Cô Phương Bất Tự Thưởng
-
Quyển 2 - Chương 48
Khi đàn ngựa béo, đàn dê cũng mập. Năm nay
lượng mưa tốt, cỏ trên thảo nguyên lớn nhanh như thổi, ngựa dê bò thả
sức mà ăn. Người chăn thả tha hồ lựa chọn một chỗ cho mình.
Xuất thân võ tướng, là người sức lực, lại không sợ vất vả, Tắc Doãn và Ngụy Đình vừa trồng trọt vừa chăn dê thả ngựa. Dương Phượng và Sính Đình dệt vải lúc rảnh rỗi, cuộc sống tự cung tự cấp, rất đỗi thoải mái.
“Trường Tiếu biết đi rồi”.
“Biết đi? Muội thấy chân nó vừa chạm đất đã muốn chạy rồi, cả ngày chạy đi chạy lại, tỷ không biết bắt được phải vất vả thế nào đâu.”
Sính Đình đặt tên cho con thật đúng, quả nhiên Trường Tiếu rất thích cười.
Vừa nhìn Trường Tiếu, Dương Phượng đã thấy vui: “Cả ngày lúc nào cũng vui vẻ, chẳng biết đang cười cái gì?”.
Sính Đình bế Trường Tiếu đang chập chững lên, chỉ vào mũi nhi tử, trách mắng: “Con ấy, đi còn chưa vững đã muốn chạy rồi? Phải ngã bao nhiêu lần nữa mới biết đau đây?”.
Tắc Khánh níu vạt áo Sính Đình, ngẩng lên nói: “Bế”
Dương Phượng vội vàng kéo Khánh nhi sang một bên, cố nhịn cười, lắc đầu bảo: “Con còn nhỏ, không bế Trường Tiếu được, nhỡ ngã thì sao?”, rồi nói với Sính Đình: “Ta thấy, muội để Trường Tiếu nhận Khánh nhi làm huynh đệ đi, Khánh nhi lúc nào cũng dính lấy Trường Tiếu”.
“Việc gì phải nhận? Hai đứa lúc nào cũng dính lấy nhau, người khác nhìn vào đều cho là huynh đệ ruột”.
“Sao giống huynh đệ ruột được? Khánh nhi trông ngốc nghếch thế kia, Trường Tiếu thì bẩm sinh đã có tướng, cứ nhìn đôi mắt và cái mũi nó xem, rõ ràng là một tiểu…”
Ba tiếng “Trấn Bắc vương” nghẹn lại trong cổ họng, Dương Phượng nói đến một nửa bỗng im bặt. Biết mình nói năng không cẩn thận, trong lòng bất an, Dương Phượng ngẩng lên nhìn Sính Đình.
Sính Đình đang đùa với nhi tử, vẻ mặt có chút gượng gạo, một lúc sau mới mỉm cười như mếu: “Đâu chỉ đôi mắt, cái mũi, mà cả ánh nhìn cũng y hệt”. Nàng khẽ chọc cái mũi của con, nói nhỏ, “Giống mẫu thân không tốt ư? Sao cứ phải giống người ấy?”.
Nhi tử, con có biết Trấn Bắc vương là ai không?
Tên của Trấn Bắc vương là Sở Bắc Tiệp.
Trấn Bắc vương có thể múa thanh kiếm rất nặng, có thể chặt đầu tướng địch giữa thiên quân vạn mã. Trấn Bắc vương uy thế thống trị thiên hạ, những kẻ khác đứng trước Trấn Bắc vương lòng đều thấy run rẩy.
Trấn Bắc vương thông minh, quyết đoán, dũng cảm, kiên cường, là danh tướng vô địch trên sa trường.
Chàng có đang ở vương cung Đông Lâm không? Thu qua, đông tới sẽ là tiệc tùng long trọng mừng sinh thần của chàng.
Mồng Sáu, thiếp vẫn nhớ.
Sinh thần của chàng là mồng Sáu.
Đại quân Vân Thường khí thế hừng hực tiến đến biên giới Đông Lâm. Vương tộc Đông Lâm bao nhiêu năm an hưởng thái bình bỗng choàng tỉnh giấc mộng, giờ mới biết mất đi Sở Bắc Tiệp, Đông Lâm phải đứng trước bao mối nguy hiểm như vậy. Đông Lâm vương hậu lập tức trao hổ phù, lệnh Thần Mâu thống soái đại quân Đông Lâm chống lại Hà Hiệp.
Nhưng kẻ cầm quân xâm phạm Đông Lâm là Hà Hiệp, thì dù Đông Lâm vương hậu hay bản thân Thần Mâu đều biết đây là trận chiến vô cùng mệt mỏi.
Đến biên giới Đông Lâm, Hà Hiệp lập tức triệu tập tất cả các đại tướng, giao phó nhiệm vụ đầu tiên.
“Mật thám hồi báo, tướng địch Thần Mâu đã lên đường, quân cứu viện của Đông Lâm sẽ nhanh chóng đến đây. Quân ta muốn ổn định đội hình, trước tiên phải chiếm được thành Nhạn Lâm. Các vị tướng quân, ai sẵn sàng dẫn binh lập công đầu?” Nói xong, Hà Hiệp tươi cười đưa mắt nhìn quần tướng quen thuộc của mình.
Võ tướng trước nay đều dựa vào thành tích chinh chiến để luận công nhận thưởng, ai cũng muốn lập công đầu, mấy vị tướng trẻ tuổi rất nóng lòng được thử sức. Quý Viêm vội đứng lên trước, cất tiếng: “Quý Viêm nguyện dốc sức lấy thành Nhạn Lâm về cho Phò mã”.
Như đoán trước rằng Quý Viêm sẽ lên tiếng, nghe xong Hà Hiệp gật đầu, ôn hòa hỏi: “Quý thiếu tướng quân có biết thành Nhạn Lâm hiện do ai trấn thủ không?”
“Bẩm có, là thuộc hạ của Sở Bắc Tiệp ngày trước, La Thượng”.
“Ừ” Hà Hiệp lại gật đầu, vẻ mặt sâu xa khó dò, “La Thượng là dũng tướng do Sở Bắc Tiệp một tay huấn luyện, vô cùng hùng dũng, trong tay lại có nhiều binh lính, chỉ sợ cánh quân Vĩnh Tiêu của Quý thiếu tướng quân không đủ sức tấn công, chi bằng cử thêm cánh quân Úy Bắc cùng đi, cũng để…”
“Không cần”, Quý Viêm cự tuyệt ngay, giọng cao ngạo, “Mạt tướng đã sai người do thám tình hình địch, cánh quân Vĩnh Tiêu đông hơn quân giữ thành Nhạn Lâm, ta thừa sức công thành. Mỗi một tên La Thượng, đâu phải Sở Bắc Tiệp, hà tất cần đến nhị thúc ra trận?”
Quý Thường Ninh cố ý “hừ” mấy tiếng, rồi thô lỗ xen vào: “Giết gà cần gì dao mổ trâu? Một cái thành bé xíu như thế mà phải cần đến hai cánh quân lớn của Vân Thường ra tay? Như vậy chẳng phải để quân Đông Lâm chê cười Phò mã hay sao?”.
Hà Hiệp nhìn thúc điệt nhà họ kẻ xướng người phụ họa mà không hề tức giận, thậm chí còn chấp thuận: “Được, bản phò mã đợi để mừng công Quý thiếu Tướng quân”.
Quý Viêm giành được cơ hội lập công, bỗng nhớ đến lời dặn của phụ thân, bất giác nảy thêm ý định, chắp tay nói: “Phò mã, mạt tướng dẫn quân công thành, muốn được đáp ứng một yêu cầu nhỏ”.
Hà Hiệp hỏi: “Yêu cầu gì?”
“Ngộ nhỡ có điều gì bất trắc, đại quân phải cử người cứu viện, xin Phò mã cho nhị thúc của mạt tướng được dẫn binh tiếp ứng”
Vốn tuổi trẻ hăng hái, Quý Viêm nói quá thẳng. Như thế rõ ràng hắn đang lo lắng, một chủ soái như Hà Hiệp sẽ hãm hại mình từ phía sau, và cũng không tin tưởng những đại tướng khác.
Quần tướng đã sớm khuất phục trước khí phách bậc danh tướng của Hà Hiệp, nên không hề có cảm tình với Quý gia vẫn tìm mọi cách chèn ép Phò mã. Nghe câu này, người người liếc mắt về phía Quý Viêm vốn chỉ dựa vào gia thế mà một bước lên đến chức thiếu tướng quân.
Sự khoan dung của Hà Hiệp thực sự nằm ngoài sức tưởng tượng của mọi người, họ chỉ nghe Phò mã nói một câu: “Đây là chuyện nhỏ, ta hứa với Quý thiếu tướng quân”.
Dễ dàng có được lời hứa của Hà Hiệp, Quý Viêm cũng cảm thấy lạ. Thảo luận xong về tình hình chiến sự, quần tướng ai về trướng người nấy. Quý Viêm và Quý Thường Ninh cũng trở về trướng của mình. Quý Thường Ninh vừa đi vừa xuýt xoa hiếu kỳ: “Thật không ngờ Hà Hiệp lại dễ nói như vậy. Có điều, cánh quân Vĩnh Tiêu dư sức đối phó với một thành bé như Nhạn Lâm, cần gì đến chi viện? Hắn chẳng qua cũng chỉ cho chúng ta một câu nói nể mặt. Viêm nhi, lần này phải thể hiện cho mọi người thấy, để Quý gia chúng ta nở mày nở mặt”.
“Tất nhiên rồi”. Quý Viêm cười, bỗng trầm tư một lúc, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc, “Chỉ lo chẳng may xảy ra chuyện gì, nhị thúc, tiểu điệt dẫn quân công thành, nhị thúc ở hậu phương phải cẩn thận, tuyệt đối không được…”
“Không được uống rượu”, Quý Thường Ninh bất mãn lừ mắt nhìn điệt nhi, “Ta là người không biết chừng mực đến vậy sao? Nhị thúc đã nói với đại ca rồi, không uống rượu, không làm hỏng việc lớn. Điệt nhi cứ yên tâm!”
Hôm sau, trời còn chưa sáng, Quý Viêm đã dẫn theo một cánh quân Vĩnh Tiêu tiến về thành Nhạn Lâm.
Dù sao cũng là cốt nhục một nhà, Quý Thường Ninh không yên tâm, bèn đích thân tiễn điệt nhi ra khỏi quân doanh, hạ giọng dặn dò: “La Thượng được Sở Bắc Tiệp huấn luyện, nếu gặp điều gì bất thường, nhớ đừng cậy khỏe, hãy lập tức cử người về quân doanh báo tin cho nhị thúc”.
Quý Viêm gật đầu, khuôn mặt trẻ tuổi thoáng nét cười tự tin: “Nếu chiến thắng, tiểu điệt cũng sẽ lập tức sai người về báo với nhị thúc”.
Quý Thường Ninh cười ha ha: “Đi sớm về sớm, nhị thúc đợi tin tốt của điệt nhi.”
Trước lúc bình minh, sắc trời còn tối hơn đêm đen. Quý Thường Ninh nhìn theo bóng dáng Quý Viêm rời đi, rồi quay lại đại bản doanh.
Trong doanh trại, tướng lĩnh của mấy cánh quân còn lại vẫn đang nghỉ ngơi, đội lính gác tuần tiễu bên ngoài.
Quý Thường Ninh nghĩ bụng, hôm nay cũng chẳng có việc gì lớn, chỉ đợi tin thành Nhạn Lâm nên hắn dứt khoát quyết định quay về ngủ bù. Trên đường quay về, đi qua đám binh lính thân cận của mình, bước vào trướng soái, thuận tay vứt bộ giáp trụ nặng trịch lên giường, ngáp dài một cái.
Bất chợt, một cánh tay từ sau vung ra, bịt chặt miệng Quý Thường Ninh.
“Ưm ưm…”
Quý Thường Ninh trợn tròn hai mắt. Là bậc lão tướng trên sa trường, hắn cũng kịp đưa hai tay xuống hông, nhưng chưa kịp sờ vào thanh kiếm, đã nghe “bốp” một tiếng sau gáy, bị kẻ bịt mặt đánh mạnh một cái. Người đánh trộm sức to lực khỏe, Quý Thường Ninh giãy giụa một hồi, rồi đổ vật xuống đất, bất tỉnh.
Kẻ đứng sau lưng mình vận áo đen, khăn che mặt đen, chỉ để hở một đôi mắt sáng lấp lánh trong trướng tối om. Kẻ đánh trộm nhìn Quý Thường Ninh ngã dưới đất, ánh mắt cao ngạo khinh thường, cúi xuống kiểm tra hơi thở của Quý Thường Ninh, rồi lôi dưới gầm giường ra mấy bình rượu lâu năm, cho thêm gói thuốc mê vào đó, lắc bình, để thuốc mê tan đều.
“Bình rượu này kính đại ca của ngươi, Thừa tướng đại nhân của Vân Thường”. Kẻ đánh trộm nói một câu, âm sắc sang sảng đúng chủ soái Hà Hiệp, thân phận cao nhất trong đại bản doanh này.
Hà Hiệp đỡ Quý Thường Ninh ngã dưới đất dậy, đưa bình rượu lại gần, rồi cạy miệng hắn đổ vào. Vốn đã hận nhà họ Quý đến tận xương tủy, Hà Hiệp chẳng hề nương tay, đổ liền một lúc gần chục bình rượu, rồi đặt hắn trên giường, lặng lẽ rời đi.
“Cứu viện!”
Giữa trưa, ngoài doanh trại, một binh sĩ phi ngựa lao đến, mình mặc quân phục Vân Thường, người bê bết máu, vừa tới trước cổng đại bản doanh liền gân cổ gào lớn: “Cứu viện! Quý Viêm thiếu tướng quân cần cứu viện! Mau… mau báo…”.
Những người canh giữ trại quân đều nhận ra đây là thị vệ tâm phúc của Quý Viêm nên vô cùng ngạc nhiên, vội vã mở cổng doanh trại cho vào.
Quần tướng biết tin, nhanh chóng đến trướng soái.
“Cứu viện! Cứu viện!” Thị vệ lảo đảo chạy bổ vào báo tin, đến cửa đã quỳ sụp xuống, vừa thở vừa nói, “Phò mã, quân ta bị đại quân Đông Lâm trong thành Nhạn Lâm phục kích, tình thế nguy kịch, xin Phò mã lập tức cử đại quân cứu viện!”
Hà Hiệp đã sớm đoán được sự việc nhưng vẫn tỏ ra vô cùng kinh ngạc, vội tiến lên trước hai bước, đứng trước thị vệ kia thét hỏi: “Sao lại như thế?”.
“Mai phục! Quý Viêm thiếu tướng dẫn quân áp sát thành Nhạn Lâm, hai cánh quân Đông Lâm bất chợt xông tới, quân ta bị tấn công từ hai phía.”
“Mai phục? Quân của người nào?”
“Tướng dẫn quân mai phục là Sở Mạc Nhiên.”
“Hiện giờ tình hình chiến sự như thế nào?”
“Quân Đông Lâm có được địa lợi, lại đông hơn ta. Quân ta không kịp đề phòng, thương vong trầm trọng, Quý thiếu tướng dẫn theo các huynh đệ còn lại mở đường máu lùi vào sơn cốc Hoành Luyện, tử thủ ở cửa cốc. Thiếu tướng quân lệnh cho thuộc hạ vượt vòng vây về đây báo tin cho Phò mã, quân địch đang tấn công, các huynh đệ sẽ chẳng chống chọi được bao lâu nữa, xin Phò mã lập tức cử quân cứu viện!”
Trận tấn công Đông Lâm đầu tiên đã trúng mai phục, sắc mặt các tướng lĩnh Vân Thường vô cùng u ám.
“Lập tức cử cứu viện!”, Hà Hiệp hết sức quyết đoán, nhìn quanh một vòng, “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”
Ngay từ đầu, không ít tướng lĩnh chú ý đến sự vắng mặt của Quý Thường Ninh, thấy Hà Hiệp hỏi vậy, bèn gọi tên tiểu tốt bên ngoài vào, hỏi: “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”.
Tiểu tốt đó vừa từ chỗ Quý Thường Ninh trở về, vội đáp: “Quý tướng quân say rồi, gọi thế nào cũng không tỉnh”.
Quý Thường Ninh hám rượu nổi tiếng trong quân. Nghe tiểu tốt kia nói vậy, quần tướng đều cau mày.
“Chúng ta đi xem.”
Hà Hiệp dẫn theo các tướng lĩnh đến quân trướng của Quý Thường Ninh. Vừa vén rèm cửa, hơi rượu nồng nặc đã xông thẳng vào mũi quần tướng.
Trong trướng, bình rượu la liệt, tất cả đều còn mỗi vỏ.
Cả người Quý Thường Ninh nồng nặc mùi rượu, tứ chi thẳng đơ, nằm trên giường ngáy như sấm.
Cận vệ của hắn đang toát mồ hôi hột, lấy nước lau mặt, liên tục gọi: “Tướng quân, mau tỉnh dậy! Quý Viêm thiếu tướng quân xin cầu viện!”
Hà Hiệp hạ giọng: “Ta đã hứa với Quý Viêm thiếu tướng quân, nếu thiếu tướng quân xin cầu viện, chỉ cử Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu. Giờ phải làm thế nào?” Đoạn Hà Hiệp quay sang cận vệ của Quý Thường Ninh ra lệnh, “Nhanh, lấy nước lạnh đổ vào mặt, mau nghĩ cách gọi Quý tướng quân dậy!”
Tên cận vệ cũng biết chiến sự khẩn cấp, nên vội vã bưng nước đến, hất ướt hết mặt Quý Thường Ninh. Nhưng, Quý Thường Ninh đã uống bao nhiêu rượu trộn thuốc mê, làm sao tỉnh được? Tiếng ngáy của hắn vẫn y như cũ.
Lính liều mạng quay về báo tin vốn là quân tâm phúc bên cạnh Quý Viêm, nghĩ đến Thiếu tướng quân nhà mình đang cận kề ranh giới sống chết, càng hận Quý Thường Ninh chẳng ra sao, rồi quỳ sụp xuống chân Hà Hiệp, khẩn cầu như sắp khóc: “Phò mã, không thể đợi thêm được nữa, xin Phò mã hãy cử một vị tướng quân khác đi”.
Khuôn mặt tuấn tú của Hà Hiệp cũng có chút lo lắng, nhưng vẫn lắc đầu: “Một lời bậc quân tử đáng giá ngàn vàng, huống hồ ta là chủ soái. Quý Viêm thiếu tướng quân tuổi trẻ tài cao, trước khi ra quân đã thỉnh cầu nếu có biến cố, chỉ muốn Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu viện, chắc chắn vì có lý do. Ta đã đồng ý thì không thể làm khác được.”
Tên lính cuống đến nỗi sắp rơi nước mắt, đến bên giường, quên mất cả thân phận thấp kém của mình mà cho Quý Thường Ninh mấy cái bạt tai, hét lớn: “Tỉnh! Tỉnh! Ông Trời ơi, thế này chẳng phải cố tình lấy mạng thiếu tướng quân ư?”
Quý Thường Ninh bị mấy cái bạt tai, vẫn ngủ, nhưng tiếng ngáy đã ngừng.
Quần tướng vốn đã chẳng có cảm tình gì với kẻ lỗ mãng, chỉ dựa vào gia thế mà leo lên chức vị đại tướng quân như Quý Thường Ninh, giờ thấy bộ dạng hắn thế này thì càng thêm coi thường.
Thấy đã hết cách vơi Quý Thường Ninh, tên lính kia vô cùng tuyệt vọng, lại quỳ xuống chân Hà Hiệp, dập đầu bôm bốp: “Phò mã, Phò mã, tính mạng của Thiếu tướng quân đang ở trong tay Phò mã, xin Phò mã hãy cử quân đi cứu viện!”, sau đó tiếp tục quay sang các tướng khác: “Tướng quân, các vị tướng quân, cầu xin các vị! Nơi miệng cốc, quân Đông Lâm bắn tên như mưa, những người trong đó đều là con dân Vân Thường, cầu xin các vị hãy mở lòng từ bi, xin Phò mã nể tình…”
Về đến đây, toàn thân người này bê bết máu và bụi đất, giờ do dập đầu quá mạnh, máu tươi lại chảy ròng ròng, nhìn vào cũng thấy lạnh người.
Quần tướng đều là những đại hán trên sa trường, tuy coi thường Quý Thường Ninh, nhưng bất giác lại cảm thấy quý trọng tên lính trước mặt.
Thấy các tướng lĩnh nhìn về phía mình, biết ngày sau còn phải dựa vào họ mới có được thiên hạ, Hà Hiệp không thể quá tuyệt tình, đi ngược lại đám đông. Chẳng đợi có người lên tiếng, Hà Hiệp đã hạ giọng: “Vị tướng quân nào muốn đi cứu viện?”
Mọi người nhìn nhau, một lúc sau, Đại tướng quân Kỳ Điền của cánh quân Vĩnh Thái đứng ra: “Mạt tướng xin đi”.
“Được, Kỳ tướng quân hãy lập tức dẫn binh xuất phát, chi viện cho Quý Viêm thiếu tướng quân”.
Cứu người như cứu hỏa, vì Quý Thường Ninh say rượu không tỉnh nên đã tốn không ít thời gian, Kỳ Điền nhận lệnh, lập tức lên đường.
Khi đại quân Vĩnh Thái đi khỏi tầm mắt mọi người khoảng nửa canh giờ, một binh lính đến trước mặt trướng soái, bẩm báo: “Bẩm Phò mã, Quý Thường Ninh tướng quân đã tỉnh.”
Đang bàn việc quân cùng mấy vị đại tướng Vân Thường, nghe vậy Hà Hiệp lạnh lùng hừ một tiếng: “Trói hắn lên đây cho ta!”
Mấy cận vệ lập tức đến trướng quân của Quý Thường Ninh, tóm ngay lấy người vừa tỉnh dậy chưa kịp nhìn rõ mọi thứ kia, hung hăng trói hắn lại. Trước đó, họ đã được Hà Hiệp dặn dò, để tránh Quý Thường Ninh la lối cãi tội mà dao động lòng quân, nên phải bịt miệng hắn lại.
Đám thuộc hạ của Quý Thường Ninh đều biết đã xảy ra việc gì, biết Phò mã đã nổi cơn thịnh nộ nên không dám ngăn, cũng chẳng có mặt mũi nào mà can ngăn, chỉ còn cách mở mắt trừng trừng nhìn tướng quân mình bị trói lôi đi.
Buổi chiều, cánh quân đi cứu viện Kỳ Điền đã trở về.
Kỳ Điền mang theo thi thể đầy thương tích của Quý Viêm, báo với Hà Hiệp: “Mạt tướng đến chậm một nước, tới nơi, quân Đông Lâm đã rút hết, toàn bộ cánh quân bị tiêu diệt, Quý thiếu tướng quân chết ngay tại trận”.
Trên thi thể của Quý Viêm có cắm mười mấy mũi tên, khiến người ta chẳng dám nhìn vào. Dù không tận mắt chứng kiến trận chiến này, nhưng những người ở đó cũng có thể tưởng tượng chiến sự ác liệt chừng nào.
“Nếu nghe lời ta, hai cánh quân Vĩnh Tiêu và Úy Bắc cùng công thành, chắc kết cục không đến nỗi thế này…” Hà Hiệp đau lòng im lặng một lúc, rồi nổi cơn thịnh nộ, “Trận giao chiến thứ nhất, một trong bảy cánh quân của ta đã bị tiêu diệt, bảo ta phải ăn nói thế nào với Công chúa? Người đâu, đưa Quý Thường Ninh vào đây!”
Quý Thường Ninh bị trói giật cánh khuỷu quàng ra phía sau, vừa tỉnh dậy đã bị trói tay bịt miệng, hắn hoàn toàn không hiểu đã xảy ra chuyện gì nên mang theo một bụng tức giận, dự định gặp Hà Hiệp sẽ đòi lại công bằng. Ai ngờ vừa vào trướng soái, bỗng thấy như mây đen dày đặc, sắc mặt mọi người đều khó coi hơn bất cứ lúc nào. Trong không khí thoảng mùi tanh của máu, thi thể nằm trên đất mặc tướng phục Vân Thường đã nhuộm trong màu máu.
Nhìn thật kỹ, Quý Thường Ninh bỗng thấy trong đầu “ầm” một tiếng, hỏng rồi.
“Quý Thường Ninh, ngươi thân là đại tướng Vân Thường, nắm trong tay cả cánh quân Úy Bắc, lại dám coi thường quân lệnh, uống rượu say trong trướng, làm lỡ thời cơ cứu viện, khiến toàn bộ cánh quân Vĩnh Tiêu tử trận, ngươi còn lời nào để nói!”
Hà Hiệp ra hiệu, đám binh lính vội rút mảnh giẻ nhét trong miệng Quý Thường Ninh ra. Quý Thường Ninh nhìn điệt nhi cách đây không lâu còn hoạt bát vui vẻ mà giờ đã nhuộm màu máu, bỗng thấy trời đất như quay cuồng, sấm sét chằng chịt đánh xuống đầu, cứ giương mắt, lắp bắp: “Sao… sao lại…”.
Hà Hiệp thét hỏi: “Quý Thường Ninh, ngươi có nhận tội không?”.
Cả người run lẩy bẩy, Quý Thường Ninh ngẩng phắt đầu: “Không, ta không uống rượu, ta không uống rượu! Ta bị oan!”.
Các tướng lĩnh đã tận mắt chứng kiến Quý Thường Ninh sặc mùi rượu nằm thẳng trên giường ngáy o o, nay lại thấy hắn chối ngay tại chỗ thì cảm thấy xấu hổ thay, ánh mắt vô cùng khinh bỉ.
“Ngươi còn dám chối? Tội lớn như thế này, không giết ngươi, ta chẳng còn mặt mũi nào mà gặp Công chúa. Người đâu! Chém hắn cho ta!”
Thấy tình thế này, biết là không hay, Quý Thường Ninh càng hét: “Ta bị oan, ta không uống rượu! Họ Quý ta cả đời là trọng thần của Vân Thường, lập bao công lao hiển hách cho Vân Thường! Hà Hiệp, ngươi không thể giết ta! Ngươi phải cùng ta đến trước mặt Công chúa để đối chất!”
“Ta có hổ phù trong tay, thống lĩnh bảy quân, lại không thể giết ngươi?” Hà Hiệp cười gằn, hét lên: “Người đâu, lôi ra ngoài!”.
Binh lính đã có sự chuẩn bị từ trước, nhanh chóng bước tới lôi Quý Thường Ninh ra ngoài, chẳng mấy chốc, lại mang cái đầu với đôi mắt trợn trừng vào.
Có tướng lĩnh hỏi, “Trận chiến Nhạn Lâm đã thua ngay từ đầu, bảy cánh quân Vân Thường giờ đã mất một, xin hỏi tiếp sau đây, Phò mã định đối phó với quân Đông Lâm thế nào?”
“Chúng ta không đối phó với quân Đông Lâm nữa.”
“Ý Phò mã là…”
“Chúng ta về thành đô”.
Quần tướng đều vô cùng ngạc nhiên, chỉ có Đông Chước đã biết trước kế hoạch của Hà Hiệp, vẫn buông tay đứng bên cạnh, vẻ mặt hoàn toàn bình thường.
“Bảy cánh quân mất một không phải vì quân Đông Lâm mạnh, mà bởi vì đảng phái trong triều Vân Thường đấu đá lẫn nhau. Không diệt trừ được nội loạn, sao có thể đem quân đi đánh nước khác?”, Hà Hiệp nói, “Một nước Đông Lâm chẳng đáng trong mắt Hà Hiệp ta, các vị tướng quân đây đều là người có chí lớn, liệu các vị có nguyện cùng ta chỉnh đốn nội chính trước, rồi dẫn binh xuất chinh, tung hoành thiên hạ?”.
Quần tướng đều là người thông minh, bỗng chốc hiểu ra dự định của Hà Hiệp . thời gian làm Phò mã của Hà Hiệp không ngắn, bị nhà họ Quý tìm mọi cách gây khó dễ, tất cả họ đều nhìn rất rõ. Nay Hà Hiệp đã mạnh, muốn dẹp Quý gia là chuyện đương nhiên.
Trướng soái hoàn toàn yên lặng.
Hà Hiệp cười bảo: “Không sao, các vị muốn nói gì thì cứ nói ra”
Một kế của Hà Hiệp đủ để loại trừ thế lực nhà họ Quý trong quân, thanh thế gia tăng, thần sắc lạnh lùng kiêu ngạo, ánh mắt quét tới đâu, người người lo sợ tới đó.
“Chảy máu, chảy mồ hôi không quan trọng, tướng lĩnh chúng ta chỉ lo buồn đến mốc người thôi. Miễn sao không bị nhốt trong thành ăn không ngồi rồi, tất cả những việc khác đều do Phò mã quyết định”, Kỳ Điền cân nhắc một lúc, rồi cắn răng lên tiếng trước.
Tâm tư của Kỳ Điền không hẹn mà giống những tướng lĩnh khác.
Hà Hiệp muốn thanh trừ nhà họ Quý thì có liên quan gì tới họ? Các tướng quân sợ nhất là không được đánh trận, không được ngửi mùi tanh của máu, không có cơ hội thi triển năng lực, bị quan văn chèn ép mọi bề. Chính sách an phận của lão thần Quý Thường Thanh không hợp lòng quân, nếu đổi sang Phò mã danh tướng lẫy lừng chủ quản mọi việc, đối với họ, thực là một việc tốt.
Quần tướng trao nhau một ánh nhìn, ra quyết định, rồi quay về phía Hà Hiệp, chắp tay đồng thanh: “Chúng tướng nghe theo Phò mã!”
“Được”, Hà Hiệp thận trọng gật đầu, “Vậy mời các vị tướng quân nhổ trại, theo ta về thành đô”.
Thành Thả Nhu, Vân Thường.
Mùa liễu rủ.
Nhưng dường như không gian bên ngoài chẳng có chút tác động đến phòng giam này, từ đông sang hạ, nó vẫn chỉ bốn bức tường và một cánh cửa sổ.
Âm thanh mở khóa vang lên, tiếng người bước vào, Phiên Lộc xuất hiện.
“Sao không ăn?”
“Không muốn ăn”. Những món ăn trên bàn chưa hề được động đến, Túy Cúc ngồi bên giường, cúi đầu xếp y phục trên gối.
Dừng lại một lúc, Phiên Lộc khẽ bảo: “Không ăn thì thôi”.
Thấy hắn dễ dàng bỏ qua cho mình, Túy Cúc càng kinh ngạc. Nam nhân này coi nàng như một con lợn, ngày ngày nhốt trong chuồng, liên tục cho ăn, nếu nàng không ăn, hắn sẽ gây ra bao việc bắt nàng phải ăn cho hết. Sao hôm nay hắn lại đổi tính thế?
“Này…”
Phiên Lộc sững lại: “Sao thế?”
Túy Cúc bước tới, thăm dò nam nhân kia: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Không liên quan đến ngươi.” Đây là câu Túy Cúc vẫn hay dùng để chọc giận Phiên Lộc, hôm nay lại bị hắn mang ra phản kích.
Túy Cúc ngẩn người, rồi hừ một tiếng: “Không hỏi thì không hỏi, có gì to tát sao?” Nàng quay về giường, vừa xếp y phục vừa nói, “Này, dù ngươi không chịu thả ta ra, thì cũng phải cho ta viết một bức thư cho sư phụ chứ. Coi như ta cầu xin ngươi, đừng quên ta từng cứu mạng ngươi”.
Bỗng nghe thấy tiếng khóa, Túy Cúc ngẩng đầu, Phiên Lộc không còn ở đó, cửa đã bị khóa. Nàng tức giận nghiến răng: “Tên xấu xa, rồi sẽ có ngày ngươi bị sói ăn thịt”.
Xếp xong y phục, Túy Cúc cất vào tủ.
Cũng chẳng thể nói là phong giam này không đổi. Màn rèm chăn gối thường xuyên được thay mới, đều do Phiên Lộc chọn màu, nhưng nhãn quang của hắn quả không tồi. Mấy tháng trước, Phiên Lộc chuyển đến một tủ y phục, tiếp theo là bàn trang điểm, hộp trang sức, phấn son,… dần dần mọi thứ đã đầy đủ, rèm cửa màu xanh, chăn tơ gối lụa, cộng thêm rèm rủ, chuông gió, gương đồng. Nếu không vì cửa sổ song sắt, cửa có khóa ngoài, rõ ràng đây chẳng khác nào khuê phòng của một tiểu thư.
Nam nhân này đến rồi đi, lần nào cũng để lại một thứ, nhưng chưa bao giờ đưa tận tay cho Túy Cúc, mà chỉ trêu chọc nàng vài câu, khiến nàng tức điên lên, đến khi bóng dáng hắn khuất sau cánh cửa, Túy Cúc mới phát hiện trên bàn có thêm cây trâm bạc hay một bức tượng nhỏ xinh.
Nàng bị nhốt bao lâu như thế, chán muốn chết, ngày nào cũng chỉ mong được gặp người, dù chỉ là tên Phiên Lộc xấu xa đó. Nhưng hai hôm nay, Phiên Lộc ra vào vội vã, đặt cơm canh xuống rồi đi ngay, không biết xảy ra achuyeenj gì, Túy Cúc không tránh khỏi cảm giác bất an.
Tiếng mở khóa lại vang lên.
Cửa đã mở.
Túy Cúc ngẩng lên.
Phiên Lộc bước vào, ngồi xuống ghế, không nói gì mà chỉ nhìn Túy Cúc.
Túy Cúc ngạc nhiên, hỏi: “Sao ngươi quay lại?”.
Như đang có tâm sự, Phiên Lộc ủ ê một lúc, mới lên tiếng: “Phò mã dẫn quân chinh phục Đông Lâm, nửa đường lại quay về thành đô. Nghe nói quân đội đã có chứng cứ xác thực về việc nhà họ Quý mưu đồ làm phản. Đại quân đã bao vây thành đô, lục tìm nghịch đảng khắp nơi. Thân tín của Quý gia, không một ai chạy thoát”.
Túy Cúc sững người. Nói thực là, nghe đến việc này, nàng không hề cảm thấy vui mừng, mãi một lúc sau mới đáp khẽ: “Việc này do các đảng phái ở thành đô đấu đá lẫn nhau, quan viên tiểu thành nơi quân ải có liên quan gì? Con người ngươi chỉ biết bắt nạt một nữ tử như ta, đến khi gặp việc lớn, sao lại thành lo bò trắng răng như vậy?”
“Thủ đoạn của Phò mã thực khiến người ta lạnh lòng”. Phiên Lộc không còn vẻ dọa dẫm thường ngày, im lặng giây lát, hạ giọng, “Hà Hiệp nói tuy Thừa tướng mưu phản, nhưng dù gì cũng là lão thần của Vân Thường nên không muốn dùng đến binh đao, chỉ hạ lệnh nhốt Thừa tướng trong phòng, cho nước, không cho ăn. Chịu đựng bốn ngày bốn đêm, sau khi điểm chỉ nhận tội mưu phản, Thừa tướng đã uống thuốc độc mà chết”
“A!”, Túy Cúc kêu lên kinh hãi, hỏi, “Thế Công chúa đâu? Sao Công chúa lại để Hà Hiệp làm vậy?”
“Trong tay Hà Hiệp có đại quân, các tướng lĩnh chỉ nghe lời hắn. Công chúa đã không còn cách nào khống chế cục diện. huống hồ, sao Công chúa lại không ủng hộ phu quân mình? Không lẽ Công chúa muốn Thừa tướng giết Hà Hiệp ?”
Thành đô Vân Thường chắc giờ đang chìm trong lo âu.
Vốn đã quen với bộ dạng đáng ghét của Phiên Lộc, hôm nay bỗng thấy hắn ngồi thẫn thờ trước mặt, Túy Cúc lại thấy không quen, bèn nói mấy câu không đầu không đuôi: “Ngươi lo gì chứ? Ngươi là mật thám lợi hại nhất, giỏi giang nhất Vân Thường. Nếu Hà Hiệp hạ lệnh bắt ngươi, ngươi trốn vào sơn mạch Tùng Sâm là xong, ở đó, cả khỉ cũng chẳng tóm được ngươi”.
Không ngờ Phiên Lộc lại hỏi: “Vậy ngươi làm thế nào?”
“Ta?”, Túy Cúc kinh ngạc, cúi xuống, nói, “May quá, ngươi thả ta ra, ta về Đông Lâm tìm sư phụ”.
“Không thả”, Phiên Lộc lập tức cự tuyệt.
Túy Cúc lo lắng, ngẩng lên, giận dữ hỏi: “Tại sao?”.
“Đường xa, một nữ nhân như ngươi, ta không yên tâm.”
“Ngươi… ngươi…”
“Ngươi làm sao?” Phiên Lộc đứng dậy bước ra cửa, ném lại một câu sau lưng, “Hôm nay tha cho ngươi, lần sau còn không ăn cơm, ta lột y phục ngươi, đánh ba trăm trượng. Một lời của thủ thành này nói ra, tứ mã nan truy. Ngươi nhớ kỹ cho ta”.
Lách cách mấy tiếng, cửa đã khóa lại, chỉ còn một mình Túy Cúc đang nghiến răng nghiến lợi: “Tên xấu xa, tên xấu xa! Ngươi bị Hà Hiệp giết đi cho rồi! Phiên Lộc, ngươi là đồ lưu manh!”.
Xuất thân võ tướng, là người sức lực, lại không sợ vất vả, Tắc Doãn và Ngụy Đình vừa trồng trọt vừa chăn dê thả ngựa. Dương Phượng và Sính Đình dệt vải lúc rảnh rỗi, cuộc sống tự cung tự cấp, rất đỗi thoải mái.
“Trường Tiếu biết đi rồi”.
“Biết đi? Muội thấy chân nó vừa chạm đất đã muốn chạy rồi, cả ngày chạy đi chạy lại, tỷ không biết bắt được phải vất vả thế nào đâu.”
Sính Đình đặt tên cho con thật đúng, quả nhiên Trường Tiếu rất thích cười.
Vừa nhìn Trường Tiếu, Dương Phượng đã thấy vui: “Cả ngày lúc nào cũng vui vẻ, chẳng biết đang cười cái gì?”.
Sính Đình bế Trường Tiếu đang chập chững lên, chỉ vào mũi nhi tử, trách mắng: “Con ấy, đi còn chưa vững đã muốn chạy rồi? Phải ngã bao nhiêu lần nữa mới biết đau đây?”.
Tắc Khánh níu vạt áo Sính Đình, ngẩng lên nói: “Bế”
Dương Phượng vội vàng kéo Khánh nhi sang một bên, cố nhịn cười, lắc đầu bảo: “Con còn nhỏ, không bế Trường Tiếu được, nhỡ ngã thì sao?”, rồi nói với Sính Đình: “Ta thấy, muội để Trường Tiếu nhận Khánh nhi làm huynh đệ đi, Khánh nhi lúc nào cũng dính lấy Trường Tiếu”.
“Việc gì phải nhận? Hai đứa lúc nào cũng dính lấy nhau, người khác nhìn vào đều cho là huynh đệ ruột”.
“Sao giống huynh đệ ruột được? Khánh nhi trông ngốc nghếch thế kia, Trường Tiếu thì bẩm sinh đã có tướng, cứ nhìn đôi mắt và cái mũi nó xem, rõ ràng là một tiểu…”
Ba tiếng “Trấn Bắc vương” nghẹn lại trong cổ họng, Dương Phượng nói đến một nửa bỗng im bặt. Biết mình nói năng không cẩn thận, trong lòng bất an, Dương Phượng ngẩng lên nhìn Sính Đình.
Sính Đình đang đùa với nhi tử, vẻ mặt có chút gượng gạo, một lúc sau mới mỉm cười như mếu: “Đâu chỉ đôi mắt, cái mũi, mà cả ánh nhìn cũng y hệt”. Nàng khẽ chọc cái mũi của con, nói nhỏ, “Giống mẫu thân không tốt ư? Sao cứ phải giống người ấy?”.
Nhi tử, con có biết Trấn Bắc vương là ai không?
Tên của Trấn Bắc vương là Sở Bắc Tiệp.
Trấn Bắc vương có thể múa thanh kiếm rất nặng, có thể chặt đầu tướng địch giữa thiên quân vạn mã. Trấn Bắc vương uy thế thống trị thiên hạ, những kẻ khác đứng trước Trấn Bắc vương lòng đều thấy run rẩy.
Trấn Bắc vương thông minh, quyết đoán, dũng cảm, kiên cường, là danh tướng vô địch trên sa trường.
Chàng có đang ở vương cung Đông Lâm không? Thu qua, đông tới sẽ là tiệc tùng long trọng mừng sinh thần của chàng.
Mồng Sáu, thiếp vẫn nhớ.
Sinh thần của chàng là mồng Sáu.
Đại quân Vân Thường khí thế hừng hực tiến đến biên giới Đông Lâm. Vương tộc Đông Lâm bao nhiêu năm an hưởng thái bình bỗng choàng tỉnh giấc mộng, giờ mới biết mất đi Sở Bắc Tiệp, Đông Lâm phải đứng trước bao mối nguy hiểm như vậy. Đông Lâm vương hậu lập tức trao hổ phù, lệnh Thần Mâu thống soái đại quân Đông Lâm chống lại Hà Hiệp.
Nhưng kẻ cầm quân xâm phạm Đông Lâm là Hà Hiệp, thì dù Đông Lâm vương hậu hay bản thân Thần Mâu đều biết đây là trận chiến vô cùng mệt mỏi.
Đến biên giới Đông Lâm, Hà Hiệp lập tức triệu tập tất cả các đại tướng, giao phó nhiệm vụ đầu tiên.
“Mật thám hồi báo, tướng địch Thần Mâu đã lên đường, quân cứu viện của Đông Lâm sẽ nhanh chóng đến đây. Quân ta muốn ổn định đội hình, trước tiên phải chiếm được thành Nhạn Lâm. Các vị tướng quân, ai sẵn sàng dẫn binh lập công đầu?” Nói xong, Hà Hiệp tươi cười đưa mắt nhìn quần tướng quen thuộc của mình.
Võ tướng trước nay đều dựa vào thành tích chinh chiến để luận công nhận thưởng, ai cũng muốn lập công đầu, mấy vị tướng trẻ tuổi rất nóng lòng được thử sức. Quý Viêm vội đứng lên trước, cất tiếng: “Quý Viêm nguyện dốc sức lấy thành Nhạn Lâm về cho Phò mã”.
Như đoán trước rằng Quý Viêm sẽ lên tiếng, nghe xong Hà Hiệp gật đầu, ôn hòa hỏi: “Quý thiếu tướng quân có biết thành Nhạn Lâm hiện do ai trấn thủ không?”
“Bẩm có, là thuộc hạ của Sở Bắc Tiệp ngày trước, La Thượng”.
“Ừ” Hà Hiệp lại gật đầu, vẻ mặt sâu xa khó dò, “La Thượng là dũng tướng do Sở Bắc Tiệp một tay huấn luyện, vô cùng hùng dũng, trong tay lại có nhiều binh lính, chỉ sợ cánh quân Vĩnh Tiêu của Quý thiếu tướng quân không đủ sức tấn công, chi bằng cử thêm cánh quân Úy Bắc cùng đi, cũng để…”
“Không cần”, Quý Viêm cự tuyệt ngay, giọng cao ngạo, “Mạt tướng đã sai người do thám tình hình địch, cánh quân Vĩnh Tiêu đông hơn quân giữ thành Nhạn Lâm, ta thừa sức công thành. Mỗi một tên La Thượng, đâu phải Sở Bắc Tiệp, hà tất cần đến nhị thúc ra trận?”
Quý Thường Ninh cố ý “hừ” mấy tiếng, rồi thô lỗ xen vào: “Giết gà cần gì dao mổ trâu? Một cái thành bé xíu như thế mà phải cần đến hai cánh quân lớn của Vân Thường ra tay? Như vậy chẳng phải để quân Đông Lâm chê cười Phò mã hay sao?”.
Hà Hiệp nhìn thúc điệt nhà họ kẻ xướng người phụ họa mà không hề tức giận, thậm chí còn chấp thuận: “Được, bản phò mã đợi để mừng công Quý thiếu Tướng quân”.
Quý Viêm giành được cơ hội lập công, bỗng nhớ đến lời dặn của phụ thân, bất giác nảy thêm ý định, chắp tay nói: “Phò mã, mạt tướng dẫn quân công thành, muốn được đáp ứng một yêu cầu nhỏ”.
Hà Hiệp hỏi: “Yêu cầu gì?”
“Ngộ nhỡ có điều gì bất trắc, đại quân phải cử người cứu viện, xin Phò mã cho nhị thúc của mạt tướng được dẫn binh tiếp ứng”
Vốn tuổi trẻ hăng hái, Quý Viêm nói quá thẳng. Như thế rõ ràng hắn đang lo lắng, một chủ soái như Hà Hiệp sẽ hãm hại mình từ phía sau, và cũng không tin tưởng những đại tướng khác.
Quần tướng đã sớm khuất phục trước khí phách bậc danh tướng của Hà Hiệp, nên không hề có cảm tình với Quý gia vẫn tìm mọi cách chèn ép Phò mã. Nghe câu này, người người liếc mắt về phía Quý Viêm vốn chỉ dựa vào gia thế mà một bước lên đến chức thiếu tướng quân.
Sự khoan dung của Hà Hiệp thực sự nằm ngoài sức tưởng tượng của mọi người, họ chỉ nghe Phò mã nói một câu: “Đây là chuyện nhỏ, ta hứa với Quý thiếu tướng quân”.
Dễ dàng có được lời hứa của Hà Hiệp, Quý Viêm cũng cảm thấy lạ. Thảo luận xong về tình hình chiến sự, quần tướng ai về trướng người nấy. Quý Viêm và Quý Thường Ninh cũng trở về trướng của mình. Quý Thường Ninh vừa đi vừa xuýt xoa hiếu kỳ: “Thật không ngờ Hà Hiệp lại dễ nói như vậy. Có điều, cánh quân Vĩnh Tiêu dư sức đối phó với một thành bé như Nhạn Lâm, cần gì đến chi viện? Hắn chẳng qua cũng chỉ cho chúng ta một câu nói nể mặt. Viêm nhi, lần này phải thể hiện cho mọi người thấy, để Quý gia chúng ta nở mày nở mặt”.
“Tất nhiên rồi”. Quý Viêm cười, bỗng trầm tư một lúc, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc, “Chỉ lo chẳng may xảy ra chuyện gì, nhị thúc, tiểu điệt dẫn quân công thành, nhị thúc ở hậu phương phải cẩn thận, tuyệt đối không được…”
“Không được uống rượu”, Quý Thường Ninh bất mãn lừ mắt nhìn điệt nhi, “Ta là người không biết chừng mực đến vậy sao? Nhị thúc đã nói với đại ca rồi, không uống rượu, không làm hỏng việc lớn. Điệt nhi cứ yên tâm!”
Hôm sau, trời còn chưa sáng, Quý Viêm đã dẫn theo một cánh quân Vĩnh Tiêu tiến về thành Nhạn Lâm.
Dù sao cũng là cốt nhục một nhà, Quý Thường Ninh không yên tâm, bèn đích thân tiễn điệt nhi ra khỏi quân doanh, hạ giọng dặn dò: “La Thượng được Sở Bắc Tiệp huấn luyện, nếu gặp điều gì bất thường, nhớ đừng cậy khỏe, hãy lập tức cử người về quân doanh báo tin cho nhị thúc”.
Quý Viêm gật đầu, khuôn mặt trẻ tuổi thoáng nét cười tự tin: “Nếu chiến thắng, tiểu điệt cũng sẽ lập tức sai người về báo với nhị thúc”.
Quý Thường Ninh cười ha ha: “Đi sớm về sớm, nhị thúc đợi tin tốt của điệt nhi.”
Trước lúc bình minh, sắc trời còn tối hơn đêm đen. Quý Thường Ninh nhìn theo bóng dáng Quý Viêm rời đi, rồi quay lại đại bản doanh.
Trong doanh trại, tướng lĩnh của mấy cánh quân còn lại vẫn đang nghỉ ngơi, đội lính gác tuần tiễu bên ngoài.
Quý Thường Ninh nghĩ bụng, hôm nay cũng chẳng có việc gì lớn, chỉ đợi tin thành Nhạn Lâm nên hắn dứt khoát quyết định quay về ngủ bù. Trên đường quay về, đi qua đám binh lính thân cận của mình, bước vào trướng soái, thuận tay vứt bộ giáp trụ nặng trịch lên giường, ngáp dài một cái.
Bất chợt, một cánh tay từ sau vung ra, bịt chặt miệng Quý Thường Ninh.
“Ưm ưm…”
Quý Thường Ninh trợn tròn hai mắt. Là bậc lão tướng trên sa trường, hắn cũng kịp đưa hai tay xuống hông, nhưng chưa kịp sờ vào thanh kiếm, đã nghe “bốp” một tiếng sau gáy, bị kẻ bịt mặt đánh mạnh một cái. Người đánh trộm sức to lực khỏe, Quý Thường Ninh giãy giụa một hồi, rồi đổ vật xuống đất, bất tỉnh.
Kẻ đứng sau lưng mình vận áo đen, khăn che mặt đen, chỉ để hở một đôi mắt sáng lấp lánh trong trướng tối om. Kẻ đánh trộm nhìn Quý Thường Ninh ngã dưới đất, ánh mắt cao ngạo khinh thường, cúi xuống kiểm tra hơi thở của Quý Thường Ninh, rồi lôi dưới gầm giường ra mấy bình rượu lâu năm, cho thêm gói thuốc mê vào đó, lắc bình, để thuốc mê tan đều.
“Bình rượu này kính đại ca của ngươi, Thừa tướng đại nhân của Vân Thường”. Kẻ đánh trộm nói một câu, âm sắc sang sảng đúng chủ soái Hà Hiệp, thân phận cao nhất trong đại bản doanh này.
Hà Hiệp đỡ Quý Thường Ninh ngã dưới đất dậy, đưa bình rượu lại gần, rồi cạy miệng hắn đổ vào. Vốn đã hận nhà họ Quý đến tận xương tủy, Hà Hiệp chẳng hề nương tay, đổ liền một lúc gần chục bình rượu, rồi đặt hắn trên giường, lặng lẽ rời đi.
“Cứu viện!”
Giữa trưa, ngoài doanh trại, một binh sĩ phi ngựa lao đến, mình mặc quân phục Vân Thường, người bê bết máu, vừa tới trước cổng đại bản doanh liền gân cổ gào lớn: “Cứu viện! Quý Viêm thiếu tướng quân cần cứu viện! Mau… mau báo…”.
Những người canh giữ trại quân đều nhận ra đây là thị vệ tâm phúc của Quý Viêm nên vô cùng ngạc nhiên, vội vã mở cổng doanh trại cho vào.
Quần tướng biết tin, nhanh chóng đến trướng soái.
“Cứu viện! Cứu viện!” Thị vệ lảo đảo chạy bổ vào báo tin, đến cửa đã quỳ sụp xuống, vừa thở vừa nói, “Phò mã, quân ta bị đại quân Đông Lâm trong thành Nhạn Lâm phục kích, tình thế nguy kịch, xin Phò mã lập tức cử đại quân cứu viện!”
Hà Hiệp đã sớm đoán được sự việc nhưng vẫn tỏ ra vô cùng kinh ngạc, vội tiến lên trước hai bước, đứng trước thị vệ kia thét hỏi: “Sao lại như thế?”.
“Mai phục! Quý Viêm thiếu tướng dẫn quân áp sát thành Nhạn Lâm, hai cánh quân Đông Lâm bất chợt xông tới, quân ta bị tấn công từ hai phía.”
“Mai phục? Quân của người nào?”
“Tướng dẫn quân mai phục là Sở Mạc Nhiên.”
“Hiện giờ tình hình chiến sự như thế nào?”
“Quân Đông Lâm có được địa lợi, lại đông hơn ta. Quân ta không kịp đề phòng, thương vong trầm trọng, Quý thiếu tướng dẫn theo các huynh đệ còn lại mở đường máu lùi vào sơn cốc Hoành Luyện, tử thủ ở cửa cốc. Thiếu tướng quân lệnh cho thuộc hạ vượt vòng vây về đây báo tin cho Phò mã, quân địch đang tấn công, các huynh đệ sẽ chẳng chống chọi được bao lâu nữa, xin Phò mã lập tức cử quân cứu viện!”
Trận tấn công Đông Lâm đầu tiên đã trúng mai phục, sắc mặt các tướng lĩnh Vân Thường vô cùng u ám.
“Lập tức cử cứu viện!”, Hà Hiệp hết sức quyết đoán, nhìn quanh một vòng, “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”
Ngay từ đầu, không ít tướng lĩnh chú ý đến sự vắng mặt của Quý Thường Ninh, thấy Hà Hiệp hỏi vậy, bèn gọi tên tiểu tốt bên ngoài vào, hỏi: “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”.
Tiểu tốt đó vừa từ chỗ Quý Thường Ninh trở về, vội đáp: “Quý tướng quân say rồi, gọi thế nào cũng không tỉnh”.
Quý Thường Ninh hám rượu nổi tiếng trong quân. Nghe tiểu tốt kia nói vậy, quần tướng đều cau mày.
“Chúng ta đi xem.”
Hà Hiệp dẫn theo các tướng lĩnh đến quân trướng của Quý Thường Ninh. Vừa vén rèm cửa, hơi rượu nồng nặc đã xông thẳng vào mũi quần tướng.
Trong trướng, bình rượu la liệt, tất cả đều còn mỗi vỏ.
Cả người Quý Thường Ninh nồng nặc mùi rượu, tứ chi thẳng đơ, nằm trên giường ngáy như sấm.
Cận vệ của hắn đang toát mồ hôi hột, lấy nước lau mặt, liên tục gọi: “Tướng quân, mau tỉnh dậy! Quý Viêm thiếu tướng quân xin cầu viện!”
Hà Hiệp hạ giọng: “Ta đã hứa với Quý Viêm thiếu tướng quân, nếu thiếu tướng quân xin cầu viện, chỉ cử Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu. Giờ phải làm thế nào?” Đoạn Hà Hiệp quay sang cận vệ của Quý Thường Ninh ra lệnh, “Nhanh, lấy nước lạnh đổ vào mặt, mau nghĩ cách gọi Quý tướng quân dậy!”
Tên cận vệ cũng biết chiến sự khẩn cấp, nên vội vã bưng nước đến, hất ướt hết mặt Quý Thường Ninh. Nhưng, Quý Thường Ninh đã uống bao nhiêu rượu trộn thuốc mê, làm sao tỉnh được? Tiếng ngáy của hắn vẫn y như cũ.
Lính liều mạng quay về báo tin vốn là quân tâm phúc bên cạnh Quý Viêm, nghĩ đến Thiếu tướng quân nhà mình đang cận kề ranh giới sống chết, càng hận Quý Thường Ninh chẳng ra sao, rồi quỳ sụp xuống chân Hà Hiệp, khẩn cầu như sắp khóc: “Phò mã, không thể đợi thêm được nữa, xin Phò mã hãy cử một vị tướng quân khác đi”.
Khuôn mặt tuấn tú của Hà Hiệp cũng có chút lo lắng, nhưng vẫn lắc đầu: “Một lời bậc quân tử đáng giá ngàn vàng, huống hồ ta là chủ soái. Quý Viêm thiếu tướng quân tuổi trẻ tài cao, trước khi ra quân đã thỉnh cầu nếu có biến cố, chỉ muốn Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu viện, chắc chắn vì có lý do. Ta đã đồng ý thì không thể làm khác được.”
Tên lính cuống đến nỗi sắp rơi nước mắt, đến bên giường, quên mất cả thân phận thấp kém của mình mà cho Quý Thường Ninh mấy cái bạt tai, hét lớn: “Tỉnh! Tỉnh! Ông Trời ơi, thế này chẳng phải cố tình lấy mạng thiếu tướng quân ư?”
Quý Thường Ninh bị mấy cái bạt tai, vẫn ngủ, nhưng tiếng ngáy đã ngừng.
Quần tướng vốn đã chẳng có cảm tình gì với kẻ lỗ mãng, chỉ dựa vào gia thế mà leo lên chức vị đại tướng quân như Quý Thường Ninh, giờ thấy bộ dạng hắn thế này thì càng thêm coi thường.
Thấy đã hết cách vơi Quý Thường Ninh, tên lính kia vô cùng tuyệt vọng, lại quỳ xuống chân Hà Hiệp, dập đầu bôm bốp: “Phò mã, Phò mã, tính mạng của Thiếu tướng quân đang ở trong tay Phò mã, xin Phò mã hãy cử quân đi cứu viện!”, sau đó tiếp tục quay sang các tướng khác: “Tướng quân, các vị tướng quân, cầu xin các vị! Nơi miệng cốc, quân Đông Lâm bắn tên như mưa, những người trong đó đều là con dân Vân Thường, cầu xin các vị hãy mở lòng từ bi, xin Phò mã nể tình…”
Về đến đây, toàn thân người này bê bết máu và bụi đất, giờ do dập đầu quá mạnh, máu tươi lại chảy ròng ròng, nhìn vào cũng thấy lạnh người.
Quần tướng đều là những đại hán trên sa trường, tuy coi thường Quý Thường Ninh, nhưng bất giác lại cảm thấy quý trọng tên lính trước mặt.
Thấy các tướng lĩnh nhìn về phía mình, biết ngày sau còn phải dựa vào họ mới có được thiên hạ, Hà Hiệp không thể quá tuyệt tình, đi ngược lại đám đông. Chẳng đợi có người lên tiếng, Hà Hiệp đã hạ giọng: “Vị tướng quân nào muốn đi cứu viện?”
Mọi người nhìn nhau, một lúc sau, Đại tướng quân Kỳ Điền của cánh quân Vĩnh Thái đứng ra: “Mạt tướng xin đi”.
“Được, Kỳ tướng quân hãy lập tức dẫn binh xuất phát, chi viện cho Quý Viêm thiếu tướng quân”.
Cứu người như cứu hỏa, vì Quý Thường Ninh say rượu không tỉnh nên đã tốn không ít thời gian, Kỳ Điền nhận lệnh, lập tức lên đường.
Khi đại quân Vĩnh Thái đi khỏi tầm mắt mọi người khoảng nửa canh giờ, một binh lính đến trước mặt trướng soái, bẩm báo: “Bẩm Phò mã, Quý Thường Ninh tướng quân đã tỉnh.”
Đang bàn việc quân cùng mấy vị đại tướng Vân Thường, nghe vậy Hà Hiệp lạnh lùng hừ một tiếng: “Trói hắn lên đây cho ta!”
Mấy cận vệ lập tức đến trướng quân của Quý Thường Ninh, tóm ngay lấy người vừa tỉnh dậy chưa kịp nhìn rõ mọi thứ kia, hung hăng trói hắn lại. Trước đó, họ đã được Hà Hiệp dặn dò, để tránh Quý Thường Ninh la lối cãi tội mà dao động lòng quân, nên phải bịt miệng hắn lại.
Đám thuộc hạ của Quý Thường Ninh đều biết đã xảy ra việc gì, biết Phò mã đã nổi cơn thịnh nộ nên không dám ngăn, cũng chẳng có mặt mũi nào mà can ngăn, chỉ còn cách mở mắt trừng trừng nhìn tướng quân mình bị trói lôi đi.
Buổi chiều, cánh quân đi cứu viện Kỳ Điền đã trở về.
Kỳ Điền mang theo thi thể đầy thương tích của Quý Viêm, báo với Hà Hiệp: “Mạt tướng đến chậm một nước, tới nơi, quân Đông Lâm đã rút hết, toàn bộ cánh quân bị tiêu diệt, Quý thiếu tướng quân chết ngay tại trận”.
Trên thi thể của Quý Viêm có cắm mười mấy mũi tên, khiến người ta chẳng dám nhìn vào. Dù không tận mắt chứng kiến trận chiến này, nhưng những người ở đó cũng có thể tưởng tượng chiến sự ác liệt chừng nào.
“Nếu nghe lời ta, hai cánh quân Vĩnh Tiêu và Úy Bắc cùng công thành, chắc kết cục không đến nỗi thế này…” Hà Hiệp đau lòng im lặng một lúc, rồi nổi cơn thịnh nộ, “Trận giao chiến thứ nhất, một trong bảy cánh quân của ta đã bị tiêu diệt, bảo ta phải ăn nói thế nào với Công chúa? Người đâu, đưa Quý Thường Ninh vào đây!”
Quý Thường Ninh bị trói giật cánh khuỷu quàng ra phía sau, vừa tỉnh dậy đã bị trói tay bịt miệng, hắn hoàn toàn không hiểu đã xảy ra chuyện gì nên mang theo một bụng tức giận, dự định gặp Hà Hiệp sẽ đòi lại công bằng. Ai ngờ vừa vào trướng soái, bỗng thấy như mây đen dày đặc, sắc mặt mọi người đều khó coi hơn bất cứ lúc nào. Trong không khí thoảng mùi tanh của máu, thi thể nằm trên đất mặc tướng phục Vân Thường đã nhuộm trong màu máu.
Nhìn thật kỹ, Quý Thường Ninh bỗng thấy trong đầu “ầm” một tiếng, hỏng rồi.
“Quý Thường Ninh, ngươi thân là đại tướng Vân Thường, nắm trong tay cả cánh quân Úy Bắc, lại dám coi thường quân lệnh, uống rượu say trong trướng, làm lỡ thời cơ cứu viện, khiến toàn bộ cánh quân Vĩnh Tiêu tử trận, ngươi còn lời nào để nói!”
Hà Hiệp ra hiệu, đám binh lính vội rút mảnh giẻ nhét trong miệng Quý Thường Ninh ra. Quý Thường Ninh nhìn điệt nhi cách đây không lâu còn hoạt bát vui vẻ mà giờ đã nhuộm màu máu, bỗng thấy trời đất như quay cuồng, sấm sét chằng chịt đánh xuống đầu, cứ giương mắt, lắp bắp: “Sao… sao lại…”.
Hà Hiệp thét hỏi: “Quý Thường Ninh, ngươi có nhận tội không?”.
Cả người run lẩy bẩy, Quý Thường Ninh ngẩng phắt đầu: “Không, ta không uống rượu, ta không uống rượu! Ta bị oan!”.
Các tướng lĩnh đã tận mắt chứng kiến Quý Thường Ninh sặc mùi rượu nằm thẳng trên giường ngáy o o, nay lại thấy hắn chối ngay tại chỗ thì cảm thấy xấu hổ thay, ánh mắt vô cùng khinh bỉ.
“Ngươi còn dám chối? Tội lớn như thế này, không giết ngươi, ta chẳng còn mặt mũi nào mà gặp Công chúa. Người đâu! Chém hắn cho ta!”
Thấy tình thế này, biết là không hay, Quý Thường Ninh càng hét: “Ta bị oan, ta không uống rượu! Họ Quý ta cả đời là trọng thần của Vân Thường, lập bao công lao hiển hách cho Vân Thường! Hà Hiệp, ngươi không thể giết ta! Ngươi phải cùng ta đến trước mặt Công chúa để đối chất!”
“Ta có hổ phù trong tay, thống lĩnh bảy quân, lại không thể giết ngươi?” Hà Hiệp cười gằn, hét lên: “Người đâu, lôi ra ngoài!”.
Binh lính đã có sự chuẩn bị từ trước, nhanh chóng bước tới lôi Quý Thường Ninh ra ngoài, chẳng mấy chốc, lại mang cái đầu với đôi mắt trợn trừng vào.
Có tướng lĩnh hỏi, “Trận chiến Nhạn Lâm đã thua ngay từ đầu, bảy cánh quân Vân Thường giờ đã mất một, xin hỏi tiếp sau đây, Phò mã định đối phó với quân Đông Lâm thế nào?”
“Chúng ta không đối phó với quân Đông Lâm nữa.”
“Ý Phò mã là…”
“Chúng ta về thành đô”.
Quần tướng đều vô cùng ngạc nhiên, chỉ có Đông Chước đã biết trước kế hoạch của Hà Hiệp, vẫn buông tay đứng bên cạnh, vẻ mặt hoàn toàn bình thường.
“Bảy cánh quân mất một không phải vì quân Đông Lâm mạnh, mà bởi vì đảng phái trong triều Vân Thường đấu đá lẫn nhau. Không diệt trừ được nội loạn, sao có thể đem quân đi đánh nước khác?”, Hà Hiệp nói, “Một nước Đông Lâm chẳng đáng trong mắt Hà Hiệp ta, các vị tướng quân đây đều là người có chí lớn, liệu các vị có nguyện cùng ta chỉnh đốn nội chính trước, rồi dẫn binh xuất chinh, tung hoành thiên hạ?”.
Quần tướng đều là người thông minh, bỗng chốc hiểu ra dự định của Hà Hiệp . thời gian làm Phò mã của Hà Hiệp không ngắn, bị nhà họ Quý tìm mọi cách gây khó dễ, tất cả họ đều nhìn rất rõ. Nay Hà Hiệp đã mạnh, muốn dẹp Quý gia là chuyện đương nhiên.
Trướng soái hoàn toàn yên lặng.
Hà Hiệp cười bảo: “Không sao, các vị muốn nói gì thì cứ nói ra”
Một kế của Hà Hiệp đủ để loại trừ thế lực nhà họ Quý trong quân, thanh thế gia tăng, thần sắc lạnh lùng kiêu ngạo, ánh mắt quét tới đâu, người người lo sợ tới đó.
“Chảy máu, chảy mồ hôi không quan trọng, tướng lĩnh chúng ta chỉ lo buồn đến mốc người thôi. Miễn sao không bị nhốt trong thành ăn không ngồi rồi, tất cả những việc khác đều do Phò mã quyết định”, Kỳ Điền cân nhắc một lúc, rồi cắn răng lên tiếng trước.
Tâm tư của Kỳ Điền không hẹn mà giống những tướng lĩnh khác.
Hà Hiệp muốn thanh trừ nhà họ Quý thì có liên quan gì tới họ? Các tướng quân sợ nhất là không được đánh trận, không được ngửi mùi tanh của máu, không có cơ hội thi triển năng lực, bị quan văn chèn ép mọi bề. Chính sách an phận của lão thần Quý Thường Thanh không hợp lòng quân, nếu đổi sang Phò mã danh tướng lẫy lừng chủ quản mọi việc, đối với họ, thực là một việc tốt.
Quần tướng trao nhau một ánh nhìn, ra quyết định, rồi quay về phía Hà Hiệp, chắp tay đồng thanh: “Chúng tướng nghe theo Phò mã!”
“Được”, Hà Hiệp thận trọng gật đầu, “Vậy mời các vị tướng quân nhổ trại, theo ta về thành đô”.
Thành Thả Nhu, Vân Thường.
Mùa liễu rủ.
Nhưng dường như không gian bên ngoài chẳng có chút tác động đến phòng giam này, từ đông sang hạ, nó vẫn chỉ bốn bức tường và một cánh cửa sổ.
Âm thanh mở khóa vang lên, tiếng người bước vào, Phiên Lộc xuất hiện.
“Sao không ăn?”
“Không muốn ăn”. Những món ăn trên bàn chưa hề được động đến, Túy Cúc ngồi bên giường, cúi đầu xếp y phục trên gối.
Dừng lại một lúc, Phiên Lộc khẽ bảo: “Không ăn thì thôi”.
Thấy hắn dễ dàng bỏ qua cho mình, Túy Cúc càng kinh ngạc. Nam nhân này coi nàng như một con lợn, ngày ngày nhốt trong chuồng, liên tục cho ăn, nếu nàng không ăn, hắn sẽ gây ra bao việc bắt nàng phải ăn cho hết. Sao hôm nay hắn lại đổi tính thế?
“Này…”
Phiên Lộc sững lại: “Sao thế?”
Túy Cúc bước tới, thăm dò nam nhân kia: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Không liên quan đến ngươi.” Đây là câu Túy Cúc vẫn hay dùng để chọc giận Phiên Lộc, hôm nay lại bị hắn mang ra phản kích.
Túy Cúc ngẩn người, rồi hừ một tiếng: “Không hỏi thì không hỏi, có gì to tát sao?” Nàng quay về giường, vừa xếp y phục vừa nói, “Này, dù ngươi không chịu thả ta ra, thì cũng phải cho ta viết một bức thư cho sư phụ chứ. Coi như ta cầu xin ngươi, đừng quên ta từng cứu mạng ngươi”.
Bỗng nghe thấy tiếng khóa, Túy Cúc ngẩng đầu, Phiên Lộc không còn ở đó, cửa đã bị khóa. Nàng tức giận nghiến răng: “Tên xấu xa, rồi sẽ có ngày ngươi bị sói ăn thịt”.
Xếp xong y phục, Túy Cúc cất vào tủ.
Cũng chẳng thể nói là phong giam này không đổi. Màn rèm chăn gối thường xuyên được thay mới, đều do Phiên Lộc chọn màu, nhưng nhãn quang của hắn quả không tồi. Mấy tháng trước, Phiên Lộc chuyển đến một tủ y phục, tiếp theo là bàn trang điểm, hộp trang sức, phấn son,… dần dần mọi thứ đã đầy đủ, rèm cửa màu xanh, chăn tơ gối lụa, cộng thêm rèm rủ, chuông gió, gương đồng. Nếu không vì cửa sổ song sắt, cửa có khóa ngoài, rõ ràng đây chẳng khác nào khuê phòng của một tiểu thư.
Nam nhân này đến rồi đi, lần nào cũng để lại một thứ, nhưng chưa bao giờ đưa tận tay cho Túy Cúc, mà chỉ trêu chọc nàng vài câu, khiến nàng tức điên lên, đến khi bóng dáng hắn khuất sau cánh cửa, Túy Cúc mới phát hiện trên bàn có thêm cây trâm bạc hay một bức tượng nhỏ xinh.
Nàng bị nhốt bao lâu như thế, chán muốn chết, ngày nào cũng chỉ mong được gặp người, dù chỉ là tên Phiên Lộc xấu xa đó. Nhưng hai hôm nay, Phiên Lộc ra vào vội vã, đặt cơm canh xuống rồi đi ngay, không biết xảy ra achuyeenj gì, Túy Cúc không tránh khỏi cảm giác bất an.
Tiếng mở khóa lại vang lên.
Cửa đã mở.
Túy Cúc ngẩng lên.
Phiên Lộc bước vào, ngồi xuống ghế, không nói gì mà chỉ nhìn Túy Cúc.
Túy Cúc ngạc nhiên, hỏi: “Sao ngươi quay lại?”.
Như đang có tâm sự, Phiên Lộc ủ ê một lúc, mới lên tiếng: “Phò mã dẫn quân chinh phục Đông Lâm, nửa đường lại quay về thành đô. Nghe nói quân đội đã có chứng cứ xác thực về việc nhà họ Quý mưu đồ làm phản. Đại quân đã bao vây thành đô, lục tìm nghịch đảng khắp nơi. Thân tín của Quý gia, không một ai chạy thoát”.
Túy Cúc sững người. Nói thực là, nghe đến việc này, nàng không hề cảm thấy vui mừng, mãi một lúc sau mới đáp khẽ: “Việc này do các đảng phái ở thành đô đấu đá lẫn nhau, quan viên tiểu thành nơi quân ải có liên quan gì? Con người ngươi chỉ biết bắt nạt một nữ tử như ta, đến khi gặp việc lớn, sao lại thành lo bò trắng răng như vậy?”
“Thủ đoạn của Phò mã thực khiến người ta lạnh lòng”. Phiên Lộc không còn vẻ dọa dẫm thường ngày, im lặng giây lát, hạ giọng, “Hà Hiệp nói tuy Thừa tướng mưu phản, nhưng dù gì cũng là lão thần của Vân Thường nên không muốn dùng đến binh đao, chỉ hạ lệnh nhốt Thừa tướng trong phòng, cho nước, không cho ăn. Chịu đựng bốn ngày bốn đêm, sau khi điểm chỉ nhận tội mưu phản, Thừa tướng đã uống thuốc độc mà chết”
“A!”, Túy Cúc kêu lên kinh hãi, hỏi, “Thế Công chúa đâu? Sao Công chúa lại để Hà Hiệp làm vậy?”
“Trong tay Hà Hiệp có đại quân, các tướng lĩnh chỉ nghe lời hắn. Công chúa đã không còn cách nào khống chế cục diện. huống hồ, sao Công chúa lại không ủng hộ phu quân mình? Không lẽ Công chúa muốn Thừa tướng giết Hà Hiệp ?”
Thành đô Vân Thường chắc giờ đang chìm trong lo âu.
Vốn đã quen với bộ dạng đáng ghét của Phiên Lộc, hôm nay bỗng thấy hắn ngồi thẫn thờ trước mặt, Túy Cúc lại thấy không quen, bèn nói mấy câu không đầu không đuôi: “Ngươi lo gì chứ? Ngươi là mật thám lợi hại nhất, giỏi giang nhất Vân Thường. Nếu Hà Hiệp hạ lệnh bắt ngươi, ngươi trốn vào sơn mạch Tùng Sâm là xong, ở đó, cả khỉ cũng chẳng tóm được ngươi”.
Không ngờ Phiên Lộc lại hỏi: “Vậy ngươi làm thế nào?”
“Ta?”, Túy Cúc kinh ngạc, cúi xuống, nói, “May quá, ngươi thả ta ra, ta về Đông Lâm tìm sư phụ”.
“Không thả”, Phiên Lộc lập tức cự tuyệt.
Túy Cúc lo lắng, ngẩng lên, giận dữ hỏi: “Tại sao?”.
“Đường xa, một nữ nhân như ngươi, ta không yên tâm.”
“Ngươi… ngươi…”
“Ngươi làm sao?” Phiên Lộc đứng dậy bước ra cửa, ném lại một câu sau lưng, “Hôm nay tha cho ngươi, lần sau còn không ăn cơm, ta lột y phục ngươi, đánh ba trăm trượng. Một lời của thủ thành này nói ra, tứ mã nan truy. Ngươi nhớ kỹ cho ta”.
Lách cách mấy tiếng, cửa đã khóa lại, chỉ còn một mình Túy Cúc đang nghiến răng nghiến lợi: “Tên xấu xa, tên xấu xa! Ngươi bị Hà Hiệp giết đi cho rồi! Phiên Lộc, ngươi là đồ lưu manh!”.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook