Chung Thái Phó
-
Quyển 1 - Chương 5
Nửa tháng trôi qua, thân thể Đại vương chuyển biến tốt hơn, dẫn theo vài người tùy tùng vào thiên lao tra xét.
Thiên lao được xây dựng trên mặt đất nên không âm u lạnh lẽo như địa lao, nhưng cũng rất u ám ẩm ướt, khiến người đặt chân vào liền vô cùng ngột ngạt.
Chung Dật ngồi trên giường đá, nhắm hai mắt dựa vào tường, nghe tiếng bước chân mới chậm rãi mở mắt ra, thấy người đến thì cử động cơ thể, nhưng không thể đứng lên hành lễ.
Đại vương trẻ tuổi cũng không để ý, ánh mắt sai người mở cửa lao, rồi hơi khom người đi vào.
Lúc đó, Lương đình úy đã thông tri tội trạng Chung Dật trực tiếp thú nhận tư thông với địch cho Đại vương phán quyết. Thời gian trôi qua nhiều ngày, hai người sư trò mặt đối mặt nhìn nhau, nhưng lại chẳng biết bắt đầu nói từ đâu, đều chỉ trầm mặc không nói gì.
(*) Chữ “úy” ở đây chỉ các quan coi ngục và bắt trộm giặc thời xưa, như “đình úy”, “huyện úy”.
Kế tiếp, vẫn là Đại vương mở miệng trước.
“Tiên sinh. Vài ngày trước truyền ra tin Thái tử Tề quốc đã bệnh chết, Lý Hủ được lập ngôi Thái tử Tề quốc, chờ lão Tề vương bệnh chết sẽ kế vị lên làm tân Tề vương.”
“…” Chung Dật nghe vậy nghĩ rằng Đại vương đến đây trách cứ mình, không phát ra tiếng nào, cúi thấp đầu xuống.
Đại vương mất hứng ngồi xuống bên giường đá, quay đầu lại kéo ra một nụ cười: “Tiên sinh. Hai người học trò đều là vương… Trong lòng tiên sinh, thiên vị cho Thù nhi nhiều hơn, hay là hướng về Tề vương nhiều hơn?”
Chung Dật chỉ lắc đầu.
Cái gì mà hai học trò đều là vương, chuyện như thế xưa nay y chưa từng nghĩ đến, đã đến nước này rồi, chỉ có thể cảm thán tạo hóa trêu người.
Vành mắt Đại vương đỏ ửng, giật giật khóe môi, rồi lại nở nụ cười: “Tiên sinh. Tiên sinh có biết quả nhân từng kính ngưỡng tiên sinh đến thế nào. Phụ vương mẫu phi sinh dưỡng quả nhân, nhưng người quả nhân kính trọng nhất, tiên sinh trước giờ chưa từng xếp thứ hai… Nhớ lần đầu gặp ngài, quả nhân mới 10 tuổi, bướng bỉnh như thế, vô tri như thế… Là tiên sinh ngài không ngại ngần lần lượt uốn nắn phẩm hạnh, ấm áp khuyên răn mới có quả nhân như bây giờ leo lên vương vị còn có thể một mình chống đỡ một phương. Huynh hữu đệ cung, thiện chí giúp người… Thân hiền thần, xa tiểu nhân. Nhất cử nhất động của quả nhân, tất cả đều phụ thuộc vào ý nguyện của tiên sinh, nhưng tiên sinh…”
“Tại sao ngài…” Nói đến đây, Đại vương bỗng rơi nước mắt, giọng hắn khẽ run, tạm dừng lại, hồi lâu mới thở ra hơi, “Là quả nhân người học trò này làm chưa đủ tốt? Hay Dần quốc làm lòng ngài mất hứng.”
Không phải. Đều không phải.
Nửa tháng này, tự trách lẫn hối hận trong lòng Chung Dật không thể đầy thêm nữa, nhưng thấy Đại vương như thế trước mặt mình y lại càng đau lòng không chịu nổi. Y không dám mở miệng biện giải một câu nào cho bản thân, chỉ có thể giơ tay lên cẩn thận lau nước mắt cho Đại vương.
Người thiếu niên trước mặt tự kìm lại những giọt nước mắt, không còn xem mình là vương giả nữa, hắn mím môi thật chặt, không biết nói gì thêm, nhích lại gần bên người Chung Dật, run rẩy tựa sấp lên bả vai của tiên sinh mình: “Tiên sinh à –“
Ôm nhau thật chặt tựa như trở lại với những năm tháng phạm lỗi rồi làm nũng. Song hai người đều hiểu, thời gian đã trôi đi thì không cách nào trở về được nữa, những khoảng thời gian đó, vĩnh viễn cũng không tìm về được.
Thiếu niên ôm sát người y, muốn nhấc y rời khỏi giường đá, nhưng nghe thấy tiếng kêu đau đớn vang lên bên tai, ngạc nhiên tỉnh ngộ tiên sinh của mình đã chảy mồ hôi ròng ròng. Tâm hắn đại loạn, luống cuống tay chân xốc vạt áo tiên sinh lên, mới phát hiện dưới mắt cá chân chỗ bị kẹp đã bị thương ra từng lớp máu.
“Tiên sinh… Ta… Ta không phải…”
Mắt Chung Dật mờ mịt, không hề có ý nghĩ trách cứ, chỉ vươn tay lần nữa ôm lấy thiếu niên, nhẹ nhàng vỗ vỗ lưng hắn, lần đầu tiên y mở miệng.
“Thù… Tiên sinh tự biết tội chết, nhưng đây là một lần cuối cùng, tiên sinh còn có chút chuyện muốn dạy ngài.”
“Mời tiên sinh nói…”
“Dần quốc rộng lớn, ngang dọc vạn dặm, từ vương hầu quan viên cho đến lê dân bách tính, hạnh phúc hay bất hạnh đều được quyết định bởi suy nghĩ của Đại vương. Nếu dùng chế độ trọng điển (*), bách tính phẫn nộ nhưng không dám lên tiếng, oán hận chất chứa, lại càng không biết lòng người hướng về chốn nào… Mạnh Tử từng nói, ba triều đại được thiên hạ, nhờ làm điều nhân; mất thiên hạ, vì làm điều bất nhân… Mong Đại vương thi hành nhân chính, lấy đức thu phục lòng người.” Nói đến đây, Chung Dật dừng lại, cụp mắt nói, “Tiên sinh tất nhiên có tội, nhưng mong bệ hạ nhớ tới ngày xưa mà ban một chén rượu độc, một dải lụa trắng, xin đừng liên lụy đến người khác trong Chung gia… Hậu sinh… không cần phải chịu lấy đau đớn không thuộc về mình…”
(*) Trọng điển: Luật hình nghiêm khắc, tra tấn tàn nhẫn.
Khi Tiên vương còn sống, Chung Dật tương đối kín đáo phê bình trọng điển của Lương đình úy, lúc trước dựa vào thân thế bối cảnh Chung gia, Lương Khâm không thể động vào Chung Dật, giờ đây đạt được cơ hội, đương nhiên hận không thể dùng hết một lượt các loại chơi đùa trên người y. Song ý chí Chung Dật lại quá kiên định, tuy vậy thân thể trước sau gì cũng chỉ là của văn nhân, dưới sự thống khổ của tra tấn, đừng nói tội tư thông với địch bán nước, đồng mưu phản bội, dù có mang thêm tội danh khác cũng chỉ có thể nhận tội.
Nghe thấy rượu độc lụa trắng, Đại Vương sớm đã lấy nước mặt rửa mặt, không biết có nghe lọt vào tai vế đằng sau hay không, hắn chỉ liên tục lắc đầu: “Không… Tiên sinh. Ta không thể…”
“Bao nhiêu lần quả nhân phạm lỗi, ngài cũng chưa từng nghiêm túc trách phạt. Ngài nhận sai rồi… quả nhân sẽ không truy cứu nữa. Được không?”
Nghe lời nói thiên vị như thế, mũi Chung Dật cay cay, nhưng không thể đáp ứng, đành lắc đầu. Nhưng thiếu niên là kiểu tính tình người ngoài không ngăn nổi, bỗng tránh khỏi tay y, phất tay áo bước ra ngoài cửa lao.
Mấy ngày sau đó, Lương đình úy dẫn theo vài người, châm biếm mấy câu rồi mở cửa lao. Chân Chung Dật bị tổn thương nên không thể nào cất bước, mấy người lính canh ngục đỡ y ra khỏi thiên lao, Nhiếp đại nhân đang cầm vài vò rượu chờ ở bên ngoài, vội vàng cùng tùy tùng đỡ lấy Chung Dật.
Chung Dật không ngờ đời này còn có thể tiếp tục nhìn thấy ánh mặt trời, y quả thực ngổn ngang trăm mối cảm xúc, Nhiếp đại nhân dìu y lên xe ngựa, liền ôm vò rượu lên theo.
Xe ngựa đi mãi cho đến trước cửa Chung phủ mới dừng lại, Chung Dật được Nhiếp Tư Viễn dìu mới miễn cưỡng bò xuống được xe ngựa, một mình Hỉ Nguyệt từ trong phủ ra nghênh đón, cùng Nhiếp đại nhân dìu Chung Dật đi vào trong phủ.
Hỉ Nguyệt thấy chủ nhân của mình vốn luôn rộng mở con đường làm quan nay lại biến thành bộ dạng thế này, cả đường đi vành mắt ửng đỏ, mắng chửi cái tên A Bảo là loại vong ân phụ nghĩa. Chung Dật nghe vào tai không biết phải nói sao, chỉ có thể hỏi dò tình trạng trong phủ gần đây.
“Những ngày trước quan phủ niêm phong Chung phủ. Nữ đầu bếp đều đã trở về nhà mình. Hỉ Nguyệt không nhà để về, vẫn luôn ở lại gần đây chờ lão gia trở về. Lão gia, bây giờ vật đổi sao dời, có gọi bọn họ quay lại hay không?”
Chung Dật lắc đầu: “Không cần.” Tuy lần này y thoát tội, nhưng cũng lột bỏ tước vị chức quan, sau này không hẳn cung ứng nổi khoản chi phí lớn như thế trong phủ, suy nghĩ một hồi, lại nói tiếp, “Hỉ Nguyệt, ngươi có bằng lòng lưu lại không?”
“Lão gia nói cái gì vậy. Hỉ Nguyệt từ nhỏ chính là hạ nhân của Chung phủ, lão gia phu nhân đối đãi với Hỉ Nguyệt ơn trọng như núi, lão gia ở nơi nào, Hỉ Nguyệt liền theo đến đó.”
Nhiếp đại nhân đặt vò rượu xuống, mỉm cười nhìn Hỉ Nguyệt, ra hiệu nàng cầm đi. Sau đó mới nghiêng đầu nói với Chung Dật: “Chung đại nhân, nếu như trong phủ cần nhân thủ, Nhiếp phủ có thể phái vài người lại đây.”
Chung Dật vẫn lắc đầu, Nhiếp đại nhân không nói thêm nữa, ra khỏi phòng lấy một đôi gậy, áp vào trong tay Chung Dật: “Thử xem? Mấy ngày nay đừng đi lại nhiều, chờ thêm chút thời gian, chắc sẽ có thể khỏi hẳn.”
“Tư Viễn… Cảm ơn ngươi.”
“Khách khí cái gì. Trước đây hở ra là đến tìm ta đòi rượu, sao không thấy ngươi khách khí?”
Chung Dật cụp mắt cười cười, giơ tay cầm lấy gậy, thử đứng dậy dưới sự dìu đỡ của Nhiếp đại nhân. Gậy chống không thuận tay, thử đi mấy bước, ra khỏi phòng quan sát, thấy những đám mây dày đặc đè lên bầu trời u ám tối sầm.
Chung gia từ khi khai quốc đến nay, trên chốn quan lại ở triều đình Dần quốc nắm địa vị hết sức quan trọng, giờ đây truyền lại cho Chung Dật, chính là đời sau của Chung gia, y thất thế trong triều tạo thành ảnh hưởng vô cùng lớn với những con thứ ở riêng. Chung gia vốn luôn quyết định tuyển chọn vương phi cũng bị liên lụy, chuyện tiến cung cũng bị gác lại toàn bộ. Mà việc này đều do một tay Chung Dật tạo thành, nên những người khác của Chung gia khá úp mở trách móc, dần dần đoạn tuyệt thăm viếng.
Trong đại lao bị kẹp tổn thương xương chân, Chung Dật dưỡng thương nửa năm nhưng chẳng chuyển biến tốt, cất bước đi vẫn phải chống gậy. Cũng may gia cảnh Chung Dật sung túc, sau khi giảm thiểu người làm trong phủ, dựa vào bán tranh chữ cũng sơ sơ đủ duy trì kế sinh nhai.
Trong lúc ấy, y ngẫu nhiên nghe nói Tề vương bệnh chết, người kế vị duy nhất là Thái tử Lý Hủ lên kế vị, triều cương vững chắc, biên cương Tề quốc phồn thịnh một vùng.
Trái lại Dần quốc lại không lớn mạnh bằng lúc trước. So với chuyện đi đứng của Chung Dật, điều thật sự làm tim phổi đau đớn là Dần vương trẻ tuổi.
Từ sau ngày hôm đó, thân thể Đại vương ngày càng sa sút, thường vì bệnh yếu mà không thể không hoãn lại buổi lâm triều. Đại vương không có hậu duệ, nếu bỗng nhiên băng hà, không biết trong triều sẽ rối ren thế nào, Đô thành loan truyền tá lả, ngay cả bách tính nói chung cũng đều lo lắng căng thẳng.
Chèo chống tình trạng quẫn bách thế này được 3 năm, 3 năm sau lúc lâm triều Đại vương bỗng liên tục ho ra máu, các thái y dồn dập chạy đến tẩm cung, nhưng không thể nào xoay chuyển đất trời.
Cái ngày Đô thành bắt đầu một trận tuyết mùa đông lớn nhất, Chung Dật chống gậy đi ra khỏi phòng, Hỉ Nguyệt thất kinh đứng ở một bên. Thái giám nhún vai khom người đứng trong tiền viện, thấy Chung Dật đi ra khỏi phòng, lập tức vỗ vỗ tay áo quỳ một chân xuống, nhỏ giọng nói: “Chung đại nhân, Đại vương cho mời.”
Từ lần phất tay áo bỏ đi ấy đã 3 năm rồi không gặp, Chung Dật nhìn Đại vương nhắm mắt hơi thở mỏng manh trên chiếc giường lớn, còn chưa nghĩ kỹ nên nói câu gì thì vương đã khẽ hé mắt ra. Một tên thái giám tiến lên, Chung Dật giao cây gậy trong tay cho thái giám, dưới sự dìu đỡ của tỳ nữ đi đến mép giường ngồi xuống.
Đại vương bệnh nặng muốn ngồi dậy, nhưng mới cử động thân thể tức thì dẫn đến một cơn ho khan kịch liệt.
Chung Dật giơ tay nhẹ đè lên bả vai hắn: “Thù nhi, nằm đi.”
Dư Thù nghe lời nằm xuống, nhấc mí mắt lên nhìn tiên sinh ngồi bên cạnh, vừa muốn mở miệng lại ho khan tiếp: “Khụ khụ… Gần 3 năm rồi… Chân tiên sinh vẫn không khỏi hẳn sao?”
“Tiên sinh không sao. Còn ngươi…”
“Quả nhân cũng vô phương, chẳng qua mệnh trời sắp đến.”
Chung Dật nhíu mày lại: “Người trẻ tuổi nói lời không may gì vậy, lo dưỡng bệnh cho tốt.”
Nhưng Đại vương lắc đầu cười: “Thân thể quả nhân, khụ… quả nhân hiểu rõ nhất. Tiên sinh… lần này quả nhân làm phiền tiên sinh đến đây là có chuyện quan trọng cần giao phó.”
“Đại vương hà tất thế này?”
“Quả nhân tự biết không còn sống được bao lâu, đã lập chiếu thư rồi. Truyền ngôi cho nhị đệ, Dư Trạm.” Dư Thù vừa nói, vừa nhìn sang bên giường.
Chung Dật theo ánh mắt hắn nhìn qua bản chiếu thư vàng bằng lụa được thái giam đứng cầm ở một bên, biết bệnh tình Đại vương có lẽ đúng thật không thể lạc quan, y đau lòng, chỉ có thể nắm chặt đệm giường lạnh lẽo, không biết phải mở miệng thế nào: “…”
“Trạm nhi mới 12 tuổi, Bác nhi lại càng nhỏ tuổi hơn… Hai đứa bé ngây ngô hồn nhiên, nếu quả nhân còn dư sức cũng sẽ không vứt bỏ rời đi hai ấu đệ. Tiên sinh… tiên sinh cũng biết, quả nhân… thật sự không yên lòng.”
“…”
“Tiên sinh… Trước đây, ngài cũng từng dạy dỗ Trạm nhi 1 năm. Quả nhân đi rồi, hi vọng vào tiên sinh…. tiếp tục chân thành dạy bảo, để tâm nâng đỡ hai ấu đệ của quả nhân.”
Chung Dật nghe hiểu ý tứ trong lời nói, thoáng giật mình nhếch cao lông mày, có chút kinh ngạc không hiểu lắm hỏi: “Tại sao?”
Những chuyện cũ lúc trước mặc dù sẽ bỏ qua, nhưng thân y gánh tội, làm sao có thể kham nổi trọng trách này.
“Tiên sinh. Thù nhi bất hiếu… không thể vâng theo gửi gắm tha thiết của tiên sinh, tạo phúc cho bách tính muôn dân. Không chiến sự, không tranh cãi. Năm mươi có thể mặc bạch y; bảy mươi có thể ăn thịt. Lê dân không đói không nghèo.Tháng ngày đấy… quả nhân không thấy được… Khụ… Quả nhân chỉ hi vọng, điều quả nhân không thể làm, Trạm nhi có thể làm thay quả nhân. Nhưng Trạm nhi thật sự còn quá nhỏ, nếu không có tiên sinh dẫn đường thì làm sao có thể thấu hiểu suy nghĩ mong muốn… trong lòng quả nhân.” Nói xong, Đại vương thần sắc vàng vọt lại ho ra máu không ngừng, thái giám vội vàng tiến lên lau đi, các cung nữ bưng nước ấm đến, nhưng bị Đại vương tránh đi không uống.
“Tiên sinh… đáp ứng quả nhân.”
Chung Dật ngồi bên mép giường, thấy Dư Thù vẫn nhìn mình, một lát sau, cuối cùng cũng trịnh trọng gật đầu. Thấy y đáp ứng, hắn trở tay lại phủ lên bàn tay đang nắm lấy tay mình, chậm rãi nắm chặt tay y, khóe môi nhiễm vệt máu mỉm cười.
Dư Thù dùng chút thời gian ít ỏi còn sót lại nhìn ân sư đã dạy dỗ mình, trên ngón tay lạnh lẽo truyền đến nhiệt độ quen thuộc làm tâm tư hắn lại trở về những chuyện xưa ở Quốc Tử Giám.
Trong những năm tháng ấy… Mỗi một lời nói lời khuyên bảo, tự thân dạy dỗ, cuối cùng, ngày qua ngày vun bón bồi dưỡng bản thân từ một đứa bé vô tri hồ đồ trở thành tương tự như đối phương.
Ba năm nay dù không gặp mặt y, nhưng hắn vẫn có thể cảm nhận được ân sư luôn bên hắn, mỗi một phần linh hồn y đều chảy trong máu hắn.
Nhưng 3 năm thật sự quá lâu, lâu đến mức hắn trở nên khát vọng mà tham lam. Hắn gắng gượng nhấc mí mắt lên, lòng chỉ có duy nhất một ý nghĩ, để quả nhân ngắm tiên sinh thật kỹ, để quả nhân ngắm tiên sinh thêm chút nữa thôi.
Cuối cùng, vẫn không chống đỡ nổi mí mắt nặng trịch, Đại vương trên giường bệnh dần dần nhắm mắt lại.
Chung Dật nhận ra bàn tay đang nắm tay mình bỗng dùng sức siết chặt, rồi từ từ buông ra, y biến sắc vội cầm ngược lại tay hắn, gọi tên hắn. Nhưng không thể nào thức tỉnh người học trò ngoan ngoãn ấy.
Mai nguyệt. Dần vương từ thế, cả nước đại tang. Năm sau, ấu vương Dư Trạm kế vị, Chung Dật đảm nhiệm trọng trách đế sư (thầy của vua).
(*) Mai nguyệt: Chỉ tháng tư âm lịch, cũng phiếm chỉ mùa mưa dầm.
Thiên lao được xây dựng trên mặt đất nên không âm u lạnh lẽo như địa lao, nhưng cũng rất u ám ẩm ướt, khiến người đặt chân vào liền vô cùng ngột ngạt.
Chung Dật ngồi trên giường đá, nhắm hai mắt dựa vào tường, nghe tiếng bước chân mới chậm rãi mở mắt ra, thấy người đến thì cử động cơ thể, nhưng không thể đứng lên hành lễ.
Đại vương trẻ tuổi cũng không để ý, ánh mắt sai người mở cửa lao, rồi hơi khom người đi vào.
Lúc đó, Lương đình úy đã thông tri tội trạng Chung Dật trực tiếp thú nhận tư thông với địch cho Đại vương phán quyết. Thời gian trôi qua nhiều ngày, hai người sư trò mặt đối mặt nhìn nhau, nhưng lại chẳng biết bắt đầu nói từ đâu, đều chỉ trầm mặc không nói gì.
(*) Chữ “úy” ở đây chỉ các quan coi ngục và bắt trộm giặc thời xưa, như “đình úy”, “huyện úy”.
Kế tiếp, vẫn là Đại vương mở miệng trước.
“Tiên sinh. Vài ngày trước truyền ra tin Thái tử Tề quốc đã bệnh chết, Lý Hủ được lập ngôi Thái tử Tề quốc, chờ lão Tề vương bệnh chết sẽ kế vị lên làm tân Tề vương.”
“…” Chung Dật nghe vậy nghĩ rằng Đại vương đến đây trách cứ mình, không phát ra tiếng nào, cúi thấp đầu xuống.
Đại vương mất hứng ngồi xuống bên giường đá, quay đầu lại kéo ra một nụ cười: “Tiên sinh. Hai người học trò đều là vương… Trong lòng tiên sinh, thiên vị cho Thù nhi nhiều hơn, hay là hướng về Tề vương nhiều hơn?”
Chung Dật chỉ lắc đầu.
Cái gì mà hai học trò đều là vương, chuyện như thế xưa nay y chưa từng nghĩ đến, đã đến nước này rồi, chỉ có thể cảm thán tạo hóa trêu người.
Vành mắt Đại vương đỏ ửng, giật giật khóe môi, rồi lại nở nụ cười: “Tiên sinh. Tiên sinh có biết quả nhân từng kính ngưỡng tiên sinh đến thế nào. Phụ vương mẫu phi sinh dưỡng quả nhân, nhưng người quả nhân kính trọng nhất, tiên sinh trước giờ chưa từng xếp thứ hai… Nhớ lần đầu gặp ngài, quả nhân mới 10 tuổi, bướng bỉnh như thế, vô tri như thế… Là tiên sinh ngài không ngại ngần lần lượt uốn nắn phẩm hạnh, ấm áp khuyên răn mới có quả nhân như bây giờ leo lên vương vị còn có thể một mình chống đỡ một phương. Huynh hữu đệ cung, thiện chí giúp người… Thân hiền thần, xa tiểu nhân. Nhất cử nhất động của quả nhân, tất cả đều phụ thuộc vào ý nguyện của tiên sinh, nhưng tiên sinh…”
“Tại sao ngài…” Nói đến đây, Đại vương bỗng rơi nước mắt, giọng hắn khẽ run, tạm dừng lại, hồi lâu mới thở ra hơi, “Là quả nhân người học trò này làm chưa đủ tốt? Hay Dần quốc làm lòng ngài mất hứng.”
Không phải. Đều không phải.
Nửa tháng này, tự trách lẫn hối hận trong lòng Chung Dật không thể đầy thêm nữa, nhưng thấy Đại vương như thế trước mặt mình y lại càng đau lòng không chịu nổi. Y không dám mở miệng biện giải một câu nào cho bản thân, chỉ có thể giơ tay lên cẩn thận lau nước mắt cho Đại vương.
Người thiếu niên trước mặt tự kìm lại những giọt nước mắt, không còn xem mình là vương giả nữa, hắn mím môi thật chặt, không biết nói gì thêm, nhích lại gần bên người Chung Dật, run rẩy tựa sấp lên bả vai của tiên sinh mình: “Tiên sinh à –“
Ôm nhau thật chặt tựa như trở lại với những năm tháng phạm lỗi rồi làm nũng. Song hai người đều hiểu, thời gian đã trôi đi thì không cách nào trở về được nữa, những khoảng thời gian đó, vĩnh viễn cũng không tìm về được.
Thiếu niên ôm sát người y, muốn nhấc y rời khỏi giường đá, nhưng nghe thấy tiếng kêu đau đớn vang lên bên tai, ngạc nhiên tỉnh ngộ tiên sinh của mình đã chảy mồ hôi ròng ròng. Tâm hắn đại loạn, luống cuống tay chân xốc vạt áo tiên sinh lên, mới phát hiện dưới mắt cá chân chỗ bị kẹp đã bị thương ra từng lớp máu.
“Tiên sinh… Ta… Ta không phải…”
Mắt Chung Dật mờ mịt, không hề có ý nghĩ trách cứ, chỉ vươn tay lần nữa ôm lấy thiếu niên, nhẹ nhàng vỗ vỗ lưng hắn, lần đầu tiên y mở miệng.
“Thù… Tiên sinh tự biết tội chết, nhưng đây là một lần cuối cùng, tiên sinh còn có chút chuyện muốn dạy ngài.”
“Mời tiên sinh nói…”
“Dần quốc rộng lớn, ngang dọc vạn dặm, từ vương hầu quan viên cho đến lê dân bách tính, hạnh phúc hay bất hạnh đều được quyết định bởi suy nghĩ của Đại vương. Nếu dùng chế độ trọng điển (*), bách tính phẫn nộ nhưng không dám lên tiếng, oán hận chất chứa, lại càng không biết lòng người hướng về chốn nào… Mạnh Tử từng nói, ba triều đại được thiên hạ, nhờ làm điều nhân; mất thiên hạ, vì làm điều bất nhân… Mong Đại vương thi hành nhân chính, lấy đức thu phục lòng người.” Nói đến đây, Chung Dật dừng lại, cụp mắt nói, “Tiên sinh tất nhiên có tội, nhưng mong bệ hạ nhớ tới ngày xưa mà ban một chén rượu độc, một dải lụa trắng, xin đừng liên lụy đến người khác trong Chung gia… Hậu sinh… không cần phải chịu lấy đau đớn không thuộc về mình…”
(*) Trọng điển: Luật hình nghiêm khắc, tra tấn tàn nhẫn.
Khi Tiên vương còn sống, Chung Dật tương đối kín đáo phê bình trọng điển của Lương đình úy, lúc trước dựa vào thân thế bối cảnh Chung gia, Lương Khâm không thể động vào Chung Dật, giờ đây đạt được cơ hội, đương nhiên hận không thể dùng hết một lượt các loại chơi đùa trên người y. Song ý chí Chung Dật lại quá kiên định, tuy vậy thân thể trước sau gì cũng chỉ là của văn nhân, dưới sự thống khổ của tra tấn, đừng nói tội tư thông với địch bán nước, đồng mưu phản bội, dù có mang thêm tội danh khác cũng chỉ có thể nhận tội.
Nghe thấy rượu độc lụa trắng, Đại Vương sớm đã lấy nước mặt rửa mặt, không biết có nghe lọt vào tai vế đằng sau hay không, hắn chỉ liên tục lắc đầu: “Không… Tiên sinh. Ta không thể…”
“Bao nhiêu lần quả nhân phạm lỗi, ngài cũng chưa từng nghiêm túc trách phạt. Ngài nhận sai rồi… quả nhân sẽ không truy cứu nữa. Được không?”
Nghe lời nói thiên vị như thế, mũi Chung Dật cay cay, nhưng không thể đáp ứng, đành lắc đầu. Nhưng thiếu niên là kiểu tính tình người ngoài không ngăn nổi, bỗng tránh khỏi tay y, phất tay áo bước ra ngoài cửa lao.
Mấy ngày sau đó, Lương đình úy dẫn theo vài người, châm biếm mấy câu rồi mở cửa lao. Chân Chung Dật bị tổn thương nên không thể nào cất bước, mấy người lính canh ngục đỡ y ra khỏi thiên lao, Nhiếp đại nhân đang cầm vài vò rượu chờ ở bên ngoài, vội vàng cùng tùy tùng đỡ lấy Chung Dật.
Chung Dật không ngờ đời này còn có thể tiếp tục nhìn thấy ánh mặt trời, y quả thực ngổn ngang trăm mối cảm xúc, Nhiếp đại nhân dìu y lên xe ngựa, liền ôm vò rượu lên theo.
Xe ngựa đi mãi cho đến trước cửa Chung phủ mới dừng lại, Chung Dật được Nhiếp Tư Viễn dìu mới miễn cưỡng bò xuống được xe ngựa, một mình Hỉ Nguyệt từ trong phủ ra nghênh đón, cùng Nhiếp đại nhân dìu Chung Dật đi vào trong phủ.
Hỉ Nguyệt thấy chủ nhân của mình vốn luôn rộng mở con đường làm quan nay lại biến thành bộ dạng thế này, cả đường đi vành mắt ửng đỏ, mắng chửi cái tên A Bảo là loại vong ân phụ nghĩa. Chung Dật nghe vào tai không biết phải nói sao, chỉ có thể hỏi dò tình trạng trong phủ gần đây.
“Những ngày trước quan phủ niêm phong Chung phủ. Nữ đầu bếp đều đã trở về nhà mình. Hỉ Nguyệt không nhà để về, vẫn luôn ở lại gần đây chờ lão gia trở về. Lão gia, bây giờ vật đổi sao dời, có gọi bọn họ quay lại hay không?”
Chung Dật lắc đầu: “Không cần.” Tuy lần này y thoát tội, nhưng cũng lột bỏ tước vị chức quan, sau này không hẳn cung ứng nổi khoản chi phí lớn như thế trong phủ, suy nghĩ một hồi, lại nói tiếp, “Hỉ Nguyệt, ngươi có bằng lòng lưu lại không?”
“Lão gia nói cái gì vậy. Hỉ Nguyệt từ nhỏ chính là hạ nhân của Chung phủ, lão gia phu nhân đối đãi với Hỉ Nguyệt ơn trọng như núi, lão gia ở nơi nào, Hỉ Nguyệt liền theo đến đó.”
Nhiếp đại nhân đặt vò rượu xuống, mỉm cười nhìn Hỉ Nguyệt, ra hiệu nàng cầm đi. Sau đó mới nghiêng đầu nói với Chung Dật: “Chung đại nhân, nếu như trong phủ cần nhân thủ, Nhiếp phủ có thể phái vài người lại đây.”
Chung Dật vẫn lắc đầu, Nhiếp đại nhân không nói thêm nữa, ra khỏi phòng lấy một đôi gậy, áp vào trong tay Chung Dật: “Thử xem? Mấy ngày nay đừng đi lại nhiều, chờ thêm chút thời gian, chắc sẽ có thể khỏi hẳn.”
“Tư Viễn… Cảm ơn ngươi.”
“Khách khí cái gì. Trước đây hở ra là đến tìm ta đòi rượu, sao không thấy ngươi khách khí?”
Chung Dật cụp mắt cười cười, giơ tay cầm lấy gậy, thử đứng dậy dưới sự dìu đỡ của Nhiếp đại nhân. Gậy chống không thuận tay, thử đi mấy bước, ra khỏi phòng quan sát, thấy những đám mây dày đặc đè lên bầu trời u ám tối sầm.
Chung gia từ khi khai quốc đến nay, trên chốn quan lại ở triều đình Dần quốc nắm địa vị hết sức quan trọng, giờ đây truyền lại cho Chung Dật, chính là đời sau của Chung gia, y thất thế trong triều tạo thành ảnh hưởng vô cùng lớn với những con thứ ở riêng. Chung gia vốn luôn quyết định tuyển chọn vương phi cũng bị liên lụy, chuyện tiến cung cũng bị gác lại toàn bộ. Mà việc này đều do một tay Chung Dật tạo thành, nên những người khác của Chung gia khá úp mở trách móc, dần dần đoạn tuyệt thăm viếng.
Trong đại lao bị kẹp tổn thương xương chân, Chung Dật dưỡng thương nửa năm nhưng chẳng chuyển biến tốt, cất bước đi vẫn phải chống gậy. Cũng may gia cảnh Chung Dật sung túc, sau khi giảm thiểu người làm trong phủ, dựa vào bán tranh chữ cũng sơ sơ đủ duy trì kế sinh nhai.
Trong lúc ấy, y ngẫu nhiên nghe nói Tề vương bệnh chết, người kế vị duy nhất là Thái tử Lý Hủ lên kế vị, triều cương vững chắc, biên cương Tề quốc phồn thịnh một vùng.
Trái lại Dần quốc lại không lớn mạnh bằng lúc trước. So với chuyện đi đứng của Chung Dật, điều thật sự làm tim phổi đau đớn là Dần vương trẻ tuổi.
Từ sau ngày hôm đó, thân thể Đại vương ngày càng sa sút, thường vì bệnh yếu mà không thể không hoãn lại buổi lâm triều. Đại vương không có hậu duệ, nếu bỗng nhiên băng hà, không biết trong triều sẽ rối ren thế nào, Đô thành loan truyền tá lả, ngay cả bách tính nói chung cũng đều lo lắng căng thẳng.
Chèo chống tình trạng quẫn bách thế này được 3 năm, 3 năm sau lúc lâm triều Đại vương bỗng liên tục ho ra máu, các thái y dồn dập chạy đến tẩm cung, nhưng không thể nào xoay chuyển đất trời.
Cái ngày Đô thành bắt đầu một trận tuyết mùa đông lớn nhất, Chung Dật chống gậy đi ra khỏi phòng, Hỉ Nguyệt thất kinh đứng ở một bên. Thái giám nhún vai khom người đứng trong tiền viện, thấy Chung Dật đi ra khỏi phòng, lập tức vỗ vỗ tay áo quỳ một chân xuống, nhỏ giọng nói: “Chung đại nhân, Đại vương cho mời.”
Từ lần phất tay áo bỏ đi ấy đã 3 năm rồi không gặp, Chung Dật nhìn Đại vương nhắm mắt hơi thở mỏng manh trên chiếc giường lớn, còn chưa nghĩ kỹ nên nói câu gì thì vương đã khẽ hé mắt ra. Một tên thái giám tiến lên, Chung Dật giao cây gậy trong tay cho thái giám, dưới sự dìu đỡ của tỳ nữ đi đến mép giường ngồi xuống.
Đại vương bệnh nặng muốn ngồi dậy, nhưng mới cử động thân thể tức thì dẫn đến một cơn ho khan kịch liệt.
Chung Dật giơ tay nhẹ đè lên bả vai hắn: “Thù nhi, nằm đi.”
Dư Thù nghe lời nằm xuống, nhấc mí mắt lên nhìn tiên sinh ngồi bên cạnh, vừa muốn mở miệng lại ho khan tiếp: “Khụ khụ… Gần 3 năm rồi… Chân tiên sinh vẫn không khỏi hẳn sao?”
“Tiên sinh không sao. Còn ngươi…”
“Quả nhân cũng vô phương, chẳng qua mệnh trời sắp đến.”
Chung Dật nhíu mày lại: “Người trẻ tuổi nói lời không may gì vậy, lo dưỡng bệnh cho tốt.”
Nhưng Đại vương lắc đầu cười: “Thân thể quả nhân, khụ… quả nhân hiểu rõ nhất. Tiên sinh… lần này quả nhân làm phiền tiên sinh đến đây là có chuyện quan trọng cần giao phó.”
“Đại vương hà tất thế này?”
“Quả nhân tự biết không còn sống được bao lâu, đã lập chiếu thư rồi. Truyền ngôi cho nhị đệ, Dư Trạm.” Dư Thù vừa nói, vừa nhìn sang bên giường.
Chung Dật theo ánh mắt hắn nhìn qua bản chiếu thư vàng bằng lụa được thái giam đứng cầm ở một bên, biết bệnh tình Đại vương có lẽ đúng thật không thể lạc quan, y đau lòng, chỉ có thể nắm chặt đệm giường lạnh lẽo, không biết phải mở miệng thế nào: “…”
“Trạm nhi mới 12 tuổi, Bác nhi lại càng nhỏ tuổi hơn… Hai đứa bé ngây ngô hồn nhiên, nếu quả nhân còn dư sức cũng sẽ không vứt bỏ rời đi hai ấu đệ. Tiên sinh… tiên sinh cũng biết, quả nhân… thật sự không yên lòng.”
“…”
“Tiên sinh… Trước đây, ngài cũng từng dạy dỗ Trạm nhi 1 năm. Quả nhân đi rồi, hi vọng vào tiên sinh…. tiếp tục chân thành dạy bảo, để tâm nâng đỡ hai ấu đệ của quả nhân.”
Chung Dật nghe hiểu ý tứ trong lời nói, thoáng giật mình nhếch cao lông mày, có chút kinh ngạc không hiểu lắm hỏi: “Tại sao?”
Những chuyện cũ lúc trước mặc dù sẽ bỏ qua, nhưng thân y gánh tội, làm sao có thể kham nổi trọng trách này.
“Tiên sinh. Thù nhi bất hiếu… không thể vâng theo gửi gắm tha thiết của tiên sinh, tạo phúc cho bách tính muôn dân. Không chiến sự, không tranh cãi. Năm mươi có thể mặc bạch y; bảy mươi có thể ăn thịt. Lê dân không đói không nghèo.Tháng ngày đấy… quả nhân không thấy được… Khụ… Quả nhân chỉ hi vọng, điều quả nhân không thể làm, Trạm nhi có thể làm thay quả nhân. Nhưng Trạm nhi thật sự còn quá nhỏ, nếu không có tiên sinh dẫn đường thì làm sao có thể thấu hiểu suy nghĩ mong muốn… trong lòng quả nhân.” Nói xong, Đại vương thần sắc vàng vọt lại ho ra máu không ngừng, thái giám vội vàng tiến lên lau đi, các cung nữ bưng nước ấm đến, nhưng bị Đại vương tránh đi không uống.
“Tiên sinh… đáp ứng quả nhân.”
Chung Dật ngồi bên mép giường, thấy Dư Thù vẫn nhìn mình, một lát sau, cuối cùng cũng trịnh trọng gật đầu. Thấy y đáp ứng, hắn trở tay lại phủ lên bàn tay đang nắm lấy tay mình, chậm rãi nắm chặt tay y, khóe môi nhiễm vệt máu mỉm cười.
Dư Thù dùng chút thời gian ít ỏi còn sót lại nhìn ân sư đã dạy dỗ mình, trên ngón tay lạnh lẽo truyền đến nhiệt độ quen thuộc làm tâm tư hắn lại trở về những chuyện xưa ở Quốc Tử Giám.
Trong những năm tháng ấy… Mỗi một lời nói lời khuyên bảo, tự thân dạy dỗ, cuối cùng, ngày qua ngày vun bón bồi dưỡng bản thân từ một đứa bé vô tri hồ đồ trở thành tương tự như đối phương.
Ba năm nay dù không gặp mặt y, nhưng hắn vẫn có thể cảm nhận được ân sư luôn bên hắn, mỗi một phần linh hồn y đều chảy trong máu hắn.
Nhưng 3 năm thật sự quá lâu, lâu đến mức hắn trở nên khát vọng mà tham lam. Hắn gắng gượng nhấc mí mắt lên, lòng chỉ có duy nhất một ý nghĩ, để quả nhân ngắm tiên sinh thật kỹ, để quả nhân ngắm tiên sinh thêm chút nữa thôi.
Cuối cùng, vẫn không chống đỡ nổi mí mắt nặng trịch, Đại vương trên giường bệnh dần dần nhắm mắt lại.
Chung Dật nhận ra bàn tay đang nắm tay mình bỗng dùng sức siết chặt, rồi từ từ buông ra, y biến sắc vội cầm ngược lại tay hắn, gọi tên hắn. Nhưng không thể nào thức tỉnh người học trò ngoan ngoãn ấy.
Mai nguyệt. Dần vương từ thế, cả nước đại tang. Năm sau, ấu vương Dư Trạm kế vị, Chung Dật đảm nhiệm trọng trách đế sư (thầy của vua).
(*) Mai nguyệt: Chỉ tháng tư âm lịch, cũng phiếm chỉ mùa mưa dầm.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook