Charlie Bone 1: Lúc Nửa Đêm
-
Chương 110
Bữa trưa hôm ấy có bánh mì sandwich kẹp phó mát và một quả táo cho mỗi phần ăn. Các giáo viên trực trong ngày thứ Bảy ngồi ở dãy bàn cao, nhưng Manfred và giáo sư Bloor lại không xuất hiện.
“Vào cuối tuần họ dùng bữa ở chái phía tây toà nhà,” Billy giải thích, “cùng với bà Bloor và những người khác trong gia đình.”
Charlie kinh ngạc.
“Vậy ra còn nhiều người nhà Bloor nữa à?”
“Có một ông lão già, già khiếp,” Billy nói. “Em chưa bao giờ thấy ông ấy, nhưng con chó của bếp trưởng có nói về ông ấy cho em nghe.”
“Tớ cá là đằng ấy biết rất nhiều thứ từ con chó của bếp trưởng,” Olivia nhận xét.
“Đúng thế,” Billy công nhận.
Sau bữa trưa, bọn trẻ được phép ra vườn và Olivia cứ nhất mực rủ cả bọn đến gần khu đổ nát. Billy không hăm hở lắm, nhưng Charlie lại tò mò.
“Thôi nào, Billy,” Olivia động viên. “Tụi mình chỉ nhìn thôi mà. Tớ chưa bao giờ được chơi trò huỷ diệt cả.”
“Mình cũng chưa,” Charlie xen vào.
“Em cũng thế,” Billy càu nhàu, nhưng cũng miễn cưỡng theo chân hai đứa lớn ra chỗ những bức tường rêu phong, xỉn màu. Chúng cao ít nhất phải bốn mét, Charie nhẩm đoán, và dày chắc. Những viên đá lớn lồ lộ hiện ra khỏi những rặng cây, tựa hồ như ranh giới của một thành phố cổ xưa đã biến mất. Cổng vào là một mái rộng hình vòm, và bên trong cổng, mấy đứa có thể thấy một mảnh sân lát gạch, phủ đấy rêu, từ đó có năm lối nhỏ râm mát rẽ ra.
Charlie nghĩ đến cô bé bị biến mất và rùng mình. “Chuyện gì đang diễn ra ở đó vậy?” Nó lầm bầm.
Olivia đoán được những gì nó nghĩ:
“Tớ chắc chắn là sẽ không bao giờ chui vô đó một mình, dù chỉ một giây. Nó làm tớ sởn cả tóc gáy. Tớ cứ thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra cho con bé tội nghiệp kia. Người ta nói là áo chùng của nó bị xé thành từng mảnh.”
“Đó là một con sói,” Billy nói.
“Sói?” Charlie và Olivia nhìn nó chằm chằm.
“Con chó của bà bếp trưởng nói với em như vậy,” Billy cho biết. Nó không bao giờ nói dối đâu. Chó không nói dối bao giờ. Chính xác, nó nói con vật đó là một giống sói. Con sói đó vẫn sống trong trường này, nhưng ban đêm nó chạy ra ngoài khu đổ nát.”
Bất giác cả bọn ngóc cổ ngước nhìn lên bầu trời, những đám mây chìêu đang ùn ùn kéo tới.
Olivia thụt lùi lại một bước, rồi quay đầu chạy thục mạng qua bãi cỏ, miệng thét lên thảm thiết “Khôôôông! Khoôôông!”
Hai thằng con trai chạy theo sau, bật cười hịch hịch trước đôi chân trắng đang chạy trối chết và tiếng thét thất thanh, nghe thiệt tức cười của cô nàng, tuy Charlie thầm thú nhận là trong tiếng cười của chính nó có pha chút sợ hãi.
Chúng phóng bừa qua cửa vườn và đâm sầm vào Manfred.
“Olivia Vertigo, đi sắp xếp đồ đạc,” hắn lạnh lùng ra lệnh. “Bone, đi theo anh.”
“Tại sao?” Charlie hỏi, cúi gằm mặt xuống sàn nhà.
“Tại vì anh đã nói thế thì mày phải đi,” Manfred trịch thượng.
Charlie rất muốn chạy lên phòng chung cùng với Olivia. Chẳng còn lâu nữa, mẹ nó cũng sẽ đến cổng đón nó. Rõ ràng là Manfred sẽ không thể ngăn nó về nhà. Nhưng biết đâu, hắn cũng có thể làm việc đó lắm chứ.
Manfred quay đi và bật ngón tay tanh tách. Charlie nhe răng cười một cách căng thẳng với hai đứa bạn rồi đi theo thằng lớn kia.
“Chúc may mắn!” Olivia thì thầm.
Manfred dẫn đường đến phòng huynh trưởng. Hôm nay phòng vắng lặng và Manfred cho phép Charlie ngồi trên một trong mấy cái ghế dựa, trong khi hắn ngồi ở vị trí thường ngày của mình ở sau chiếc bàn giấy lớn.
“Đừng có đờ ra thế, Charlie!” Manfred cố giãn ra một nụ cười , nhưng xem ra nó không được giỏi trong chuyện này cho lắm. “Anh không có ăn thịt mày đâu.”
Charlie chả tin. Mắt nó vẫn ngó tịt xuống đất.
“Anh chỉ muốn biết mày giấu cái thùng, mà bà Ingledew đã đưa cho mày ở đâu. Nó là của bọn anh, mày biết mà.” Giọng Manfred nhẹ nhàng và đầy vẻ dụ dỗ, nhưng Charlie không bị mắc lừa.
“Tôi chả hiểu anh đang nói gì,” nó chối phắt.
“Đương nhiên là mày biết chứ, Charlie. Nó không có gì hay ho cho mày đâu. Thực ra nó chỉ đem phiền phức đến cho mày thôi. Nào, nói đi, nó đâu rồi?”
Charlie không trả lời, Manfred bắt đầu mất kiên nhẫn. “Nhìn tao đây, thằng kia!” nó quát lên.
“Vào cuối tuần họ dùng bữa ở chái phía tây toà nhà,” Billy giải thích, “cùng với bà Bloor và những người khác trong gia đình.”
Charlie kinh ngạc.
“Vậy ra còn nhiều người nhà Bloor nữa à?”
“Có một ông lão già, già khiếp,” Billy nói. “Em chưa bao giờ thấy ông ấy, nhưng con chó của bếp trưởng có nói về ông ấy cho em nghe.”
“Tớ cá là đằng ấy biết rất nhiều thứ từ con chó của bếp trưởng,” Olivia nhận xét.
“Đúng thế,” Billy công nhận.
Sau bữa trưa, bọn trẻ được phép ra vườn và Olivia cứ nhất mực rủ cả bọn đến gần khu đổ nát. Billy không hăm hở lắm, nhưng Charlie lại tò mò.
“Thôi nào, Billy,” Olivia động viên. “Tụi mình chỉ nhìn thôi mà. Tớ chưa bao giờ được chơi trò huỷ diệt cả.”
“Mình cũng chưa,” Charlie xen vào.
“Em cũng thế,” Billy càu nhàu, nhưng cũng miễn cưỡng theo chân hai đứa lớn ra chỗ những bức tường rêu phong, xỉn màu. Chúng cao ít nhất phải bốn mét, Charie nhẩm đoán, và dày chắc. Những viên đá lớn lồ lộ hiện ra khỏi những rặng cây, tựa hồ như ranh giới của một thành phố cổ xưa đã biến mất. Cổng vào là một mái rộng hình vòm, và bên trong cổng, mấy đứa có thể thấy một mảnh sân lát gạch, phủ đấy rêu, từ đó có năm lối nhỏ râm mát rẽ ra.
Charlie nghĩ đến cô bé bị biến mất và rùng mình. “Chuyện gì đang diễn ra ở đó vậy?” Nó lầm bầm.
Olivia đoán được những gì nó nghĩ:
“Tớ chắc chắn là sẽ không bao giờ chui vô đó một mình, dù chỉ một giây. Nó làm tớ sởn cả tóc gáy. Tớ cứ thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra cho con bé tội nghiệp kia. Người ta nói là áo chùng của nó bị xé thành từng mảnh.”
“Đó là một con sói,” Billy nói.
“Sói?” Charlie và Olivia nhìn nó chằm chằm.
“Con chó của bà bếp trưởng nói với em như vậy,” Billy cho biết. Nó không bao giờ nói dối đâu. Chó không nói dối bao giờ. Chính xác, nó nói con vật đó là một giống sói. Con sói đó vẫn sống trong trường này, nhưng ban đêm nó chạy ra ngoài khu đổ nát.”
Bất giác cả bọn ngóc cổ ngước nhìn lên bầu trời, những đám mây chìêu đang ùn ùn kéo tới.
Olivia thụt lùi lại một bước, rồi quay đầu chạy thục mạng qua bãi cỏ, miệng thét lên thảm thiết “Khôôôông! Khoôôông!”
Hai thằng con trai chạy theo sau, bật cười hịch hịch trước đôi chân trắng đang chạy trối chết và tiếng thét thất thanh, nghe thiệt tức cười của cô nàng, tuy Charlie thầm thú nhận là trong tiếng cười của chính nó có pha chút sợ hãi.
Chúng phóng bừa qua cửa vườn và đâm sầm vào Manfred.
“Olivia Vertigo, đi sắp xếp đồ đạc,” hắn lạnh lùng ra lệnh. “Bone, đi theo anh.”
“Tại sao?” Charlie hỏi, cúi gằm mặt xuống sàn nhà.
“Tại vì anh đã nói thế thì mày phải đi,” Manfred trịch thượng.
Charlie rất muốn chạy lên phòng chung cùng với Olivia. Chẳng còn lâu nữa, mẹ nó cũng sẽ đến cổng đón nó. Rõ ràng là Manfred sẽ không thể ngăn nó về nhà. Nhưng biết đâu, hắn cũng có thể làm việc đó lắm chứ.
Manfred quay đi và bật ngón tay tanh tách. Charlie nhe răng cười một cách căng thẳng với hai đứa bạn rồi đi theo thằng lớn kia.
“Chúc may mắn!” Olivia thì thầm.
Manfred dẫn đường đến phòng huynh trưởng. Hôm nay phòng vắng lặng và Manfred cho phép Charlie ngồi trên một trong mấy cái ghế dựa, trong khi hắn ngồi ở vị trí thường ngày của mình ở sau chiếc bàn giấy lớn.
“Đừng có đờ ra thế, Charlie!” Manfred cố giãn ra một nụ cười , nhưng xem ra nó không được giỏi trong chuyện này cho lắm. “Anh không có ăn thịt mày đâu.”
Charlie chả tin. Mắt nó vẫn ngó tịt xuống đất.
“Anh chỉ muốn biết mày giấu cái thùng, mà bà Ingledew đã đưa cho mày ở đâu. Nó là của bọn anh, mày biết mà.” Giọng Manfred nhẹ nhàng và đầy vẻ dụ dỗ, nhưng Charlie không bị mắc lừa.
“Tôi chả hiểu anh đang nói gì,” nó chối phắt.
“Đương nhiên là mày biết chứ, Charlie. Nó không có gì hay ho cho mày đâu. Thực ra nó chỉ đem phiền phức đến cho mày thôi. Nào, nói đi, nó đâu rồi?”
Charlie không trả lời, Manfred bắt đầu mất kiên nhẫn. “Nhìn tao đây, thằng kia!” nó quát lên.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook