mới nhớ ra, nhất thời thân hình run rẩy, mi mắt giật giật.

Kim Kiền nhướng nhướng đầu mày, hạ giọng vẻ lo lắng nói: “Bàng huynh, huynh có biết vị đại nhân kia là ai không? Ngài ấy chính là Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ Triển Chiêu, Nam hiệp nức tiếng giang hồ, được Thánh thượng đích thân ngự phong “Ngự Miêu”… Không giấu gì Bàng huynh, Triển đại nhân nổi tiếng là người có giao thiệp rộng, võ công lại cao, bằng hữu giang hồ nhiều, trên giang hồ những kẻ ngưỡng mộ Nam hiệp không phải một vạn thì cũng là tám nghìn người… Bàng huynh từng đối đãi như vậy với Triển đại nhân, nếu để các bằng hữu giang hồ của Triển đại nhân biết được, huynh thấy người nhà của huynh có còn đường sống không? À, nhắc mới nhớ tới mấy phương pháp tra tấn người khác trên giang hồ… Chậc chậc chậc chậc…”.

Nói đến đây, Kim Kiền ngưng một chút, có chút vui sướng khi người khác gặp họa, nhìn Bàng Đại từ một đống thịt lợn bình thường biến thành thịt lợn chảy nước, mồ hôi lạnh ào ạt tuôn ra.

Kim Kiền hắng giọng, lại thì thầm nhỏ hơn nữa, tiếp tục nói:

“Bàng huynh, huynh cũng thấy rồi đấy, Triển đại nhân tuấn tú nho nhã, cao quý như ngọc thụ đón gió, đương kim Thánh thượng lần đầu gặp đã phá lệ phong chức quan tứ phẩm, còn đích thân ngự phong danh xưng ‘Ngự Miêu’ nữa, ôi vinh dự biết bao nhiêu! Nhớ ngày đó, Thánh thượng quyết ý muốn giữ Triển đại nhân ở bên, nhưng Triển đại nhân mới nói một câu muốn dốc sức vì Khai Phong phủ, Thánh thượng không nói hai lời liền đáp ứng, ôi ân sủng dạt dào làm sao! Chậc chậc, nói mới nhớ, Thánh thượng đối với Triển đại nhân… đúng thật là… Haizz, nếu Thánh thượng biết Triển đại nhân từng chịu sự sỉ nhục như vậy, Bàng huynh, không phải tiểu đệ cố ý muốn dọa huynh, mặc dù không có khả năng tru di cửu tộc nhà huynh, nhưng tru di thất tộc, bát tộc thì khó nói lắm”.

Nghe đến đây, Bàng Đại từ thịt lợn chảy nước biến thành một đống thịt lợn ôi… toàn thân tím tái.

“Có điều Bàng huynh này, huynh cũng không cần phải quá lo lắng đâu, Triển đại nhân tính khí tốt nổi danh khắp xa gần, lòng dạ rộng rãi, chỉ cần là người trợ giúp Bao đại nhân, Triển đại nhân nhất định sẽ đối xử tốt, không truy cứu lỗi lầm cũ. Nay trong phủ Trần Châu này, người dám cùng Bao đại nhân đối địch, cũng chỉ có một… Tiểu đệ biết Bàng huynh không phải phường đại gian đại ác, nếu không nhận lệnh của người khác thì cũng sẽ không giết người, hại người. Tiểu đệ đã nói hết rồi, Bàng huynh, dù huynh không suy nghĩ cho mình, cũng nên suy nghĩ cho người nhà một hai phần, miễn cho cảnh cả nhà già trẻ lớn bé cùng đoàn tụ dưới hoàng tuyền!”.

Nói rồi, Kim Kiền đứng dậy, khôi phục lại giọng nói bình thường, cung kính ôm quyền: “Bẩm đại nhân, thuộc hạ đã nói xong lời tiễn biệt với cố nhân, xin đại nhân hành hình”.

Dứt lời, Kim Kiền vội lùi ra sau.

Nhưng còn chưa đợi đến khi Kim Kiền lùi ra đến cửa, đã thấy Bàng Đại đột nhiên ưỡn thẳng người lên, cao giọng gào khóc: “Bao đại nhân, Thanh Thiên Bao đại nhân, thảo dân oan quá!!!”.

Những lời này vừa thốt ra, mọi người trên công đường đều kinh ngạc sửng sốt, công đường rộng lớn nhường ấy, vậy mà không một ai phản ứng lại.

Kim Kiền nói một hồi, giọng rất nhỏ, không thể nghe được gì, ngoại trừ Bàng Đại, ngay đến Lý thị ở ngay gần sát đó mà cũng không nghe thấy, huống hồ người khác.

Mọ người chỉ nhìn thấy một tiểu sai dịch tự nhận là muốn nói lời tiễn biệt với cố nhân, rồi thì thầm bên tai Bàng Đại mấy câu, sắc mặt Bàng Đại thay đổi liên tục, sau cùng thì quay giáo xin hàng, như thế thử hỏi làm sao không khiến cho mọi người chấn kinh ngay tại trận được.

Lát sau, vẫn là Bao đại nhân hiểu sâu biết rộng, hoàn hồn đầu tiên, cao giọng hỏi: “Người vì sao lại kêu oan?”.

Bàng Đại thổn thức nói: “Đại nhân, thảo dân nhận lệnh của An Lạc hầu nên mới đầu độc Hoàng Đại Hổ, vu hãm Trương Tụng Đức, tất cả những hành vi đó đều không phải do thảo dân nguyện ý làm, xin đại nhân minh xét!”.

Chúng nhân trên công đường nghe xong lại càng kinh ngạc, không khỏi đưa mắt nhìn sang Bàng Dục.

Chỉ thấy Bàng Dục hơi biến sắc, đôi mắt phượng nheo lại, khóe mắt giật giật, lạnh lùng nói:

“Bàng Đại, ngươi cái tên cẩu nô tài ăn cây táo rào cây sung này, ngươi không sợ bản hầu tru di cửu tộc nhà ngươi sao?!”.

“An Lạc hầu Hầu gia, nếu ngươi còn nói bậy nữa, thì đừng trách bản phụ trị ngươi tội coi rẻ công đường!”, Bao đại nhân vỗ kinh đường mộc một tiếng, quát.

Bàng Dục đưa mắt lườm Bao đại nhân một cái, không nói tiếp nữa, chỉ trừng mắt căm hận nhìn Bàng Đại.

“Bàng Đại, những gì ngươi vừa nói có thực không?”, Bao đại nhân trầm giọng truy hỏi.

Bàng Đại vừa mới nghe được những lời kia của Bàng Dục, nhất thời thân hình lại dồn thành một đống, lúc này lại nghe thấy Bao đại nhân truy hỏi, không biết làm sao, cả người núc ních thịt không ngừng run rẩy, đôi mắt đỗ xanh láo liên tứ phía, cuối cùng dừng lại trên người Kim Hiền phía cửa.

Kim Kiền nghe được những lời này của Bàng Dục, vốn bị dọa tới cả người toát mồ hôi lạnh, nhưng lúc này vừa thấy Bàng Đại đưa mắt về phía mình, liền vội nghiêm sắc mặt lại, nhíu nhíu mày ra vẻ thâm trầm, rồi dùng ánh mắt liếc liếc về phía vị Ngự tiền hộ vệ trên công đường phía trước.

Bàng Đại nhìn theo ánh mắt Kim Kiền, vừa vặn chạm phải một đôi mắt đen láy thâm sâu, đen như bầu trời đêm, sâu như biển cả, đúng là: Sóng mắt lạnh lẽo ào ào, sát khí tuôn trào đôi mắt.

Đám thịt mỡ trên người hắn lại rung lên, Bàng Đại lập tức quỳ mọp người xuống hô: “Bẩm… bẩm đại nhân, những lời này của tiểu nhân câu nào cũng là thật, những chuyện tiểu nhân làm đều là nhận lệnh của Hầu gia!”.

“Cẩu nô tài!!!”

Bàng Dục đột nhiên đứng bật dậy, xông đến giơ chân hung hăng đá hai cái vào mặt Bàng Đại.

“Làm càn!”, Bao đại nhân vỗ kinh đường mộc, tức giận quát, “Bàng Dục, không được náo loạn công đường!”.

Trương Long, Triệu Hổ bước lên, mạnh mẽ áp chế bắt Bàng Dục quỳ xuống.

Bàng thái sư thấy vậy nhất thời nộ khí xung thiên, vỗ ghế đứng lên quát: “Bao đại nhân, ngươi chẳng những mặc cho tên cẩu nô tài đó nói bậy, ngược lại cứ nhằm vào quốc cữu đương triều, rốt cuộc ngươi có ý đồ gì?!”.

“Thái sư hãy bình tâm lại chớ vội nóng nảy, là đúng là sai, nhất định bản phủ sẽ trả lại công bằng cho thế gian”, Bao đại nhân hơi thi lễ nói.

“Trả lại công bằng cho thế gian?!”, Bàng Dục bị ép quỳ trên đất, cười lạnh nói, “Bao đại nhân nếu muốn trả lại công bằng cho thế gian, thì nên lập tức đem tên cẩu nô tài ăn nói bậy bạ này ra chém mới đúng!”.

Bàng Đại nghe vậy, vội dập đầu cao giọng nói: “Bao đại nhân, lời của tội dân câu nào cũng là thật, nếu có nửa lời gian dối, xin chịu sét đánh!”.

An Lạc hầu Bàng Dục lại cười lạnh một tiếng: “Nực cười, bản hầu và Trương Tụng Đức vốn chưa từng gặp mặt, lại càng không biết Hoàng Đại Hổ, lấy thân phận của bản hầu, thì vì lý do gì mà phải đầu độc hãm hại hai người đó?”.

Bàng thái sư ở bên chêm vào: “Bao đại nhân, ngươi chớ có nghe những lời phiến diện của tên cẩu nô tài này. Tội danh vu cáo hãm hại hoàng thân, lão phu e là Bao đại nhân ngươi không gánh nổi đâu!”.

Bao đại nhân gật gật đầu nói: “Thái sư nói phải, đích thực bản phủ không nên nghe lời nói phiến diện từ một phía! Người đâu, đưa Trương Tụng Đức lên”.

“Truyền Trương Tụng Đức…”

Không lâu sau, một nam tử đầu tóc bù xù từ từ đi lên công đường.

Nam tử này mặc áo tù nhân, mặt mũi bẩn thỉu, tay chân bị xích lại, bước đi tập tễnh, lên tới công đường liền khom người lại quỳ xuống, chậm rãi nói: “Tội dân Trương Tụng Đức khấu kiến Bao đại nhân”.

Bao đại nhân đánh giá nam tử dưới công đường một lát, mới thong thả nói: “Trương Tụng Đức, vụ án của ngươi đã rõ, hung thủ sát hại Hoàng Đại Hổ cũng tìm được, ngươi trong sạch”.

Trương Tụng Đức nghe xong, liền ngẩng phắt lên, đôi mắt sưng húp bầm tím tràn ngập vẻ kinh hãi, chẳng mang chút vui mừng nào, ngược lại có chút khó tin, rất lâu sau mới chầm chậm nói: “Dám hỏi đại nhân, tên hung thủ đó là ai?”.

Bao đại nhân thấy Trương Tụng Đức cư xử đúng mực, không tự ti, không kiêu ngạo, vững vàng lễ độ, nhưng lại bị tra tấn đến mức này, có chút không đành lòng, giọng cũng hòa hoãn đi mấy phần, tiếp tục nói: “Truyền ngươi lên đây, chính là muốn điều tra rõ hung thủ thực sự”. Ngưng một chút, Bao đại nhân lại nói, “Quản gia của phủ An Lạc hầu, Bàng Đại đã thừa nhận tội danh giết người, nhưng Bàng Đại lại nói An Lạc hầu là chủ mưu đứng sau tất cả… Bản phủ hỏi ngươi, ngươi và hai người đó có thù oán gì không?”.

Chẳng ngờ Trương Tụng Đức nghe đến câu hỏi này lại khẽ cười một tiếng, lắc đầu: “Tội dân và hai người này không có thù oán gì cả”.

Bao đại nhân sửng sốt, hỏi: “Nếu đã không có thù oán, vậy vì sao lại sát hại Hoàng Đại Hổ, rồi giá họa cho ngươi?”.

Trương Tụng Đức ngước lên nhìn Bao đại nhân một lát, rồi dần thu lại nụ cười, nói: “Chỉ e là vì một đơn thuốc”.

Mọi người nghe xong đều kinh ngạc.

Kim Kiền đứng ở cửa cũng vô cùng khó hiểu, thầm nghĩ: Phương thuốc gì nhỉ? Chẳng phải con cua con thèm muốn sắc đẹp của Thu Nương, vì chiếm đoạt Thu Nương nên mới giết Hoàng Đại Hổ, sau lại giá họa cho Trương Tụng Đức… Ấy khoan đã, không hợp lý. Nghĩ đi nghĩ lại, tất cả những thanh lâu kỹ viện trong toàn thành Trần Châu này đều thuộc sở hữu của An Lạc hầu, ngay đến Băng Cơ đẹp tuyệt trần đến vậy mà con cua con chưa từng để trong mắt, nhớ tới Thu Nương, chẳng qua chỉ là một dân phụ bình thường, làm sao xinh đẹp đến mức đó?

Hơn nữa lấy thân phận, địa vị cùng thế lực của con cua con, cho dù muốn cưỡng đoạt nữ tử, hà tất phải dùng đến chiêu giết người giá họa phiền phức như vậy, huống hồ, vì sao cứ nhất định phải giá họa cho Trương Tụng Đức mà không phải là người khác… Suy đoán theo hướng ấy thì dường như tất cả đều dẫn đến Trương Tụng Đức. Nếu nói con cua con và Trương Tụng Đức có thù oán, thì cứ trực tiếp giết chết Trương Tụng Đức là xong, vì sao lại phải đi đường vòng phiền toái như vậy?

Kim Kiền suy luận cả một lúc lâu cũng không tìm ra được đầu mối.

Chúng nhân trên công đường đều không hiểu gì cả.

Bao đại nhân khẽ cau mày, chầm chậm hỏi: “Là đơn thuốc gì?”.

Trương Tụng Đức đáp: “Đại nhân, đó là đơn thuốc thảo dân mang từ Hầu gia ra. Về phần đó là phương thuốc gì thì chỉ cần đại nhân nhìn thấy liền hiểu rõ”.

Bao đại nhân ngưng một chút, lại hỏi: “Hiện tại đơn thuốc đó ở đâu?”.

Trương Tụng Đức đáp: “Đại nhân, hiện nó ở trên người của Trương Phúc Tùng, nô bộc của nhà thảo dân”.

Bao đại nhân trầm ngâm một lát, gật gật đầu, cao giọng nói: “Truyền Trương Phúc Tùng”.

Một ông lão theo lệnh truyền gọi bước thấp bước cao tiến vào công đường, quỳ sụp xuống đất hô: “Thảo dân Trương Phúc Tùng bái kiến Thanh Thiên Bao đại nhân”.

Bao đại nhân gật đầu, lại đưa mắt sang Trương Tụng Đức.

Trương Tụng Đức hiểu ý, quay đầu sang nhẹ giọng kêu lên: “Phúc Tùng…”.

Ông lão vừa nghe, thân hình liền run lên, từ từ thẳng người dậy, lệ tuôn trào, nhào đến bên người Trương Tụng Đức khóc lóc: “Thiếu gia, thiếu gia, sao thiếu gia lại trở nên như thế này, gầy sọp hẳn đi?! Thiếu gia, Phúc Tùng biết thiếu gia vô tội, Phúc Tùng đến Khai Phong phủ xin Bao đại nhân giải oan, thiếu gia, oan khuất của thiếu gia nhất định phải nói rõ cho Bao đại nhân! Bao đại nhân là Thanh Thiên, nhất định sẽ giúp thiếu gia”.

Trương Tụng Đức hốc mắt cũng hơi đỏ lên, đưa tay khẽ khẽ vỗ lên lưng ông lão trước mặt, chậm rãi nói: “Phúc Tùng, Bao đại nhân đã giải oan giúp tôi rồi, tôi trong sạch, ông không cần lo lắng”.

Trương Phúc Tùng nghe vậy, nhất thời vui mừng, vội quay lại khấu đầu, hô lên:

“Đa tạ Bao đại nhân, Bao đại nhân quả nhiên là Thanh Thiên, là vị quan tốt, là… Thiếu gia vô tội, Phúc Tùng biết mà, Phúc Tùng vẫn luôn biết, thiếu gia là người thiện lương nhất trong thiên hạ, thiếu gia không phải kẻ sát nhân, Phúc Tùng, Phúc Tùng tạ ơn Bao đại nhân…”

“Lão à, không cần đa lễ”.

Bao đại nhân khẽ gật đầu, thong thả lên tiếng vỗ về.

Trương Tụng Đức lại vỗ vỗ lưng nô bộc nhà mình, chậm rãi hỏi: “Phúc Tùng, cuốn y thư tôi đưa ông vẫn còn giữ chứ?”.

Trương Phúc Tùng nghe vậy, vội nói: “Còn, đương nhiên là còn!”, vừa nói vừa lấy tay nải vẫn mang theo bên người, cẩn thận mở ra, rút cuốn y thư ở dưới cùng tay nải lên.

Trương Tụng Đức nhận lấy cuốn y thư, rồi xin mượn một thanh chủy thủ, sau đó mở phần bìa của cuốn sách ra, rạch nhẹ bên mép, lôi ra một tờ giấy mỏng từ bên trong phần bị cắt ra, đưa cho Vương Triều đứng bên.

Cho dù Kim Kiền đứng ở cửa nhưng vẫn nhìn thấy vô cùng rõ ràng, vào lúc Trương Tụng Đức lấy tờ giấy mỏng kia ra thì An Lạc hầu Bàng Dục đang quỳ một bên thần sắc liền thay đổi, sắc mặt trở nên trắng bệch, đầu mày khóe mắt sát khí ngập tràn.

Bao đại nhân nhận tờ giấy, mở ra xem xét tỉ mỉ, hồi lâu sau, mới ngẩng lên ra hiệu cho Công Tôn tiên sinh đi đến trước bàn xử án, cùng nghiên cứu.

Công Tôn tiên sinh càng xem thì lông mày càng nhíu chặt, sắc mặt càng kém, đến khi xem xong, thần sắc sa sầm xuống, không khỏi ngẩng đầu lên nói với Bao đại nhân: “Đại nhân, cái này…”.

Bao đại nhân gật gật đầu, giơ kinh đường mộc lên vỗ một cái nói: “Trương Tụng Đức đã được chứng minh vô tội, phóng thích ngay tại công đường, những kẻ khác áp giải về đại lao, mời An Lạc hầu Bàng Dục về sương phòng nghỉ tạm, ngày mai tái phẩm. Bãi đường!”.

Dứt lời, liền dẫn đầu mấy vị tâm phúc vội vàng đi ra hậu đường.

Chúng nha dịch còn lại thực có chút không hiểu mô tê gì cả, chỉ y lệnh mà hành sự; bách tính bên ngoài cửa cũng từ từ giải tán, Bàng thái sư thấy không còn ai cũng chỉ đành tức giận phì phò rời đi.

Kim Kiền là người vui nhất, đang định nhân cơ hội này chuồn đi, nhưng mới đi được vài bước thì thấy Trương Long vội vã chạy tới, thần sắc căng thẳng nói: “Kim Kiền, Công Tôn tiên sinh đang gấp rút tìm ngươi, mau theo ta đến phòng khách”.

Kim Kiền bất đắc dĩ đành phải theo Trương Long đi đến phòng khách.

Vừa bước vào phòng khách liền cảm nhận được bầu không khí khác thường bên trong, trên đầu mỗi người đều có mây đen ủ dột, đặc biệt là Công Tôn tiên sinh, sắc mặt vốn trắng bóc giờ lại hơi có sắc xanh, vừa thấy Kim Kiền bước vào cửa, liền lập tức gọi Kim Kiền lại, đưa tờ giấy trong tay cho Kim Kiền, thấp giọng nói: “Kim bổ khoái cũng xem đơn thuốc này đi”.

Kim Kiền không dám trễ nải, vội vàng đọc kỹ, nhưng vừa mới nhìn, Kim Kiền liền kinh hoàng đứng nguyên tại chỗ.

Chợt nghe Công Tôn tiên sinh ở bên nói: “Dựa theo những gì ghi trên đơn thuốc này… thì đúng là cách phối chế dược vật của ‘Lục mị’, tên một phương thuốc đã thất truyền từ lâu, An Lạc hầu… haizz…”, nói được nửa câu, Công Tôn tiên sinh không nói tiếp nữa.

Kim Kiền bên cạnh da đầu tê rần, thầm nghĩ:

Công Tôn Trúc Tử, thời điểm này còn dài dòng văn tự cái gì nữa? Cái gì mà “Lục mị” chứ, đâu cần phải văn nhã như vậy, căn bản nó là cách phối chế xuân dược, hơn nữa còn là loại xuân dược cực mạnh đủ khiến cho người ta đánh mất tâm trí, nói trắng ra đó là loại chất kích thích, gây nghiện.

Chậc chậc, quản lý khu đèn đỏ, ma cô dắt gái, tự chế chất kích thích, ngành nghề có độ khó, độ nguy hiểm, trình độ kỹ thuật cùng thu nhập lợi nhuận cao đến vậy đều bị ngươi chiếm hết, con cua con, quả nhiên ngươi cũng thuộc hàng cua tài năng!

Hồi hai mươi

Trong khách sảnh vén bức màn kinh hãi chúng nhân.

Nha dịch dũng cảm xuất ra quái chiêu.

Bao đại nhân nghe Công Tôn tiên sinh nói vậy, sắc mặt trầm xuống, cau mày nói:

“Tiên sinh nói dựa theo những gì ghi trong đơn thuốc này thì nó có tên là ‘Lục Mị’, trước đây tiên sinh đã từng xem qua loại thuốc này?”

Công Tôn tiên sinh lắc đầu nói: “Học trò chưa từng xem qua, chỉ là trước đây có nghe nói đến, rằng thuốc này từng làm kinh hãi chốn giang hồ, nhưng mười năm trước chẳng rõ vì sao lại tuyệt tích, không ai còn nhìn thấy nữa. Hiện giờ đệ tử cũng chỉ căn cứ trên cách phối chế loại thuốc này mà suy đoán, những gì ghi trên đây chính là cách phối chế ‘Lục mị’”.

Bao đại nhân chau mày, đưa mắt sang Triển Chiêu hỏi: “Triển hộ vệ đã từng nghe nói đến loại thuốc này chưa?”.

Trên gương mặt anh tuấn của Triển Chiêu như phủ một lớp sương, chàng khẽ lắc đầu nói: “Dường như thuộc hạ từng nghe sư phụ nhắc tới, rằng trên giang hồ xuất hiện một loại xuân dược, dược tính cực mạnh, có thể khiến người ta mê loạn tâm trí, khống chế hành vi người khác. Nhưng rốt cuộc tên là gì thì thuộc hạ không nhớ rõ”.

Công Tôn tiên sinh cau mày hồi lâu, đưa mắt sang thì thấy Kim Kiền cầm đơn thuốc trong tay, đầu mày nhíu chặt, như thể đang suy nghĩ gì đó, bất giác liền mở miệng hỏi: “Kim bổ khoái có manh mối gì sao?”.

Kim Kiền nghe tiếng, vội đưa đơn thuốc trong tay trả lại cho Công Tôn tiên sinh đáp: “Bẩm đại nhân, thuộc hạ sở học nông cạn, chưa từng nghe nhắc đến loại thuốc này, chỉ là dựa theo phương pháp phối chế được ghi trên đơn này, đích thực nó là loại xuân dược cực mạnh, nếu dùng quá liều thì e là sẽ mất hết thần trí”.

Bao đại nhân chau mày, nhận lại đơn thuốc từ Công Tôn tiên sinh, chăm chú đọc, trầm giọng nói: “Nếu dược tính của nó mạnh như vậy thì vì sao lại nằm trong tay Trương Tụng Đức, mà duyên cớ vì đâu mà Trương Tụng Đức lại nói hết thảy đều do đơn thuốc này?”.

Mọi người nghe xong, cũng không hiểu, đều trầm tư không nói.

Công Tôn tiên sinh trầm ngâm giây lát, rồi quay người nói với Bao đại nhân: “Đại nhân, sao không truyền Trương Tụng Đức tới khách sảnh nói chuyện?”.

Bao đại nhân gật đầu: “Bản phủ cũng đang có ý này”, rồi ra lệnh cho Trương Long, Triệu Hổ: “Trương Long, Triệu Hổ, truyền Trương Tụng Đức đến khách sảnh hỏi chuyện”.

“Thuộc hạ tuân lệnh”, Trương Long, Triệu Hổ hai người nhất tề ôm quyền nhận lệnh, quay người rời đi.

Bao đại nhân lại cầm đơn thuốc lên, tỉ mỉ đọc kỹ, cau mày không nói.

Những người còn lại cũng không dám làm phiền, chỉ đành im lặng đợi ở một bên.

Trong một lát, không khí trong khách sảnh trầm xuống.

Kim Kiền nhân lúc đó lủi vào góc phòng khách, lông mày xoắn tít vào nhau, thầm nghĩ:

… Lục mị…

Lục mị…

Mới nghe thì không thấy gì, nhưng sao càng nghe càng cảm thấy cái tên này quen quen vậy?

Kim Kiền càng nghĩ càng cảm thấy dường như đã từng biết đến cái tên này, bất giác cảnh tượng trước mắt thay đổi, dòng suy tư trở về mấy tháng trước…

Hôm ấy, lá cây trên Vân Ẩn sơn dần nhuộm sắc đỏ, trời cao trong xanh, khí thu mát mẻ, trong “Vô Vật cốc”, một lão nhân râu tóc trắng như tuyết nhưng sắc mặt lại lộ ra âm khí, đang ngồi trên một tảng đá, mặc cho gió thu thổi vào áo, lá rụng phiêu lãng rơi bên người, u ám nói với trò yêu bên cạnh:

“Đồ nhi à, vi sư dùng độc một đời, các loại độc vật đều khống chế trong tầm tay, mặc sức sử dụng, nhưng hồi vi sư còn trẻ, suy nghĩ ngông cuồng nông cạn, từng bị người ta mê hoặc, phối ra một loại độc mà ngay đến vi sư cũng khó lòng khống chế được, loại độc này mới xem thì tưởng vô hại, nếu dùng ít thì chẳng qua chỉ là loại xuân dược bình thường, nhưng nếu dùng lâu dài thì lại khiến người ta thần trí hỗn loạn, không khống chế được hành vi, không thuốc nào chữa được… Từ khi vi sư vào cốc ẩn cư tới nay, lúc nào cũng coi đây là nỗi khắc khoải, đêm đêm vỗ gối, ngày ăn chẳng nổi”.

Đồ nhi bên cạnh cúi đầu thu ánh mắt lại, nhất mực cung kính hỏi: “Nhị sư phụ hối hận bởi loại độc này làm hại chốn giang hồ?”.

Lão nhân nhướng đôi mày trắng như tuyết lên, cười nhạt nói: “Nực cười, từ khi vi sư dùng độc đến này đều không thẹn với lòng, vì sao phải hối hận?”.

Đồ nhi không hiểu, thân mình thoáng run lên, tiếp tục hỏi: “Đồ nhi ngu dốt, không rõ vì sao Nhị sư phụ lại canh cánh với loại độc này như vậy?”.

Lão nhân nghe vậy, hừ lạnh một tiếng, sắc mặt càng âm u, u ám nói: “Vi sư chỉ hận khi ấy nghe lời siểm nịnh của tiểu nhân, lại đi đặt cho loại độc kinh hãi thế tục ấy một cái tên quá tầm thường, thực là thẹn thay cho loại độc ấy”.

“Dám hỏi Nhị sư phụ, loại độc này có tên là gì?”.

“Ừm… cái tên này quá sức tầm thường, vi sư cũng không nhớ rõ, hình như là ‘Hoàng mị’… Không đúng, nên là ‘Kim mị’… Khoan đã, phải là ‘Tử mị’…. A, vi sư nhớ ra rồi, là ‘Hồng mị’, không sai, chính là ‘Hồng mị’”.

“… Hồng mị?”

“Không sai, đồ nhi à, con nghe đi, đã ‘hồng’ lại còn ‘mị’, một phen tâm huyết của vi sư lại dính vết nhơ dung tục như vậy, con kêu vi sư làm sao có thể an tâm được chứ?”

“Khụ, độc đó vốn là xuân dược, gọi ‘Hồng mị’ cũng coi như tên đúng với bản chất”.

“Vì sao đồ nhi lại nói ra những lời đó?! Độc này tuy là xuân dược, nhưng dược hiệu rất đặc biệt và kỳ lạ, có thể khống chế thần trí người ta, là cực phẩm xuân dược trên thế gian, sao có thể gọi tên nó giống như các loại xuân dược khác được!”.

“Khụ khụ, vậy theo ý Nhị sư phụ độc này nên đặt tên là gì?”

Lão nhân chau đôi lông mày dài, trên mặt thoáng hiện lên vẻ đắc ý, hùng hồn nói: “Tất nhiên phải gọi là ‘Tuyệt phẩm thập bát thế hợp hoa tán’!”.

“Phụt…”

“Ai da, đồ nhi ngoan, vì sao lại xịt máu?! Mau gọi Đại sư phụ của con qua xem thế nào!”

“Khụ khụ, đồ nhi không sao, chỉ là gần đây đồ nhi uống thuốc bổ nhiều quá, khí huyết dâng trào…”

Lời còn chưa nói hết đã thấy lão nhân nọ vút đi tựa làn khói, miệng không ngừng kêu to: “Dược lão đầu, Dược lão đầu, ngươi chết ở đâu rồi, đồ nhi ngoan của chúng ta sắp không xong rồi, còn không mau tới cứu mạng!”.

“…”, bên kia đồ nhi gầy gò ngẩng đầu lên nhìn trời, muốn khóc mà không có nước mắt.



Hồi tưởng đến đây, gân xanh trên trán Kim Kiền không khỏi giật giật, huyết khí trong lòng dâng trào:

Chậc chậc, lão già thối đã đãng trí lại còn mù màu, “Hồng mị” cái gì chứ, căn bản chính là “Lục mị”! May mà mình từ đầu chí cuối đều không lộ ra bản thân học nghệ ở đâu, bằng không, nếu để mấy thằng cha Khai Phong phủ này biết được sư phụ mình từng phối chế ra thứ thuốc này làm hại nhân gian, nhất định sẽ lôi mình ra trị tội liên đới.

Để giải quyết tình huống trước mắt, mình vẫn nên thành thành thật thật mà giả câm giả điếc, vờ như không biết mới là thượng sách.

Nghĩ đến đây, Kim Kiền vội vàng nghiêm sắc mặt lại, phối hợp với những người khác, làm ra vẻ trầm tư suy nghĩ.

Không lâu sau, chợt nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài cửa, Trương Long, Triệu Hổ hai người dẫn Trương Tụng Đức tiến vào khách sảnh.

“Thảo dân Trương Tụng Đức bái kiến Bao đại nhân”, Trương Tụng Đức một thân áo tù vẫn chưa kịp thay, toàn thân đều là vết máu bẩn, khom người quỳ xuống.

“Đứng lên đi”, Bao đại nhân giơ tay nói, “Nơi này không phải là công đường, không cần như vậy, người đâu mang ghế”.

Trương Long, Triệu Hổ nâng một chiếc ghế đến đặt sau lưng Trương Tụng Đức.

Trương Tụng Đức cả kinh, vội vàng cất tiếng từ chối: “Thảo dân không dám”.

“Trên người ngươi có vết thương, e khó đứng lâu được, bản phủ còn muốn hỏi chuyện ngươi, ngươi hãy ngồi xuống trước đã”, Bao đại nhân ôn tồn nói.

Trương Tụng Đức nghe vậy, ngước mắt lên nhìn Bao đại nhân, do dự hồi lâu mới thi lễ nói: “Thảo dân tạ Bao đại nhân”, dứt lời, liền khom người ngồi xuống.

Bao đại nhân gật gật đầu, giơ đơn thuốc trong tay lên nói: “Trương Tụng Đức, trên công đường ngươi có nói, đơn thuốc này là do ngươi mang từ phủ Hầu gia ra, những lời này là thật sao?”.

Trương Tụng Đức nghe xong, gật đầu, nghiêm mặt đáp: “Bẩm đại nhân, đích thực là như vậy!”.

Mọi người nghe rồi đều biến sắc.

Bao đại nhân cau chặt đôi mày, tiếp tục hỏi: “Trên công đường ngươi có nói, đơn thuốc này chính là nguyên do Hoàng Đại Hổ bị sát hại rồi giá họa cho ngươi, những lời này có thực không?”.

Trương Tụng Đức dường như nhớ ra điều gì đó, hai mắt ánh lên vẻ đau đớn, rồi nặng nề gật đầu.

Bao đại nhân ngưng một chút, khẽ nói: “Trương Tụng Đức, ngươi có được đơn thuốc này như thế nào, mà đơn thuốc này có liên quan gì đến chuyện Hoàng Đại Hổ bị sát hại, dẫn đến ngươi cũng vì đó mà bị giá họa, tất thảy nguồn cơn, ngươi hãy kể tỉ mỉ lại cho bản phủ”.

Vẻ đau đớn trong mắt Trương Tụng Đức càng rõ, Trương Tụng Đức hít sâu hai cái, chậm rãi nói: “Khoảng hai tháng trước, phủ An Lạc hầu phái người gọi thảo dân đến Nhuyễn Hồng đường chẩn bệnh, nói là ở đó có người lâm bệnh nặng. Hầu gia truyền gọi, thảo dân tất không dám trễ nải, lập tức đi theo. Nhưng đến khi thảo dân tới Nhuyễn Hồng đường, chẳng ngờ người cần chẩn trị lại là…”.

Nói đến đây, Trương Tụng Đức dừng lại, lông mày xoắn lại, sắc mặt dần trở nên trắng bệch.

“Là ai?”, Bao đại nhân nhíu chặt mày, cất tiếng hỏi.

Trương Tụng Đức ngước lên nhìn Bao đại nhân một cái, mới ổn định lại tâm thần, tiếp tục nói: “Là hơn mười nữ tử, đã bị… bị hành hạ giày vò tới mức thần trí không tỉnh táo, tâm thần hỗn loạn, lời nói không rõ ràng, hành vi quỷ dị, hơn nữa mấy nữ tử có tình trạng đã tự sát”.

Mọi người trong sảnh lại biến sắc.

Trương Tụng Đức tuy chỉ nói vài lời nhưng không khó để tưởng tượng ra những nữ tử này thê thảm đến thế nào, cảnh tượng Trương Tụng Đức đã nhìn thấy kinh người đến mức nào.

Công Tôn tiên sinh xen vào nói: “Ngươi chẩn đoán những nữ tử này bị bệnh gì?”.

Trương Tụng Đức đáp: “Những nữ tử này bị trúng một loại độc lạ, tuy không đến mức chết người, nhưng cũng đủ để khiến người khác mất hết thần trí”.

Bao đại nhân và Công Tôn tiên sinh đồng thời đưa mắt nhìn nhau, rồi tiếp tục hỏi: “Sau đó thì sao?”.

“Thảo dân tất nhiên là đem hết sức mình tận tâm tận lực chữa trị, may mắn thay những nữ tử này trúng độc không nặng, chưa đến vài ngày đã có mấy người dần chuyển biến tốt lên. Thảo dân vốn rất vui mừng, nhưng chẳng ngờ, vào lúc đó Hầu gia lại truyền thảo dân đến phủ Hầu gia gặp mặt”.

Nói đến đây, trên gương mặt đầy những vết thương bầm dập xanh tím thoáng hiện lên vẻ kinh sợ.

“Hầu gia gặp thảo dân, trước là tán thưởng y thuật của thảo dân, sau là lệnh cho thảo dân không cần phải chữa trị tiếp cho những nữ tử đó nữa, mà ở lại phối thuốc cho Hầu gia. Thảo dân không dám chống lại mệnh lệnh, đành phải nhận lời. Chẳng ngờ, đến khi thảo dân đọc được đơn thuốc, thì lại là, lại là…”

“Thứ ngươi đọc được chính là đơn thuốc này?”, Bao đại nhân sắc mặt sầm sì hỏi.

Trương Tụng Đức gật đầu nói: “Đại nhân, nhà thảo dân mấy đời hành nghề y, mặc dù không dám nói y thuật tinh thâm, nhưng tuyệt không phải hạng lang băm. Thảo dân vừa thấy đơn thuốc này, liền biết đó là cách phối chế một loại xuân dược cực mạnh, hơn nữa có thể làm thần trí người ta hỗn loạn, lúc này thảo dân mới hiểu, các nữ tử kia bị biến thành bộ dạng như vậy e rằng chính là do uống loại dược được ghi trên đó. Nhưng do thế lực của phủ Hầu gia, thảo dân đành miễn cưỡng đáp ứng, sau đó thì bị gia đinh đưa vào trong một mật thất, bí mật phối chế thuốc”.

“Mật thất?!”, Bao đại nhân nghe đến đây, mắt long lên, liếc nhìn Triển Chiêu.

Triển Chiêu cũng nghiêm sắc mặt, đưa mắt nhìn sang Kim Kiền ở góc sảnh.

Kim Kiền nghe xong cũng kinh ngạc, thầm nghĩ: Mật thất?! Không lẽ chính là gian mật thất khi mình bị “tiền tài mê hoặc tâm trí” rơi xuống?!

Chợt nghe Triển Chiêu mở miệng hỏi Trương Tụng Đức: “Huynh còn nhớ vị trí gian mật thất đó ở đâu không?”.

Trương Tụng Đức lắc đầu: “Lúc thảo dân đi đến gian mật thất đó đều bị bịt mắt, vốn không biết bị đưa đến nơi nào”.

Bao đại nhân lại hỏi: “Ngươi được An Lạc hầu mời đi phối chế thuốc, vì sao lại bị vu hãm tội danh giết người? Đơn thuốc đó vì sao lại giấu trong y thư?”.

Trương Tụng Đức hai vai hơi run run, đột nhiên cất cao giọng nói: “Bẩm đại nhân, thảo dân tuy không phải Hoa Đà tái thế, nhưng cũng biết người học y phải có cái tâm, những hành vi việc làm của An Lạc hầu ở Trần Châu phủ, bách tích trong Trần Châu có ai mà không biết, có ai mà không rõ?! Trương Tụng Đức tuy bất tài nhưng cũng không muốn tiếp tay kẻ ác làm điều bạo ngược, cho nên thảo dân đã đi một nước cờ mạo hiểm”, ngưng một chút, lại nói: “Thảo dân thừa cơ lúc phối chế thuốc đã phối cho mình một viên thuốc, có thể giúp thảo dân giả chết. An Lạc hầu cho rằng thảo dân đã chết bèn lệnh cho người ném xác thảo dân ra nơi hoang vắng, thảo dân nhờ vậy mới trốn thoát. Đơn thuốc cũng được thảo dân mang ra vào thời điểm đó”.

Kim Kiền nghe đến đây lại có chút không hiểu, thầm nghĩ: “Con cua con xảo quyệt như thế cơ mà, cho dù Trương Tụng Đức có giả chết, sao đến cả việc kiểm tra cũng không làm mà đã cho ném thi thể đi, hơn nữa ngay cả lục soát người cũng không? Thế này thì quá sơ suất rồi?

Nghĩ vậy, Kim Kiền không khỏi đưa mắt nhìn Công Tôn tiên sinh bên cạnh Bao đại nhân.

Quả nhiên Công Tôn tiên sinh khuôn mặt cũng mang vẻ nghi hoặc, cất tiếng hỏi: “Lẽ nào An Lạc hầu không nhìn ra sơ hở?”.

Trương Tụng Đức nghe xong, trên gương mặt lại thoáng hiện lên vẻ cười khổ, nói: “Tiên sinh có chỗ không biết, thuốc giả chết này chính là thuốc gia truyền của nhà thảo dân, dược lực rất mạnh, uống thuốc này vào thì không chỉ giống như ác chết thật, mà da thịt toàn thân còn từ từ thối rữa, qua bốn, năm ngày sau mới dần dần khôi phục lại bình thường. Dám hỏi trên thế gian này, có ai lại đi kiểm tra một thi thể đã thối rữa không?”.

Những lời này vừa thốt ra, mọi người lại cả kinh.

Bao đại nhân, Triển Chiêu, tứ đại Hiệu úy không cần nhắc đến, tất nhiên là họ chưa từng nghe nói đến loại thuốc này, mặt ai nấy đều mang vẻ kinh ngạc ngập tràn.

Công Tôn tiên sinh nghe xong hai mắt phát sáng, tựa như gặp được thứ gì đó mới lạ hứng thú, dáng vẻ nóng lòng muốn được thể nghiệm xem sao.

Kim Kiền nghe vậy lại đánh giá toàn thân trên dưới Trương Tụng Đức một lượt, thầm nghĩ: Nếu đem so loại thuốc giả chết như thật này với “đan dược giả chết” của mình thì còn lợi hại hơn mấy phần, có thể làm cho da thịt người sống thối rữa, qua vài ngày lại tự nhiên hồi phục?! Chậc chậc, thuốc gia truyền của nhà Trương Tụng Đức cũng lợi hại quá nhỉ? Chỉ là, dược lực mạnh như vậy, lẽ nào không để lại di chứng gì?!

Nhưng lại nhìn toàn thân trên dưới Trương Tụng Đức, cơ hồ không có chỗ nào là không ổn cả,

Nhãn cầu Kim Kiền đảo một vòng, lòng thầm tính toán: Sau chuyện này mình phải hỏi cho rõ mới được, nếu thật sự thuốc giả chết này lợi hại như vậy, bằng giá nào cũng không thể để lãng phí, nhất định phải đem nó phát triển rực rỡ hơn mới được.

Trương Tụng Đức cũng không quan tâm đến vẻ mặt kinh ngạc của mọi người, cứ tiếp tục nói: “Thảo dân trải qua thập tử nhất sinh mới về được đến nhà, đem đơn thuốc giấu vào trong y thư, lại đưa y thư giao cho nô bộc Phúc Tùng cất giữ, vốn nghĩ sẽ có một ngày đơn thuốc này sẽ trở thành tội chứng của An Lạc hầu. Nhưng chẳng ngờ cũng vì thế lại làm liên lụy đến cả nhà Hoàng đại ca, còn liên lụy đến Thu Nương…”.

Nói đến đây, thân hình Trương Tụng Đức run run, trên mặt lộ vẻ hoảng sợ, ánh mắt hoang mang, hỗn loạn, lời nói cũng bắt đầu lộn xộn, “Vào đêm thảo dân trốn thoát, An Lạc hầu phát hiện đơn thuốc bị mất, sau lại thấy thi thể của thảo dân biến mất, bèn phái người truy đuổi đến tận nhà thảo dân… Thảo dân nói không biết đơn thuốc, họ liền tra khảo thảo dân, nhưng thảo dân dù chết cũng không nhận, bọn họ lại tra khảo Phúc Tùng, nhưng Phúc Tùng vốn không biết gì cả… Họ không hỏi được gì liền bắt thảo dân đưa đến phủ nha Trần Châu, ngày hôm sau lại loan tin Hoàng đại ca vì dùng đơn thuốc của thảo dân kê mà trúng độc mất mạng, nhưng đơn thuốc đó là do thảo dân kê trước khi đi đến phủ Hầu gia trị bệnh…. Thảo dân không phục, trên công đường bèn kêu oan, họ lại vu hãm thảo dân và Thu Nương tội thông dâm, bày mưu sát hại Hoàng đại ca, Thu Nương cái gì cũng không biết nhưng lại bị thảo dân làm liên lụy, Hoàng đại ca cũng chết oan…”.

“Trương Tụng Đức, có phải An Lạc hầu dùng thanh danh hành y của nhà họ Trương, và tính mạng cùng sự trong sạch của Hoàng thị để ép buộc ngươi?”, Bao đại nhân cắt ngang lời Trương Tụng Đức, thở dài hỏi.

Trương Tụng Đức nghe vậy, thân hình hệt như bị điện giật, ngẩng phắt đầu lên, hai mắt đẫm lệ, quỳ sụp xuống đất, lớn tiếng kêu: “Đại nhân minh giám! Người trong phủ An Lạc hầu từng nói, nếu thảo dân không muốn làm tổn hại đến thanh danh Trương gia, nếu không muốn làm ô uế sự trong sạch của Thu Nương, thì nên sớm giao ra đơn thuốc, còn nói nếu thảo dân một ngày chưa giao ra đơn thuốc, thì Thu Nương phải chịu giày vò hành hạ một ngày, thảo dân, thảo dân vốn đã định sẽ tạ tội với Hoàng đại ca và Thu Nương dưới hoàng tuyền, nếu không phải Phúc Tùng trải qua bao nhọc nhằn vất vả đến Khai Phong phủ kêu oan, nếu không phải… Đại nhân, thảo dân không nên vì một đơn thuốc mà làm liên lụy đến người khác, đại nhân, Thu Nương, không Hoàng đại tẩu còn đang nằm trong tay An Lạc hầu, mong đại nhân cứu tẩu ấy…”.

Nói đến đây, Trương Tụng Đức khóc không thành tiếng, chỉ biết đập đầu quỳ lạy.

Bao đại nhân nhíu chặt mày, lại nhìn người đang quỳ, vận áo tù, cả người toàn những vết máu, run rẩy chẳng ngừng, giọng nói nghẹn ngào, không khỏi thầm thở dài một tiếng, nói: “Hoàng thị đã được cứu ra, lúc này đang ở trong phủ nha”.

Trương Tụng Đức vừa nghe liền ngẩng phắt đầu lên, vẻ mặt kinh ngạc pha lẫn vui sướng, dung nhan tiều tụy hơi sáng lên, nói với vẻ không tin nổi: “Đại… đại nhân, ngài nói Thu Nương đang ở trong phủ?”.

Bao đại nhân gật gật đầu: “Trương Long, hãy đưa Trương Tụng Đức đi gặp Hoàng thị”.

Trương Long nhận lệnh, còn Trương Tụng Đức hai mắt đẫm lệ, khấu đầu ba cái rồi mới đứng dậy theo Trương Long vội vã rời đi.

Bao đại nhân nhìn theo bóng lưng Trương Tụng Đức, lại khẽ thở dài một tiếng.

Công Tôn tiên sinh ở bên thấy vậy, không khỏi bước lên một bước nói: “Đại nhân…”.

Bao đại nhân khoát tay, trấn an nói: “Không sao, chỉ là bản phủ nghĩ đến tình trạng giống hệt người điên của Hoàng thị lúc này, có chút không đành lòng”, ngưng một chút, Bao đại nhân lại cầm đơn thuốc trên bàn lên, chau mày không nói.

Công Tôn tiên sinh cũng nhíu mày nói: “Đại nhân sau khi nhìn thấy đơn thuốc này liền bãi đường dừng thẩm án, chắc hẳn đã nghĩ đến đơn thuốc này rất quan trọng”.

Bao đại nhân cau chặt mày nói: “Không sai, thuốc này khiến tâm trí người ta hỗn loạn, khống chế hành vi của họ, nếu sử dụng trên diện rộng sẽ làm hại đến quốc gia, làm lung lay gốc rễ nước nhà, khi ấy xã tắc khó lòng giữ được”, ngưng một chút, Bao đại nhân giọng hơi trầm xuống, nói tiếp, “An Lạc hầu thân phận tôn quý, xưng bá một phương, có thể nói là dưới một người mà trên vạn người, vì cái gì lại chấp nhất với đơn thuốc này như thế?”.

Câu này giống như hỏi mọi người, lại như tự hỏi mình.

Công Tôn tiên sinh bên cạnh chau mày, cũng nói: “Không lẽ An Lạc hầu muốn dùng loại thuốc này để khống chế tâm trí người khác?”.

“Vì sao hắn phải khống chế tâm trí người khác?”

“Chuyện này… học trò không dám nói bừa”, Công Tôn tiên sinh rũ mắt xuống đáp.

Bao đại nhân lại thở dài một tiếng.

Kim Kiền đứng một bên thấy thế bèn nhướng mày, thầm nghĩ: Việc này có cái gì mà không hiểu nào? Theo những gì ghi trên đơn thuốc thì nó chính là chất gây nghiện cao cấp do Nhị sư phụ tận lực tạo ra! Đem so sánh với ma túy đá, thuốc lắc tuyệt đối không hề kém cạnh, nếu chế tạo thành một lượng lớn thì đó chính là khoản lợi nhuận kếch xù! Tuy độ nguy hiểm hơi cao, nhưng luận về tốc độ vơ vét tiền của chắc chắn sẽ vượt xa, cho các ngành sản xuất khác phải hít khói, chậc chậc, nghĩ mà xem một đống vàng rồi một đống vàng cứ tăng lên theo cấp số nhân, thử coi có ai mà không động lòng?! Haizz… đáng tiếc cái đám tinh anh này của Khai Phong phủ lại không thể lĩnh hội được sự ảo diệu trong đó.

Bao đại nhân đặt đơn thuốc trong tay xuống, ngẩng đầu lên, ánh mắt nghiêm nghị, cao giọng ra lệnh: “Triệu Hổ, truyền lệnh của bản phủ, nghiêm cẩn bảo vệ sự an toàn của Trương Tụng Đức và Trương Phúc Tùng, không được để xảy ra sơ suất”.

“Thuộc hạ tuân lệnh”.

Bao đại nhân gật đầu, lại nói với Công Tôn tiên sinh bên cạnh: “Theo ý kiến của tiên sinh thì có khả năng mật thất trong lời nói của Trương Tụng Đức chính là gian mật thất mà Triển hộ vệ cùng Kim bổ khoái cứu người không?”.

Công Tôn Sách trầm ngâm một lát, nói: “Tới tám, chín phần là như vậy”.

“Tiên sinh có cho rằng loại thuốc ‘Lục mị’ này vẫn còn sót lại trong mật thất không?”

“Cái này…”

“Đại nhân!”, Triển Chiêu đột nhiên bước lên một bước, ôm quyền nói: “Thuộc hạ nguyện đến phủ Hầu gia tìm kiếm một chuyến”.

Những lời này vừa thốt ra, mọi người trong sảnh đều biến sắc.

Công Tôn tiên sinh hơi ngước mắt lên, có chút câm nín hỏi trời xanh.

Ba vị đại Hiệu úy còn lại trên mặt đều là vẻ lo lắng cùng sự sùng bái.

Kim Kiền thì sắc mặt bỗng trở nên trắng bệch, chân mày giật giật, thái dương đổ mồ hôi, thầm nghĩ: Cái con mèo này cũng quá tận tâm với công việc rồi. Lão Bao còn chưa lên tiếng, anh kích động cái gì chứ?… Khoan đã, nếu luận về những người từng đến mật thất, thì hình như chỉ có mình và Tiểu Miêu, lẽ nào mình lại phải liều mạng theo hầu “Ngự Miêu” sao? Không phải chứ!!!

Bao đại nhân nhìn bóng áo đỏ thẳng như cán bút một cái, có chút bất đắc dĩ nói: “Thương thế của Triển hộ vệ chưa lành, vẫn nên ở lại trong phủ chờ lệnh thì hơn”.

Triển Chiêu nghe vậy liền sửng sốt, không khỏi nhìn Công Tôn tiên sinh một cái.

Công Tôn tiên sinh ho khan một tiếng, khẽ đưa ánh mắt đi nơi khác.

“Đại nhân, thương thế của thuộc hạ đã không còn đáng ngại nữa, xin hãy cho phép thuộc hạ đi đến mật thất trong phủ Hầu gia tìm kiếm, điều tra rõ ràng, nếu để ‘Lục mị’ lọt ra ngoài thì e hậu họa khó lường”, Triển Chiêu lại bước lên, đôi mày lưỡi mác cau chặt, trên gương mặt anh tuấn thoáng hiện vẻ lo lắng.

Bao đại nhân, trên khuôn mặt đen bóng hiện vẻ bất đắc dĩ, lại đưa mắt nhìn vị sư gia bên cạnh.

Công Tôn tiên sinh ho khan một tiếng, chậm rãi nói: “Triển hộ vệ không cần lo lắng, cửa ngầm trong mật thất rất nhiều, trong một thời gian ngắn e khó có thể tìm kiếm hết được, huống hồ lúc này cũng không cách nào phán đoán chính xác rằng ‘Lục mị’ vẫn còn trong mật thất, chỉ sợ đã sۭ bị chuyển ra ngoài thành rồi. Nếu lúc này không suy xét kỹ càng đã đến thì chẳng phải thượng sách”.

“Nhưng…”, Triển Chiêu lại bước lên một bước.

Công Tôn tiên sinh khoát tay ngăn Triển Chiêu lại, nói với Bao đại nhân:

“Đại nhân có thể lệnh cho quan binh trấn giữ mỗi một lối đi trong thông đạo, nếu ‘Lục mị’ vẫn còn trong phủ Hầu gia, thì có thể dùng cách này để phòng ngừa thuốc lọt ra ngoài”, ngưng một chút, trên khuôn mặt Công Tôn tiên sinh lại hiện lên mấy phần bất đắc dĩ nhìn vị hộ vệ áo đỏ thần sắc kiên định trước mắt, giọng cao hơn mấy phần, nói: “Huống hồ trước đó Triển hộ vệ vì bảo vệ Kim bổ khoái mà bị thương, tuy không nghiêm trọng, nhưng nếu không tĩnh tâm điều dưỡng, e là hậu họa khôn lường, Kim bổ khoái nói xem có đúng không?”.

Trong lời nói còn đặc biệt nhấn mạnh mấy từ “vì bảo vệ Kim bổ khoái”.

Kim Kiền thấy đề nghị của Triển Chiêu bị bác bỏ, vừa mới thở phào một tiếng thì đã nghe Công Tôn tiên sinh điểm danh, nhất thời hoảng hốt, định thần nhìn lại, phát hiện không biết từ khi nào mình đã trở thành mục tiêu công kích của mọi người.

Vương Triều, Mã Hán sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc, ánh mắt rực lửa… đố kỵ, tuyệt đối chính là đố kỵ.

Công Tôn tiên sinh cười nho nhã… sung sướng khi người khác gặp họa, còn nhặt thêm đá ném xuống giếng.

Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ, vẻ mặt không đổi, nhưng bóng lưng hơi cứng lại… Chậc chậc, điềm xấu, điềm xấu rồi.

Bao đại nhân sắc mặt kinh ngạc, ánh mắt đưa sang vị hộ vệ áo đỏ, miệng lẩm bẩm nói: “Thì ra là Triển hộ vệ vì bảo vệ Kim bổ khoái, mới bị thương nặng như vậy…”.

Kim Kiền nghe mà giật mình thon thót, vội vàng xông lên, quỳ một chân xuống, ôm quyền hô: “Khởi bẩm đại nhân, thuộc hạ có lời này nhất định phải nói ra, mong đại nhân ân chuẩn!”.

Bao đại nhân sửng sốt, lát sau mới gật gật đầu.

Kim Kiền hít sâu một hơi, vẻ mặt đau đớn nói: “Thuộc hạ vốn phường áo vải, đem thân cày bừa chốn… ‘Sái Châu’, chỉ cầu tính mệnh ở đời loạn, chẳng mong nổi danh với chư hầu. Bao đại nhân không chê thuộc hạ bỉ lậu, cho nhậm chức ở Khai Phong, tất là ơn tái sinh, thuộc hạ ôm lòng cảm kích, nguyện theo phò tá đại nhân. Triển đại nhân đối với thuộc hạ quan tâm chu đáo, hỏi han ân cần, thường giảng giải đại nghĩa, khiến thuộc hạ cảm động đến rơi lệ”.

“Hôm trước Bao đại nhân ký thác đại sự cho thần. Từ lúc nhận lệnh đến nay, thuộc hạ ngày đêm lo lắng, sợ phụ sự ủy thác, làm tổn hại đến trông mong của đại nhân; nên cố tra xét Nhuyễn Hồng, thăm viếng Hầu phủ, nay tuy có chút công mọn, nhưng khó lấn lỗi lớn”.

“Triển đại nhân lo nước thương dân… khụ, ờ ờ, Triển đại nhân trung quốc ái quốc, xả thân vì người, cứu thuộc hạ trong chốn nguy nan, như phụ mẫu tái sinh, đại ơn khó báo; Triển đại nhân bị thương, thuộc hạ như đau chính mình, lòng như dao cắt, bi thống khôn nguôi. Nhưng lỗi lớn đã phạm, nào còn mặt mũi, biết vậy chẳng làm, thuộc hạ khẩn xin đại nhân nghiêm trị, để cáo cùng cái lưng của Triển đại nhân, cũng là an ủi trái tim bi thương của thuộc hạ; thuộc hạ hàm ơn cảm kích khôn nguôi! Nay chịu đòn nhận tội, lệ tuôn hai hàng, nói sao cho hết lời[1]”.

[1] Đây là lược trích và cải biên từ bài “Xuất sư biểu” của Khổng Minh, Gia Cát Lượng.

Những lời này vừa dứt, khách sảnh lớn nhường vậy mà tuyệt không một tiếng động.

Mọi người đều ngẩn người ngơ ngác, hồi lâu cũng không có ai lên tiếng.

Rất lâu sau, mới nghe Công Tôn tiên sinh chầm chậm nói: “Kim bổ khoái thật là tài hoa văn vẻ…”.

“Công Tôn tiên sinh quá khen rồi, đó là những lời từ tâm can thuộc hạ, đâu dám nhận là tài hoa văn vẻ gì chứ”.

Kim Kiền ôm quyền hô, lòng lại nghĩ: Chậc chậc, mình đã sớm dự đoán được lão Công Tôn Trúc Tử này là một bà tám nhiều chuyện chính hiệu, miệng mồm không kín thì chớ lại thích buôn dưa lê, nếu không phải mình sớm có chuẩn bị, cải biên bài “Xuất sư biểu” từ trước để dùng, thì đến khi lão Bao truy xét tới há chẳng phải cái mạng nhỏ của mình đi đứt sao?!

Chậc chậc, miễn cưỡng trốn thoát được một kiếp.

Nghĩ đến đây, Kim Kiền không khỏi lén nhìn sắc mặt của Công Tôn tiên sinh.

Lại thấy Công Tôn tiên sinh nhướng mày, tay vuốt chòm râu đen nhánh, nhìn mình, rồi lại nhìn sang vị Tứ phẩm hộ vệ bên cạnh, dáng vẻ như đã dự liệu mọi sự từ trước.

Hừ hừ…

Biểu cảm này sao có chút quen quen vậy?

Lẽ nào…

Bên tai lại vang lên lời gửi gắm ân cần của Công Tôn tiên sinh, Kim Kiền chỉ cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra, rùng mình liên tục, khóe miệng giật giật hồi lâu, sau cùng nhắm mắt hạ quyết tâm, thân hình đột nhiên xoay sang, chộp lấy vạt áo của vị áo đỏ nào đó bên cạnh, đau đớn kêu lên:

“Triển đại nhân, ngài vì cứu thuộc hạ, thân bị trọng thương, thuộc hạ không biết lấy gì báo đáp, thuộc hạ… thuộc hạ…”, khổ sở nuốt xuống một ngụm nước bọt, da mặt Kim Kiền co giật hai lần, rồi mới tiếp tục nói: “Thuộc hạ ngày hôm nay xin lập lời thề, nếu sau này Triển đại nhân bị thương, thuộc hạ nguyện đem thân trả lại gấp mười lần, để cầu cho Triển đại nhân sức khỏe an khang, thọ tỉ Nam sơn, phúc như Đông hải, nhiều phúc nhiều thọ…”.

Kim Kiền còn đang cân nhắc xem có nên cho thêm hai câu “Cung chúc phát tài, đông con nhiều cháu” vào không, thì đột nhiên cảm thấy một luồng hàn khí lan tỏa từ phần quan bào nắm trong tay chạy thẳng lên đầu, không khỏi ngước lên nhìn một cái, nhất thời toàn thân cứng ngắc, máu như ngừng chảy.

Chỉ thấy Triển Chiêu đôi môi mỏng nhếch lên lạnh lùng, gương mặt như phủ sương, mi mày lạnh băng, càng làm nổi bật đôi mắt đen láy thâm sâu khó dò, mênh mông như trời đêm buốt giá, sao đêm lạnh lẽo dát dầy, đúng là mắt đen nghiêm nghị trừng lạnh buốt, run thay gương mặt sắp đóng băng.

Kim Kiền nhất thời cảm thấy toàn thân như đang trong mùa đông khắc nghiệt, gió lạnh đìu hiu từng cơn quét qua tim, liền vội vàng thu tay lại, run lẩy bẩy quỳ một bên, không dám nói tiếp dù chỉ nửa chữ, lòng thầm gào khóc:

Hức hức hức hức, tiêu rồi, tiêu rồi! Tiểu Miêu nổi trận lôi đình, phong vân biến sắc, Công Tôn Trúc Tử ơi, lần này ông hại tôi thê thảm rồi, đừng nói đến chuyện ngăn Tiểu Miêu không cho chạy loạn, tôi thấy ngay cả cái mạng nhỏ của tôi cũng không giữ nổi rồi!

“Khụ khụ, Triển hộ vệ, nếu Kim bổ khoái đã nói như vậy…”

Công Tôn Trúc Tử, ông lên tiếng hòa giải cũng chậm quá đi, ông không thấy Tiểu Miêu đen sì cả mặt lại à? Hừ hừ, vạn nhất Tiểu Miêu mà muốn tính sổ, tôi lập tức sẽ khai cho bằng hết âm mưu của cây gậy trúc lòng dạ đen tối là ông đấy.

“… Thuộc hạ nguyện ý ở lại phủ nha đợi lệnh”, giọng nói sang sảng vang lên trên đỉnh đầu.

Hả?!

Kim Kiền nghe mà sửng sốt:

Chẳng lẽ mình hoảng sợ quá độ, lỗ tai xuất hiện ảo thanh?

Lại ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy Triển Chiêu đã khôi phục lại thần sắc như lúc bình thường, cơ hồ chớp mắt vừa rồi chẳng qua chỉ là ảo giác mà thôi.

Có điều quay đầu nhìn sắc mặt những người khác, Kim Kiền dám đem nửa năm bổng lộc còn lại của mình ra cược, những gì vừa chứng kiến tuyệt đối không phải do mình hoa mắt.

Vương Triều, Mã Hán đã bị dọa đến hóa ngu, hai người cùng cứng ngắc như đá.

Bao đại nhân vẻ mặt kinh ngạc, khuôn mặt đen sì là thế giờ đây có hiện tượng trắng dần.

Công Tôn tiên sinh vẫn vuốt râu như cũ, nhưng ngón tay lại hơi run run.

“Đại nhân, thuộc hạ xin cáo lui”, Triển Chiêu tựa hồ không nhìn thấy mọi người có điểm khác lạ, ôm quyền hành lễ, sau đó lập tức đi thẳng ra cửa, chỉ là trong lúc quay người lại có hạ giọng nói một câu: “Kim bổ khoái xin hãy đi theo Triển mỗ”.

Kim Kiền nghe thế, thiếu chút nữa sợ hãi hét lên một tiếng, vội vàng phát tín hiệu cầu cứu đến mọi người.

Chỉ thấy Công Tôn tiên sinh hơi nhướng mày, ném cho tín hiệu “tự cầu phúc lấy”, rồi đưa mắt đi chỗ khác.

Bao đại nhân bắt gặp ánh mắt của Kim Kiền, liền vội vàng cụp mắt xuống, vẻ như đang trầm tư.

Về phần Vương Triều, Mã Hán, đều là ánh mắt liếc đi nơi khác, dáng vẻ không quan tâm, hiển nhiên là không muốn nhảy vào chỗ nước đục này.

Kim Kiền lòng lạnh buốt, chần chừ hồi lâu cũng không thấy mọi người có ý giúp đỡ, cuối cùng chỉ đành cứng người, cúi đầu theo Triển Chiêu ra ngoài.

Hừ hừ, cái đám không có nghĩa khí này! Nếu tôi mà có bề gì, tuổi trẻ chết yểu, nhất định sẽ đến điện Diêm Vương tố cáo các người, lật lại phán quyết!

Kim Kiền đi theo sau Triển Chiêu, trên đường đi mồ hôi vã ra như tắm, trong đầu đang tua đi tua lại mười hình thức tra tấn tàn khốc thời Mãn Thanh mấy lần, càng lúc càng cảm thấy hy vọng sống của mình quá vô vọng rồi. Bản thân rất muốn trốn đi, nhưng lại không có cái gan đó, chỉ đành đi theo Nam hiệp nghe đồn võ công cái thế trở về sương phòng, giương mắt nhìn cái người trước mặt được mệnh danh là cao thủ đệ nhất giang hồ, cầm bảo kiếm trong tay giơ lên, giơ lên, giơ lên…. rồi hạ xuống!… Sau đó đặt lên bàn…

“Kim bổ khoái, ngồi đi”.

Hở?

Kim Kiền nhất thời ngẩn ra.

Triển Chiêu đặt bảo kiếm xuống, tiến lên trước ngồi xuống cạnh bàn, ngước mắt nhìn, thì thấy Kim Kiền mắt mở to như quả nhãn, hồn đã chu du nơi tiên cảnh rồi, không khỏi có chút bất đắc dĩ, chỉ đành nói tiếp: “Kim bổ khoái, không cần câu nệ, ngồi đi”.

Kim Kiền lúc này mới hoàn hồn, chớp chớp mắt, gật đầu, cung kính ngồi xuống một bên, lén đánh giá sắc mặt người ngồi đối diện, lòng lại thầm nghĩ: Sao vẻ mặt Tiểu Miêu lại ôn hòa như vậy, không lẽ là kế “tiếu lý tàng đao[2]”? Mình vẫn nên cẩn thận là hơn.

[2] Thành ngữ của Trung Quốc, có nghĩa là trong nụ cười có giấu dao, không có thiện ý.

Nghĩ đến đây, Kim Kiền lại càng căng thẳng, so vai, không dám thở mạnh, hai mắt nhìn chằm chằm xuống đất, tế bào thần kinh toàn thân đều căng lên cảnh giác, chỉ lo bỏ lỡ mất cơ hội chạy trốn.

“Kim bổ khoái, Triển mỗ gọi ngươi đến đây, là có chuyện muốn hỏi, mong Kim bổ khoái nói thật”.

Có chuyện muốn hỏi?

Vậy tức là có chuyện muốn nhờ vả mình…

Có chuyện muốn nhờ vả mình cũng có nghĩa là mình vẫn còn giá trị lợi dụng…

Có giá trị lợi dụng tức là mình còn cơ hội sống…

Ôi, cảm tạ trời đất.

Kim Kiền lúc này mới thầm thở phào nhẹ nhõm, vội ngẩng đầu lên, đôi mắt đã khôi phục lại trạng thái nhỏ dài bình thường nhìn thẳng vào người trước mặt, ôm quyền cao giọng nói: “Triển đại nhân cứ hỏi, thuộc hạ tuyệt không dám giấu giếm dù chỉ nửa phần”.

Nói rồi, còn vô cùng thành khẩn gật gật đầu nữa:

Triển đại nhân à, xem này, ánh mắt tôi vô cùng thật thà, chất phát, thuần khiết không chút giả dối, người thành thực nhất trong thiên hạ chẳng ai hơn nổi tôi đâu!

Bị đôi mắt nhỏ dài của Kim Kiền nhìn chằm chằm, lại nghĩ đến tình huống trải qua lúc trước, Triển Chiêu có chút mất tự nhiên, không khỏi rũ mắt xuống, ho khan một tiếng, nói: “Triển mỗ chỉ muốn hỏi, sau khi Triển mỗ bị thương, Công Tôn tiên sinh đã nói gì với Kim bổ khoái?”.

Mí mắt Kim Kiền đột nhiên giật mạnh, nàng lập tức ôm quyền cao giọng đáp: “Không có, Công Tôn tiên sinh không nói gì cả!”.

Thần sắc trên khuôn mặt tuấn tú của Triển Chiêu trầm xuống, chầm chậm ngước mắt lên, nhìn chằm chằm vào người trước mặt, đôi con ngươi sắc bén không di chuyển dù chỉ là nửa phân.

Kim Kiền bị nhìn đến mức đứng ngồi không yên, cơ hồ như muốn đem hết lời dặn dò của Công Tôn tiên sinh tông tốc khai ra hết, nhưng lời vừa đến miệng, lại bị nuốt trở lại bụng.

Nghĩ mà xem Nam hiệp Triển Chiêu một đời hào kiệt, nếu như biết được lời dặn của Công Tôn tiên sinh thì… Hừ hừ, chỉ nghĩ thôi mà toàn thân cũng lạnh run rồi… Công Tôn tiên sinh lòng dạ đen tối, đương nhiên sẽ có biện pháp tự bảo vệ bản thân… nhưng mình, một tiểu sai dịch mới nhậm chức, không tiền, không thế, còn người ta đường đường là Tứ phẩm ngự tiền hộ vệ, muốn trừng trị mình lại chẳng đơn giản như di chết một con kiến sao? Cho dù Triển đại nhân lòng dạ rộng rãi không so đo tính toán, thì cái cây gậy trúc kia mà biết mình không giữ mồm giữ miệng…

Kim Kiền liền rùng mình một cái.

Thế nên, tóm lại là… giờ này khắc này, mình phải kiên định, phải quán triệt đường lối, phương châm chính sách của Đảng: Thà chết không khai!

Nghĩ đến đây, Kim Kiền không khỏi hơi hí mắt, nỗ lực đem người trước mặt biến thành hình tượng Hán gian xun xoe xu nịnh, làm nền cho bản thân mình, một anh hùng vì nghĩa hiên ngang lẫm liệt, không khí cũng tăng thêm vài phần bi tráng.

Nhưng nỗ lực cả nửa ngày trời, người trước mặt vẫn mang khuôn mặt anh tuấn nho nhã, tuy sắc mặt có trầm xuống, cũng không che lấp nổi vẻ tuyệt mỹ khôn cùng. Đúng là: Mày sáng tựa trăng, tinh mâu trong vắt, mặt đẹp như ngọc, môi chàng trơn bóng.

Kim Kiền bất giác nuốt nước bọt, lòng thầm kêu:

Chậc chậc, chỉ hận mình xem phim điện ảnh về chủ nghĩa yêu nước quá ít, cho nên chưa thể nắm bắt được tinh túy trong đó… Trời ơi, phải làm thế nào mới ứng phó được với chiêu “Mỹ nhân kế” đây?

Triển Chiêu chỉ thấy sắc diện người trước mặt trong nháy mắt thay đổi mấy lần, cuối cùng trưng ra vẻ thà chết chứ không sờn lòng, bất giác thầm thở dài một tiếng, giọng nói cũng hòa hoãn hơn một chút: “E là Kim bổ khoái cũng mệt rồi, hãy đi nghỉ ngơi trước đi”.

Hả?!

Này này, chẳng lẽ như vậy là kết thúc sao?

Kim Kiền không tưởng tượng nổi trợn tròn hai mắt, chớp chớp mắt hai cái thật mạnh, lập tức đứng dậy ôm quyền nói: “Thuộc hạ cáo lui!”.

Dứt lời, liền vội vàng tông cửa mà chạy.

Chỉ là lúc bước qua cánh cửa thì nghe thấy giọng nói sang sảng vang lên phía sau: “Kim bổ khoái, thân thể tóc da là của cha mẹ ban cho, sau này chớ đem chuyện thương tổn thân thể ra để thề nữa… Triển mỗ cũng không gánh vác nổi…”.

Kim Kiền nghe xong thân hình khựng lại, suy nghĩ quay một vòng mới nhớ tới lời thề bậy bạ vừa rồi của mình, vội vàng đáp: “Vâng vâng vâng, thuộc hạ sau này tuyệt đối sẽ không dám lỗ mãng nữa”.

Lòng lại thầm nói: So với loại chuyện lập lời thề này thì tôi còn lo lắng làm thế nào để hoàn thành lời dặn dò gửi gắm của cái lão Trúc Tử bụng dạ đem ngòm kia hơn. Cái đó gọi là “Người sống trên giang hồ, ai có thể rời đao; làm thuộc hạ của Trúc Tử, sao có thể không linh hoạt”, huống hồ cái chuyện chỉ tay lên trời thề thốt này thì mười lần có đến mười một lần không linh ứng, nếu không sao cái bọn đại gian đại ác luôn miệng thề nguyền ấy có thể “sống lâu trăm tuổi” chứ? Ầy, Tiểu Miêu cũng thực thà quá rồi, quả nhiên là con mèo ngoan chính trực của nhà lão Bao, đúng là giống loài quý hiếm, sắp bị tuyệt chủng.

“Kim bổ khoái biết vậy là tốt rồi…”, người bên trong cánh cửa nhẹ giọng nói.

Kim Kiền khom người thi lễ, khép cửa lại, hít sâu một hơi, chầm chậm đưa tay lên lau mồ hôi lạnh trên trán:

Chậc chậc, anh nghĩ tôi sung sướng lắm à?! Ở cùng một phòng với sắc đẹp như vậy, chẳng những không được rối loạn mà còn phải vất vả chống đỡ với “Mỹ nhân kế”, xem ra định lực của mình lại tăng thêm một bậc nữa rồi… Nếu có cơ hội trở về thời hiện đại, nhất định mình phải viết một thiên luận văn làm kỷ niệm mới được, đề tài có tên: “Biện chứng cùng sự thống nhất giữa sắc đẹp và định lực”.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương