Cổ Đại Khó Kiếm Cơm
-
Chương 77
Thấy Tĩnh Huyên với Thanh Phù đã đi xa, Thẩm Hi mới trở lại bàn, nhìn cái tay nải, thở dài nói: “Việc này nói với Tĩnh Huyên thế nào đây? Hay là giấu?”
Hoắc Trung Khê yên lặng một chốc, nói: “Đợi An Tu Cẩn đến rồi tính sau.”
Lâm Duyên Tường thấy hai phu thê đã thương lượng xong, mới mở miệng hỏi: “Phu nhân, vậy cái này đặt để đâu bây giờ?”
Dù thế nào thì đây cũng là vật âm, không nên đặt để chỗ sáng, hơn nữa bây giờ trong nhà còn có bọn trẻ, nhất là Hoắc Hiệp nghịch như khỉ, lỡ va chạm hay làm đổ thì không hay, cần phải tìm một chỗ để tốt mới được. Thẩm Hi nghĩ nghĩ, nói với Lâm Duyên Tường: “Đưa cho ta đi, ta mang đi để ở chỗ gian nhà gỗ để trống khi là được.”
Lâm Duyên Tường không dám đưa thẳng tay nải cho nàng cầm: “Phu nhân, dù sao đây cũng là vật điềm xấu, để ta đưa qua là được, phu nhân đừng chạm.”
Vật điềm xấu...
Thẩm Hi không thể tưởng tượng Cù Minh Tuyết khí khái xinh đẹp khi trước giờ đã thành một cái hộp mang điềm xấu, nhưng Lâm Duyên Tường lại cho rằng như vậy, mà nàng lại không có cách nào phản bác. Nàng không chối từ, yên lặng dẫn Lâm Duyên Tường đi sang nhà gỗ.
Mấy gian nhà gỗ kia đã để hoang từ khi An Tu Cẩn với Quy Hải Mặc rời đi, bây giờ gian nào cũng trống rỗng, tro bụi và mạng nhện giăng đầy.
Thẩm Hi nghĩ cứ để tay nải ở chỗ này, lỡ ngày nào Hoắc Hiệp nghịch ngợm chui vào đây cũng thấy được, với thiên tính tò mò của thằng bé thể nào nó cũng đụng vào. Để ngừa chuyện này phát sinh, nàng bảo Lâm Duyên Tường đặt tay nải vào trong ngăn tủ, định khóa lại tủ cho chắc ăn nhưng trong nhà cũng không có khóa, nàng chỉ đành tìm một mảnh vải đắp lên để che.
Đặt xong tay nải, Thẩm Hi với Lâm Duyên Tường đi ra ngoài, nàng lại buộc chặt cánh cửa rồi hai người mới trở lại.
“Hai người họ chết như thế nào?”
Thẩm Hi biết mưu triều soán vị chỉ có kết cục là chết, nhưng không biết hai mẹ con họ chết trong loạn quân hay là An Tu Thận hạ lệnh.
Lâm Duyên Tường trả lời: “Bệ hạ không giết bọn họ, là bọn họ uống thuốc độc tự sát.”
Thẩm Hi “Ừ” nhẹ một tiếng, kết quả này cũng không ngoài ý muốn. Từ vị trí nắm quyền cho đến tù nhân, một người cao ngạo như Cù Minh Tuyết chắc chắn sẽ không chấp nhận nổi, dù An Tu Thận có tha chết, nàng ta cũng không có dũng khí mà sống tiếp.
Lâm Duyên Tường thấy Thẩm Hi có vẻ quan tâm đến hai mẹ con Bình An Vương phi, kể tiếp: “Bọn họ binh biến, nhưng quân lính đánh vào Hoàng cung không thành công, Vương phi và thế tử nhận được tin binh bại liền uống thuốc độc đã chuẩn bị sẵn, bên cạnh để lại một tờ thư tuyệt mệnh. Bệ hạ khiến ta mang theo, mời phu nhân xem qua.” Nói xong, hắn lấy từ trong lồng ngực ra một tấm lụa trắng đưa cho Thẩm Hi.
Thẩm Hi mở ra xem, tấm lụa chỉ to bằng cái khăn tay bình thường, trong đó viết hai hàng chữ nhỏ chỉnh tề: Tro cốt đưa cho Vương gia, táng ở ven bờ suối trong rừng rậm. Tấm lụa được cắt chỉnh tề, hai hàng chữ quyên tú không một nét run rẩy, rõ ràng Cù Minh Tuyết đã chuẩn bị sẵn cho tình huống xấu nhất.
“Cứ để ở chỗ ta đi.” Thẩm Hi buồn bã nắm chặt lấy tấm lụa, dự định bảo quản cẩn thận sau này đưa cho An Tu Cẩn.
Hai người đi được mấy bước, Lâm Duyên Tường bỗng nói: “Phu nhân, chuyện vào đêm hôm đó là Duyên Tường không phải, xin lỗi ngài, Duyên Tường xin thỉnh tội.” Nói xong, hắn nghiêm trang cúi đầu, ấp một cái lễ với Thẩm Hi.
Thẩm Hi tất nhiên biết hắn nói lỗi gì, tối hôm đó nàng đi chậm, hắn véo nàng một cái. Nàng định mỉm cười, nhưng chuyện hôm nay khiến người không thể nào cười nổi, thở dài nói: “Chuyện nhỏ này ngươi không cần để trong lòng. Ngươi đã cứu mạng ta, tính ra ta nợ ân tình của ngươi mới đúng.”
Lâm Duyên Tường nghe được nàng nói tha thứ hắn, trong lòng nhẹ nhõm. Hắn im lặng một lát, bỗng nhiên quỳ gối xuống, dập đầu với nàng.
Thẩm Hi khiếp sợ, vội nâng hắn đứng lên: “Ngươi làm gì vậy? Mau đứng lên đi.” Chỉ một cái véo thôi mà, sao làm nghiêm trọng thế?
Lâm Duyên Tường không dám nhìn nàng, kiên quyết quỳ ở đó, nói: “Phu nhân, ta có thể cầu xin ngài một việc được không?”
Thẩm Hi bất ngờ, từ khi đến cổ đại, đây là lần đầu nàng được người ta cầu xin trịnh trọng như vậy, khiến nàng luống cuống không biết làm sao. Nhưng nàng chỉ là một người phụ nữ nội trợ bình thường, theo lí thuyết thì hắn không có lí do gì để cầu xin nàng, như vậy chỉ có thể là hắn muốn xin Hoắc Trung Khê giúp gì đó. Một khi có dính dáng tới Hoắc Trung Khê, Thẩm Hi luôn rất dè dặt, nàng cẩn thận hỏi: “Chuyện gì?”
Chòm râu rậm rạp của ;Duyên Tường run rẩy hồi lâu, hắn mới run giọng nói: “Thực sự ta không có mặt mũi gì để cầu xin ngài, nhưng việc này liên quan đến tính mạng của các huynh đệ ta, xin phu nhân tha thứ Lâm mỗ lỗ mãng. Vào hồi năm kia, Trung Dũng Nghĩa Vương gia đi tới Biên thành, điều tra chuyện bọn ta lừa gạt tiền tài, giết hại nạn dân. Các quan viên trong quân có liên đới đều bị xử quyết đương trường, mà các binh lính bình thường tội nhẹ hơn thì bị tước quân tịch làm quân nô, lưu đày đi các nơi.” Nói đến chuyện làm quân nô, khuôn mặt Lâm Duyên Tường hiện lên nỗi thống khổ rõ ràng, một người nam tử hán kiên nghị lại chảy nước mắt, tuyệt đối không phải giả vờ.
Tuy Thẩm Hi không hiểu quân nô là làm gì, nhưng xem mặt chữ có thể đoán được là nô lệ trong quân. Trong xã hội này có nô lệ, nô tài, chuyện này nàng đã biết từ lâu. Hồi mới đến Thượng Ngư thôn nàng cũng có nghe Tam thúc công nhắn nhở nếu không làm hộ tạ sẽ bị người ta bắt đi làm nô tài, chuyện này không có người quản. Nàng không biết chuyện Anh Kháng Đào đi Biên thành điều tra chuyện này, thực tế là sau khi nàng rời khỏi nơi đó, tiềm thức nàng không muốn nhớ đến đoạn năm tháng kinh tâm động phách đó nữa, quá nhiều nỗi đau, mất mát đã xảy ra, lại liên lụy đến chính quyền cai trị nên nàng sợ nếu kể ra sẽ đưa tới họa sát thân, chỉ khi gặp lại Hoắc Trung Khê nàng mới dám nhớ lại mà kể cho hắn nghe một lần. Nàng nhớ rõ lời hắn nói đêm đó: Nỗi khổ nàng phải chịu, ta sẽ giúp nàng đòi lại. Ân huệ nàng được nhận, ta cũng thay nàng trả.
Hoắc Trung Khê luôn là người nói được thì làm được, vì thế hắn báo ân, nhận Trịnh Gia Thanh làm đệ tử; thay nàng báo thù, giao cho Anh Kháng Đào xử lí chuyện Biên thành. Nàng biết chắc chắc Hoắc Trung Khê rất chán ghét quân coi giữ biên thành, vì bọn họ mà hắn suýt nữa mất vợ con, giết chết người vô tội. Chắc chắc chuyện này hắn đã giao cho Anh Kháng Đào xử lí, nhưng chi tiết kế hoạch có lẽ là do Anh Kháng Đào và An Tu Thận thương lượng rồi giải quyết.
Sau khi chung sống cùng Hoắc Trung Khê, Thẩm Hi mới biết được vị trí của Võ thần quan trọng đến mức nào. Lần trước An Tu Thận đưa cho nàng 3 ngàn vạn lượng bạc, con số khổng lồ như vậy nhưng Hoắc Trung Khê vẫn điềm nhiên, nói rằng đây chỉ là thu nhập của Trung Nhạc quốc trong vòng 1 hay 2 năm gì đó, chỉ với số tiền này đổi lại được sự bảo vệ của Võ thần suốt sinh thời, chuyện hời này không phải nước nào cũng có.
Thẩm Hi nhớ đến trong lịch sử cận đại, triều nhà Thanh thua trận trước liên quân 8 nước, kí một đống hiệp ước bất bình đẳng, lại còn phải bồi thường một khoản chi phí lớn, trả theo từng quý. Nếu khi đó có người nói có thể đánh đuổi giặc ngoại xâm và bảo vệ triều đình với cái giá gấp đôi khoản bồi thường, chắc chắn triều đình sẽ không ngần ngại đưa tiền ngay lập tức. Không đưa tiền thì diệt quốc, đưa tiền thì cả đời bình an, chuyện này cho kẻ ngốc đến quyết định cũng biết.
Địa vị của Hoắc Trung Khê cao hơn Hoàng đế, cho nên những việc mà hắn đã phân phó chắc chắn không kẻ nào dám trái lời, còn phải liều mình gắng sức hoàn thành thỏa đáng. Chuyện ở Biên thành cũng vậy, dù An Tu Thận có nghĩ chuyện này lớn nhỏ không quan trọng đi chăng nữa, hắn cũng phải nghiêm túc xử lí chuyện này để Kiếm thần đại nhân vui lòng, bởi vì đây không phải chỉ là một nhiệm vụ mà còn là một cơ hội để lấy lòng Kiếm thần.
Lâm Duyên Tường đã khóc đến thật thương tâm, nước mắt hắn chảy ra đã đông thành băng, một chốc sau chòm râu của hắn đã tăng thêm vô số vụn băng bám vào. Nhớ đến đồng đội ngày xưa giờ người chết người sung nô, chỉ có mình hắn vì một suy nghĩ công bằng cuối cùng mà có thể thoát thân thăng chức, vị hán tử này không cầm nổi nước mắt. Nhìn đến tình cảnh của các huynh đệ, hắn không có một chút vui mừng vì được tha mạng hay thăng chức, chỉ đau đáu tìm cách xin tha cho họ. Nhiều đêm hắn từng trằn trọc, hối hận vì sao khi đó mềm lòng mà thả Kiếm thần phu nhân đi, nếu không có nữ nhân kia, các huynh đệ sẽ không phải chịu tội, thậm chí vẫn giữ được mạng sống. Tuy Lâm Duyên Tường biết hắn đang giận cá chém thớt, nữ nhân kia là vô tội, nhưng hắn không thể, vì những người đang chịu khổ kia là huynh đệ của hắn, cùng nhau nhặt lại mạng sống trên chiến trường, so huynh đệ ruột thịt còn thân hơn!
Mấy năm nay hắn không ngừng tìm cách luồn cúi xin giảm tội cho họ, nhưng chuyện này do chính tay Trung Dũng Nghĩa Vương gia xử lí, vị Vương gia này quyền cao chức trọng, không ai dám đắc tội mà nhúng tay vào chuyện này, nên tất cả cố gắng của hắn đều là uổng phí. Hơn nữa người đã bị xăm dấu Nô trừ phi lập được công lớn hay có sắc lênh đặc xá mới được tha, không thì cả đời này, con cháu đời sau vẫn sẽ vĩnh viễn làm nô lệ.
Người khác không giúp được, nhưng Lâm Duyên Tường biết rõ gút mắc trong chuyện này, nếu xin được Kiếm thần phu nhân tha thứ, chỉ cần nàng nói một lời, các huynh đệ sẽ được thoát tội. Cho nên khi nghe được tin Bệ hạ muốn sai người đến rừng rậm truyền tin cho Kiếm thần đại nhân, hắn lập tức nghĩ mọi cách nhận được nhiệm vụ này, các huynh đệ của hắn phụ thuộc hết vào hành trình này.
Thẩm Hi nhìn người nam nhân đang quỳ khóc trước mặt, Thẩm Hi trong lòng rối bời. Nói là tha thứ, vậy những bá tính bị bọn họ hại chết, ai tha cho những con người khốn khổ đó? Trong thời buổi rối ren kia, quân trông giữ Biên thành chính là hi vọng cuối cùng của nạn dân, tuy tiền tài đưa cho bọn họ có thể là tích tụ cả đời, nhưng đó là con đường sống cuối cùng, để rồi khi tưởng chừng đã tìm được đường sống, họ lại bị giết chết bởi những người mở đường giúp mình. Mỗi khi nhớ đến đêm đen đó, những tiếng kêu thảm thiết của từng người lại tràn ngập trong tâm trí nàng, những vệt máu tươi bị mặt đất vùi lấp như xuyên thấu qua lớp đất mỏng manh bắn thẳng vào tầm mắt nàng.
Nếu không tha thứ, có lẽ trong số bọn họ có người vẫn còn lương tri không tham dự vào việc này, giờ bị liên lụy. Huống chi người cầm đầu đã chết, đối với những binh lính kia, có lẽ trừng phạt như vậy là quá nặng.
Chuyện này phải làm sao, Thẩm Hi không biết, nàng hoang mang nhìn Lâm Duyên Tường đang quỳ trước mặt, không thốt nổi một lời.
Hoắc Trung Khê yên lặng một chốc, nói: “Đợi An Tu Cẩn đến rồi tính sau.”
Lâm Duyên Tường thấy hai phu thê đã thương lượng xong, mới mở miệng hỏi: “Phu nhân, vậy cái này đặt để đâu bây giờ?”
Dù thế nào thì đây cũng là vật âm, không nên đặt để chỗ sáng, hơn nữa bây giờ trong nhà còn có bọn trẻ, nhất là Hoắc Hiệp nghịch như khỉ, lỡ va chạm hay làm đổ thì không hay, cần phải tìm một chỗ để tốt mới được. Thẩm Hi nghĩ nghĩ, nói với Lâm Duyên Tường: “Đưa cho ta đi, ta mang đi để ở chỗ gian nhà gỗ để trống khi là được.”
Lâm Duyên Tường không dám đưa thẳng tay nải cho nàng cầm: “Phu nhân, dù sao đây cũng là vật điềm xấu, để ta đưa qua là được, phu nhân đừng chạm.”
Vật điềm xấu...
Thẩm Hi không thể tưởng tượng Cù Minh Tuyết khí khái xinh đẹp khi trước giờ đã thành một cái hộp mang điềm xấu, nhưng Lâm Duyên Tường lại cho rằng như vậy, mà nàng lại không có cách nào phản bác. Nàng không chối từ, yên lặng dẫn Lâm Duyên Tường đi sang nhà gỗ.
Mấy gian nhà gỗ kia đã để hoang từ khi An Tu Cẩn với Quy Hải Mặc rời đi, bây giờ gian nào cũng trống rỗng, tro bụi và mạng nhện giăng đầy.
Thẩm Hi nghĩ cứ để tay nải ở chỗ này, lỡ ngày nào Hoắc Hiệp nghịch ngợm chui vào đây cũng thấy được, với thiên tính tò mò của thằng bé thể nào nó cũng đụng vào. Để ngừa chuyện này phát sinh, nàng bảo Lâm Duyên Tường đặt tay nải vào trong ngăn tủ, định khóa lại tủ cho chắc ăn nhưng trong nhà cũng không có khóa, nàng chỉ đành tìm một mảnh vải đắp lên để che.
Đặt xong tay nải, Thẩm Hi với Lâm Duyên Tường đi ra ngoài, nàng lại buộc chặt cánh cửa rồi hai người mới trở lại.
“Hai người họ chết như thế nào?”
Thẩm Hi biết mưu triều soán vị chỉ có kết cục là chết, nhưng không biết hai mẹ con họ chết trong loạn quân hay là An Tu Thận hạ lệnh.
Lâm Duyên Tường trả lời: “Bệ hạ không giết bọn họ, là bọn họ uống thuốc độc tự sát.”
Thẩm Hi “Ừ” nhẹ một tiếng, kết quả này cũng không ngoài ý muốn. Từ vị trí nắm quyền cho đến tù nhân, một người cao ngạo như Cù Minh Tuyết chắc chắn sẽ không chấp nhận nổi, dù An Tu Thận có tha chết, nàng ta cũng không có dũng khí mà sống tiếp.
Lâm Duyên Tường thấy Thẩm Hi có vẻ quan tâm đến hai mẹ con Bình An Vương phi, kể tiếp: “Bọn họ binh biến, nhưng quân lính đánh vào Hoàng cung không thành công, Vương phi và thế tử nhận được tin binh bại liền uống thuốc độc đã chuẩn bị sẵn, bên cạnh để lại một tờ thư tuyệt mệnh. Bệ hạ khiến ta mang theo, mời phu nhân xem qua.” Nói xong, hắn lấy từ trong lồng ngực ra một tấm lụa trắng đưa cho Thẩm Hi.
Thẩm Hi mở ra xem, tấm lụa chỉ to bằng cái khăn tay bình thường, trong đó viết hai hàng chữ nhỏ chỉnh tề: Tro cốt đưa cho Vương gia, táng ở ven bờ suối trong rừng rậm. Tấm lụa được cắt chỉnh tề, hai hàng chữ quyên tú không một nét run rẩy, rõ ràng Cù Minh Tuyết đã chuẩn bị sẵn cho tình huống xấu nhất.
“Cứ để ở chỗ ta đi.” Thẩm Hi buồn bã nắm chặt lấy tấm lụa, dự định bảo quản cẩn thận sau này đưa cho An Tu Cẩn.
Hai người đi được mấy bước, Lâm Duyên Tường bỗng nói: “Phu nhân, chuyện vào đêm hôm đó là Duyên Tường không phải, xin lỗi ngài, Duyên Tường xin thỉnh tội.” Nói xong, hắn nghiêm trang cúi đầu, ấp một cái lễ với Thẩm Hi.
Thẩm Hi tất nhiên biết hắn nói lỗi gì, tối hôm đó nàng đi chậm, hắn véo nàng một cái. Nàng định mỉm cười, nhưng chuyện hôm nay khiến người không thể nào cười nổi, thở dài nói: “Chuyện nhỏ này ngươi không cần để trong lòng. Ngươi đã cứu mạng ta, tính ra ta nợ ân tình của ngươi mới đúng.”
Lâm Duyên Tường nghe được nàng nói tha thứ hắn, trong lòng nhẹ nhõm. Hắn im lặng một lát, bỗng nhiên quỳ gối xuống, dập đầu với nàng.
Thẩm Hi khiếp sợ, vội nâng hắn đứng lên: “Ngươi làm gì vậy? Mau đứng lên đi.” Chỉ một cái véo thôi mà, sao làm nghiêm trọng thế?
Lâm Duyên Tường không dám nhìn nàng, kiên quyết quỳ ở đó, nói: “Phu nhân, ta có thể cầu xin ngài một việc được không?”
Thẩm Hi bất ngờ, từ khi đến cổ đại, đây là lần đầu nàng được người ta cầu xin trịnh trọng như vậy, khiến nàng luống cuống không biết làm sao. Nhưng nàng chỉ là một người phụ nữ nội trợ bình thường, theo lí thuyết thì hắn không có lí do gì để cầu xin nàng, như vậy chỉ có thể là hắn muốn xin Hoắc Trung Khê giúp gì đó. Một khi có dính dáng tới Hoắc Trung Khê, Thẩm Hi luôn rất dè dặt, nàng cẩn thận hỏi: “Chuyện gì?”
Chòm râu rậm rạp của ;Duyên Tường run rẩy hồi lâu, hắn mới run giọng nói: “Thực sự ta không có mặt mũi gì để cầu xin ngài, nhưng việc này liên quan đến tính mạng của các huynh đệ ta, xin phu nhân tha thứ Lâm mỗ lỗ mãng. Vào hồi năm kia, Trung Dũng Nghĩa Vương gia đi tới Biên thành, điều tra chuyện bọn ta lừa gạt tiền tài, giết hại nạn dân. Các quan viên trong quân có liên đới đều bị xử quyết đương trường, mà các binh lính bình thường tội nhẹ hơn thì bị tước quân tịch làm quân nô, lưu đày đi các nơi.” Nói đến chuyện làm quân nô, khuôn mặt Lâm Duyên Tường hiện lên nỗi thống khổ rõ ràng, một người nam tử hán kiên nghị lại chảy nước mắt, tuyệt đối không phải giả vờ.
Tuy Thẩm Hi không hiểu quân nô là làm gì, nhưng xem mặt chữ có thể đoán được là nô lệ trong quân. Trong xã hội này có nô lệ, nô tài, chuyện này nàng đã biết từ lâu. Hồi mới đến Thượng Ngư thôn nàng cũng có nghe Tam thúc công nhắn nhở nếu không làm hộ tạ sẽ bị người ta bắt đi làm nô tài, chuyện này không có người quản. Nàng không biết chuyện Anh Kháng Đào đi Biên thành điều tra chuyện này, thực tế là sau khi nàng rời khỏi nơi đó, tiềm thức nàng không muốn nhớ đến đoạn năm tháng kinh tâm động phách đó nữa, quá nhiều nỗi đau, mất mát đã xảy ra, lại liên lụy đến chính quyền cai trị nên nàng sợ nếu kể ra sẽ đưa tới họa sát thân, chỉ khi gặp lại Hoắc Trung Khê nàng mới dám nhớ lại mà kể cho hắn nghe một lần. Nàng nhớ rõ lời hắn nói đêm đó: Nỗi khổ nàng phải chịu, ta sẽ giúp nàng đòi lại. Ân huệ nàng được nhận, ta cũng thay nàng trả.
Hoắc Trung Khê luôn là người nói được thì làm được, vì thế hắn báo ân, nhận Trịnh Gia Thanh làm đệ tử; thay nàng báo thù, giao cho Anh Kháng Đào xử lí chuyện Biên thành. Nàng biết chắc chắc Hoắc Trung Khê rất chán ghét quân coi giữ biên thành, vì bọn họ mà hắn suýt nữa mất vợ con, giết chết người vô tội. Chắc chắc chuyện này hắn đã giao cho Anh Kháng Đào xử lí, nhưng chi tiết kế hoạch có lẽ là do Anh Kháng Đào và An Tu Thận thương lượng rồi giải quyết.
Sau khi chung sống cùng Hoắc Trung Khê, Thẩm Hi mới biết được vị trí của Võ thần quan trọng đến mức nào. Lần trước An Tu Thận đưa cho nàng 3 ngàn vạn lượng bạc, con số khổng lồ như vậy nhưng Hoắc Trung Khê vẫn điềm nhiên, nói rằng đây chỉ là thu nhập của Trung Nhạc quốc trong vòng 1 hay 2 năm gì đó, chỉ với số tiền này đổi lại được sự bảo vệ của Võ thần suốt sinh thời, chuyện hời này không phải nước nào cũng có.
Thẩm Hi nhớ đến trong lịch sử cận đại, triều nhà Thanh thua trận trước liên quân 8 nước, kí một đống hiệp ước bất bình đẳng, lại còn phải bồi thường một khoản chi phí lớn, trả theo từng quý. Nếu khi đó có người nói có thể đánh đuổi giặc ngoại xâm và bảo vệ triều đình với cái giá gấp đôi khoản bồi thường, chắc chắn triều đình sẽ không ngần ngại đưa tiền ngay lập tức. Không đưa tiền thì diệt quốc, đưa tiền thì cả đời bình an, chuyện này cho kẻ ngốc đến quyết định cũng biết.
Địa vị của Hoắc Trung Khê cao hơn Hoàng đế, cho nên những việc mà hắn đã phân phó chắc chắn không kẻ nào dám trái lời, còn phải liều mình gắng sức hoàn thành thỏa đáng. Chuyện ở Biên thành cũng vậy, dù An Tu Thận có nghĩ chuyện này lớn nhỏ không quan trọng đi chăng nữa, hắn cũng phải nghiêm túc xử lí chuyện này để Kiếm thần đại nhân vui lòng, bởi vì đây không phải chỉ là một nhiệm vụ mà còn là một cơ hội để lấy lòng Kiếm thần.
Lâm Duyên Tường đã khóc đến thật thương tâm, nước mắt hắn chảy ra đã đông thành băng, một chốc sau chòm râu của hắn đã tăng thêm vô số vụn băng bám vào. Nhớ đến đồng đội ngày xưa giờ người chết người sung nô, chỉ có mình hắn vì một suy nghĩ công bằng cuối cùng mà có thể thoát thân thăng chức, vị hán tử này không cầm nổi nước mắt. Nhìn đến tình cảnh của các huynh đệ, hắn không có một chút vui mừng vì được tha mạng hay thăng chức, chỉ đau đáu tìm cách xin tha cho họ. Nhiều đêm hắn từng trằn trọc, hối hận vì sao khi đó mềm lòng mà thả Kiếm thần phu nhân đi, nếu không có nữ nhân kia, các huynh đệ sẽ không phải chịu tội, thậm chí vẫn giữ được mạng sống. Tuy Lâm Duyên Tường biết hắn đang giận cá chém thớt, nữ nhân kia là vô tội, nhưng hắn không thể, vì những người đang chịu khổ kia là huynh đệ của hắn, cùng nhau nhặt lại mạng sống trên chiến trường, so huynh đệ ruột thịt còn thân hơn!
Mấy năm nay hắn không ngừng tìm cách luồn cúi xin giảm tội cho họ, nhưng chuyện này do chính tay Trung Dũng Nghĩa Vương gia xử lí, vị Vương gia này quyền cao chức trọng, không ai dám đắc tội mà nhúng tay vào chuyện này, nên tất cả cố gắng của hắn đều là uổng phí. Hơn nữa người đã bị xăm dấu Nô trừ phi lập được công lớn hay có sắc lênh đặc xá mới được tha, không thì cả đời này, con cháu đời sau vẫn sẽ vĩnh viễn làm nô lệ.
Người khác không giúp được, nhưng Lâm Duyên Tường biết rõ gút mắc trong chuyện này, nếu xin được Kiếm thần phu nhân tha thứ, chỉ cần nàng nói một lời, các huynh đệ sẽ được thoát tội. Cho nên khi nghe được tin Bệ hạ muốn sai người đến rừng rậm truyền tin cho Kiếm thần đại nhân, hắn lập tức nghĩ mọi cách nhận được nhiệm vụ này, các huynh đệ của hắn phụ thuộc hết vào hành trình này.
Thẩm Hi nhìn người nam nhân đang quỳ khóc trước mặt, Thẩm Hi trong lòng rối bời. Nói là tha thứ, vậy những bá tính bị bọn họ hại chết, ai tha cho những con người khốn khổ đó? Trong thời buổi rối ren kia, quân trông giữ Biên thành chính là hi vọng cuối cùng của nạn dân, tuy tiền tài đưa cho bọn họ có thể là tích tụ cả đời, nhưng đó là con đường sống cuối cùng, để rồi khi tưởng chừng đã tìm được đường sống, họ lại bị giết chết bởi những người mở đường giúp mình. Mỗi khi nhớ đến đêm đen đó, những tiếng kêu thảm thiết của từng người lại tràn ngập trong tâm trí nàng, những vệt máu tươi bị mặt đất vùi lấp như xuyên thấu qua lớp đất mỏng manh bắn thẳng vào tầm mắt nàng.
Nếu không tha thứ, có lẽ trong số bọn họ có người vẫn còn lương tri không tham dự vào việc này, giờ bị liên lụy. Huống chi người cầm đầu đã chết, đối với những binh lính kia, có lẽ trừng phạt như vậy là quá nặng.
Chuyện này phải làm sao, Thẩm Hi không biết, nàng hoang mang nhìn Lâm Duyên Tường đang quỳ trước mặt, không thốt nổi một lời.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook