Đế Chế Đại Việt
-
Chương 5: Văn hóa người Việt
Sau khi chuẩn bị xong hết mọi việc thì mặt trời đã lên cả sào rồi. Lý Anh Tú mặc vào giáp đồng, hông đeo đoản kiếm, lưng lại mang theo một chiếc nỏ cùng một túi tên. Phải nói rằng bộ giáp này rất vừa vặn với thân người của hắn, giáp bằng đồng nhưng cùng khá nặng, Lý Anh Tú ước chừng chỉ riêng áo giáp đã là hơn năm ký. Ngoài ra còn có các vòng giáp bảo vệ cổ tay, chân. Lý Anh Tú cũng làm cho mình một đôi dép gỗ, dùng dây gai buộc lại. Người Việt xưa thường có thói quen đi chân đất, vì nó rất linh hoạt cho việc di chuyển, một phần cũng vì giày dép ngày xưa chất lượng rất kép, dễ rách nên người Việt không ưa chuộng lắm. Chỉ có giới nhà giàu, quý tộc mới mang giày, dép mà thôi. Nhưng Lý Anh Tú lại là người hiện đại, thói quen mang dép đã theo hắn hai mươi mấy năm, bảo hắn không mang thật sự khó chịu.
Lý Anh Tú đi đến trại lính, tám binh sĩ đã đứng đợi sẵn ở đó, còn có cả Cao Lỗ và Thạch Tiến. Lý Anh Tú dẫn đầu đoàn người đi ra khỏi cổng làng, Cao Lỗ và Thạch Tiến chắp tay nói.
- Chúc Việt vương một đường bình an.
- Được rồi, quay về làm việc đi, ta sẽ sớm trở về.
Lý Anh Tú vẫy tay, cũng không quay đầu lại mà dẫn theo tám binh sĩ đi về phía con suối nhỏ. Đúng vậy, mục tiêu của hắn chính là tìm được một nơi thích hợp để xây dựng căn cứ mới, trồng lúa nước. Theo suy nghĩ của Lý Anh Tú, hắn sẽ men theo con suối tìm đến hạ nguồn ắt sẽ có sông, có sông thì sẽ trồng được lúa nước, theo sông đi tiếp xuống hạ lưu ắt sẽ gặp được biển, mở ra một con đường mới. Phải biết Hải Việt tộc chính là xuất thân từ đâu. Tiền thân Việt quốc cũng có những sự phát triển rất mạnh mẽ về hàng hải, tuy về sau bị tụt hậu so với phương Tây nhưng không thể phủ nhận rằng Việt quốc từng có một thời hoàng kim về hải quân.
Đám người Lý Anh Tú một đường đi theo con suối xuống dưới hạ lưu, dựa vào mặt trời Lý Anh Tú chắc mẩm bọn hắn đang đi về hướng Đông, tuy rằng không biết mặt trời ở nơi đây có đúng là mọc đằng Đông, hạ đằng Tây hay không. Tốc độ của mọi người cũng không phải là nhanh, bởi vì vừa đi họ vừa phải đề phòng thú dữ, trong rừng rậm thế này nguy cơ không phải chỉ một hai, với kiến thức nửa với như Lý Anh Tú phải nhờ đến tám binh sĩ bảo hộ. Từ tám binh sĩ Lý Anh Tú học được khá nhiều điều. Nhất là về nền văn minh Đông Sơn mà đa số con cháu sau này ít người tìm hiểu đến.
Nền văn minh Đông Sơn, khởi nguyên của nhà nước Văn Lang đã từng có một nền văn minh, văn hóa rực rỡ không thua kém bất kỳ một nền văn hóa nào trên thế giới, thậm chí là nền văn hóa phương Bắc bên cạnh. Phải biết rằng Bắc quốc đã hai lần bị ngoại ban thống trị, nhưng thay vì bị đồng hóa thì những thế lực đó lại bị chính nền văn hóa của Bắc quốc đồng hóa. Đến mức sau này cả lãnh thổ, người dân của họ cũng thuộc về Bắc quốc. Có một điều mà đa số người sau này nhìn nhận đó là Bắc quốc nội chiến thì giỏi, nhưng kháng chiến thì dở, đất đai rộng lớn sau này đa số lại có được từ chính những dân tộc ngoại lai xâm chiếm họ đánh chiếm, nhưng sau đó lại bị đồng hóa văn hóa, đồng hóa dân tộc. Thế mới thấy được một dân tộc bị xâm chiếm về văn hóa, dân tộc đó sẽ bị hủy diệt. Bắc quốc cũng sớm nhận ra được điều đó nên khi đô hộ Việt quốc một ngàn năm, bọn hắn đã cố gắng phá nát cả nền văn hóa của Việt quốc. Việt quốc có chữ viết, bọn hắn hủy chữ viết, Việt quốc có tín ngưỡng, bọn hắn dùng phật giáo, đạo giáo để xâm chiếm, Việt quốc có tinh thần dân tộc mạnh mẽ, bọn hắn dùng nho giáo “ngu trung” để mị dân, Việt quốc có trang phục đậm đà bản sắc, bọn hắn bắt người Việt mặc Hán phục,… Thế nhưng không vì vậy mà người Việt bị đồng hóa, ngược lại lại Việt hóa lại những người phương Bắc, tuy một số tinh hoa bị mất đi, một số điểm bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương Bắc nhưng đều được cải biến để phù hợp với người Việt. Điều đó cho thấy nền văn hóa của người Việt là một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc rất mạnh mẽ, mạnh mẽ đến mức một nền văn hóa phát triển như Bắc quốc cũng không thể xâm chiếm được.
Đi đến trưa Lý Anh Tú liền dừng lại để mọi người nghỉ trưa. Sáng giờ ước chừng bọn hắn đã đi được ba dặm đường. Phải nói rằng hệ thống rất phúc lợi khi cho Lý Anh Tú một cơ thể khỏe mạnh, nếu không với thể chất một con mọt sách như kiếp trước muốn hắn đi bộ một quảng đường xa như vậy là điều không thể.
Lý Anh Tú có thể thấy được lòng suối đang dẫn mở rộng, sớm thôi bọn hắn sẽ tìm được dòng sông. Hắn thực sự rất trông đợi hành trình phía trước, có thể tìm được một vùng đất hứa cho Hải Việt tộc. Binh sĩ dừng lại nghỉ ngay bên cạnh con suối, hai người đi canh gác, những người khác lại nổi lửa nấu cơm. Bởi vì chưa triệu hoán ra được thợ làm gốm nên chén đũa của mọi người làng Cổ Loa đều làm bằng tre, mà nồi thì được đúc bằng đồng.
Có người nói văn hóa dùng đũa xuất phát từ Bắc quốc, nhưng thực ra không phải vậy. Từ thời Văn Lang - Âu Lạc các tộc người Bách Việt (trong đó có người Lạc Việt) đã biết dùng đến đũa xuất phát từ nền nông nghiệp trồng lúa nước. Các món ăn thường ngày chủ yếu là rau dưa, cơm cá rất khó cho việc ăn bằng bốc tay. Thậm chí từ trong những chuyện cổ tích đôi đũa từ thời Hùng Vương cũng đã xuất hiện như trong truyện “sự tích Tràu Cau” có một chi tiết người con gái dọn cơm cho hai anh em sinh đôi nhưng chỉ để một đôi đũa, người nào nhường cho người kia ăn trước thì người đó là em. Rõ ràng đôi đũa đã xuất hiện từ sớm và rất quen thuộc với cư dân Văn Lang - Âu Lạc. Ngược lại Bắc quốc trong sách lịch sử văn hóa có một dòng thế này: “Thời tiên Tần không ăn dùng đũa, mà lấy tay bốc”. Điều này phù hợp với cư dân trồng bắp, mạch, ăn bánh bao, uống súp thịt. Rõ ràng chỉ khi người Bắc tiến xuống thôn tính vùng đất của Bách Việt họ mới tiếp thu văn hóa dùng đũa của cư dân nơi đây.
Trong bốn nước đồng văn đều có văn hóa dùng đũa, nhưng văn hóa dùng đũa của người Việt rất khác biệt. Đũa người Nhật thì bằng gỗ có trang trí hoa văn, đũa người Triều Tiên thì thường bằng kim loại và dẹt, cả hai nước này đầu đũa đều khá nhỏ. Riêng Việt quốc người miền Bắc đũa làm bằng tre mà miền Nam thì đũa làm bằng thân dừa là hai loại cây phổ biến của hai miền. Đũa Việt quốc truyền thống đều có dáng tròn, đầu không quá nhỏ, để mộc mạc không sơn phết, người Việt đều thích những thứ tinh xảo, không quá cầu kỳ. Trong bữa ăn của người Việt, đũa không chỉ là sự nối dài của cánh tay mà còn thể hiện tình cảm của lứa đôi, vợ chồng, bởi vì đũa chỉ hoàn thành nhiệm vụ khi có đủ một cặp, cũng như vợ chồng ấm êm thì phải thành đôi. Ngoài ra đũa không chỉ gắp thức ăn cho mình mà còn cho cả người thân thể hiện sự quan tâm, nồng ấm trong gia đình Việt.
Nền văn hóa của người Việt quốc xoay quanh gia đình, đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau. Nó đã từng có một thời kỳ phát triển rực rỡ không thua kém bất cứ nền văn hóa nào trên thế giới. Nhưng giờ nghĩ lại những tinh hoa văn hóa lại bị hủy diệt bởi bọn ngoại ban xâm lược, con cháu khó lòng tìm lại những đỉnh cao của nền văn hóa ông cha khi xưa. Thật tiếc thay.
Khi Lý Anh Tú cảm khái thì nồi cơm đã được nấu xong, mọi người ngồi lại thành vòng tròn lấy Lý Anh Tú làm chủ vị. Lúc này hắn lấy ra một ống tre được bịt kín, mở nắp ống ra một mùi thơm phứt tỏa ra làm tám tên binh sĩ đôi mắt bừng sáng. Lý Anh Tú lấy một cái bát sạch đổ thứ thức ăn màu đỏ bên trong ra. Đây là một món ăn cách mạng được gọi là “thịt hộp Việt Minh” chế biến từ thịt heo, muối, củ riềng và nhiều nhất chính là ớt. Món ăn này khi bỏ vào ống tre bịt kín có thể để được rất lâu. Lý Anh Tú dự kiến chuyến đi lần này có thể sẽ mất vài ngày nên chuẩn bị một chút để binh sĩ bổ sung thêm dinh dưỡng. Bởi vì hiện tại dân số tại Cổ Loa không phải quá nhiều, lại có vài người hằng ngày đi săn bắn nên thịt không phải quá thiếu. Lý Anh Tú càng ưu tiên cho binh sĩ của mình. Dù sao hành trình phía trước không biết sẽ có nguy hiểm gì, tính mạng của hắn phụ thuộc hoàn toàn vào tám binh sĩ này.
Nghỉ ngơi chốc lát đoàn người lại tiếp tục lên đường, men theo suối để đi Lý Anh Tú thấy rõ ràng tốc độ của dòng nước đã chậm lại, thế nhưng đi mãi đến hết ngày họ vẫn chưa phát hiện ra được dòng sông mà con suối này chảy đến. Mãi đến trưa ngày hôm sau đoàn người Lý Anh Tú đi đến một vách đá dựng đứng. Đến đây dòng suối liền biến mất.
Lý Anh Tú đi đến trại lính, tám binh sĩ đã đứng đợi sẵn ở đó, còn có cả Cao Lỗ và Thạch Tiến. Lý Anh Tú dẫn đầu đoàn người đi ra khỏi cổng làng, Cao Lỗ và Thạch Tiến chắp tay nói.
- Chúc Việt vương một đường bình an.
- Được rồi, quay về làm việc đi, ta sẽ sớm trở về.
Lý Anh Tú vẫy tay, cũng không quay đầu lại mà dẫn theo tám binh sĩ đi về phía con suối nhỏ. Đúng vậy, mục tiêu của hắn chính là tìm được một nơi thích hợp để xây dựng căn cứ mới, trồng lúa nước. Theo suy nghĩ của Lý Anh Tú, hắn sẽ men theo con suối tìm đến hạ nguồn ắt sẽ có sông, có sông thì sẽ trồng được lúa nước, theo sông đi tiếp xuống hạ lưu ắt sẽ gặp được biển, mở ra một con đường mới. Phải biết Hải Việt tộc chính là xuất thân từ đâu. Tiền thân Việt quốc cũng có những sự phát triển rất mạnh mẽ về hàng hải, tuy về sau bị tụt hậu so với phương Tây nhưng không thể phủ nhận rằng Việt quốc từng có một thời hoàng kim về hải quân.
Đám người Lý Anh Tú một đường đi theo con suối xuống dưới hạ lưu, dựa vào mặt trời Lý Anh Tú chắc mẩm bọn hắn đang đi về hướng Đông, tuy rằng không biết mặt trời ở nơi đây có đúng là mọc đằng Đông, hạ đằng Tây hay không. Tốc độ của mọi người cũng không phải là nhanh, bởi vì vừa đi họ vừa phải đề phòng thú dữ, trong rừng rậm thế này nguy cơ không phải chỉ một hai, với kiến thức nửa với như Lý Anh Tú phải nhờ đến tám binh sĩ bảo hộ. Từ tám binh sĩ Lý Anh Tú học được khá nhiều điều. Nhất là về nền văn minh Đông Sơn mà đa số con cháu sau này ít người tìm hiểu đến.
Nền văn minh Đông Sơn, khởi nguyên của nhà nước Văn Lang đã từng có một nền văn minh, văn hóa rực rỡ không thua kém bất kỳ một nền văn hóa nào trên thế giới, thậm chí là nền văn hóa phương Bắc bên cạnh. Phải biết rằng Bắc quốc đã hai lần bị ngoại ban thống trị, nhưng thay vì bị đồng hóa thì những thế lực đó lại bị chính nền văn hóa của Bắc quốc đồng hóa. Đến mức sau này cả lãnh thổ, người dân của họ cũng thuộc về Bắc quốc. Có một điều mà đa số người sau này nhìn nhận đó là Bắc quốc nội chiến thì giỏi, nhưng kháng chiến thì dở, đất đai rộng lớn sau này đa số lại có được từ chính những dân tộc ngoại lai xâm chiếm họ đánh chiếm, nhưng sau đó lại bị đồng hóa văn hóa, đồng hóa dân tộc. Thế mới thấy được một dân tộc bị xâm chiếm về văn hóa, dân tộc đó sẽ bị hủy diệt. Bắc quốc cũng sớm nhận ra được điều đó nên khi đô hộ Việt quốc một ngàn năm, bọn hắn đã cố gắng phá nát cả nền văn hóa của Việt quốc. Việt quốc có chữ viết, bọn hắn hủy chữ viết, Việt quốc có tín ngưỡng, bọn hắn dùng phật giáo, đạo giáo để xâm chiếm, Việt quốc có tinh thần dân tộc mạnh mẽ, bọn hắn dùng nho giáo “ngu trung” để mị dân, Việt quốc có trang phục đậm đà bản sắc, bọn hắn bắt người Việt mặc Hán phục,… Thế nhưng không vì vậy mà người Việt bị đồng hóa, ngược lại lại Việt hóa lại những người phương Bắc, tuy một số tinh hoa bị mất đi, một số điểm bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương Bắc nhưng đều được cải biến để phù hợp với người Việt. Điều đó cho thấy nền văn hóa của người Việt là một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc rất mạnh mẽ, mạnh mẽ đến mức một nền văn hóa phát triển như Bắc quốc cũng không thể xâm chiếm được.
Đi đến trưa Lý Anh Tú liền dừng lại để mọi người nghỉ trưa. Sáng giờ ước chừng bọn hắn đã đi được ba dặm đường. Phải nói rằng hệ thống rất phúc lợi khi cho Lý Anh Tú một cơ thể khỏe mạnh, nếu không với thể chất một con mọt sách như kiếp trước muốn hắn đi bộ một quảng đường xa như vậy là điều không thể.
Lý Anh Tú có thể thấy được lòng suối đang dẫn mở rộng, sớm thôi bọn hắn sẽ tìm được dòng sông. Hắn thực sự rất trông đợi hành trình phía trước, có thể tìm được một vùng đất hứa cho Hải Việt tộc. Binh sĩ dừng lại nghỉ ngay bên cạnh con suối, hai người đi canh gác, những người khác lại nổi lửa nấu cơm. Bởi vì chưa triệu hoán ra được thợ làm gốm nên chén đũa của mọi người làng Cổ Loa đều làm bằng tre, mà nồi thì được đúc bằng đồng.
Có người nói văn hóa dùng đũa xuất phát từ Bắc quốc, nhưng thực ra không phải vậy. Từ thời Văn Lang - Âu Lạc các tộc người Bách Việt (trong đó có người Lạc Việt) đã biết dùng đến đũa xuất phát từ nền nông nghiệp trồng lúa nước. Các món ăn thường ngày chủ yếu là rau dưa, cơm cá rất khó cho việc ăn bằng bốc tay. Thậm chí từ trong những chuyện cổ tích đôi đũa từ thời Hùng Vương cũng đã xuất hiện như trong truyện “sự tích Tràu Cau” có một chi tiết người con gái dọn cơm cho hai anh em sinh đôi nhưng chỉ để một đôi đũa, người nào nhường cho người kia ăn trước thì người đó là em. Rõ ràng đôi đũa đã xuất hiện từ sớm và rất quen thuộc với cư dân Văn Lang - Âu Lạc. Ngược lại Bắc quốc trong sách lịch sử văn hóa có một dòng thế này: “Thời tiên Tần không ăn dùng đũa, mà lấy tay bốc”. Điều này phù hợp với cư dân trồng bắp, mạch, ăn bánh bao, uống súp thịt. Rõ ràng chỉ khi người Bắc tiến xuống thôn tính vùng đất của Bách Việt họ mới tiếp thu văn hóa dùng đũa của cư dân nơi đây.
Trong bốn nước đồng văn đều có văn hóa dùng đũa, nhưng văn hóa dùng đũa của người Việt rất khác biệt. Đũa người Nhật thì bằng gỗ có trang trí hoa văn, đũa người Triều Tiên thì thường bằng kim loại và dẹt, cả hai nước này đầu đũa đều khá nhỏ. Riêng Việt quốc người miền Bắc đũa làm bằng tre mà miền Nam thì đũa làm bằng thân dừa là hai loại cây phổ biến của hai miền. Đũa Việt quốc truyền thống đều có dáng tròn, đầu không quá nhỏ, để mộc mạc không sơn phết, người Việt đều thích những thứ tinh xảo, không quá cầu kỳ. Trong bữa ăn của người Việt, đũa không chỉ là sự nối dài của cánh tay mà còn thể hiện tình cảm của lứa đôi, vợ chồng, bởi vì đũa chỉ hoàn thành nhiệm vụ khi có đủ một cặp, cũng như vợ chồng ấm êm thì phải thành đôi. Ngoài ra đũa không chỉ gắp thức ăn cho mình mà còn cho cả người thân thể hiện sự quan tâm, nồng ấm trong gia đình Việt.
Nền văn hóa của người Việt quốc xoay quanh gia đình, đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau. Nó đã từng có một thời kỳ phát triển rực rỡ không thua kém bất cứ nền văn hóa nào trên thế giới. Nhưng giờ nghĩ lại những tinh hoa văn hóa lại bị hủy diệt bởi bọn ngoại ban xâm lược, con cháu khó lòng tìm lại những đỉnh cao của nền văn hóa ông cha khi xưa. Thật tiếc thay.
Khi Lý Anh Tú cảm khái thì nồi cơm đã được nấu xong, mọi người ngồi lại thành vòng tròn lấy Lý Anh Tú làm chủ vị. Lúc này hắn lấy ra một ống tre được bịt kín, mở nắp ống ra một mùi thơm phứt tỏa ra làm tám tên binh sĩ đôi mắt bừng sáng. Lý Anh Tú lấy một cái bát sạch đổ thứ thức ăn màu đỏ bên trong ra. Đây là một món ăn cách mạng được gọi là “thịt hộp Việt Minh” chế biến từ thịt heo, muối, củ riềng và nhiều nhất chính là ớt. Món ăn này khi bỏ vào ống tre bịt kín có thể để được rất lâu. Lý Anh Tú dự kiến chuyến đi lần này có thể sẽ mất vài ngày nên chuẩn bị một chút để binh sĩ bổ sung thêm dinh dưỡng. Bởi vì hiện tại dân số tại Cổ Loa không phải quá nhiều, lại có vài người hằng ngày đi săn bắn nên thịt không phải quá thiếu. Lý Anh Tú càng ưu tiên cho binh sĩ của mình. Dù sao hành trình phía trước không biết sẽ có nguy hiểm gì, tính mạng của hắn phụ thuộc hoàn toàn vào tám binh sĩ này.
Nghỉ ngơi chốc lát đoàn người lại tiếp tục lên đường, men theo suối để đi Lý Anh Tú thấy rõ ràng tốc độ của dòng nước đã chậm lại, thế nhưng đi mãi đến hết ngày họ vẫn chưa phát hiện ra được dòng sông mà con suối này chảy đến. Mãi đến trưa ngày hôm sau đoàn người Lý Anh Tú đi đến một vách đá dựng đứng. Đến đây dòng suối liền biến mất.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook